Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở một số nước trên thế giới và việc vận dụng vào điều kiện Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.29 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN DANH TÚ

MƠ HÌNH TỔ CHỨC c ơ QUAN TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở MỘT s ố Nước
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO ĐIỂU KIỆN VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
MÃ SỐ
: 603801

LUẬN VĂN THẠC s ĩ LUẬT HỌC








NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. PHẠM HỔNG THÁI

ĐAI H O C Q U Ố C G IA HÀ NỘI
TRUNG TẦM THÒNG TIN THƯ VIỀN

V - Lũ/ / M 4 * ~

Hà Nội - Năm 2006



M ỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
M ở đ ầ u ..................................................................................................................................

1

C hư ơ ng 1 - C ơ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH c ơ QUAN TÀI PHÁN

6

HÀNH CHÍNH .....................................................................................................
1.1. Lý thuyết phân quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp trong nhà nước
tư sả n ..................................................................................................................
1.2. Lý thuyết về hành chính điều hành và hành chính tài phán........................
1.3. Khiếu kiện và viộc giải quyết khiếu kiộn ở một số nước.......................
1.3.1. Khiếu kiện ở một số nư ớ c....................................................................
1.3.2. Việc giải quyết khiếu kiện ở một số n ư ớ c.........................................
1.4. Mơ hình tổng thể cơ quan tài phán hành chính ở một số n ư ớ c .....
1.4.1. Lưỡng hộ tài p h á n .................................................................................
. 1.4.2. Nhất hệ tài p h án ....................................................................................
Chương 2 - MƠ HÌNH Tổ CHỨ: c ơ QUAN TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở MỘT
SỐ NUỐC TRÊN THẾ GIỚI............................................................................. ...
2.1. Cơ quan tài phán hành chính ở Cộng hồ P h áp ..................................
2.1.1. Lịch sử hình thành và chức năng của cơ quan tài phán hành chính
ở Cộng hồ P h á p ..............................................................................................
2.1.2. Tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở Cộng hoà P h á p ..................
2.2. Cơ quan tài phán hành chính ở Cộng hồ liên bang Đ ứ c......................

2.2.1. Lịch sử hình thành và chức năng của cơ quan tài phán hành chính
Cộng hồ liên bang Đ ứ c .................................................................................
2.2.2. Tổ chức cơ quan tài phán hành chính Cộng hồ liên bang Đ ứ c........
2.3. Cơ quan tài phán hành chính ở Cộng hồ nhân dân Trung H o a .....
2.3.1. Lịch sử hình thành và chức năng của cơ quan tài phán hành chính
ở Cộng hịa nhân dân Trung H o a ...................................................................
2.3.2. Tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở Cộng hịa nhân dân
Trung H o a ............... ............................................................ ...........................
2.4. Cơ quan tài phán hành chính ở Hàn Q u ố c............................................
2.5. Cơ quan tài phán hành chính ở Singapo.................................................
Chương 3 - NHŨNG KINH NGHIỆM RÚT RA VÀ MỘT s ố KIẾN NGHỊ..........

6
7

8
8
13

20
21
22
25
25
25
28
34
35
42
44

44

50
51
54

58


3.1. Những kinh nghiệm rút r a .......................................................................
3.2. Một số vướng mắc trong cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở
nước ta hiện n a y ...............................................................................................
3.2.1. Khái quát về cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước t a ...
3.2.1.1. Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính tại cơ quan hành chính
đối với quyết định hành chính, hành vi hành c h ín h .....................................
3.2.1.2. Cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính tại Tồ á n .....................
3.2.2. Thực trạng giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước t a .................
3.2.2.1. Tinh hình giải quyết khiếu nại, tố c á o ............................................
3.2.2.2. Tinh hình giải quyết khiếu kiện hành chính tại Tịa á n ................

58
61
61
64
67
74
74

76


3.2.3. Một số vướng mắc cần khắc p h ụ c.......................................................

79

3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính
ở nước t a ............................................................................................................
3.3.1. Về mơ hình tổ chức cơ quan tài phán hành ch ín h .............................
3.3.2. Giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính nhà nước....................
3.3.3. Giải quyết khiếu kiện hành chính tại Cơ quan tài phán hành chính
trực thuộc Thủ tướng Chính p h ủ ....................................................................
3.3.4. Giải quyết khiếu kiện hành chính tại Toà án nhân d â n ....................
Kết lu ậ n .............................................................................................................
Tài liệu tham k h ả o ...........................................................................................

88
88
90
91

92
98
100


MỞ ĐẨU

1- Lý do chọn đề tài
Từ trước đến nay, viộc giải quyết khiếu nại của công dân luôn được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm và coi đó là một trong những nhiệm vụ quan
trọng, thể hiện trách nhiệm của cơ quan nhà nước trước cổng dân và là một

biểu hiện cụ thể về bản chất của Nhà nước ta, Nhà nước pháp quyẻn xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Quyển khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung nãm 2001) ghi nhận tại Điểu 74. Việc khiếu
kiện và giải quyết khiếu kiện đã và đang dành được sự quan tâm lớn của Đảng
và Nhà nước.
Năm 1995 với sự ra đời của Tồ hành chính trong hộ thống Tồ án nhân
dân (theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điểu của Luật Tổ chức Tồ án nhân dân
được Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ mười thông qua ngày 28 tháng 10 năm
1995), ngày 21 tháng 5 năm 1996 Ưỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiộu lực từ 01 tháng 7
năm 1996 (sửa đổi, bổ sung nãm 1998 và năm 2006), ngày 02 tháng 12 năm
1998 Quốc hội thông qua Luật Khiếu nại, tố cáo (sửa đổi, bổ sung năm 2004
và năm 2005), cơ chế tài phán hành chính ở nước ta đã từng bước được hình
thành và hồn thiộn. Cơ chế tài phán hành chính này đã góp phần quan trọng
vào việc giải quyết các khiếu kiện phát sinh, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên, cơ chế tài phán hành chính hiộn nay, trong q trình vận
hành cũng có những vướng mắc nhất định (các khiếu kiộn vượt cấp, phức tạp
cịn lớn; số vụ việc giải quyết tại Tồ hành chính chưa nhiểu; hiệu lực, hiộu
quả giải quyết chưa cao;...).

1


Trong thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới đã được ban
hành có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cơ chế tài phán hành chính như:
Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân nãm 2002, Luật Đất đai nám 2003, Luật Cạnh tranh năm 2004,...

Chúng ta đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới. Q trình hội nhập này địi hỏi cơ chế tài phán hành chính của
nước ta phải có sự tương thích nhất định với các nước trên thế giới và quy định
của các tổ chức quốc tế mà nước ta là thành viên. Các văn kiện của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) và Hiộp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
(BTA) đẻu có các yêu cầu vể khiếu kiện và giải quyết khiếu kiộn hành chính.
Nước ta đang tiến hành đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc
tế, vì vậy việc nghiên cứu mơ hình tổ chức và hoạt động cơ quan tài phán hành
chính của một số nước trên thế giới để rút ra những kinh nghiêm nhằm hồn
thiện cơ chế giải quyết khiếu kiộn hành chính ở nước ta hiện nay, giúp cho cơ
chế giải quyết khiếu kiện hành chính vân hành một cách khoa học, hộ thống,
toàn diện và hữu hiộu, phù hợp với đặc điểm của nước ta là một u cầu bức
xtíc hiện nay.
Vì những lý do trên đây, tôi xin chọn và nghiên cứu để tài Luận văn Cao
học là:
“Mơ hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở một số nước trên
thế giới và việc vận dụng vào điểu kiện Việt Nam”.
2- Tình hình nghiên cứu:
Vấn đề tài phán hành chính được đề cập đến ở nước ta bắt đầu từ đầu
những năm 1990 và đã có nhiều nhà khoa học quan tâm trao đổi xung quanh
vấn đề này. Thanh tra Nhà nước (nay là Thanh tra Chính phủ) đã có hai đé tài
nghiên cứu:

2


- Đê tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở khoa học của việc thiết lập hệ thống
Tồ án hành chính ở Việt Nam (nghiệm thu năm 1993);
- Để tài khoa học độc lập cấp nhà nước: Tồ án hành chính - Những vấn

đề lý luận và thực tiễn (nghiệm thu năm 1997).
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học được nghiên cứu ờ nhiêu
cấp độ khác nhau như Luận án Tiến sĩ luật học: “Thẩm quyển của Toà án nhân
dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính“ của Nguyễn Thanh Bình
năm 2003; các Luận văn Thạc sỹ luật học như: “Xây dựng tài phán hành chính
ở Việt Nam“ của Nguyễn Lư Giang năm 1996, ‘T ổ chức và hoạt động của Tồ
án hành chính ở Việt Nam“ của Vũ Trọng Khang nãm 1996; “Đổi mới công
tác xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh VTnh Long“ của Nguyễn
Ngọc Thời năm 1998, “Hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo ở nước ta hiện
nay“ năm 2002 của Phạm Văn Long,...
Việc nghiên cứu vể tài phán hành chính đã góp phần quan trọng vào
việc ra đời của Tồ hành chính trong hệ thống Tồ án nhân dân ở Việt Nam
năm 1995 (theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án
nhân dân được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ tám thơng qua tháng 10 năm
1995) và viộc hồn thiộn cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính.
Tuy nhiên, trên cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động tài
phán hành chính ở nước ta trong thời gian qua, ván đề tài phán hành chính cần
được tổng kết, tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn, nghiên cứu mơ hình
tổ chức và hoạt động của cơ quan tài phán hành chính một số nước trên thế
giới, để từ đó rút ra những kinh nghiệm nhằm tiếp tục hồn thiện hộ thống tài
phán hành chính ở Việt Nam hiện nay.
3- Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
Nhằm góp phần vào q trình nghiên cứu tìm ra những giải pháp hữu
hiệu để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu kiện hành chính ở Viột
Nam, phù hợp với q trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đáp ứng yêu


cầu của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dàn, do nhàn dân và vì nhân dân cũng như yêu cầu của quá trình hội nhập quốc
tế, Luận văn nghiên cứu nhằm các mục đích và nhiệm vụ sau đây:

- Nghiên cứu và rút ra kinh nghiệm vẻ tổ chức và hoạt động của cơ quan
tài phán hành chính một số nước trên thế giới.
- Trên cơ sở đó, vận dụng vào điểu kiện nước ta hiộn nay, đề xuất các
giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế tài phán hành chính ở nước ta.
4- Đối tượng và phạm vi nghièn cứu:
Luận vãn tập trung nghiên cứu mơ hình tổ chức cơ quan tài phán hành
chính điển hình ở một số nước trên thế giới cũng như những vướng mắc trong
cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước ta hiện nay từ đó rút ra những
kinh nghiệm và nêu những kiến nghị, đề xuất.
Luận văn trong q trình nghiên cứu về mơ hình tổ chức cơ quan tài
phán hành chính cũng để cập đến thẩm quyển và những vấn để xung quanh nội
dung tài phán hành chính vì mơ hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính bao
giờ cũng gắn với thẩm quyển và hoạt động của cơ quan đó.
5- Phương pháp nghiẻn cứu của luận văn:
- Viộc nghiên cứu Luận văn này được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước vể nhà nước
pháp quyển xã hội chủ nghĩa, pháp luật, khiếu kiộn và giải quyết khiếu kiện.
- V ạ n dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lơgic, tổng kết
thực tiễn để xem xét, giải quyết các vấn để cụ thể vể lý luận và thực tiễn.
6- Những nội dung mới và ý nghĩa của luận văn:
Mặc dù đã có một số đề tài, luận văn nghiên cứu các khía cạnh khác
nhau về tài phán hành chính nhưng thơng qua viộc nghiên cứu mơ hình tổ chức
cơ quan tài phán hành chính ở một số nước trên thế giới và cơ chế giải quyết
khiếu kiộn hành chính ở nước ta hiộn nay của để tài này, tác giả mong muốn

4


rút ra những kinh nghiệm, đưa ra những kiến nghị khoa học để hồn thiện mơ

hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính và cơ chế giải quyết khiếu kiện hành
chính ở nước ta.
7- Kết cấu của luận vủn:
Kết cấu của luận văn thể hiện qua ba nội dung chủ yếu sau đây:
1. Cơ sở lý luận của việc hình thành cơ quan tài phán hành chính;
2. Mơ hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở một số nước trên thế
giới;

3. Những kinh nghiêm rút ra và một số kiến nghị.

5


Chương 1
C ơ SỎ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH
C ơ QUAN TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH

1.1.

LÝ T H U Y Ể T PH Â N Q U Y ỂN : L Ậ P P H Á P , H À N H PHÁP, T Ư PH Á P

T R O N G N H À N Ư Ớ C T Ư SẢ N

Trong chế độ phong kiến, tất cả quyền lực nhà nước tập trung vào hoàng
đế. Hoàng đế nắm mọi quyền hành. Chính điều này đã tạo nên chế độ phong
kiến tập quyền chuyên chế. Khi cách mạng tư sản nổ ra, các học giả tư sản đã
đề xướng học thuyết tam quyển phân lập. Học giả tư sản tiêu biểu cho học
thuyết này là Mồntexkiơ. Môntexkiơ viết: “sự lạm quyển - kẻ có quyển bao
giờ cũng lạm dụng quyền ấy, đó là kinh nghiêm mn đời nhưng có thể chặn
đứng được bằng cách dùng quyền tri quyền” [17, tr. 331]. Quyển lực nhà nước

được chia thành ba quyển: quyển lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp.
Ba quyển này kiềm chế, đối trọng với nhau. Môntexkiơ viết: “Khi mà quyền
lập pháp và quyển hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện
ngun lão, thì sẽ khơng cịn gì là tự do nữa; vì người ta sợ rằng chính ơng ta
hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài.
Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp khơng tách khỏi quyền lập
pháp và quyến hành pháp. Nếu quyẻn tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì
người ta sẽ độc đoán đối với quyền sống và quyẻn tự do của cơng dân; quan
tịa sẽ ià người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyển hành pháp thì
ồng quan tịa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp” [16, tr. 100, 101].
Ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải được phân biệt với nhau và
giao cho ba cơ quan khác nhau nắm giữ: quyền lập pháp giao cho nghị viện,
quyền hành pháp giao cho tổng thống, quyền tư pháp giao cho tòa án. Điểm
mấu chốt trong học thuyết phân chia quyển lực là quyền lực ngân chặn quyển

6


lực: mỗi cơ quan được quyền hoạt động trong lĩnh vực của mình, khơng có
quyẽn trong lĩnh vực khác, nhưng có quyền ngăn chặn cơ quan khác.
Từ học thuyết này đã hình thành nên quan niệm các hành vi trong xã hội
khi phát sinh tranh chấp đều cần thiết đưa ra Tòa án để giải quyết theo quy
định. Lúc này, Tòa án với tư cách là một cơ quan trung gian, sẽ tiến hành xét
xử, bảo đảm khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Quyết định hành chính,
hành vi hành chính do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành, thực
hiện tác động đến quyển, lợi ích của cá nhân, tổ chức thì cũng phải chịu sự
kiểm sốt của cơ quan tư pháp khi cá nhân, tổ chức khiếu kiện yêu cầu tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật. Về lý luận, cần thiết có cơ quan tiến
hành tài phán quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành
chính, người có thẩm quyền, đảm bảo các quyết định, hành vi đó là đúng pháp

luật.
1.2. LÝ THUYẾT VỀ HÀNH CHÍNH ĐIỂU HÀNH VÀ HÀNH CHÍNH TÀI PHÁN
Bên cạnh lý thuyết các tranh chấp kể cả tranh chấp hành chính đếu cần
thiết đưa ra cơ quan tư pháp giải quyết, thì cũng có quan niộm cho rằng cơ
quan hành pháp không được can thiệp vào quyẻn độc lập xét xử của cơ quan tư
pháp nhưng ngược lại cơ quan tư pháp không được can thiệp vào hoạt động của
cơ quan hành pháp. Quan điểm này cho rằng nền hành chính bao gồm hai bộ
phận: hành chính điều hành và hành chính tài phán.
Hành chính điều hành là thực hiện chức năng quản lý mọi mặt của đời
sống xã hội hàng ngày, tổ chức thực hiện, phối hợp, kiểm tra, có các biện pháp
thực hiện các kế hoạch vể kinh tế, xã hội,... Nhà nước thông qua bơ máy hành
chính quản lý cơng dân bằng pháp luật cơng, cụ thể là pháp luật hành chính,
mà pháp luật cồng mang tính một chiều, khơng bình đẳng giữa hai bên: một
bên là cơ quan nhà nước hay người có thẩm quyền, một bên là cổng dân. Xét
trên mặt pháp lý, quan hệ giữa hai bên là khơng bình đẳng, là quan hệ quyển
uy, tùy thuộc. Nhưng xét trên một mặt khác thì quan hệ giữa nhà nước và công

7


dân khơng hồn tồn là một chiều. Bản thân cơ quan nhà nước cũng phải chấp
hành pháp luật. Một nền hành chính mẫu mực phải phục vụ nhân dân một cách
vơ tư, đúng pháp luật. Cơng dân phạm pháp thì có một hệ thống các cơ quan
nhà nước xử lý, vậy các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền
cũng cần có hệ thống cơ quan để giữ nghiêm pháp luật, đảm bảo các cơ quan
hành chính nhà nước, người có thẩm quyền thực thi đúng pháp luật, không lấn
quyển, không vi phạm pháp luật. Để trả lời vấn đề này thì cần thiết thành lập
cơ quan hành chính tài phán bẻn cạnh hành chính điểu hành. Cơ quan hành
chính tài phán có chức năng và thẩm quyển xét xử quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan hành chính, người có thẩm quyển trong hệ

thống hành chính điều hành. Hành chính tài phán nằm trong hộ thống hành
pháp nhưng độc lập với hành chính điều hành. Như vậy, nển hành chính sẽ bao
gồm hai bộ phận là: hành chính điểu hành và hành chính tài phán.
Hai lý thuyết trên đây nội dung có thể có những điểm khác nhau nhưng
đều có điểm chung là cần thiết có cơ quan tài phán để phán xử các tranh chấp
hành chính nhằm bảo vệ quyẻn, lợi ích hợp pháp của cơng dân khi bị quyết
định hành chính, hành vi hành chính xâm hại. Hai lý thuyết này đã có ảnh
hưởng đến việc thiết lập mơ hình cơ quan tài phán hành chính ở các nước.
1.3. KHIẾU KIỆN VÀ VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN Ở MỘT s ố NƯỚC
1.3.1. Khiếu kiện ở một số nước
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ
quan nhà nước nhằm thực hiện các mục tiẽu để ra, thúc đẩy các quá trình xã
hội phát triển theo hướng tích cực. Quyết định hành chính thể hiện ý chí của cơ
quan, người có thẩm quyển, buộc các đối tượng quản lý phải đơn phương chấp
hành. Quyết định hành chính là những quyết định cụ thể của chủ thể quản lý
tác động vào đối tượng quản lý để thực hiện mục đích của mình. Quyết định
hành chính thể hiện quyền năng của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý.
Ra quyết định hành chính là một quyền hành chính đặc biệt:

8


Thứ nhất, chủ thể ra quyết định hành chính là cơ quan hành chính hoặc
người có thẩm quyển theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, chí cơ quan,
người có thẩm quyển mới có quyền ra quyết định hành chính, thực hiện hành
vi hành chính, các chủ thè’ khác khơng có qun này.

Thứ hai, quyết định hành chính là việc cơ quan, người có thẩm quyển áp
dụng pháp luật đối với một cá nhân, tổ chức cụ thể, trong điểu kiện, hoàn cảnh
cụ thể. Như vậy, quyết định hành chính mang tính cá biệt.


Thứ ba, việc ra quyết định hành chính là hành vi đơn phương. Mặc dù
trước đó, cơ quan, người có thẩm quyển có thể tham khảo ý kiến của các chủ
thể khác nhtmg cuối cùng cơ quan, người có thẩm quyền phải tự quyết định.
Quyết định đúng sẽ mang lại hiệu quả tốt, nhưng nếu quyết định sai thì xã hội
sẽ gánh chịu thiệt hại và trách nhiộm của người quyết định được đặt ra. Vì thế,
. người quyết định phải cân nhắc, quyết đoán và có tính chịu trách nhiệm. Quyết
định hành chính là mộnh lộnh quyển lực phải thi hành. Nếu quyết định đó
mang lại lợi ích cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì cơ quan,
người có thẩm quyẻn phải quyết định ngay, nếu chậm ưễ gây thiệt hại cho cá
nhân, tổ chức thì người ra quyết định chậm trễ phải chịu trách nhiêm. Quyết
định hành chính có thể đem lại thiột hại cho một cá nhân, tổ chức vì lợi ích
cơng, lợi ích hợp pháp của cá nhản, tổ chức khác thì đương sự cũng phải chấp
hành ngay.
Hiộu lực, hiộu quả của quyết định hành chính phụ thuộc vào chất lượng,
nội dung và biộn pháp tổ chức thực hiện. Các quyết định hành chính đúng đắn
sẽ bảo đảm trật tự pháp luật, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Ngược lại, các quyết định hành chính sai tất yếu dản đến hậu quả tiêu cực như:
hạn chế hiệu lực, hiệu quả của quản ỉý nhà nước, ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, là nguyên nhân của khiếu nại hành chính,...
Những vi phạm pháp luật trong quan hệ pháp luật hành chính xâm hại đến

9


quyén và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Đó là một trong những nguyên
nhân làm phát sinh khiếu nại của cá nhân, tổ chức trong các nhà nước.
Quyên và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị vi phạm thường xuất
phát từ hai nguyên nhân:
- Do chính nội dung, phạm vi tác động của quyết định hành chính gây

ra.
- Do các yếu tố chủ quan của người thừa hành công vụ thực thi quyết
định hành chính đó gây ra.
Ra quyết định hành chính là phương thức bảo đảm chức năng quản lý
nhà nước nhưng nếu bị lạm dụng sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật, gây thiột hại
cho lợi ích của cá nhân, tổ chức. Cá nhân, tổ chức có thể “phản kháng” đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính vi phạm pháp luật. Sự “phản
. kháng” thể hiộn qua hoạt động khiếu nại.
Khiếu nại là một phạm trù pháp lý cùng xuất hiện khi xã hội có sự phân
chia giai cấp và sự ra đời của nhà nước. Mỗi khi quyển và lợi ích hợp pháp của
cá nhản, tổ chức bị xâm phạm từ phía nhà nước thì xuất hiộn sự “phản kháng”
thơng qua việc khiếu nại địi được bảo vệ hoặc khơi phục quyẻn và lợi ích hợp
pháp đó. Khiếu nại, với tư cách là một phạm trù pháp lý, ra đời và gắn liến với
nhà nước, tồn tại cùng với nhà nước. Với ý nghĩa đó, khiếu nại có trong tất cả
các nhà nước trên thế giới chừng nào nhà nước cịn tồn tại.
Như vậy có thể nói các nhà nước trên thế giới đểu tồn tại việc khiếu nại
của cá nhân, tổ chức đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính do
cơ quan, người có thẩm quyển ban hành, thực hiộn. Khiếu nại hành chính đó là
việc cá nhân, tổ chức bằng con đường hành chính yêu cầu cơ quan, người có
thẩm quyền (chủ thể đã ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi
hành chính hoậc cấp trên của những chủ thể này) xem xét lại quyết định hành
chính, hành vi hành chính mà họ cho là xâm hại đến quyên, lợi ích hợp pháp
của họ. Khiếu nại nằm trong hoạt động quản lý.

10


Pháp luật nhiều nước trên thế giới, bên cạnh việc quy định quyển khiếu
nại cũng quy định quyền khởi kiên hành chính của cá nhàn, tổ chức. Khởi kiện
hành chính là việc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật yêu cầu cơ

quan tài phán hành chính phán quyết đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính mà họ cho rằng không đúng pháp luật, ảnh hưởng đến quyển, lợi
ích hợp pháp của họ. Quy định này bảo đảm cho cá nhân, tổ chức có thể đưa
vụ viêc hành chính ra trước cơ quan tài phán hành chính, một cơ quan trung
gian, giúp cho vụ viộc giải quyết được khách quan hơn. Khiếu kiộn hành chính
là từ dùng để chỉ việc “khiếu nại” và viộc “khởi kiện” đối với vụ việc hành
chính.
ở Cộng hồ liên bang Đức, cá nhân, tổ chức có quyển khiếu kiộn với
nội dung chủ yếu như sau:
-

Cá nhân, tổ chức có quyển khiếu kiện yêu cầu huỷ bỏ, khiếu kiện yêu

cầu có hành vi hành chính. Khi khiếu kiộn yêu cầu huỷ bỏ, cá nhân, tổ chức
tìm cách đạt được sự huỷ bỏ một hành vi hành chính mà họ cho là bất hợp
pháp, bất lợi cho đương sự (ví dụ: lệnh cấm hành nghé, giấy báo thu lệ phí,...).
Khi khiếu kiện yêu cầu có hành vi hành chính thì ngược lại, cá nhân, tổ chức
tìm cách buộc cơ quan hành chính phải có một hành vi pháp lý có lợi cho mình
(ví dụ: cấp giấy phép xây dựng, giấy phép lái xe, chi trả khoản tiển phúc lợi xã
hội,...).
Khái niộm hành vi hành chính được xác định trong Luật về thủ tục hành
chính Cộng hồ liên bang Đức năm 1976. Điểu 35 đoạn 1 của Luật có quy
định: “Hành vi hành chính là bất kỳ sự định đoạt, quyết định hoặc biộn pháp
quyền lực nào mà một cơ quan hành chính đã thực hiện nhằm điều chỉnh một
vụ việc cụ thể, đơn lẻ trong lĩnh vực luật cơng và có dụng ý tạo ra hiộu lực
pháp lý trực tiếp với bên ngoài”. Những yếu tố chính để xác định một hành vi
hành chính là: đó phải là một biện pháp đơn phương, do cơ quan hành chính có
thẩm quyền ban hành căn cứ vào luật cơng; biện pháp đó phải được áp dụng

11



vào một vụ việc đơn lẻ, cụ thể; biện pháp đó phải nhằm điểu chỉnh vụ việc nói
trên, tức là có hiệu lực pháp luật và hiệu lực pháp luật đó phải tác động ra bên
ngồi hay nói một cách khác là có tác động thực sự đối với một cá nhân, tổ
chức khơng thuộc hệ thống hành chính.
- Cá nhân, tổ chức có thể kiện yêu cầu thực hiện, kiện yêu cầu xác định.
Các loại kiện này chỉ được áp dụng khi không đủ điều kiện yêu cầu huỷ bị
hoặc u cầu có hành vi hành chính. Kiộn u cầu thực hiện nhằm mục đích
buộc cơ quan hành chính phải thực hiện một điểu gì đó, trừ trường hợp đó
chính là một hành vi hành chính (vì khi đó, cá nhân, tổ chức phải khiếu kiện
yêu cầu có hành vi hành chính). Đối tượng của kiộn yêu cầu thực hiện có thể là
việc ra một tuyên bố vể ý định của cơ quan hành chính hoặc việc rút lại một
quan điểm của cơ quan hành chính. Kiện yêu cầu thực hiện cũng có thể nhằm
ngần chặn một sự can thiệp có thể sẽ xảy ra của cơ quan hành chính đối với
quyển cơng dân.
Kiộn yẻu cầu xác định là loại kiện được sử dụng khi có tranh chấp về sự
tổn tại hay không tổn tại của một quan hộ pháp lý và ưanh chấp này không thể
giải quyết được bằng một loại khiếu kiộn khác (ví dụ: xác định quốc tịch của
một người nào đó, xác định việc hành nghề đối với một nghẻ nhất định khơng
cần có giấy phép của chính quyển,...).
- Cá nhân, tổ chức có quyền kiện yêu cầu thẩm tra văn bản dưới luật.
Đối tượng của đơn kiện yêu cầu thẩm ưa văn bản dưới luật là một số quy phạm
dưới luật của liên bang cũng như những quy định dưới luật của các bang nếu
chúng được các đạo luật của liên bang quy định như vậy.
Cộng hồ Pháp là nước có nển hành chính tương đối phát triển. Pháp rất
coi trọng quyền khiếu kiện của công dân. Pháp luật Pháp quy định sự cần thiết
phải nêu lý do trong các quyết định cá biệt. Điều này được quy định tại Luật
ngày 11 tháng 7 năm 1979. Nếu quyết định hành chính khơng nêu lý do hoặc
nêu lý do nhưng công dân thấy không phù hợp, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích


12


hợp pháp của họ, cơng dân có quyển khiếu nại. Tuy nhiên, việc nẻu lv do trong
các quyết định cá biệt cũng có ngoại lệ. Các vấn đề cần bảo vệ sự bí mật (y tế,
quốc phịng, đối ngoại,...), các quyết định nhằm bảo vệ an ninh cỏng cộng
không cần phải nêu lý do. Trong trường hợp thật khẩn cấp thì quyết định cũng
khơng phải nêu lý do. Tất nhiên các quyết định “ngầm” bằng cách giữ im lặng
của cơ quan hành chính thì cũng khơng nêu lý do. Luật ngày 17 tháng 7 năm
1978 ghi nhận cơng dân có quyển khảo cứu các tài liệu hành chính, trừ các
cuộc hội nghị của chính phủ hay các tài liệu vể đời tư cá nhân mà họ không
cho phép. Để tránh khó khăn cho cơng dân ưong việc này, ở Pháp có cơ quan
gọi là Uỷ ban khảo cứu các tài liệu hành chính (CADA). Cơ quan này đưa ra ý
kiến của mình trong những vụ viộc cụ thể. Nếu CAD A đưa ra ý kiến rằng cơng
dân có quyền xem xét các tài liêu hành chính những đã bị từ chối thì họ có thể
kiện. Thậm chí, viộc khơng cho phép công dân khảo cứu các tài liệu quan
trọng liên quan đến quyết định hành chính khiến cho quyết định hành chính có
thể bị coi là vơ hiệu khi cơng dân khiếu nại.
Pháp luật của hầu hết các nước đều ghi nhận quyển khiếu kiện của công
dân. Quyền khiếu kiện là một trong những quyẻn quan trọng của cồng dân.
Khiếu kiện vừa là một quyền như các quyền khác của công dân vừa là một
trong những điều kiộn bảo đảm cho các quyền khác không bị vi phạm.
1.3.2.

Việc giải quyết khiếu kiện ở một số nước

Mặc dù có sự khác nhau nhất định nhưng nhìn chung ở nhiều nước tổn
tại cơ chế giải quyết khiếu kiên hành chính với hai phương thức cơ bản:


Một là, giải quyết khiếu nại hành chính bằng con đường hành chính, tức
là giao trách nhiệm và thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định hành chính,
hành vi hành chính cho chính các cơ quan hành chính nhà nước.

Hai là, giải quyết các khiếu kiộn hành chính bằng con đường tố tụng,
tức là việc giải quyết các khiếu kiộn quyết định hành chính, hành vi hành

13


chính do cơ quan tài phán hành chính đảm nhiệm, người dân có thể khởi kiện
yêu cầu cơ quan tài phán hành chính giải quyết vụ việc của mình.
Nhìn chung,



các nước, q trình giải quyết khiếu kiện hành chính đều

coi trọng cả hai phương thức “khiếu” và “kiện” và có sự kết hợp một cách hợp
lý giữa hoạt động của cơ quan hành chính và cơ quan tài phán hành chính
trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa cơ quan nhà nước và cơng
dân. Thậm chí ở một số nước, cơ quan tài phán hành chính ngồi chức năng
xét xử các vụ án hành chính cịn có cả chức năng tham vấn cho cơ quan hành
chính khi các cơ quan này có những khó khăn về vấn đề pháp luật để ngay từ
đầu tránh khỏi những vấn đé có thể nảy sinh tranh chấp trong hoạt động của
mình.
Ngược lại, hầu hết các nước, ngay cả ở những nước có hệ thống tài phán
hành chính độc lập và hồn chỉnh, vẫn nhấn mạnh đến vai trò của cơ quan
hành chính nhà nước và giải quyết khiếu nại hành chính, coi đó như một giai
đoạn quan trọng (có nước là bắt buộc) trước khi đưa vụ việc ra trước cơ quan

tài phán hành chính.
ở một số nước cịn tạo ra cơ chế mềm dẻo hơn để giải quyết các khiếu
kiện hành chính như việc tổ chức cơ quan trung gian hoà giải (médiateur) hay
chức năng của Thanh tra Quốc hội (ombusdman) trong việc can thiệp với cơ
quan hành chính bị khiếu nại bằng những “khuyến nghị” để giải toả những
tranh chấp hành chính.
Một số nước coi khiếu nại hành chính là một giai đoạn bắt buộc trước
khi khởi kiện ra cơ quan tài phán hành chính. Một số nước khác, đặc biệt là
những nước có nền tài phán hành chính phát triển, lại cho phép cơng dân có
quyển lựa chọn hoặc khiếu nại đến cơ quan tài phán hành chính hoặc khởi kiên
thẳng ra cơ quan tài phán hành chính. Pháp luật có những quy định chặt chẽ để
tránh tình trạng cùng một vụ việc, cả cơ quan hành chính và cơ quan tài phán

14


hành chính đểu thụ lý nảy sinh tranh chấp thẩm quyền trong q trình giải
quyết.
Luật tố tụng hành chính Trung Quốc có những điều khoản liên quan đến
khiếu nại hành chính, v ẻ ngun tắc khiếu nại hành chính khơng phải là trình
tự bất buộc. Người khiếu nại khơng buộc phải khiếu nại đến cơ quan hành
chính trước khi khởi kiện vụ việc tại Toà án. Tuy nhiên, nếu luật hoặc văn bản
pháp quy về những lĩnh vực quản lý cụ thể có quy định thì trở thành ưình tự
bất buộc trước khi khởi kiện tại Toà án. Cơ quan hành chính phải giải quyết
khiếu nại trong thời hạn hai tháng kể từ ngày nhận được khiếu nại. Trong
trường hợp không đồng ý với giải quyết của cơ quan hành chính thì trong thời
hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được trả lời của cơ quan hành chính,
người khiếu nại có quyền khởi kiên vụ viộc hành chính tại Toà án.
Ở Tây Ban Nha, trước khi kiện ra Toà án hành chính, cơng dân phải
khiếu nại hành chính. Quy định này tạo thuận lợi cho cơ quan hành chính biết

được nội dung họ sẽ bị kiện ra Toà án và nó cũng tạo cho cơ quan hành chính
có cơ hội tự sửa chữa sai lầm của mình. Đó cũng là một phương cách để giảm
bớt được một khối lượng đáng kể các vụ kiện đến Tồ án hành chính. Một
phương cách nữa hiện nay đang được tranh cãi ở Tây Ban Nha: đó là thủ tục
hồ giải hành chính trong lĩnh vực khế ước hành chính và các tranh chấp liên
quan đến hoạt động công vụ.
ở Hy Lạp, theo ngun tắc chung, cơng dân có quyền khiếu nại đến
chính cơ quan đã ra quyết định hành chính hoặc khiếu nại đến cơ quan cấp
trên của cơ quan đã ra quyết định hành chính. Đơi khi khiếu nại được gửi đến
một uỷ ban độc lập tương đối với các cơ quan hành chính. Uỷ ban này do các
thẩm phán chỉ đạo và các thành viên không phải của cơ quan hành chính mà
những người này có quyền lợi liên quan đến vụ kiện. Nếu không đạt được yêu
cầu thông qua khiếu nại hành chính, cơng dân có quyền kiện ra Toà án hành

15


chính. Việc khiếu nại hành chính là điều kiện bắt buộc để đơn kiện được Tồ
án hành chính thụ lý.
Ở Đan Mạch cũng có các quy định vẻ khiếu nại hành chính đến cơ quan
có thẩm qun giải quyết hoặc cơ quan hành chính cấp trên hoặc một cơ quan
hành chính độc lập. Nếu quyết định hành chính bị kiện là quyết định hành
chính của một bộ trưởng thì khơng có giai đoạn tiền tơ' tụng hành chính.
Anh quốc là nước chọn giải pháp trung gian trong việc lập một cơ quan
có tính chất nửa là cơ quan hành chính độc lập nửa là Toà án chuyên trách.
Các loại cơ quan này có tên gọi và thẩm quyền rất khác nhau. Trong nhiều lĩnh
vực, người khiếu nại trước hết phải khiếu nại đến các cơ quan này, sau đó có
thể kiộn đến Tồ án cấp cao. Theo tổng kết thì đa số các vụ kiện được giải
quyết ngay từ giai đoạn đầu (nghĩa là khơng cần kiện đến Tồ án cấp cao).
ở Pháp, trong một vài lĩnh vực có quy định vể khiếu nại tiền tố tụng

hành chính. Chẳng hạn, năm 1978 Pháp lập ra Ưỷ ban quốc gia vẻ tin học và tự
do. Cơ quan này khơng chỉ có các thẩm quyển về hành chính mà cịn có trách
nhiệm giải quyết các khiếu nại hành chính trong lĩnh vực này trước khi đưa ra
cơ quan tài phán hành chính. Trong một số lĩnh vực, giai đoạn tiền tố tụng
hành chính đơi khi khơng giao thẩm quyền cho cơ quan hành chính mà thay
vào đó là một cơ quan độc lập bao gồm các công chức cao cấp, các thẩm phán
và các nhân vật có uy tín. Ngồi ra ở Pháp, có quy chế người trung gian hồ
giải của nước cộng hoà (theo Luật ngày 01 tháng 01 năm 1982), có quyền tiến
hành điều tra các hoạt động hành chính, nhất là các cơ quan trung ương, liên
quan đến quyền lợi của cơng dân. Mặc dù, người trung gian hồ giải chỉ có
quyển đưa ra các khuyến nghị đối với các cơ quan hành chính và khơng thể
can thiêp khi vụ việc được đưa ra trước cơ quan tài phán hành chính nhưng
hoạt động của người trung gian hồ giải trên thực tế tỏ ra có hiộu quả. Một mặt
do thể thức can thiệp tương đối mểm dẻo dễ được cơ quan hành chính chấp
nhận, mật khác hàng năm, người trung gian hồ giải có quyển cơng bố báo cáo
16


của mình gửi Tổng thống nước cộng hồ trong đó đưa ra các nhận xét của
mình vể hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Đây là điều cơ quan cổng
quyền phải tính đến và có một thái độ tích cực trước những khuyến nghị mà họ
nhận được từ người trung gian hoà giải.
ở Bổ Đào Nha, pháp luật quy định vể ngun tắc cơng dân có quyển
kiện thẳng ra cơ quan tài phán hành chính. Tuy nhiên, trong một vài lĩnh vực
cụ thể, việc khiếu nại tiền tố tụng hành chính lại trở thành một bước bắt buộc
trước khi kiện đến cơ quan tài phán hành chính.
Ở Đức, theo Điểu 95 Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức, thì có nãm
ngành Tồ án là:
- Tồ án thường (Tồ án tư pháp);
- Tồ án hành chính;

- Tồ án tài chính;
- Tồ án bảo hiểm xã hội;
- Tồ án lao động.
Ngồi ra cịn có Tồ án hiến pháp.
Theo quy định tại khoản 1 Điẻu 40 Luật tố tụng hành chính năm 1960
của Cộng hoà liên bang Đức (Luật này được sừa đổi, bổ sung năm 1993) thì tất
cả các tranh chấp trong lĩnh vực luật công đều được phép kiện ra Tồ án hành
chính, ở đây có hai ngoại lệ:

-Thứ nhất là, Tồ án hành chính khơng phán quyết về một tranh chấp
đã được luật pháp liên bang giao cho Toà án khác giải quyết, cụ thể là việc
giao một số tranh chấp về luật cơng cho Tồ án bảo hiểm xã hội và Tồ án tài
chính giải quyết cũng như việc giao cho Toà án thường giải quyết các đơn
khiếu kiện của công dân yêu cầu nhà nước bổi thường thiệt hại do công chức
gây ra khi thi hành công vụ.

ĐẠI H O C Q U Ố C G IA HA NỘI
TRUNG TÂM THÒNG TIN THU VIÊN

17

V -lo /


- Thứ hai là, những tranh chấp về luật công mang tính tranh chấp hiến
pháp. Những tranh chấp loại này được giải quyết tại Toà án hiến pháp.
Nhằm tạo điểu kiộn thuận lợi cho người khởi kiện cũng như để định rõ
những thủ tục thích hợp cho việc giải quyết từng loại tranh chấp về luật công,
luật pháp của Cộng hồ liên bang Đức về Tồ án hành chính quy định rõ một
số loại tranh chấp tiêu biểu về luật cơng thể hiện dưới hình thức đơn kiên ra

Tồ án hành chính bao gồm:
- Đơn kiện yêu cầu huỷ bỏ hành vi hành chính, đơn kiện yẻu cầu có
hành vi hành chính;
- Đơn kiộn yêu cầu thực hiện, đơn kiộn yêu cầu xác định;
- Đơn kiện yêu cầu thẩm tra văn bản dưới luật.
Pháp luật cũng quy định nếu các loại đơn kiộn nói trên khơng bao hàm
hết được các loại yêu cầu bảo hộ pháp lý thì nguyên đơn có thể làm đơn yêu
cầu khác chưa quy định trong luật.

Thứ nhất, đơn kiộn yêu cầu huỷ bỏ hành vi hành chính, đơn kiện yẻu
cầu có hành vi hành chính:
Theo quy định của Luật tố tụng hành chính, trong trường hợp đơn kiộn
yêu cầu huỷ bỏ hành vi hành chính, đơn kiện u cầu có hành vi hành chính,
trước khi ngun đơn khởi kiộn ra Tồ án hành chính, phải khiếu nại với cơ
quan hành chính đã có hành vi hành chính hoặc đã khước từ hay phớt lờ viộc
thực hiện hành vi hành chính. Đây là thủ tục bắt buộc. Thủ tục này tạo điẻu
kiện cho cơ quan hành chính kiểm tra lại một lần nữa quyết định của mình,
cịn đối với cơng dân đó là cơng cụ pháp lý bổ sung, bởi vì cơ quan hành chính
xem xét lại khơng chỉ tính hợp pháp mà cả tính hợp lý trong quyết định của
mình. Nếu cơ quan hành chính đó giữ ngun quyết định ban đầu của mình thì
cơ quan cấp trên trực tiếp sẽ quyết định vể khiếu nại đó. Nếu cơ quan cấp trên
này phê chuẩn quyết định ban đầu của cơ quan hành chính cấp dưới thì lúc đó
ngun đơn có quyển khởi kiộn ra Tồ án hành chính.

18


Đơn kiện u cầu huỷ bị được coi là có cơ sở pháp lý nếu hành vi hành
hcính là bất hợp pháp và quyền của nguyên đơn bị vi phạm. Trong trường hợp
này Toà án sẽ huỷ bỏ hành vi hành chính. Nếu hành vi hành chính đó đã được

thi hành thì khi có đơn đề nghị, Tồ án có thể ra quyết định buộc cơ quan hành
chính phải huỷ bỏ việc thi hành, đổng thời chỉ ra cách huỷ bỏ như thế nào. Tuy
nhiên, Tồ án chỉ có thể được phép hành động như vậy nếu cơ quan hành chính
ở trong điều kiện chấp hành được quyết định đó và vấn để đã rõ ràng để Toà án
phán quyết. Nếu vì lý do thu hổi hoặc lý do khác, hành vi hành chính khồng
cịn tổn tại nữa thì khi có đề nghị, Tồ án phải ra phán quyết tun hành vi
hành chính đó là trái pháp luật nếu ngun đơn có lợi ích hợp pháp trong việc
tuyẻn bố đó.
Nếu cùng với việc đòi huỷ bỏ một hành vi hành chính, ngun đơn cịn
kiộn địi thực hiện thì Tồ án hành chính có thể ra ln quyết định buộc thực
hiộn trong q trình tơ' tụng đó.
Đối với đơn kiện u cầu có hành vi hành chính, nếu Tồ án hành chính
thấy có căn cứ chứng tỏ rằng viộc cơ quan hành chính từ chối hoặc phớt lờ
thực hiộn hành vi hành chính là trái pháp luật và điểu đó dẫn tới quyển lợi hạp
pháp của nguyên đơn bị vi phạm thì Tồ án sẽ tun buộc cơ quan hành chính
phải ban hành quyết định mà nguyên đơn đòi hỏi và phải phù hợp với ý kiến
của Toà án.
Trong trường hợp cơ quan hành chính có quyền hành động theo sự cân
nhắc, lựa chọn cùa mình thì Tồ án hành chính cũng phải kiểm tra xem hành vi
hành chính đó hay sự từ chối ban hành đó có hợp pháp hay khơng xét từ góc
độ là những giới hạn của quyển cân nhắc đã bị vượt quá hoặc sự cân nhắc đã
khơng được vận dụng phù hợp với mục đích của quyển cân nhắc đó.

Thứ hai, đơn kiện yêu cầu thực hiện, đơn kiộn yêu cầu xác định:
Đối với đơn kiện yêu cầu thực hiện và đơn kiện yêu cầu xác định thì các
điểu kiện khởi kiộn ít nghiêm ngặt hem. Đối với hai loại đơn kiện này, pháp

19



luật tố tụng hành chính khơng u cầu bất cứ thủ tục tiển tố tụng nào (thủ tục
khiếu nại ra cơ quan hành chính) cũng như khơng cần tn theo bất cứ thời hạn
khởi kiện nào. Trong những trường hợp này, nếu Tồ án hành chính nhận thấy
những địi hỏi của ngun đơn là có cơ sở xác đáng thì có quyền ra quyết định
buộc cơ quan hành chính phải thực hiện nghĩa vụ như nguyên đơn yêu cầu hoặc
ra quyết định xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một quan hệ pháp lý.

Thứ ba, đơn kiện yêu cầu thẩm tra văn bản dưới luật:
Thủ tục khiếu nại tiển tố tụng và thời hạn khởi kiện không áp đụng cho
loại đơn kiện này. Đơn kiện phải ghi rõ kiện cơ quan đã ban hành quy phạm
dưới luật đó. Trong trường hợp Tồ án nhận thấy quy phạm bị kiên vi phạm
một đạo luật của bang hoặc liên bang thì có quyền tun bố quy phạm đó vơ
hiệu và tuyên bố huỷ bỏ. Khi đó, quyết định của Tồ án nói chung có hiệu lực
bắt buộc và cơ quan bị kiộn (cơ quan đã ban hành quy phạm bị huỷ bỏ) có
nghĩa vụ cơng bố quyết định này của Toà án theo đúng cách thức như quy
phạm bị huỷ bỏ vốn đã được công bố.
Viộc giải quyết khiếu kiộn ở hầu hết các nước trên thế giới nhìn chung
đều qua giai đoạn giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính và giải quyết vụ
kiện hành chính tại cơ quan tài phán hành chính. Mỗi giai đoạn đếu có một vị
trí, vai trị nhất định. Trong đó, viộc giải quyết vụ kiện hành chính tại cơ quan
tài phán hành chính là cần thiết, bảo đảm cho cơ chế giải quyết khiếu kiện
hành chính được khách quan hơn, tránh viộc “vừa đá bóng vừa thổi cịi”, người
bị khiếu nại cũng là người giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, mô hình tổ chức cơ
quan tài phán hành chính ở mỗi nước có sự khác nhau.
1.4.

MƠ HÌNH TỔNG THỂ c ơ QUAN TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH Ở MỘT

SỐ N Ư Ĩ C


Giải quyết các tranh chấp hành chính là vấn đề ln đặt ra cho các nhà
nước trên thế giófi dù điều kiộn, hồn cảnh của mỗi nước có khác nhau. Tài
phán hành chính là việc giải quyết các tranh chấp hành chính, là việc cơ quan

20


tài phán hành chính (cơ quan tiến hành hoạt động tài phán hành chính) xem
xét, phán quyết đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan, người có thẩm quyển bị cá nhân, tổ chức khời kiện vì họ cho rằng xâm
hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Tài phán hành chính là một trong
những cơ chế bảo đảm quyền dản chủ bằng cách cho người dân có thể phản
đối các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan cơng quyền,
cơng chức đã lạm quyển, vi phạm pháp luật làm thiệt hại cho quyền và lợi ích
hợp pháp của họ. Từ một khía cạnh khác, tài phán hành chính là một cơng cụ
hữu hiệu để các nhà nước kiểm sốt sự hoạt động của bộ máy quản lý hành
chính, bảo đảm sự thống nhất, không vi phạm trong thực hiện pháp luật.
Mặc dù cần thiết như vậy, nhưng tổ chức và hoạt động của cơ quan tài
phán hành chính như thế nào và ở mức nào luôn là vấn để gây nhiểu tranh cãi.
. Nếu như sự tổn tại và hoạt động của các Toà án tư pháp đã từ lâu và nhận được
sự thống nhất cao ở hầu hết các nước trên thế giới thì sự ra đời và phát triển cơ
quan tài phán hành chính ở các nước đều trải qua một thời kỳ dài với nhiểu
tranh luận.
Do yêu cầu của quản lý hành chính và viộc giải quyết các tranh chấp
trong lĩnh vực hành chính, hầu hết các nước trên thế giới và trong khu vực đều
rất coi trọng việc nghiên cứu và xây dựng nền tài phán hành chính, tổ chức các
cơ quan chuyên xét xừ vể hành chính. Tuy nhiên, xuất phát từ những quan
niộm khác nhau về hoạt động tài phán hành chính và do những yếu tố mang
tính chất lịch sử, truyền thống pháp lý, điều kiộn chính trị - xã hội và tập quán
mà các nước tìm ra giải pháp riêng cho mình vể vấn đề này. Từ đó, tổ chức

cũng như phạm vi thẩm quyền của cơ quan tài phán hành chính các nước trên
thế giói hết sức đa dạng, tuy nhiên tựu trung lại có mấy hệ thống sau đây:
1.4.1. Lưỡng hệ tài phán
Những nước theo chế độ lưỡng hệ tài phán (tức là bao gồm hai hệ thống
tài phán: tài phán tư pháp và tài phán hành chính) tổ chức hai hộ thống tài phán

21


độc lập. Tài phán tư pháp xét xử những vụ án về hình sự, dân sự. Cịn tài phán
hành chính xét xử những vụ án về hành chính. Ở những nước này, hệ thống tài
phán hành chính lại có hai loại hình:
- Mỏ hình Hội đổng nhà nước vừa tư vấn pháp lý cho Chính phủ vừa là
cơ quan tài phán hành chính: Điển hình là Cộng hồ Pháp và các nước Thổ Nhĩ
Kỳ, Hy Lạp, Ai Cập, Bỉ, Thái Lan,... Ở những nước này, Hội đổng nhà nước
(hay còn gọi là Tham chính viộn - le Conseil d ’Etat) vừa là cơ quan xét xử các
vụ án hành chính vừa có thêm chức năng tư vấn pháp lý.
- Mơ hình cơ quan tài phán hành chính riêng biột: Một số nước có hộ
thống Tồ án hành chính chỉ thực hiộn chức năng xét xử hành chính như: Cộng
hồ liên bang Đức, Thuỵ Điển, Phần Lan, Áo, Bổ Đào Nha, Mêhicô,
Costarica,...
1.4.2. Nhất hệ tài phán
Những nước theo chế độ nhất hộ tài phán chỉ tổ chức một hệ thống tài
phán. Những nước theo chế độ nhất hộ tài phán cũng có hai loại hình:
- Mơ hình Tồ hành chính trong Tồ án thường: Một số nước có giải
pháp hỗn hợp lập ra các phân tồ hành chính trong Tồ án tư pháp (Tồ án
thường) như: Trung Quốc, Bê Nanh, Cơng gơ, Bờ Biển Ngà, Mađagaxca,
Sênêgan, Tơgơ, Inđơnêxia,...
- Mơ hình Tồ án Tư pháp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
hành chính: Một số nước khác, thẩm quyển giải quyết tranh chấp hành chính

được giao cho các Tồ án tư pháp như: Anh, Ailen, Aixơlen, Na Uy, Canada,
Sip, Itxraen,...
Trong các nước có cơ quan tài phán hành chính và Tồ án thường thì
vấn để xác định rõ thẩm quyển của mỗi ioại cơ quan này là rất quan trọng. Ở
Cộng hoà Pháp để ra nguyên tắc: tranh chấp xảy ra mà một bên là cơ quan
quản lý công hoặc không phải cơ quan quản lý công nhung được uỷ nhiộm

22


×