Chiến tranh Iraq (20/3/2003 - 19/8/2010), mà chính quyền Hoa Kỳ gọi
là Chiến dịch Đất nước Iraq Tự do, là một cuộc chiến tranh tại Iraq giữa một
bên là Lực lượng Đa Quốc gia do Hoa Kỳ dẫn đầu với một bên là chính
quyền Saddam Hussein (ban đầu) và các lực lượng nổi dậy (về sau). Lực
lượng Đa Quốc gia đã lật đổ được chính quyền của Saddam Hussein. Tuy
nhiên, các lực lượng nổi dậy vẫn chưa được trấn áp hoàn toàn, khiến cho
mặc dù Tổng thống Hoa Kỳ đã tuyên bố rút hết quân chính quân và kết thúc
chiến tranh nhưng vẫn phải để lại gần 50 vạn nhân viên quân sự dưới tư cách
cố vấn quân sự cho chính quyền Iraq mới. Trong thời gian từ năm 2005 đến
2007, các hoạt động thăm dò dư luận đã cho thấy rằng đại đa số người Iraq
phản đối cuộc xâm lược này của Hoa Kỳ.
Nguyên nhân của cuộc chiến tranh Irac
Duyên cớ trực tiếp dẫn đến cuộc chiến.
Chính phủ Mỹ có lý của họ khi họ liên tục cáo buộc phía Iraq theo đuổi các
chương trình vũ khí huỷ diệt, vũ khí sinh - hoá học. Với việc chấp nhận phán
quyết của Hội đồng Bảo an dựa trên các báo cáo của phái đoàn thanh sát vũ
khí LHQ, chính phủ Mỹ chứng tỏ họ tự tin vào cái lý của mình.
Nguyên nhân và mục đích của cuộc chiến đó là việc chính quyền Saddam
Hussein đã từng sử dụng vũ khí hóa học trong cuộc chiến với Iran, sử dụng
vũ khí hóa học để đàn áp người Kurd làm hàng nghìn người chết. Người Mỹ
và Tây Âu cũng đã từng trợ giúp Iraq trong cuộc chiến với Iran, giúp Iraq
đào tạo 1 đội ngũ các nhà khoa học trong lĩnh vực vũ khí hạt nhân; ông
Kessinger đã thừa nhận: “Chắc chắn (Saddam Hussein) là kẻ độc tài nhưng
hắn là kẻ độc tài của chung ta ”. Vì vậy hơn ai hết Mỹ và Tây Âu phải hiểu
được tiềm năng về vũ khí huỷ diệt của Iraq và đối thủ của họ
Như vậy, cuộc chiến của Mỹ nhằm vào Iraq là dựa trên những mối lo ngại
có cơ sở. Đó cũng là mối lo ngại của cộng đồng quốc tế, khi chứng kiến
hàng loạt nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ về vấn đề thanh sát vũ khí
và giải giáp Iraq đã trở thành 1 cuộc chơi cút bắt với phía Iraq.
Nguyên nhân sâu sa dẫn đến chiên tranh Iraq.
Nguồn dầu lửa dồi dào của Iraq.
Thực chất đằng sau cuộc chiến không phải là khủng bố hay vũ khí hủy diệt
như Mỹ tuyên bố, mà là nguồn dầu lửa dồi dào của nước vùng Vịnh này.
Trữ lượng dầu mỏ của Iraq đứng thứ 2 trên thế giới (xếp sau Ảrập Xêut),
chiếm gần 5% trữ lượng dầu của toàn thế giới.
Chính vì vậy, bên cạnh một bộ phận dân chúng Mỹ phản đối chiến tranh với
khẩu hiệu "không đổi máu lấy dầu", không ít người lại ủng hộ vì cho rằng nó
có lợi cho nền kinh tế Mỹ. Việc quy kết rằng Iraq có vũ khí huỷ diệt, điều
quân đội đến khu vực, vận động sự ủng hộ của đồng minh, bất chấp thực tế
Iraq đã tuân thủ nghị quyết của HĐBA, trong khi không đưa ra được bằng
chứng xác đáng càng chứng tỏ Mỹ chỉ muốn tìm cớ gây chiến.
Giả thiết Iraq có vũ khí huỷ diệt và thực sự nguy hiểm, liệu Mỹ có đưa quân
đến để hứng chịu thiệt hại không? Khác với ở Afghanistan, bên trong Iraq
không có một lực lượng quân sự và chính trị đối lập đủ mạnh để thay thế
phần nào sự tham gia của liên quân Anh - Mỹ trong chiến tranh. Thực chất
mục đích của Mỹ không phải là giải giáp vũ khí Iraq mà là lật đổ Tổng thống
Saddam Hussein. Chuyện lật đổ chỉ có thể giải quyết bằng chiến tranh chứ
không thể thực hiện được qua đàm phán.
Thực tế Mỹ mong muốn cuộc chiến xảy ra. Vì vậy Mỹ ráo riết tìm một cái
cớ đủ mạnh và sự ủng hộ của các nước đồng minh, hoặc ít nhất là bớt chống
đối trong HĐBA. Bởi vì sau cuộc chiến Mỹ sẽ lập nên một chính phủ thân
Washington, có khả năng đảm bảo các quyền lợi kinh tế và chính trị cho Mỹ
về sau này, giống như ở Afghanistan.
Thực ra, trên bế nổi Washington muốn cả thế giới nhìn nhận, rằng Iraq là
nước chứa chấp vũ khí hủy diệt và những tên khủng bố.
Sự thật lại khác hoàn toàn.
Cách đây gần 20 năm, Saddam Hussein được Mỹ tin dùng như một con bài
chủ chốt để Mỹ bành trướng thế lực ở Trung Đông. Saddam được chính
quyền Mỹ cung cấp tài chính và vũ trang để tấn công các nước trong vùng.
Đổi lại, Tổng thống Iraq phải cung cấp dầu cho Mỹ.
Kuwait là một đất nước nhỏ bé nhưng có một tiềm năng dầu đáng kể. Chính
vì vậy, Kuwait cũng không nằm ngoài tầm ngắm của Mỹ. Và chính quyền
Mỹ đã khuyến khích lãnh đạo của Iraq tấn công Kuwait. Sau khi Iraq thực
hiện việc này, Mỹ mới lộ mặt ra và buộc tội Iraq đã vô cớ xâm lược và muốn
thống lĩnh khối Ảrập. Thế là Saddam bị Mỹ gán cho cái tội là một tổng
thống độc tài. Vào năm 1991, Mỹ đã vận động liên quân đánh Iraq nhằm
giành phần Kuwait.
Hãy so sánh giữa CHDCND Triều Tiên và Iraq. Chính quyền CHDCND
Triều Tiên xác nhận rằng mình có vũ khí hạt nhân, nhưng Mỹ không đánh.
Ngược lại, trong khi LHQ vẫn còn rất mập mờ về việc sở hữu vũ khí hủy
diệt của Iraq thì Mỹ lại mong muốn gây chiến tranh với Iraq. Thật ra điều
này không mâu thuẫn. Mỹ không bao giờ làm việc gì mà không có mục đích.
Iraq "béo bở" hơn CHDCND Triều Tiên nhiều. Một lượng dự trữ dầu đủ sử
dụng đến hơn 500 năm làm sao mà không hấp dẫn đối với Mỹ được chứ?
Mỹ sẽ không tấn công CHDCND Triều Tiên chỉ để được cái danh là mình
đã giúp LHQ loại trừ được những vũ khí hủy diệt. Nên nhớ rằng Mỹ không
cần danh mà chỉ cần lợi thôi.
Tương tự về bin Laden, một nhân vật được Mỹ hỗ trợ trước đây trong cuộc
chiến giữa Afghanistan và Liên Xô (cũ). Đến khi bin Laden có "phản ứng"
đối với Mỹ thì Mỹ bắt đầu gọi bin Laden là một tên khủng bố. Vì vậy mà
Mỹ đã gây ra chiến tranh trên đất nước Afghanistan. Sở dĩ Afghanistan nằm
trong tầm ngắm của Mỹ bởi nước này là giao điểm những ống dẫn dầu đến
các nước Trung Đông.
Mặc dù số phận của bin Laden chưa rõ ràng, nhưng Mỹ không thể để nhân
vật này chết được, bởi như vậy sẽ không còn lý do để tiến hành "chiến tranh
chống khủng bố" như Mỹ tuyên bố nữa.
Sư đe dọa về giá trị của đồng Đôla so với đồng Euro.
Những câu hỏi cơ bản nhất về cuộc chiến này. Đầu tiên, tại sao lại
có hầu như không có sự hỗ trợ quốc tế để lật đổ Saddam? Nếu chương trình
WMD của Iraq thực sự sở hữu các mức độ đe dọa rằng Tổng thống Bush đã
nhiều lần có mục đích, lý do tại sao lại không có liên minh quốc tế để giải
giáp quân sự Saddam? Thứ hai, mặc dù hơn 300 không bị trói buộc của
Liên Hợp Quốc kiểm tra cho đến nay, đã không có bằng chứng báo cáo của
một chương trình tái tạo WMD(vũ khí hạt nhân) tại Iraq. Thứ ba, và mặc dù
ngôn từ của Bush, CIA đã không tìm thấy bất kỳ mối liên hệ giữa Saddam
Hussein và Al Qaeda(trùm khủng bố).
Hơn nữa, ngay lập tức sau khi Quốc hội bỏ phiếu nghị quyết về Iraq, chúng
ta cũng nhận thấy chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên vi phạm. Kim
Jong Il được chế biến uranium để sản xuất vũ khí hạt nhân năm nay. Tổng
thống Bush đã không cung cấp một câu trả lời lý do vì sao ở đất nước của
bSaddam dường như chương trình WMD không hoạt động , không sở hữu
một mối đe dọa sắp xảy ra như là các chương trình hoạt động của Bắc Triều
Tiên? Donald Rumsfeld cho rằng nếu Saddam đã "lưu vong" chúng ta có
thể tránh một cuộc chiến tranh Iraq? Và sự thật cái lý do chính để lật đổ
Saddam thực sự là đồng Euro.
=> Mặc dù hoàn toàn bị đàn áp trong các phương tiện truyền thông Mỹ, câu
trả lời cho những bí ẩn Iraq thật đơn giản nhưng gây sốc. Cuộc chiến tại
Iraq chiến tranh chủ yếu là về cách thức giai cấp thống trị tại Langley và các
đầu sỏ chính trị mà Bush xem ở cấp độ địa lý chiến lược, và các mối đe dọa
kinh tế vĩ mô bao quát với đồng đô la Mỹ từ đồng Euro. Thực tế là chính
phủ thành viên này của OPEC muốn tiếp tục ngăn chặn vai trò đồng Euro-
khi giao dịch dầu là một loại tiền tệ tiêu chuẩn. Tuy nhiên, đứng trước
OPEC, họ cần phải kiểm soát địa lý chiến lược của Iraq cùng với dự trữ dầu
của nước này.
thức giai cấp thống trị tại Langley và các đầu sỏ chính trị mà Bush xem ở
cấp độ địa lý chiến lược, và các mối đe dọa kinh tế vĩ mô bao quát với đồng
đô la Mỹ từ đồng Euro. Thực tế là chính phủ thành viên này của OPEC
muốn tiếp tục ngăn chặn vai trò đồng Euro- khi giao dịch dầu là một loại
tiền tệ tiêu chuẩn. Tuy nhiên, đứng trước OPEC, họ cần phải kiểm soát địa
lý chiến lược của Iraq cùng với dự trữ dầu của nước này.
" Cơn ác mộng lớn nhất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ là OPEC sẽ chuyển
giao dịch quốc tế của mình từ tiêu chuẩn đồng USD để sang tiêu chuẩn
đồng Euro. Iraq thực hiện chuyển đổi này trong tháng 11 năm 2000 (khi
đồng Euro trị giá khoảng 80 cents), và đã thực sự tạo ra giống như sự đe dọa
ổn định của đồng USD, làm cho nó mất giá so với đồng Euro. " (Lưu ý:
đồng đô la sụt giảm 15% so với đồng euro vào năm 2002.)
"Như vậy chính quyền Bush muốn có một chính phủ bù nhìn ở Iraq - hay
quan trọng hơn là lý do tại sao quân đội-công nghiệp-công ty tập đoàn mạng
muốn một chính phủ bù nhìn tại Iraq - là để nó sẽ quay trở lại một tiêu chuẩn
đô la và giư chắc vai trò này "
"Saddam niêm phong số phận của mình khi ông quyết định chuyển sang
đồng euro vào cuối năm 2000 (và sau đó chuyển đổi quỹ 10000000000 dự
trữ đola của ông tại Liên Hiệp Quốc sang Euro) .
Nhiều nhà phân tích rất ngạc nhiên việc Saddam đã sẵn sàng bỏ hàng triệu
doanh thu dầu cho những gì dường như là một tuyên bố chính trị. Sự giảm
giá ổn định của đồng USD so với đồng Euro kể từ cuối năm 2001 có nghĩa
là Iraq đã được lợi lớn từ các chuyển đổi trong dự trữ của họ và các đồng
tiền giao dịch. Đồng Euro đã đạt được khoảng 17% so với đồng đôla trong
thời gian đó,và cũng áp dụng đối với trị giá 10 tỷ USD vào Iraq của quỹ
"dầu ăn" LHQ- quỹ dự phòng mà trước đây được tổ chức bằng đô la, nó
cũng đã đạt được một phần trăm giá trị kể từ khi chuyển đổi. Điều gì sẽ xảy
ra nếu OPEC đã thực hiện chuyển đổi đột ngột dùng euro, thay vì chuyển
đổi dần dần?
"Nếu không, tác dụng của sự chuyển đổi sang đồng Euro sẽ là các quốc gia
tiêu thụ dầu sẽ phải rửa đô la trong quỹ ngân hàng trung ương (dự trữ )của
họ và thay thế bằng đồng Euro. Các đồng đô la sẽ sụp đổ ở bất cứ đâu từ 20-
40% trong giá trị và những hậu quả sẽ sự sụp đổ tiền tệ và lạm phát lớn (ví
như cuộc khủng hoảng tiền tệ Argentina). Bạn sẽ có dòng vốn nước ngoài
trong các thị trường chứng khoán Mỹ và các tài sản bằng tiền đô la chắc
chắn muốn được chạy trên các ngân hàng giống như những năm 1930, thâm
hụt tài khoản hiện tại sẽ trở thành hiện thực, thâm hụt ngân sách sẽ đi vào
mặc định, và như vậy. cơ bản trở thành 3 kịch bản kinh tế khủng hoảng thế
giới.
Hoa Kỳ là nền kinh tế mật thiết gắn liền với vai trò của đồng đô la như là
tiền tệ dự trữ. Điều này không có nghĩa là Hoa Kỳ không thể có chức năng
khác, nhưng đó là quá trình chuyển đổi sẽ phải được dần dần để tránh lệch
như vậy (và cuối cùng kết quả của điều này có lẽ sẽ là Mỹ và EU chuyển đổi
vai trò trong nền kinh tế toàn cầu). "
Trong hậu quả của lật đổ Saddam rõ ràng Hoa Kỳ sẽ giữ và thường lực
lượng quân sự lớn trong vùng Vịnh Ba Tư. Thật vậy, không có "lối ra chiến
lược" ở Iraq, quân sự sẽ là cần thiết để bảo vệ chế độ Iraq vừa cài đặt được,
và có thể gửi thông điệp đến các thành viên OPEC sản xuất để họ có thể
nhận được "thay đổi chế độ" nếu họ cũng chuyển sang euro cho xuất khẩu
dầucủa họ.
"Iran đề nghị nhận thanh toán cho doanh thu bán dầu thô cho châu Âu bằng
Euro thay vì đôla Mỹ là chủ yếu dựa trên kinh tế, và ngành công nghiệp
nguồn Iran quyết định. Nhưng chính trị vẫn còn có khả năng là một yếu tố
nào, họ nói, là Iran sử dụng cơ hội để đánh lại chính phủ Mỹ, mà gần đây đã
có nhãn nó một phần của "trục ma quỷ."
Các đề xuất, hiện đang được xem xét bởi Ngân hàng Trung ương Iran, có
khả năng được chấp thuận nếu trình bày cho quốc gia của quốc hội, một đại
diện quốc hội cho biết. "Có một cơ hội rất tốt các nghị sĩ sẽ đồng ý với ý
tưởng này bây giờ đồng euro mạnh, nó là hợp lý hơn ", các đại diện nghị
viện cho biết."
Nhiều hơn, và có thể nói hầu hết, trong năm 2002 phần lớn các quỹ dự trữ
trong ngân hàng trung ương của Iran đã được chuyển sang euro. Có vẻ như
sắp xảy ra rằng Iran có ý định chuyển sang euro cho tiền dầu của họ.
"Hơn một nửa số quốc gia tài sản của người trong dự trữ ngoại hối của Quỹ
đã được chuyển đổi sang đồng euro, một thành viên Phát triển Quốc hội Ủy
ban, Mohammad Abasspour công bố. Ông lưu ý rằng cao tương đương tỷ lệ
của đồng euro so với đô la Mỹ sẽ cung cấp cho các nước châu Á, đặc biệt
xuất khẩu dầu, một cơ hội để mở ra một chương mới trong quan hệ với các
nước thành viên của Liên minh châu Âu.
Hoa Kỳ thống trị các nước khác thông qua đồng tiền của mình, lưu ý rằng
việc đưa ra ưu thế của đồng USD so với các đồng tiền khác, Mỹ độc quyền
thương mại toàn cầu. Các nhà lập pháp bày tỏ hy vọng rằng sự cạnh tranh
giữa đồng euro và đồng đô la sẽ loại bỏ sự độc quyền trong thương mại toàn
cầu. "
Thật vậy, sau khi lật đổ Saddam, chính quyền này có thể quyết định rằng
Iran là mục tiêu tiếp theo trong "cuộc chiến chống khủng bố." Iran quan tâm
đến chuyển đổi sang đồng euro như là giao dịch tiền tệ tiêu chuẩn của họ để
xuất khẩu dầu.
Làn sóng phản đối chiến tranh diễn ra trên toàn thế giới.
Thái độ phản đối chiến tranh Iraq xảy ra trên toàn thế giới, cả trước và trong
thời gian đầu cuộc xâm lược Iraq năm 2003 của Hoa Kỳ.
Lý do cho sự phản đối là sự tin tưởng rằng chiến tranh là bất hợp pháp theo
Hiến chương Liên Hợp Quốc , hoặc sẽ đóng góp cho sự bất ổn định cả hai
bên trong Iraq và rộng hơn là khu vực Trung Đông . Các nhà phê bình cũng
đã đặt câu hỏi về tính hợp lệ của mục tiêu được nêu của chiến tranh, chẳng
hạn như một liên kết giữa chính phủ Iraq và cuộc tấn công11 Tháng Chín,
năm 2001 vào Hoa Kỳ, và việc sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt, theo
"chứng nhận" của Niger uranium đó là giấy tờ giả mạo. thứ hai là tuyên bố
của Hoa Kỳ trong thời gian trước chiến tranh, nhưng không có vũ khí như
vậy được tìm thấy.
Trong thời gian cuộc chiến phổ biến ý kiến về chiến tranh đã thay đổi đáng
kể theo thời gian. Mặc dù đã có sự đối lập với ý tưởng trong những tháng
trước cuộc tấn công, các cuộc thăm dò tiến hành trong cuộc xâm lược đã chỉ
ra rằng đa số công dân Mỹ ủng hộ hành động của chính phủ. Tuy nhiên, dư
luận đã chuyển vào năm 2004 với một đa số tin rằng cuộc xâm lược là một
sai lầm, và vẫn như vậy kể từ đó. Cũng có những lời chỉ trích quan trọng
của cuộc chiến tranh từ các chính trị gia Mỹ và an ninh quốc gia và quân
nhân, trong đó có tướng đã phục vụ trong chiến tranh
Trên thế giới, chiến tranh và chiếm đóng của Mỹ đã bị chính thức lên án của
54 quốc gia và người đứng đầu của nhiều tôn giáo lớn. bao gồm cả các đồng
minh của Mỹ trong cuộc xung đột, các cuộc biểu tình lớn với hàng triệu
người tham gia
Một phụ nữ Mỹ tăng nắm tay cô ấy, như mọi người tại hơn 60 quốc gia đã xuống đường
ngày 15 tháng 2, 2003, phản đối cuộc xâm lược Iraq
Các kết quả thăm dò ý kiến có sẵn từ Gallup International, cho thấy có hỗ
trợ cho một cuộc chiến tranh thực hiện "đơn phương của Mỹ và các đồng
minh của họ" đã không vượt lên trên 11 phần trăm ở bất kỳ nước nào. [ 1 ]
Hỗ trợ cho một cuộc chiến tranh nếu ủy quyền của Liên Hiệp Quốc dao
động từ 13 phần trăm (Tây Ban Nha) đến 51 phần trăm (Hà Lan).
Lý do phản đối
Những người chỉ trích cuộc xâm lược tuyên bố rằng nó sẽ dẫn đến cái chết
của hàng ngàn thường dân Iraq và binh lính cũng như Liên minh quân, và nó
sẽ làm tổn hại hơn nữa hòa bình, ổn định khắp khu vực và thế giới.
Một lý do thường được nêu ra cho phe đối lập các chính phủ nước ngoài
không bao giờ có quyền can thiệp vào các quốc gia nội bộ của các vấn đề
chủ quyền khác (bao gồm cả chủ nghĩa khủng bố hoặc bất kỳ vụ không quốc
tế khác). Giorgio Agamben , nhà triết học người Ý, cũng đã cung cấp một
phê phán logic của chiến tranh phủ đầu.
Những người khác đã chấp nhận một quyền hạn chế sự can thiệp quân sự ở
nước ngoài, nhưng vẫn phản đối cuộc xâm lược trên cơ sở đó nó đã được
thực hiện mà không cần Quốc 'Kỳ và đã được phê duyệt do đó vi phạm luật
pháp quốc tế . Theo đó, tuân thủ điều khoản của Hoa Kỳ và các cường quốc
khác để Hiến chương LHQ và các điều ước quốc tế khác mà chúng ràng
buộc pháp lý không phải là một lựa chọn, nhưng nghĩa vụ pháp lý; thực hiện
sức mạnh quân sự vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc làm suy yếu các
quy định của pháp luật và là bất hợp pháp trên quy mô quốc tế. Benjamin B.
Ferencz , người từng là trưởng Kiểm sát viên của Mỹ về tội ác chiến tranh
Đức Quốc xã tại các thử nghiệm Nuremberg sau Thế chiến II, đã lên án cuộc
chiến tranh Iraq như là một chiến tranh xâm lược (được đặt tên tại
Nuremberg là "tội phạm quốc tế tối cao") và nói rằng niềm tin của ông
George W. Bush , là "" khởi đầu của chiến tranh, nên đã tạo nên các tội ác
chiến tranh.
Cũng có sự hoài nghi của Hoa Kỳ tuyên bố rằng chính phủ của Iraq có bất
kỳ liên kết với Al-Qaeda , phong trào Hồi giáo được coi là nhóm khủng bố
chịu trách nhiệm về Ngày 11 tháng 9 năm 2001 tấn công vào Trung tâm
Thương mại Thế giới và Lầu Năm Góc.
Một số tranh cãi nói rằng Hoa Kỳ sẽ xem xét hành động quân sự chống
Iraq và không chống lại Triều Tiên, trong đó Triều tiên tuyên bố đã có vũ
khí hạt nhân và đã thông báo rằng nó đã sẵn sàng để chiêm ngưỡng chiến
tranh với Hoa Kỳ. Điều này chỉ trích Bắc Triều Tiên tăng cường khi báo cáo
thực hiện một vũ khí thử nghiệm hạt nhân vào ngày 09 Tháng Mười 2006.
Cũng có những lời chỉ trích của Liên minh chính sách của những người
không tin rằng hành động quân sự sẽ giúp đỡ để chống khủng bố, với một số
tin rằng nó thực sự sẽ giúp các nỗ lực tuyển dụng Al-Qaeda, những người
khác tin rằng chiến tranh và ngay sau chiến tranh thời sẽ dẫn đến một gia
tăng đáng kể nguy cơ mà vũ khí hủy diệt hàng loạ t sẽ rơi vào tay kẻ xấu (bao
gồm cả Al-Qaeda).
Cả hai bên trong và bên ngoài Hoa Kỳ, một số cho rằng lý do chính quyền
Bush tiến hành cuộc chiến giành quyền kiểm soát nguồn tài nguyên Iraq tự
nhiên (chủ yếu là xăng dầu). Những nhà phê bình cảm thấy rằng cuộc chiến
sẽ không giúp giảm nguy cơ phổ biến vũ khí WMD, và rằng lý do thực sự
cho cuộc chiến này là kiểm soát an toàn của các mỏ dầu của Iraq vào thời
điểm các liên kết Mỹ với Ả Rập Saudi được xem là có nguy cơ. "Không đổi
máu lấy dầu" là một tiếng kêu phản đối phổ biến trước khi cuộc xâm lược
tháng 3 năm 2003.
Một số người phản đối của cuộc chiến cũng tin rằng sẽ không có vũ khí hủy
diệt hàng loạt ở Iraq, và vì thế có rất ít lý do cho cuộc xâm lược một. Nổi
bật trong số này là Scott Ritter , một cựu tình báo quân đội nhân viên và sau
đó một thanh tra vũ khí Liên Hiệp Quốc tại Iraq , và người vào năm 1998 đã
được đủ diều hâu đối với Iraq để được khuyên nhủ của các Thượng nghị sĩ
Joe Biden , "Quyết định hay không nước nên đến chiến tranh là một chút ở
trên lớp của bạn trả tiền. " Điều tra sau khi cuộc xâm lược không có bằng
chứng WMDs ở Iraq (ngoài một số lượng rất nhỏ chất hóa học xuống cấp vũ
khí đạn nằm sau khi Chiến tranh Iran-Iraq kết thúc vào năm 1988). Nói
chung, tuy nhiên, rất ít đối thủ của các cuộc xâm lược Iraq công khai bày tỏ
nghi ngờ về việc liệu các chế độ Saddam Hussein sở hữu vũ khí hủy diệt
hàng loạt.
Trong thời gian chiếm đóng, một số người phản đối cáo buộc Tổng thống
Bush thờ ơ với những đau khổ gây ra bởi cuộc xâm lược.
Phản đối tại Hoa Kỳ
Chiến tranh Iraq đã gặp sự phản đối phổ biến đáng kể tại Hoa Kỳ, bắt đầu
trong các giai đoạn lập kế hoạch và tiếp tục thông qua việc chiếm đóng sau
cuộc xâm lược của Iraq. Những tháng dẫn đến chiến tranh đã thấy cuộc biểu
tình trên khắp nước Mỹ, lớn nhất trong số đó, tổ chức vào ngày 15 tháng 2,
năm 2003 tham gia khoảng 300.000 đến 400.000 người biểu tình ở New
York City, với số lượng nhỏ phản đối tại Seattle, San Francisco, Chicago, và
khác thành phố.
Phù hợp với tình cảm chống chiến tranh của các cuộc biểu tình, trong những
tháng dẫn tới cuộc chiến tranh Iraq, nhiều ý kiến công chúng Mỹ ủng hộ một
giải pháp ngoại giao về can thiệp quân sự ngay lập tức. Một tháng một năm
2003 CBS News / New York Times bình chọn cho thấy 63% người Mỹ
muốn Tổng thống Bush để tìm một giải pháp ngoại giao cho tình hình Iraq,
so với 31% người ủng hộ ngay lập tức can thiệp quân sự. Đó là cuộc thăm
dò cũng cho thấy, tuy nhiên, nếu ngoại giao thất bại, hỗ trợ cho các hành
động quân sự để lật đổ Saddam Hussein đã được trên 60 phần trăm.
[5]
Ngày trước khi cuộc xâm lược ngày 20 tháng 3, một TODAY Mỹ / CNN /
Gallup Poll hàng hỗ trợ cho chiến tranh đã được liên quan đến Liên Hợp
Quốc phê duyệt. Gần sáu trong 10 nói rằng họ đã sẵn sàng cho cuộc xâm
lược như vậy "trong tuần tới hoặc hai." Nhưng có hỗ trợ giảm đi nếu sự ủng
hộ của Liên Hợp Quốc đã không đầu tiên thu được. Nếu Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc đã bác bỏ một nghị quyết mở đường cho hành động quân sự,
chỉ có 54% người Mỹ ủng hộ một cuộc xâm lược của Mỹ. Và nếu chính
quyền Bush đã không tìm kiếm một Hội đồng Bảo an bỏ phiếu cuối cùng, hỗ
trợ cho một cuộc chiến tranh đã giảm đến 47%.
Ngay sau khi cuộc xâm lược 2003 hầu hết các cuộc thăm dò bên trong nước
Mỹ cho thấy đại đa số người Mỹ ủng hộ chiến tranh, nhưng xu hướng đó bắt
đầu thay đổi ít hơn một năm sau khi chiến tranh bắt đầu. Bắt đầu từ tháng
12 năm 2004, các cuộc thăm dò đã liên tục chỉ ra rằng đa số cho rằng cuộc
xâm lược là một sai lầm. Đến năm 2006, ý kiến về những gì Hoa Kỳ nên
làm ở Iraq được chia, với một đa số nhỏ thường thiên về thiết lập thời gian
biểu rút quân, nhưng so với thu hồi ngay lập tức. Tuy nhiên, trong lĩnh vực
này phản ứng rất khác nhau với những từ ngữ chính xác của câu hỏi.
Kể từ khi cuộc xâm lược Iraq, một trong những nhà lãnh đạo rõ ràng nhất
của phe đối lập phổ biến ở Mỹ đã được Cindy Sheehan , mẹ của Casey
Sheehan , một người lính bị giết tại Iraq. Sheehan vai trò của một nhà lãnh
đạo chống chiến tranh đã bắt đầu với hiện cắm trại của mình ở gần trang trại
của Tổng thống Bush ở Crawford, Texas, và tiếp tục với một tour du lịch cả
nước và các chuyến đi đến châu Âu và Nam Mỹ.
Phản đối từ an ninh quốc gia và nhân viên quân sự
Cựu chiến binh Iraq chống chiến tranh thể hiện ở Washington, DC ngày 15 Tháng 9,
2007. Các lá cờ Mỹ được hiển thị lộn ngược, mà theo mã cờ là một tín hiệu gặp nạn
Nhiều thành viên nổi bật của cộng đồng an ninh quân sự quốc gia, đặc biệt là
những người ủng hộ một cách tiếp cận hiện thực hơn cho quan hệ quốc tế đã
truy tố c cuộc chiến tranh.
Ngày 28 tháng bảy 2002, tám tháng trước khi cuộc xâm lược Iraq,
Washington Post báo cáo rằng "nhiều sĩ quan quân đội cao cấp Hoa Kỳ" bao
gồm các thành viên của mưu trưởng liên quân chống lại một cuộc xâm lược
trên cơ sở đó các chính sách ngăn chặn đã được làm việc.
Một vài ngày sau đó, tướng Joseph P. Hoar (Ret.) cảnh báo rằng Ủy ban
Đối ngoại Thượng viện rằng cuộc xâm lược là nguy hiểm và có lẽ không cần
thiết.
Morton Halperin , một chuyên gia về chính sách đối ngoại với các Hội đồng
Quan hệ Đối ngoại và Trung tâm Tiến bộ Mỹ cảnh báo rằng một cuộc xâm
lược sẽ làm tăng mối đe dọa khủng bố.
Trong một cuốn sách năm 2002, Scott Ritter , một thanh tra vũ khí hạt nhân
ở Iraq 1991-98, lập luận chống lại cuộc xâm lược một và bày tỏ nghi ngờ về
tuyên bố của Tổng thống Bush chính mà Saddam Hussein đã có một WMD
năng lực.
Brent Scowcro ft , người đã từng là Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng
thống George HW Bush là một nhà phê bình sớm. Ông đã viết một ngày 15
tháng tám năm 2002 biên tập trong The Wall Street Journal có tựa đề
"Không tấn công Saddam", biện luận rằng cuộc chiến sẽ phân tâm từ cuộc
chiến rộng lớn hơn chống lại khủng bố và các cuộc xung đột Israel-Palestine
, cần được ưu tiên cao nhất của Mỹ trong Trung Đông. Các tháng tiếp theo,
Tướng Hugh Shelton , cựu Chủ tịch của mưu trưởng liên quân , đã đồng ý
rằng cuộc chiến tại Iraq sẽ đánh từ chiến tranh chống khủng bố .
Ngày 19 tháng 1 2003, Tạp chí TIME đã báo cáo rằng "có đến 1 trong 3 sĩ
quan cao cấp đặt câu hỏi trí tuệ của một cuộc chiến tranh phủ đầu với Iraq."
Ngày 13 tháng hai, 2003 Đại sứ Joseph Wilson , cựu đại biện tại Baghdad,
đã từ chức từ các dịch vụ nước ngoài và công khai nghi ngờ sự cần thiết cho
một cuộc chiến khác ở Iraq Sau khi chiến tranh bắt đầu, ông đã viết một bài
xã luận trên tờ New York Times có tựa đề Những gì tôi đã không Tìm ở
Châu Phi tuyên bố mất uy tín chính là Bush cho rằng Iraq đã cố gắng mua
uranium từ Niger.
Ngày 16 Tháng Sáu, 2004, 27 cựu ngoại giao cao cấp Hoa Kỳ , các nhà
quân sự cấp cao ban hành một tuyên bố chống chiến tranh. Các nhóm bao
gồm:
• William J. Crowe , Chủ tịch của mưu trưởng liên quân dưới thời
Tổng thống Ronald Reagan
• Joseph Hoar , cựu Tư lệnh lực lượng Mỹ ở Trung Đông
• H. Allen Holmes , cựu Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng đối với hoạt
động đặc biệt
• Donald McHenry , cựu Đại sứ tại Liên Hiệp Quốc
• Merrill McPeak , cựu quân mưu trưởng
• Jack F. Matlock, Jr , một thành viên của Hội đồng An ninh Quốc gia
dưới Reagan và cựu Đại sứ cho Liên Xô
• John Reinhardt , cựu Giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ
• Ronald , Theo Tổng thư ký Liên Hợp Quốc cho Chính trị giao và cựu
Đại sứ một
• Stansfield Turner , cựu Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương
Vào tháng Tư năm 2006, sáu vị tướng nổi tiếng về hưu công khai chỉ trích
Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld là xử lý của chiến tranh, và kêu
gọi ông từ chức. Các nhóm bao gồm hai vị tướng chỉ huy quân đội ở Iraq:
Thiếu tướng Charles H. Swannack , Jr (Ret.) và Thiếu tướng John (Ret.).
Một trong những tướng là , Lieut. Tướng Greg Newbold (Ret.), người từng
là nhân viên của Lầu Năm Góc hàng đầu hoạt động trong những tháng dẫn
đến cuộc xâm lược, cũng xuất bản một bài báo trong tạp chí Time tháng tựa
đề "Tại sao Iraq là một sai lầm."
Trong tháng mười năm 2007, Trung Tướng Ricardo Sanchez , cựu chỉ huy
lực lượng liên quân tại Iraq, gọi là năm 2007 "tăng" là một "sai lầm chiến
lược", và cho rằng các lãnh đạo chính trị tại Hoa Kỳ có thể đã được tòa án
martialed cho hành động của họ, có họ được quân nhân.
Phản đối từ người lính
Phản đối của Quốc hội
Ý kiến tại Quốc hội Mỹ dẫn tới cuộc chiến Iraq nói chung ủng hộ một giải
pháp ngoại giao, trong khi hỗ trợ quân sự can thiệp ngoại giao bị thất
bại .Quốc hội phê bình cuộc chiến tranh cũng đã phản đối kế hoạch của
Tổng thống Bush gửi thêm 20.000 lính Mỹ tới Iraq.
Phản đối từ các ứng cử viên tổng thống
Trong chiến dịch tranh cử Mỹ tổng thống năm 2008 , ứng cử viên đại diện
Ron Paul , sau đó, Thượng nghị sĩ Barack Obama (Tổng thống Hoa Kỳ hiện
nay), Thượng nghị sĩ Chris Dodd , Hillary Clinton , Dennis Kucinich , và
Mike Gravel là các nhà phê bình thẳng thắn nhất của cuộc chiến tranh Iraq .
Barack Obama (người đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử) không phải
là một thượng nghị sĩ tại thời điểm biểu quyết Nghị quyết của Chiến tranh
Iraq, nhưng đã nhiều lần lên tiếng không chấp thuận cả trước và trong
khichiến dịch tranh cử của ông, nói tại một cuộc biểu tình chống chiến tranh
ở Chicago vào ngày 02 tháng mười năm 2002. "Tôi không phản đối cho tất
cả các cuộc chiến tranh tôi là phản đối cuộc chiến tranh câm . " Ông cũng
đã nói về "độ dài không xác định chi phí chưa xác định , những hậu quả
không xác định "mà ngay cả một cuộc chiến tranh thành công sẽ mang lại.
Phản đối từ các luật sư chuyên về Luật quốc tế .
Phản đối tại các nước châu Âu
Chống chiến tranh ở Venice , Italy.
Xung quanh các cuộc xâm lược Iraq năm 2003 và sau đó chiếm đóng Iraq ,
số liệu cho thấy sự phản đối hành động quân sự chống lại Iraq đã được phổ
biến rộng rãi ở châu Âu.
Phản đối trên toàn thế giới
Cựu chiến binh Iraq chống chiến tranh thể hiện ở Washington, DC ngày 15 Tháng 9,
2007. Các lá cờ Mỹ được hiển thị lộn ngược, mà theo mã cờ là một tín hiệu gặp nạn
Nhiều thành viên nổi bật của cộng đồng an ninh quân sự quốc gia, đặc biệt là
những người ủng hộ một cách tiếp cận hiện thực hơn cho quan hệ quốc tế đã
truy tố c cuộc chiến tranh.
Ngày 28 tháng bảy 2002, tám tháng trước khi cuộc xâm lược Iraq,
Washington Post báo cáo rằng "nhiều sĩ quan quân đội cao cấp Hoa Kỳ" bao
gồm các thành viên của mưu trưởng liên quân chống lại một cuộc xâm lược
trên cơ sở đó các chính sách ngăn chặn đã được làm việc.
Một vài ngày sau đó, tướng Joseph P. Hoar (Ret.) cảnh báo rằng Ủy ban
Đối ngoại Thượng viện rằng cuộc xâm lược là nguy hiểm và có lẽ không cần
thiết.
Morton Halperin , một chuyên gia về chính sách đối ngoại với các Hội đồng
Quan hệ Đối ngoại và Trung tâm Tiến bộ Mỹ cảnh báo rằng một cuộc xâm
lược sẽ làm tăng mối đe dọa khủng bố.
Trong một cuốn sách năm 2002, Scott Ritter , một thanh tra vũ khí hạt nhân
ở Iraq 1991-98, lập luận chống lại cuộc xâm lược một và bày tỏ nghi ngờ về
tuyên bố của Tổng thống Bush chính mà Saddam Hussein đã có một WMD
năng lực.
Brent Scowcro ft , người đã từng là Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng
thống George HW Bush là một nhà phê bình sớm. Ông đã viết một ngày 15
tháng tám năm 2002 biên tập trong The Wall Street Journal có tựa đề
"Không tấn công Saddam", biện luận rằng cuộc chiến sẽ phân tâm từ cuộc
chiến rộng lớn hơn chống lại khủng bố và các cuộc xung đột Israel-Palestine
, cần được ưu tiên cao nhất của Mỹ trong Trung Đông. Các tháng tiếp theo,
Tướng Hugh Shelton , cựu Chủ tịch của mưu trưởng liên quân , đã đồng ý
rằng cuộc chiến tại Iraq sẽ đánh từ chiến tranh chống khủng bố .
Ngày 19 tháng 1 2003, Tạp chí TIME đã báo cáo rằng "có đến 1 trong 3 sĩ
quan cao cấp đặt câu hỏi trí tuệ của một cuộc chiến tranh phủ đầu với Iraq."
Ngày 13 tháng hai, 2003 Đại sứ Joseph Wilson , cựu đại biện tại Baghdad,
đã từ chức từ các dịch vụ nước ngoài và công khai nghi ngờ sự cần thiết cho
một cuộc chiến khác ở Iraq Sau khi chiến tranh bắt đầu, ông đã viết một bài
xã luận trên tờ New York Times có tựa đề Những gì tôi đã không Tìm ở
Châu Phi tuyên bố mất uy tín chính là Bush cho rằng Iraq đã cố gắng mua
uranium từ Niger.
Ngày 16 Tháng Sáu, 2004, 27 cựu ngoại giao cao cấp Hoa Kỳ , các nhà
quân sự cấp cao ban hành một tuyên bố chống chiến tranh. Các nhóm bao
gồm:
• William J. Crowe , Chủ tịch của mưu trưởng liên quân dưới thời
Tổng thống Ronald Reagan
• Joseph Hoar , cựu Tư lệnh lực lượng Mỹ ở Trung Đông
• H. Allen Holmes , cựu Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng đối với hoạt
động đặc biệt
• Donald McHenry , cựu Đại sứ tại Liên Hiệp Quốc
• Merrill McPeak , cựu quân mưu trưởng
• Jack F. Matlock, Jr , một thành viên của Hội đồng An ninh Quốc gia
dưới Reagan và cựu Đại sứ cho Liên Xô
• John Reinhardt , cựu Giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ
• Ronald , Theo Tổng thư ký Liên Hợp Quốc cho Chính trị giao và cựu
Đại sứ một
• Stansfield Turner , cựu Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương
Vào tháng Tư năm 2006, sáu vị tướng nổi tiếng về hưu công khai chỉ trích
Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld là xử lý của chiến tranh, và kêu
gọi ông từ chức. Các nhóm bao gồm hai vị tướng chỉ huy quân đội ở Iraq:
Thiếu tướng Charles H. Swannack , Jr (Ret.) và Thiếu tướng John (Ret.).
Một trong những tướng là , Lieut. Tướng Greg Newbold (Ret.), người từng
là nhân viên của Lầu Năm Góc hàng đầu hoạt động trong những tháng dẫn
đến cuộc xâm lược, cũng xuất bản một bài báo trong tạp chí Time tháng tựa
đề "Tại sao Iraq là một sai lầm."
Trong tháng mười năm 2007, Trung Tướng Ricardo Sanchez , cựu chỉ huy
lực lượng liên quân tại Iraq, gọi là năm 2007 "tăng" là một "sai lầm chiến
lược", và cho rằng các lãnh đạo chính trị tại Hoa Kỳ có thể đã được tòa án
martialed cho hành động của họ, có họ được quân nhân.
Phản đối từ người lính
Phản đối của Quốc hội
Ý kiến tại Quốc hội Mỹ dẫn tới cuộc chiến Iraq nói chung ủng hộ một giải
pháp ngoại giao, trong khi hỗ trợ quân sự can thiệp ngoại giao bị thất
bại .Quốc hội phê bình cuộc chiến tranh cũng đã phản đối kế hoạch của
Tổng thống Bush gửi thêm 20.000 lính Mỹ tới Iraq.
Phản đối từ các ứng cử viên tổng thống
Trong chiến dịch tranh cử Mỹ tổng thống năm 2008 , ứng cử viên đại diện
Ron Paul , sau đó, Thượng nghị sĩ Barack Obama (Tổng thống Hoa Kỳ hiện
nay), Thượng nghị sĩ Chris Dodd , Hillary Clinton , Dennis Kucinich , và
Mike Gravel là các nhà phê bình thẳng thắn nhất của cuộc chiến tranh Iraq .
Barack Obama (người đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử) không phải
là một thượng nghị sĩ tại thời điểm biểu quyết Nghị quyết của Chiến tranh
Iraq, nhưng đã nhiều lần lên tiếng không chấp thuận cả trước và trong
khichiến dịch tranh cử của ông, nói tại một cuộc biểu tình chống chiến tranh
ở Chicago vào ngày 02 tháng mười năm 2002. "Tôi không phản đối cho tất
cả các cuộc chiến tranh tôi là phản đối cuộc chiến tranh câm . " Ông cũng
đã nói về "độ dài không xác định chi phí chưa xác định , những hậu quả
không xác định "mà ngay cả một cuộc chiến tranh thành công sẽ mang lại.
Phản đối từ các luật sư chuyên về Luật quốc tế .
Phản đối tại các nước châu Âu
Chống chiến tranh ở Venice , Italy.
Xung quanh các cuộc xâm lược Iraq năm 2003 và sau đó chiếm đóng Iraq ,
số liệu cho thấy sự phản đối hành động quân sự chống lại Iraq đã được phổ
biến rộng rãi ở châu Âu.
Phản đối trên toàn thế giới
Biểu tình tại Pháp chống chiến tranh
Ý kiến các cuộc thăm dò cho thấy dân số của gần như tất cả các quốc gia
phản đối một cuộc chiến tranh mà không có uỷ quyền của Liên Hợp Quốc,
và rằng quan điểm của Hoa Kỳ như là một mối nguy hiểm cho hòa bình thế
giới đã tăng lên đáng kể. Liên Hợp Quốc Tổng thư ký Kofi Annan mô tả
cuộc chiến tranh là bất hợp pháp, nói trong một cuộc phỏng vấn năm 2004
Tháng Chín rằng đó là "không phù hợp với Hội đồng Bảo an." Tổng thống
Brazil Luiz Inácio Lula da Silva nói rằng cuộc xâm lược "không tôn trọng
Liên hợp quốc" và không có thế giới ý kiến vào tài khoản.
Nelson Mandela , cựu Tổng thống Nam Phi, được gọi là thái độ của Mỹ
năm tháng trước khi cuộc xâm lược của một "mối đe dọa cho hòa bình thế
giới". Ông cho biết họ đã gửi một thông điệp rằng "nếu bạn sợ một quyền
phủ quyết trong Hội đồng Bảo an, bạn có thể đi ra ngoài và có hành động và
vi phạm chủ quyền của các quốc gia khác"; ". Phải bị lên án trong các từ ngữ
mạnh" một tin nhắn mà
Phản đối của tổ chức tôn giáo
Các Vatican cũng đã lên tiếng chống lại cuộc chiến tại Iraq. Đức Tổng
Giám Mục Renato Raffaele Martino , một cựu phái viên Liên Hợp Quốc và
trưởng ban hiện hành của Hội đồng Tư pháp và Hòa bình, nói với các phóng
viên rằng cuộc chiến chống Iraq là một cuộc chiến tranh phòng ngừa và
thành lập một "cuộc chiến tranh xâm lược", và do đó không tạo thành một
cuộc chiến tranh chinh nghĩa . Cựu bộ trưởng ngoại giao, Đức Tổng Giám
Mục Jean-Louis Tauran, bày tỏ quan ngại rằng một cuộc chiến tranh ở Iraq
sẽ làm nóng tình cảm chống Kitô hữu trong thế giới Hồi giáo. Ngày 08
tháng hai 2003, Giáo hoàng John Paul II cho biết "chúng tôi không bao giờ
tự khuất phục mình như thể chiến tranh là không thể tránh khỏi." Ông đã nói
ra một lần nữa vào ngày 22 tháng ba 2003, ngay sau khi cuộc xâm lược bắt
đầu, và nói rằng bạo lực và vũ khí mà "không bao giờ có thể giải quyết được
vấn đề của con người."
Cả Đức Tổng Giám Mục đi của Canterbury, George Carey , và người kế
nhiệm ông, Rowan Williams , đã lên tiếng chống lại cuộc chiến tranh với
Iraq.
Phản đối chiiến tranh Iraq diễn ra trên khắp thế giới.
Trên khắp thế giới, thái độ bất đồng đã dẫn đến hàng ngàn cuộc biểu tình kể
từ năm 2002, chống lại cuộc xâm lược Iraq. Họ đã được tổ chức tại nhiều
thành phố trên toàn thế giới, thường xuyên phối hợp để xảy ra đồng thời trên
toàn thế giới. Sau khi các cuộc biểu tình đồng thời, vào ngày 15 Tháng Hai
năm 2003 ,số người biểu tình lớn nhất- tổng số cử tri đi bầu, nhà văn
Patrick Tyler của tờ New York Times khẳng định rằng họ đã cho thấy rằng
có hai siêu cường trên thế giới: Hoa Kỳ và thế giới công luận. Không
những thế,hoạt động chống chiến tranh diễn ra dưới nhiều hình thức các
nhóm khác đã tổ chức buổi cầu nguyện thắp nến, sinh viên bước ra khỏi
trường học.
Các 15 tháng 2 năm 2003, cuộc biểu tình trên toàn thế giới đã thu hút hàng
triệu người trên toàn thế giới. Nó thường được ước tính có hơn 3 triệu người
đã tuần hành tại Rome, từ một đến hai triệu ở London, hơn 600.000 ở
Madrid , 300.000 ở Berlin, cũng như ở Damascus , Paris, New York, Oslo ,
Stockholm , Brussels , Johannesburg , Montreal - hơn 600 thành phố trên
toàn thế giới. Cuộc đại biểu tinh này đã được liệt kê trong sách kỷ lục thế
giới Guiness như cuộc biểu tình phong trào quần chúng lớn nhất trong lịch
sử.
Trong khi đó Washington tỏ thái độ không quan tâm đến làn sóng phản đối
chiến tranh Iraq ngày càng tăng từ Nga,Trung Quốc, các đồng minh Đức,
Pháp, Canada và trên toàn thế giới. Ngoại trưởng Colin Powell đã từng tin
tưởng sẽ tìm được những nước khác có cùng ý muốn tiến hành chiến dịch
quân sự lật đổ Baghdad.
"Chúng ta không cần lo sẽ phải đến chiến trận một mình" (Powell )
Tại sao lại có làn sóng phản chiến mạnh mẽ như
vậy?
Có người cho rằng Mỹ có lý khi phát động tấn công Iraq, rằng Tổng thống
Iraq Saddam là độc tài, rằng người Nhật hoảng loạn và người Hàn Quốc lo
lắng khi vấn đề hạt nhân ở Bắc Triều Tiên chưa được giải quyết; rằng Mỹ là
cảnh sát quốc tế
Thực tế Mỹ không thể có lý do chính đáng nào để tấn công một quốc gia có
chủ quyền như Iraq. Nếu nói rằng ông Saddam là độc tài, thì hãy để tự nhân
dân Iraq đánh giá về sự độc tài đó. Tổng thống Bush có độc tài không? Có,
không những độc tài mà ông ta còn có thái độ và cách ứng xử rất cường
quyền. Cuộc chiến ở Nam Tư là một ví dụ. Mỹ có vũ khí hủy diệt hàng loạt
không? Có, không những thế mà có rất nhiều. Vậy ai là người “giải giáp”
Mỹ? Ai là người đòi ông Bush phải tỵ nạn chính trị như ông ta từng yêu cầu
ông Saddam?
Việc CHDCND Triều Tiên mới đây thừa nhận vẫn bí mật theo đuổi các
chương trình vũ khí hạt nhân và công khai thách thức Mỹ và đồng minh
chính là lý do cho chung ta thấy rõ mục đích cuộc chiến chống Iraq của Mỹ.
Tại sao Mỹ tấn công Iraq mà không gây chiến vối Triều Tiên.
Phải chăng chính phủ Mỹ hiện nay đang phải phân tâm để lo đối phó với cả
Iraq và Bắc Triều Tiên, thế nhưngcó lẽ đây là 1 bài toán nan giải cho Mỹ, họ
buộc phải cân nhắc thực lực mỗi bên, đánh giá về nguy cơ và mức độ ảnh
hưởng của cuộc chiến… Mỹ không thể cùng 1 lúc đối đầu với cả hai nước,
họ phải chọn 1 giải pháp có lợi nhất. Mỹ chọn con đường đối thoại với Bắc
Triều Tiên, nhưng điều đó không có nghĩa là chính phủ Mỹ sẽ bỏ quên Bình
Nhưỡng trong khi dồn quân vào khu vực Trung Đông.
Người Mỹ đáng khâm phục ở nhiều khía cạnh, nhưng không vì thế mà
chúng ta đánh đồng tất cả các khái niệm. Mỹ không xứng đáng là một
cảnh sát quốc tế vì bản thân nội bộ nước Mỹ cũng vẫn còn đầy rẫy những bất
công, vì thái độ cường quyền của Mỹ đối với những nước nhỏ. Mỹ hô hào tự
do nhưng Mỹ không tôn trọng tự do của nước khác. Nói một cách chính xác,
Mỹ chỉ là một “sen đầm”. Cứ nhìn vào thái độ của Mỹ đối với cuộc xung đột
Israel và Palestine là chúng ta có thể nhận thấy rõ. Việc Mỹ xóa sổ chế độ
Taliban ở Afganistan không phải vì nhân dân Afganistan mà chỉ vì quyền lợi
của Mỹ ở khu vực này, vì sự khẳng định “sức mạnh” của Mỹ.
Như vậy, đây là một cuộc chiến phi nghĩa và điều đó làm cho những người
yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới phản ứng mạnh mẽ.
Đánh giá chung
Mỹ lấy cái cớ chống khủng bố, coi Iraq là một đối tượng nguy hiểm của chủ
nghia khủng bố cần được ngăn chặn.Vì vậy,Mỹ sử dụng lực lượng quân sự
phát động cuộc tranh chớp nhoáng chống Iraq bất chấp sự phản đối của dư
luận quốc tế. Điều đó phần nào cho ta thấy Mỹ thể hiện rõ thái độ tham vọng
thiết lập trật tự thế giới đơn cực của mình nhằm đạt được mục tiêu chiến
lược ngăn chặn không cho cường quốc nào- dù là đồng minh hay đối thủ
vươn lên thách thức vai trò siêu cường của mình. Đây cũng là một ví dụ điển
hình cho chính sách đối ngoại đơn phương của Mỹ, chà đạp lên các nguyên
tắc luật pháp quốc tế, kể cả liên hợp quốc.
Rõ ràng, mục đích chống khủng bố chỉ là một cái cớ, Mỹ dùng chiêu bài này
đẻ thay thế cho ngọn cờ "chống cộng" trong thòi kỳ chiến tranh lạnh nhằm
tập hợp lực lượng liên minh, thân Mỹ, phụ thuộc vào Mỹ, thu nguồn lợi kinh
tế, tạo thế lưc chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật ảnh hưởng toàn cầu. Tất
cả phục vụ mục đích hình thanh một trật tự thế giới đơn cực do Mỹ chi phối.
Tuy nhiên, chủ nghĩa đơn phương, ý đò thống trị thế giới của Mỹ đã vấp
phải sự chống đối của tất cả các quốc gia trên thế giới, từ các nươc lớn: Anh,
Pháp, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản đến các nước khác.Phong trào chống
chiến tranh, chống chính sách hiếu chiến của Mỹ ở Iraq đã lan rộng khắp thế
giới. Với tham vọng khẳng định mình của hầu hết các quốc gia trên thế giới
và lọi ích dân tộc đặt lên trên hết, yêu cầu thiết lập một trật tự đa cực của
cộng đồng quốc tế là một tất yếu. Bởi vì nhìn từ bình diện toàn cầu thì một
quốc gia dù là siêu cường duy nhất cũng không có khẳ năng kiểm soát toàn
bộ các lĩnh nguyên toàn cầu. Điều đó khiến Mỹ không thể và không đủ khẳ
năng thiết lập một trật tự đơn cực mà không phải dựa vào hay chịu sự ràng
buộc các quốc gia và tổ chức quốc tế trong đó có liên hợp quốc.
Như thế trong những dòng chảy của thời đại, trào lưu chủ đạo vẫn là sự
hợp tác hướng tới một thế giới an ninh và phát triển. Thế nhưng rõ
ràng là quá trình vừa hợp tác vừa cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau.
Trật tự thế giới đa cực ngày càng được định hình rõ ràng hơn. Sự trỗi dậy
của Trung Quốc về kinh tế (đứng thứ 2-3 thế giới trong năm 2010) và sự suy
yếu của kinh tế Mỹ đã tạo ra cục diện chiến lược mới. Từ khi phát động
chiến tranh Iraq đến nay, tỉ trọng của Mỹ trong nền kinh tế thế giới từ đỉnh
cao 35% năm 203 tuột xuống còn khoảng 24% hiện nay. Trong một thế giới
mà kinh tế thị trường chiếm thế thượng phong, quyền lực quốc tế dường như
cũng diễn biến theo hướng "cổ phần hóa". Trung Quốc vươn lên trở thành
một thế lực thực sự trên bàn cờ chính trị quốc tế.
“Cơn sóng thần” từ Trung Quốc sẽ càn quét thị
trường thế giới trong năm 2011?
Trong khi đó, nhóm BRIC (gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc nay có
thể thêm Nam Phi) đã khẳng định vai trò của họ trong đời sống toàn cầu
ngay trong hiện tại thay vì hai thập kỷ sau như trong dự báo của Hội đồng
Tình báo quốc gia của Mỹ (NIC). Và cả G20 cũng nổi lên lấn át vị thế của
G7-G8 mới mặc dù có Mỹ tham gia. Dẫu vẫn còn đó siêu cường Mỹ, nhưng
sức mạnh của chú Sam đã giảm vì còn phải căng mình cho hai cuộc chiến ở
Iraq và Afghanistan. Tuy rút lực lượng chiến đấu khỏi Iraq từ ngày
19/8/2010, nhưng Mỹ vẫn đang mang gánh nặng an ninh ở đất nước vùng
Vịnh này.
Trên bình diện chính trị và an ninh quốc tế, cuộc chơi quyền lực toàn cầu
vẫn do các cường quốc cầm trịch. Cuộc cạnh tranh địa chính trị giữa các
nước lớn vẫn tiếp diễn. Những nước mới nổi lên vươn tới những vùng đất
châu Phi, Mỹ Latinh và cả châu Á để tìm kiếm nguyên, nhiên liệu phục vụ
cho sự phát triển của họ. Các nước đã hoặc có thể bị mất những vùng ảnh
hưởng tìm cách trấn giữ hoặc giành giật vì những mục tiêu năng lượng và cả
mục tiêu an ninh. Nhưng các cường quốc còn có những quan hệ "đối tác",
"chiến lược", có thể thỏa thuận, chia sẻ quyền lực mà đôi khi hy sinh cả lợi
ích của các nước nhỏ có liên quan.
Hội nghị các bộ trưởng tài chính
nhóm G20 nhóm họp tại Hàn Quốc
từ 21 đến 23/10/2010.
Lịch sử đã nhiều lần chứng kiến chuyện đó. Vấn đề là các nước nhỏ cần phải
vươn lên, phải khôn ngoan mới khẳng định vị thế của mình trên trường quốc
tế trong cục diện mới. Trong bối cảnh này, đây là cơ hội và cũng là thách
thức đối với các nước đang phát triển.
Chủ nghĩa đa phương ngày càng chiếm thế chủ đạo trong đời sống quốc tế.
Liên Hiệp Quốc (LHQ) mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng tiếp tục được nhiều
nước trên thế giới tích cực tham gia Trong năm 2010, LHQ đã đạt được
nhiều thành công, từ thúc đẩy đa dạng sinh học đến hỗ trợ bầu cử ở Iraq và
Afghanistan.
Cuộc chạy đua vũ trang trên phạm vi toàn cầu vẫn tiếp diễn phức tạp. Các
nước vẫn muốn giành ưu thế quân sự, mặc dù cả Mỹ và Nga đã thông qua
Hiệp ước START mới về cắt giảm tên lửa đạn đạo. Mỹ vẫn là nước dẫn đầu
cuộc chạy đua vũ trang trên thế giới, chiếm hơn một nửa tổng chi phí quân
sự của toàn cầu. Ngân sách quân sự Mỹ liên tục phá kỷ lục, năm 2010 tiêu
tốn trên 600 tỉ USD! Vấn đề hạt nhân và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt
gây tranh cãi vẫn là mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh quốc tế.
Cuộc chiến tại Iraq, Afghanistan và cuộc xung đột đẫm máu ở Trung Đông,
Nam Á, châu Phi… chưa chấm dứt. Hòa bình Trung Đông vẫn là khát vọng
của người Arập và người Do Thái, nhưng trái khoáy là ở chỗ họ vẫn chưa
tìm được tiếng nói chung. Lục địa Đen vẫn còn rối ren với nhiều cuộc xung
đột và hậu quả của các cuộc nội chiến…
Cuộc chiến chống khủng bố vẫn tiếp diễn với nhiều vụ đánh bom, phá hoại
kinh hoàng ở Nga, châu Âu, Mỹ, Iraq, Ấn Độ, Thái Lan, Philippines…, đặc
biệt là ở Pakistan. Chủ nghĩa cực đoan núp dưới bóng của tôn giáo, dân tộc
vẫn là mối đe dọa đối với an ninh nhiều nước
Cục diện thế giới mới vẫn chưa ổn định và chưa cân bằng. Chính vì vậy,
những nguy cơ xung đột, cạnh tranh vẫn còn là một đe dọa tới hòa bình và
phát triển của thế giới