Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Rèn luyện năng lực tạo lập vản bản cho học sinh trong dạy học bài thao tác lập luận bình luận (SGK ngữ văn lớp 11)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.03 KB, 66 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGƢ̃ VĂN
**********

LÊ THỊ TUYẾT NHUNG

RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TẠO LẬP
VĂN BẢN CHO HỌC SINH TRONG
DẠY HỌC BÀI: “THAO TÁC LẬP
LUẬN BÌNH LUẬN” (SGK NGỮ VĂN
LỚP 11)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
ThS. Dƣơng Thị Mỹ Hằng

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hình thành dưới sự chỉ bảo giúp đỡ tận tình của cơ
ThS.Dương Thị Mỹ Hằng. Em xin được gửi tới cô lời cảm ơn chân thành.
Em cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ môn Phương
pháp giảng dạy, các thầy,các cô trong khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong q trình làm khóa luận.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Lê Thị Tuyết Nhung



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Dương Thị
Mỹ Hằng.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này trung thực và chưa từng được cơng bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Lê Thị Tuyết Nhung


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GV

: Giáo viên

HS

: Học sinh

NXB

: Nhà xuất bản

THPT


: Trung học phổ thông

SGK

: Sách giáo khoa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu :.................................................................. 8
4. Đối tượng, Phạm vi nghiên cứu .................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 9
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 9
7. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 9
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC THEO ĐỊNH
HƢỚNG TIẾP CẬN NĂNG LỰC ............................................................... 10
1.1. Năng lực ................................................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm năng lực ............................................................................... 10
1.1.2. Phân loại năng lực ................................................................................. 12
1.2. Năng lực tạo lập văn bản. ......................................................................... 14
1.3. Dạy làm văn theo hướng tiếp cận năng lực.............................................. 14
1.4. Bình luận, thao tác và thao tác lập luận bình luận trong văn nghị luận ......... 16
1.4.1. Một số khái niệm cơ bản.......................................................................... 16
1.4.2. Thao tác lập luận bình luận trong văn nghị luận................................... 18
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG DẠY HỌC BÀI “THAO TÁC LẬP LUẬN
BÌNH LUẬN” TRONG TRƢỜNG THPT HIỆN NAY............................. 22
2.1 Về phía người dạy ..................................................................................... 22
2.1.1. Cách thức khảo sát ................................................................................ 22

2.1.2. Kết quả khảo sát .................................................................................... 23
2.1.3. Nhận xét chung ..................................................................................... 24
2.2. Về phía người học .................................................................................... 25


2.2.1. Cách thức khảo sát ................................................................................ 25
2.2.2 Kết quả điều tra : .................................................................................... 26
2.2.3 Nhận xét chung ...................................................................................... 26
2.3. Về nội dung dạy học ................................................................................ 27
Chƣơng 3 : ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TẠO
LẬP VĂN BẢN KHI DẠY HỌC HỌC BÀI “THAO TÁC LẬP LUẬN
BÌNH LUẬN” ................................................................................................ 30
3.1. Định hướng về dạy học bài Thao tác lập luận bình luận: ...................... 30
3.1.1 Xác định năng lực cần rèn luyện khi dạy học bài “Thao tác lập luận bình
luận” ................................................................................................................ 30
3.1.2. Xây dựng mục tiêu kiến thức khi dạy bài “Thao tác lập luận bình luận”
theo hướng phát triển năng lực tạo lập văn bản. ............................................. 33
3.1.3 Lựa chọn nội dung dạy học theo định hướng tiếp cận năng lực ........... 34
3.1.4 Lựa chọn phương pháp dạy học bài “Thao tác lập luận bình luận” để
rèn luyện năng lực tạo lập văn bản cho học sinh. ........................................... 36
3.2. Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện năng lực tạo lập văn bản cho học
sinh khi dạy học bài “Thao tác lập luận bình luận” ........................................ 38
3.2.1. Hệ thống bài tập .................................................................................... 38
3.2.2. Quy trình rèn luyện năng lực tạo lập văn bản trong quá trình dạy học
bài “Thao tác lập luận bình luận”.................................................................... 47
KẾT LUẬN .................................................................................................... 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Việt Nam là một đất nước đang trên đà phát triển. Đất nước ln
tích cực đổi mới trên tất cả các mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa… Và
đặc biệt giáo dục đã có những bước đổi mới tích cực. Mới đây, theo NQ 29
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, toàn bộ chương trình học của học
sinh THPT sẽ được đổi mới theo hướng tiếp cận năng lực. Trước yêu cầu
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước, trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học cơng nghệ và khoa học giáo dục ; trước những đòi hỏi hội nhập quốc tế,
đòi hỏi người giáo viên cần phải có hiểu biết đúng đắn để thực thi nhiệm
vụ của mình.
1.2. Chương trình SGK hiện hành đã bộc lộ một số hạn chế bất cập, đặc
biệt là trong vấn đề rèn luyện năng lực tạo lập văn bản cho mỗi học học sinh.
Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định : Phải
chuyển đổi và căn bản toàn bộ nền giáo dục từ chủ yếu nhằm trang bị kiến
thức sang phát triển phẩm chất và năng lực người học, biết vận dụng tri thức
vào giải quyết vấn đề thực tiễn; chuyển nền giáo dục nặng về chữ nghĩa, ứng
thí sang nền giáo dục tự học, thực nghiệm. Từ đó địi hỏi phải xây dựng
chương trình với những đổi mới căn bản, toàn diện về mục tiêu, nội dung,
phương hướng và hình thức dạy học, thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo
dục và quản lý, thực hiện chương trình.
Triển khai kiến thức theo hướng năng lực, nghĩa là chú ý tới đầu ra cần
đạt. Kết quả đầu ra cần đạt là điểm bắt đầu để xác định, lựa chọn,tổ chức các
kinh nghiệm học tập có ý nghĩa.Từ đó,chương trình phát triển năng lực xác
định năng lực cần cho cuộc sống và tham gia có hiệu quả trong xã hội mà

1


người học cần đạt,các nguyên tắc để xác định các kiểu kinh nghiệm mà sẽ

giúp học sinh đạt được các năng lực này.
Theo khảo sát thực tế, với phương pháp giảng dạy tiếp cận theo hướng
nội dung như hiện nay chỉ giúp học sinh biết gì, nhớ gì chứ chưa thực sự
chạm tới vấn đề biết phải làm gì? Học sinh chỉ nhớ lý thuyết chứ trong thực
tiễn lập luận bình luận thì học sinh lúng túng chưa biết làm. Cho một đề mới
mẻ, các em không biết lập luận bình luận như thế nào dẫn đến kết quả chưa
cao. Với chương trình tiếp cận nội dung, kĩ năng học sinh còn hạn hẹp trong
một vấn đề quen thuộc chứ chưa thành thạo trong một vấn đề mới. Trên thực
tế hiện nay, các em học sinh hoàn toàn thụ động trước một tình huống cần
bình luận. Các em chưa tạo lập được cho mình cuộc hội thoại bình luận đúng,
đủ và sâu sắc. Có thể thấy, trong tình huống cụ thể có sự hướng dẫn, giải đáp
của giáo viên, các em hồn tồn có thể bình luận tốt nhưng trong những
trường hợp thực tế cụ thể, các em còn lung túng, chưa biết bình luận. Ngược
lại với đó, cũng có một số giáo viên chưa thực sự truyền được hứng thú học
cách bình luận cũng như truyền được kiến thức, kĩ năng bình luận cho học
sinh để học sinh vận dụng từ lý thuyết vào thực tiễn.Với việc lựa chọn đề tài
này, chúng tơi mong muốn sẽ góp một phần nghiên cứu nhỏ cho ứng dụng
thực tiễn đổi mới giáo dục, làm cho việc dạy và học ở chương trình THPT
được hiệu quả hơn
1.3. Mặt khác, với cương vị là một sinh viên sư phạm, là một giáo viên
dạy văn trong tương lai, thực tế, cũng đã,đang và sẽ tiếp thu, đón nhận
chương trình đổi mới giáo dục năm 2015 đã thôi thúc tôi lựa chọn và nghiên
cứu đề tài. Qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi sẽ được trang bị kiến thức
vững chắc để đảm đương công việc dạy học sau này.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài
“Rèn luyện năng lực tạo lập văn bản cho học sinh trong dạy học bài
2


"Thao tác lập luận bình luận" (SGK Ngữ văn lớp 11)” với mong muốn

được góp một tiếng nói vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học Làm văn,
hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng dạy học Làm văn ở cấp Trung học
phổ thơng.
2. Lịch sử vấn đề
Chương trình dạy học theo hướng tiếp cận năng lực đã được quan tâm
và đề cập tới ở các nước Châu Âu nhiều năm qua.
Những năm đầu của thế kỉ XXI, các nước trong khối EU đã bàn luận
rất sôi nổi về năng lực cơ bản và tuyên bố : “ Để chuẩn bị cho thế hệ trẻ thành
công khi đối mặt với những thử thách của xã hội thông tin và nhận được tối
đa từ lợi ích từ những cơ hội mà xã hội đó đã tạo ra, đã trở thành mục tiêu
quan trọng của hệ thống giáo dục Châu Âu. Nó định hướng cho sự thay đổi
chính sách giáo dục, xem xét lại nội dung chương trình và phương pháp dạyhọc. Điều đó càng làm gia tăng sự chú ý đến năng lực cơ bản, cụ thể là
những năng lực hướng vào cuộc sống, với mục đích suốt đời tham gia xã hội
một cách tích cực”.
Ở nước ta,thuật ngữ quan điểm năng lực là một thuật ngữ mới được
biết đến và sử dụng rộng rãi do yêu cầu của sự đổi mới giáo dục Việt Nam
năm 2015. Do là một quan điểm mới mẻ nên nó được nhiều nhà nghiên cứu,
nhà soạn sách quan tâm tới. Cùng với đó là nhiều cuộc hội thảo, họp bàn được
mở ra để bàn về vấn đề này.
Trong cuốn “Tâm lý học đại cương” do Đinh Thị Kim Thoa chủ biên,
có nhận định về năng lực như sau : “Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc
đáo của cá nhân, phù hợp với yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo
cho hoạt động đó có hiệu quả”
Ở giác độ giáo dục học, tác giả DeseCo nhận định về năng lực như sau:
“Năng lực là một hệ thống các cấu trúc tinh thần bên trong và khả năng huy
3


động các kiến thức,kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hành thái độ, cảm
xúc,giá trị,đạo đức, động lực của một người để thực hiện thành công các hoạt

động trong bối cảnh cụ thể.” Như vậy ở giác độ này,năng lực là sự tích hợp
và kết nối nhu cầu bên ngồi(u cầu bối cảnh, tình huống cụ thể) với các đặc
điểm cá nhân (kiến thức, kĩ năng, thái độ) để thực hiện thành công các nhiệm
vụ thực tiễn.
PGS.TS Đỗ Việt Hùng, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, có bài viết “
Dạy- học Tiếng Việt trong nhà trường theo hướng phát triển năng lực”đăng
tải trên trang chủ của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã khẳng định: “Giáo
dục phải hướng tới việc người học làm được gì ? mà khơng hướng tới mục
tiêu Người học biết gì ?Đây phải là quan điểm xuyên suốt CT và nội dung dạy
- học Tiếng Việt và Ngữ văn. Đối với phần Tiếng Việt, quan điểm này càng
phải đề cao và tuân thủ triệt để, vì mục tiêu cuối cùng của mơn học này là
làm cho người học sử dụng được và sử dụng hiệu quả tiếng Việt như một
công cụ giao tiếp quan trọng nhất trong đời sống. … Hướng tới việc hình
thành và phát triển năng lực cho học sinh không chỉ tạo ra được tính thực
tiễn cao của việc dạy - học Tiếng Việt trong nhà trường mà chính là một “lối
thốt” quan trọng, khắc phục tính “hàn lâm” của nội dung dạy học môn
Tiếng Việt”. Trong bài,tác giả nhấn mạnh việc đổi mới chương trình theo
hướng tiếp cận năng lực là đúng đắn, đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò và
mối quan hệ giữa giữa năng lực chung và năng lực đặc thù.
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, với bài viết : “ Xây dựng chương trình giáo
dục phổ thơng theo định hướng tiếp cận năng lực”, đăng tải ngày 15-5-2012
trên báo Tia Sáng cũng có quan điểm về chương trình tieps cận năng lực của
đổi mới giáo dục : “CT tiếp cận năng lực thực chất vẫn là cách tiếp cận kết
quả đầu ra. đầu ra của cách tiếp cận này tập trung vào hệ thống năng lực cần
có ở mỗi người học. CT tiếp cận theo hướng này chủ trương giúp HS không

4


chỉ biết học thuộc, ghi nhớ mà còn phải biết làm thông qua các hoạt động cụ

thể, sử dụng những tri thức học được để giải quyết các tình huống do cuộc
sống đặt ra. Nói cách khác phải gắn với thực tiễn đời sống. CT truyền thống
chủ yếu yêu cầu HS trả lời câu hỏi: Biết cái gì? CT tiếp cận theo năng lực
luôn đặt ra câu hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết?” Như vậy, có thể
thấy, nhận định của PGS.Ts Đỗ Ngọc Thống có nét tương đồng với quan
điểm của PGS.TS Đỗ Việt Hùng.
Trong bài viết: “Ứng dụng cách tiếp cận năng lực chung - một phương
pháp mới xác định danh mục năng lực cần thiết đối với chuyên viên ngân
hàng”, hai tác giả Lê Kim Long và Phạm Minh Trí, giảng viên đại học Nha
Trang đã nhận định : “Dẫu có sự khác nhau nhưng hầu hết các khái niệm đều
có chung một số quan điểm như: Năng lực bao gồm một loạt các kiến thức,
kỹ năng, thái độ hay các đặc tính cá nhân khác cần thiết để thực hiện công
việc thành công. Bên cạnh đó, những yếu tố này phải được quan sát hay đo
lường và có sự phân biệt giữa những người biểu hiện tốt nhất so với những
người khác.
Tóm lại, năng lực được xem như là những phẩm chất tiềm tàng của
một cá nhân và địi hỏi của cơng việc để thực hiện công việc thành công.
Năng lực được hiểu là một tập hợp các kiến thức, kỹ năng và thái độ hay
các phẩm chất cá nhân khác (động cơ, nét tiêu biểu, ý niệm về bản thân,
mong muốn thực hiện…) mà tập hợp này là thiết yếu và quan trọng của
việc hình thành những sản phẩm đầu ra.”
Trên đây là những nhận định về năng lực và chương trình phát triển
năng lực của một số tác giả, một số nhà nghiên cứu.
Bên cạnh đó, chứng tơi cũng xem xét các tài liệu bàn về thao tác lập
luận bình luận. Bình luận là một kĩ năng quan trọng của làm văn nghị luận
ở nhà trường và rèn luyện kĩ năng bình luận cho học sinh là một vấn đề các
nhà nghiên cứu quan tâm.
5



Cuốn sách thứ nhất tiêu biểu viết về kĩ năng bình luận là “Lí luận
văn học” do Phương Lựu chủ biên. Trong cuốn sách này, tác giả Phương
Lựu cùng một số tác giả khác đã nói đến bình luận với tư cách là một dạng
thức của lập luận. Theo đó các tác giả cho rằng : “Bình luận là đánh giá,
xem xét cái đúng, cái sai, mặt hay, mặt dở (tức là bình) của một hiện
tượng, một sự vật, một quan niệm.. Đồng thời đào sâu, mở rộng thêm
(luận) nhằm phát huy những mặt tích cực ngăn ngừa những mặt tiêu cực,
sai trái” [9,444]. Khơng chỉ vậy,các tác giả cịn chỉ ra rằng bình luận cịn
liên đới với cả chứng minh, giải thích và phân tích.
Trong cuốn “Làm văn nghị luận như thế nào” của nhà xuất bản Nghệ
Tĩnh cũng nói đến bình luận là một trong ba kiểu bài nghị luận cơ bản cũng
giống quan điểm của các tác giả trong cuốn “Lý luận văn học”, các tác giả
trong cuốn “Làm văn nghị luậnnhư thế nào” cũng nêu lên bản chất của
bình luận nhưng đã có sự mở rộng và yêu cầu sự cụ thể hơn đối với bài văn
bình luận : “ Bình luận là kiểu bài nghị luận địi hỏi người viết phải xác
định cơng khai luận đề đúng hay sai, đúng sai ở chỗ nào, vì sao lại đúng
sai như thế…Kiểu bài bình luận ln ln nêu yêu cầu nâng cao vấn đề,
mở rộng vấn đề,từ vấn đề này bàn sang vấn đề khác có liên quan. Phải lật
xi lật ngược vấn đề, rào đón những thắc mắc của người đọc, người nghe
kiên quyết đấu tranh, gạt bỏ những nhận thức sai trái,có hạn; khẳng định
những nhận thức đúng đắn” [20,22].
Các tác giả Lê A, Nguyễn Trí trong cuốn “Làm văn” mặc dù khơng
trực tiếp nói về thao tác lập luận bình luận nhưng đã có nói đến bình luận
trên phương diện là một kiểu bài văn nghị luận cụ thể. Theo đó, Lê A,
Nguyễn Trí đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản của văn nghị luận và đưa ra
phương pháp làm bài bình luận đối với cả bài bình luận xã hội và bình luận

6



văn học. Điều này đã giúp ích rât lớn cho giáo viên và học sinh trong quá
trình dạy học văn.
Trong SGK Ngữ văn 11 tập 2, bộ cơ bản, các tác giả Phan Trọng
Luận, Trần Đăng Suyền, Lê A đã thống nhất đưa ra khái niệm bình luận
như sau : “Bình luận nhằm đề xuất và thuyết phục người đọc (người nghe)
tán đồng với nhận xét, đánh giá, bàn luận của mình về một hiện tượng (vấn
đề) trong đời sống hoặc trong văn học” [12,73]. Từ khái niệm đó, các tác
giả đã đưa ra cách bình luận thường gặp nhất để giáo viên và các em học
sinh tham khảo. Thao tác lập luận bình luận khơng chỉ có mặt trong các
kiểu bài mà thao tác này cịn có mối liên hệ mật thiết với các thao tác khác:
phân tích, so sánh, bác bỏ.. quan điểm này hoàn toàn phù hợp với thực tế
viết văn lại vừa tạo điều kiện để luyện tập cho học sinh biết cách sử dụng
thao tác lập luận trong suốt quá trình học văn nghị luận từ THCS đến
THPT và ứng dụng vào việc học tập cũng như trong cuộc sống.
Tựu chung lại, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu đều đồng ý với việc
đổi mới chương trình, đổi mới SGK, đổi mới cách dạy, cách học, cách kiểm
tra, đánh giá… Tuy nhiên, để thực hiện được thì nó cịn địi hỏi phải có sự
phù hợp với đặc điểm tình hình của quốc gia hiện nay. Có thể khẳng định đổi
mới chương trình theo hướng tiếp cận năng lực chính là chìa khóa để mở ra
một thời đại mới cho nền giáo dục nước nhà.Tuy nhiên, các cơng trình nghiên
cứu chưa đưa ra một bài dạy lý thuyết cụ thể nào theo định hướng phát triển
năng lực. Vì thế, chúng tơi thấy cần thiết đi sâu nghiên cứu đề tài : “Rèn
luyện năng lực tạo lập văn bản cho học sinh trong dạy học bài "Thao tác
lập luận bình luận (Ngữ văn 11)" với hy vọng góp một phần tiếng nói, đưa
ra giải pháp hữu ích cho hướng dạy-học mới này để nâng cao chất lượng dạy
Làm văn ở cấp THPT

7



3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu :
3.1.Ngƣời viết thực hiện đề tài này với mục đích:
- Rèn luyện năng lực tạo lập văn bản cho học sinh cụ thể là việc sử
dụng thao tác lập luận bình luận để tạo lập văn bản nghị luận
- Đề xuất định hướng cụ thể khi dạy bài “ Thao tác lập luận bác bỏ”
SGK lớp 11 theo hướng tiếp cận năng lực để nâng cao năng lực vận dụng kĩ
năng đưa lí thuyết vào thực tế của học sinh, nâng cao hiệu quả giờ làm văn.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, khóa luận cần có những nhiệm
vụ sau :
- Trình bày hệ thống kiến thức về thao tác lập luận bình luận
- Vận dụng những tri thức đó vào việc thực hiện dạy học “Thao tác lập luận
bình luận” trong SGK Ngữ văn lớp 11.
- Đánh giá hiệu quả của việc vận dụng các tri thức đó vào dạy học.
4. Đối tƣợng, Phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về dạy học
Làm văn theo định hướng phát triển năng lực học sinh và việc triển khai rèn
luyện năng lực tạo lập văn bản trong dạy học bài “Thao tác lập luận bình
luận” theo hướng phát triển năng lực.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Trong phạm vi cho phép của đề tài, chúng tôi tìm hiểu về dạy học một
bài lí thuyết làm văn theo hướng tiếp cận năng lực.
- Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, chúng tơi tiến hành thiết kế, kế
hoạch

bài “ Thao tác lập luận bình luận” SGK 11 theo định hướng tiếp cận

năng lực.


8


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
-Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp thực tiễn
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp thống kê, khảo sát
6. Đóng góp của khóa luận
* Về mặt lý luận :
Khóa luận tập trung trình bày cơ sở lý luận về thao tác lập luận bình
luận ở các phương diện khái niệm, đặc điểm, vai trò, cách thức thực hiện thao
tác lập luận bình luận trong văn bản nghị luận.
* Về mặt thực tiễn :
Khóa luận này góp một phần vào việc tìm ra những hướng dạy học nội
dung này đạt hiệu quả, đồng thời cũng giúp cho học sinh có đủ kiến thức và tự
tin khi sử dụng thao tác lập luận bình luận cũng như khi vận dụng kết hợp
thao tác lập luận này với các thao tác lập luận khác trong quá trình tạo lập văn
bản nghị luận.
7. Bố cục khóa luận
- Mở đầu
- Nội dung
+ Chương 1 : Cơ sở lí luận
+ Chương 2 : Thực trạng dạy học bài “Thao tác lập luận bình luận”
trong trường THPT hiện nay
+Chương 3 : Giải pháp rèn luyện năng lực tạo lập văn bản cho học sinh
trong dạy học bài “Thao tác lập luận bình luận” ( SGK Ngữ văn lớp 11 )
- Kết luận

9



Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC THEO ĐỊNH
HƢỚNG TIẾP CẬN NĂNG LỰC
1.1 Năng lực
1.1.1 Khái niệm năng lực
Bước sang thế kỉ XXI, thế giới với những biến đổi liên tục và khôn
lường. Để thế hệ trẻ có thể sẵn sàng đối mặt với cuộc sống hiện đại địi hỏi
“cốt nhiều hơn căn” thì vấn đề năng lực lại được chú trọng hơn bao giờ hết.
Trên thực tế vẫn còn tồn tại khá nhiều trường hợp học sinh, sinh viên thiếu
năng lực hay chưa biết vận dụng những kiến thức được học trong trường lớp
vào thực tế cuộc sống. Điều này gây nguy hại rất lớn cho tương lai hội nhập
và phát triển của một đất nước đang trong đà cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước như ở Việt Nam. Chính vì thế, giáo dục Việt Nam đã có bước đổi
mới khi hướng đến cách dạy-học theo định hướng phát triển năng lực học
sinh. Đây là vấn đề khá mới mẻ và mang tính thời sự cao trong khoa học giáo
dục, được các nhà tâm lý học,giáo dục học nghiên cứu,tìm hiểu.
Năng lực được hiểu ở nhiều phương diện với những cấp độ khác nhau.
Riêng định nghĩa về năng lực đã có rất nhiều cách hiểu, quan niệm khác nhau
tùy thuộc vào từng lĩnh vực (tâm lí, giáo dục, xã hội học…)
Theo từ điển Tiếng Việt, năng lực được định nghĩa: “Năng lực là khả
năng làm việc tốt nhờ có đạo đức và trình độ chun môn”
Tại Hội nghị chuyên đề về những năng lực cơ bản của Hội đồng châu
Âu, sau khi phân tích nhiều định nghĩa về năng lực, F.E. Weinert (OECD,
2001b, p.45) kết luận: Xuyên suốt các môn học “năng lực được thể hiện như
một hệ thống khả năng, sự thành thạo hoặc những kĩ năng thiết yếu, có thể
giúp con người đủ điều kiện vươn tới một mục đích cụ thể”. Cũng tại diễn đàn
này, J. Coolahan (UB châu Âu 1996, p 26) cho rằng: “năng lực được xem như
10



là “những khả năng cơ bản dựa trên cơ sở tri thức, kinh nghiệm, các giá trị
và thiên hướng của một con người được phát triển thông qua thực hành GD”.
Theo quan niệm của chương trình giáo dục phổ thơng của Quecbec
(Canada) thì: “Năng lực là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến
thức, kĩ năng với thái độ tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân…nhằm đáp ứng
hiệu quả một yêu cầu phức hơp của hoạt động trong bối cảnh nhất định”. Với
cách hiểu này thì việc học sinh chỉ có kiến thức, kĩ năng và thái độ khơng
được xem như là có năng lực mà cả ba yếu tố này phải được người học vận
dụng trong một tình huống nhất định thì mới phát triển hình thành năng lực.
Ở góc độ tâm lý học, nhiều tác giả có quan niệm chung về năng lực
như sau: “Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp
với yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có
hiệu quả”
Ở góc độ tâm lý học, nhiều tác giả có quan niệm chung về năng lực
như sau: “Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp
với yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có
hiệu quả”
Như vậy, theo như góc độ này, năng lực bao gồm các thuộc tính tâm lý
và sinh lý tương ứng với những đòi hỏi của một hoạt động nhất định, trong
một bối cảnh, tình huống nhất định chứ nó khơng phải là tất cả thuộc về
tâm,sinh lý của con người. Năng lực khơng phải là khả năng sinh ra đã có, nó
là kết quả tích cực của q trình lĩnh hội và rèn luyện tri thức trong quá trình
hoạt động và giao tiếp.
Ở giác độ giáo dục học, năng lực được quan niệm:“Năng lực là một hệ
thống các cấu trúc tinh thần bên trong và khả năng huy động các kiến thức,kỹ
năng nhận thức, kỹ năng thực hành thái độ, cảm xúc,giá trị,đạo đức, động lực
của một người để thực hiện thành công các hoạt động trong bối cảnh cụ thể.”

11



Như vậy, giác độ này, năng lực là sự tích hợp và kết nối nhu cầu bên
ngoài (yêu cầu của bối cảnh, tình huống cụ thể) với các đặc điểm cá nhân
(kiến thức, kĩ năng nhận thức, thực hành và t hái độ, cảm xúc, đạo đức) để
thực hiện thành cơng các nhiệm vụ thực tiễn. Và từ đó khẳng định, các đặc
điểm cá nhân có thể hình thành và phát triển thơng qua q trình giáo dục,
hoạt động và giao tiếp xã hội.
Dù là ở lĩnh vực nào, ta đều thấy quan niệm về năng lực của các nhà
nghiên cứu là hội tụ đủ ba yếu tố: kiến thức, kĩ năng và thái độ. Nói đến năng
lực là nói đến khả năng thực hiện biết và làm chứ không phải biết và hiểu.
Đã có khơng ít trường hợp nhầm lẫn giữa năng lực với trí thức,kĩ năng
và kĩ xảo. Cần phải có cái nhìn đúng đắn giữa các khái niệm này.
Năng lực,tri thức, kĩ năng, kĩ xảo đều là kết quả của quá trình luyện tập,
rèn luyện, lĩnh hội tri thức. Tuy nhiên chúng có những nét khác nhau.
Tri thức là những hiểu biết thu nhận được từ sách vở, từ học hỏi và từ
kinh nghiệm cuộc sống của mình.
Kĩ năng là khả năng chuyển kiến thức thành hành động mà kết quả đạt
được như mong muốn.Kỹ năng là sự vận dụng bước đầu những kiến thức thu
lượm vào thức tế để tiến hành một hoạt động nào đó.
Kỹ xảo là những kỹ năng được lặp đi lặp lại nhiều lần đến mức thuần thục
cho phép con người không phải tập trung nhiều ý thức và việc mình đang làm.
Còn năng lực là một tổ hợp phầm chất tương đối ổn đinh, tương đối cơ
bản của cá nhân, cho phép nó thực hiện có kết quả một hoạt động, do đó
người có trình độ học vấn cao. Năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo có mối
quan hệ mật thiết và gắn bó với nhau. Năng lực tư duy sẽ khơng được hình
thành nếu tri thức, kĩ năng kĩ xảo khơng có hoặc hình thành ở bậc thấp.
1.1.2. Phân loại năng lực
Do cách định nghĩa, quan niệm khác nhau còn tùy thuộc vào từng lĩnh
vực nên việc phân loại năng lực còn nhiều phức tạp. Dựa vào chương trình

12


tiếp cận theo hướng năng lực của mỗi các nước, có thể thấy năng lực được
phân chia thành hai loại: Năng lực chung (general competence) và năng lực
chuyên biệt (subject- specific competencies).
Năng lực chung là năng lực cơ bản và thiết yếu giúp cá nhân có thể
sống, làm việc và tham gia hiệu quả trong nhiều hoạt động và bối cảnh khác
nhau của đời sống xã hội như năng lực nhận thức, năng lực trí tuệ, năng lực
giao tiếp, năng lực về ngơn ngữ và tính tốn.Các năng lực này được hình
thành và phát triển dựa trên bản năng di truyền của con người, quá trình giáo
dục và trải nghiệm trong cuộc sống, đáp ứng yêu cầu của nhiều loại hình hoạt
động khác nhau.
Năng lực chung gồm 9 năng lực sau:
- Tự học;
- Giải quyết vấn đề
- Sáng tạo;
- Tự quản lý;
- Giao tiếp;
- Hợp tác;
- Sử dụng công nghệ thơng tin;
- Sử dụng ngơn ngữ;
-Tính tốn.
Năng lực chung hết sức quan trọng, đó chính là kĩ năng tối thiểu mà
một con người có thể sống hịa đồng và phát triển trong một cộng đồng.
Năng lực chuyên biệt là những năng lực được hình thành và phát triển
trên cơ sở các năng lực chung theo hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các
loại hình hoạt động, cơng việc hoặc tình huống đặc thù, đáp ứng yêu cầu cao
và sâu hơn của một mơn học/hoạt động nào đó.
Năng lực chung và năng lực chun biệt tuy có sự phân biệt rạch rịi

nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có sự bổ sung cho nhau.
13


Trong mơn Tiếng Việt và Làm văn đảm nhận, có năng lực chung là
sáng tạo và năng lực riêng là năng lực tiếp nhận và năng lực tạo lập văn bản…
Trong đề tài này, chúng tôi đi sâu vào năng lực chuyên biệt cần rèn luyện cho
học sinh khi dạy học bài “Thao tác lập luận bình luận” đó là năng lực tạo lập
văn bản.
1.2. Năng lực tạo lập văn bản.
Văn bản là một chỉnh thể trên câu, gồm một chuỗi các câu, đoạn được
nói bằng miệng (ngơn bản) hay được ghi lại bằng chữ viết (ngơn bản viết), có
tính thống nhất về đề tài, tư tưởng, tình cảm, mục đích, có tính hồn chỉnh về
hình thức,tính liên kết mạch lac và vận dụng phương thức biểu đạt phù hợp để
thực hiện mục đích giao tiếp.
Năng lực tạo lập văn bản chính là khả năng tự tạo nên một chỉnh thể
văn bản đạt được mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp rõ ràng và có thái độ
của người giao tiếp.
1.3. Dạy làm văn theo hƣớng tiếp cận năng lực
Tiếp cận nội dung (content-based approach) là cách học truyền thống
của nền giáo dục nước nhà, là cách nêu ra danh mục chủ đề của tác phẩm nào
đó. Cách tiếp cận này chủ yếu xác định và trả lời câu hỏi : Chúng ta muốn
người học cần biết cái gì ? Cách tiếp cận này thường mang tính “hàn lâm”
nặng về nội dung lý thuyết, ít mang tính ứng dụng thực tế.
Tiếp cận năng lực (outcome-based approach) là cách tiếp cận nêu rõ kết
quả - những khả năng mà người học mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai
đoạn học tập trong nhà trường ở một môn học cụ thể. Cách học này nhằm trả
lời câu hỏi: Chúng ta muốn người học biết và có thể làm được những gì?
Tiếp cận năng lực chủ trương giúp người học không chỉ biết học thuộc,
ghi nhớ kiến thức một cách thông thường mà cịn phải biết vận dụng tri thức

đó vào thực tế để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra. Như vậy,việc
14


thay đổi dạy - học theo hướng tiếp cận nội dung sang hướng tiếp cận năng lực
là điều hoàn toàn cần thiết ở chương trình học của tất cả bộ mơn nói chung và
của phần Làm văn nói riêng.
Thực tế dạy học môn Làm văn trước đây là học theo hình thức đọcchép; nhìn-chép. Thường là thầy giảng, trị nghe ; thầy đọc, trò chép. Với cách
dạy này, học sinh thường bị động, chỉ biết nghe theo sự hướng dẫn của thầy
cơ mà khơng có sự sáng tạo, khơng kích thích được tồn bộ lối tư duy của học
sinh, làm học sinh khơng có khả năng tự học và thói quen tìm tri thức, làm
việc nhóm. Vì thế có thể thấy, nếu cứ dạy Làm văn theo hướng này thì khơng
phát huy được tính cảm nhận, tạo lập văn chương của học sinh trong thực tế,
làm cho môn văn càng trở nên nhàm chán, thiếu thú vị.
Dạy học làm văn ở cấp trung học phổ thơng mục đích giúp cho học
sinh có được những kĩ năng cơ bản trong giao tiếp, trong việc sử dụng ngôn
ngữ, câu văn, cú pháp hợp lý, đúng ngữ cảnh. Dạy học làm văn theo hướng
tiếp cận năng lực được thể hiện ở nội dung và phương pháp. Về nội dung, cần
đảm bảo nội dung bài dạy đầy đủ, chính xác và mang tính ứng dụng thực tế
cao. Về phương pháp, cần có phương pháp giảng dạy khoa học, gắn liền với
thực tế. Các phương pháp chính là: Phân tích lý thuyết, luyện tập theo mẫu và
cuối cùng là thực hành thực tế. Để học tốt Làm văn theo hướng tiếp cận năng
lực cần phải có sự rèn luyện vì thế phương pháp tập luyện theo mẫu một cách
lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ tạo ra những kĩ năng và từ đó hình thành nên năng
lực cho người học.
Dạy học Làm văn theo hướng tiếp cận năng lực chính là cách giúp cho
các em học sinh hình thành được kĩ năng để tạo lập văn bản sử dụng trong
thực tế cuộc sống, trong cách ứng xử, sử dụng lời nói ngơn ngữ phù hợp với
hoàn cảnh giao tiếp, hoàn thiện nhân cách bản thân.


15


1.4. Bình luận, thao tác và thao tác lập luận bình luận trong văn nghị luận
1.4.1. Một số khái niệm cơ bản
14.1.1. Khái niệm thao tác
Trong từ điển Tiếng Việt, thao tác được định nghĩa là: “Thực hiện
những động tác kĩ thuật để hồn thành một cơng việc gì đó.”
Về phương diện Tâm lí học, thao tác được coi là đơn vị nhỏ nhất của
hoạt động. khi hoạt động, chủ thể chỉ có thể đạt được mục đích bằng các
phương tiện trong điều kiện xác định. Mỗi phương tiện quy định cách thức
hành động. Cốt lõi của phương thức ấy chính là thao tác. Nó khơng có mục
đích riêng mà thực hiện mục đích hành động đồng thời phụ thuộc chặt chẽ
vào phương tiện điều kiện cụ thể.
1.4.1.2. Khái niệm bình luận
Theo từ điển tiếng Việt, bình luận được định nghĩa: “Bình luận là đưa
ra ý kiến đánh giá và bàn bạc về một vấn đề, hiện tượng nào đó.” Bình chính
là bình phẩm, bàn bạc vấn đề hay- dở, tốt- xấu còn luận là đưa ra những quan
điểm, lý lẽ từ đó trao đổi ý kiến với người đọc, người nghe. Bình luận do đó
được giảng nghĩa là “ bàn và đánh giá, nhận định về một tình hình, một vấn
đề nào đó”. Ví dụ bình luận thời sự, bình luận bóng đá, bình luận qn sự…
Bình luận đã trở thành hoạt động diễn ra thường xuyên của con người,
dù là trên lớp học, ngoài đồng ruộng hay ngay cả khi tham gia nghỉ ngơi, giải
trí.Đối tượng của bình luận rất đa dạng, phong phú nhưng điều quan trọng vẫn
là người bình luận cần thể hiện được quan điểm, đánh giá của mình về sự vật,
sự việc, hiện tượng được nói tới.
Bình luận khác với giải thích và chứng minh.
Bình luận là đề xuất và thuyết phục người đọc (người nghe) tán đồng
với một nhận xét, đánh giá, bàn luận của mình về một vấn đề nào đó trong đời
sống hoặc văn học.

16


Giải thích là dung lí lẽ (chủ yếu) và dẫn chứng (hỗ trợ) để giúp người
đọc, người nghe hiểu một vấn đề nào đó trong đời sống hoặc trong văn học.
Chứng minh là dung dẫn chứng (chủ yếu) và lí lẽ (hỗ trợ) để khiến cho
người đọc, người nghe tin một vấn đề nào đó trong đời sống hoặc trong văn
học.
Bình luận ngày càng có vị trí quan trọng khi công nghệ thông tin ồ ạt
lấn chiếm dần trong cuộc sống thường nhật của con người, tạo nên một kết
nối cộng đồng mạng lớn như facebook, youtube, các kênh báo mạng 24h.com,
tinn.vn… Hịa nhập với cơng nghệ,việc bình luận mọi vấn đề của cuộc sống,
xã hội càng trở nên quen thuộc và quan trọng với mỗi con người. Với mức độ
quan trọng ấy,việc xây dựng văn bản bình luận,bàn bạc,đánh giá vấn đề sao
cho khoa học và có văn hóa là một vấn đề thiết yếu cần được quan tâm.
1.4.1.3 Khái niệm văn nghị luận
Nghị luận là dạng thức cơ bản của văn học. Đó là việc bàn bạc, đánh
giá một vấn đề nào đó. Trong đó có các luận điểm và các dẫn chứng, lý lẽ
thuyết phục người nghe về quan điểm cá nhân đối với vấn đề đó.Văn nghị
luận là loại văn chương nghị sự, dùng luận cứ, luận chứng để phân tích rõ vấn
đề. Nói một cách khác, đó là tên gọi chung cho một thể loại vận dụng tư duy
logic như khái niệm, phán đoán, suy lí nêu sự việc trình bày lý lẽ, phân biệt
đúng sai và tiến hành phân tích luận chứng khoa học đối với hiện thực khách
quan,quy luật bản chất của sự vật, qua đó nhằm biểu đạt tư tưởng, chủ trương
ý kiến, quan điểm của người nói (người viết) với vấn đề nghị luận.
Như vậy,nghị luận là một kiểu văn bản trong đó người viết, người nói
đưa ra những lí lẽ dẫn chứng về một vấn đề để người đọc,người nghe hiểu,
tin,tán đồng với những ý kiến của mình và hành động theo những điều mình
đề xuất.


17


1.4.2. Thao tác lập luận bình luận trong văn nghị luận
Để trình bày một vấn đề, nội dung nào đó, người viết phải lựa chọn các
dẫn chứng cụ thể,các đơn vị ngơn ngữ để trình bày vấn đề. Q trình dùng
ngôn ngữ để diễn đạt ấy được gọi là lập luận. Khi tổ chức lập luận, người nói
người viết phải căn cứ vào mục đích lập luận, để từ đó chọn được cách trình
bày phù hợp. Việc chọn cách thức trình bày phải tuân theo các động tác kĩ
thuật hay cịn gọi là thao tác.
“Thao tác lập luận bình luận” là thuật ngữ được gọi theo đặc điểm hoạt
động tâm lý của con người. Nghị luận là một hoạt động thường xuyên của con
người, vì thế khi triển khai lập luận cho văn bản nghị luận sẽ chịu sự chi phối
của hoạt động tâm lý con người. Trong văn nghị luận, ngồi giải thích, chứng
minh, phân tích ý kiến, vấn đề nào đó, người viết cịn phải dung ngơn ngữ đưa
các lý lẽ dẫn chứng để bày tỏ quan điểm thái độ để người đọc, người nghe
hiểu hoặc tán đồng với ý kiến của mình. Đó được gọi là lập luận bình luận.
Bình luận là thao tác khơng thể thiếu trong văn nghị luận. Đó là cách
người viết, người nói dung lý lẽ, dẫn chứng để bàn bạc, đánh giá, phê bình,
nhận xét, tỏ thái độ bản thân về một sự kiện, một vấn đề nào đó và qua đó đi
đến những nhận định hoàn thiện,đúng đắn, sâu sắc về vấn đề đó. Đồng thời,
thơng qua việc bình luận, con người thể hiện được thái độ, tình cảm và tư duy
của cá nhân đối với bản thân sự việc. Như vậy, bình luận địi hỏi chúng ta vận
dụng tối đa năng lực tư duy, chống lại thái độ xem xét, tư duy một chiều dễ
dàng thoải mái với một số lập luận giản đơn.
Trong quá trình tạo lập văn bản, bình luận là thao tác được sử dụng với
tần suất lớn nhất trong các thao tác ở mọi lúc, mọi nơi. Chúng ta có thể bình
luận sau khi đã phân tích, tổng hợp nội dung của vấn đề, người ta cũng có thể
dung bình luận để chốt lại các vấn đề đã được phân tích, giải thích hoặc
chứng minh. Vì thế, người nói, người nghe cần bình luận một cách thấu đáo,

khách quan, công bằng và tránh tùy tiện.
18


Khi thực hiện thao tác bình luận, người viết, người nói cần tuân thủ các
bước sau :
- Xác định đối tượng bình luận
- Giới thiệu đối tượng bình luận
- Đề xuất ý kiến bình luận
- Vận dụng tổng hợp các thao tác lập luận và mở rộng vấn đề bình luận
Đối tượng của bình luận vốn rộng lớn: Bình luận về một hiện tượng
đời sống, một nhân vật lịch sử, một ý kiến hay một tác phẩm văn học, một
bộ phim, một nhân vật..Vì vậy, muốn cho người đọc biết ta bình luận cái gì
thì phải gọi tên đối tượng bình luận, trình bày hiện tượng, trích dẫn ý kiến,
giới thiệu tác phẩm văn học hay nhân vật văn học..Khi bình luận, người bình
luận cần phân tích đối tượng một cách cụ thể, nghĩa là phải hiểu được bản
chất của đối tượng, chỉ ra được cái đúng - sai, tốt - xấu một cách khách
quan, trung thực. Người bình luận cần nhìn nhận đối tượng từ nhiều mối
quan hệ, giữa đối tượng bình luận với nhiều hiện tượng, sự vật khác để
khơng có cái nhìn áp đặt và thiên lệch.Bình luận luôn là ý kiến chủ quan của
người viết, người nói. Vì thế, nó phải thể hiện chính kiến riêng của người
bình luận theo ba cách cụ thể sau:
Người viết đứng hẳn về một phía với vấn đề, hiện tượng bàn luận.
Nghĩa là lúc này, người viết (người nói) sẽ phải sử dụng lĩ lẽ, dẫn chứng
thuyết phục người đọc (người nghe) điều mình tin là đúng, kiên quyết bác bỏ
cái sai.Trong trường hợp vấn đề bàn luận có cả điều đúng và điều sai thì cần
phải nêu ra và chứng minh những điều tích cực trong phần đúng, gọi ra và
chứng minh và loại bỏ phần sai của mỗi phí để tìm được “tiếng nói chung”
trong sự đánh giá. Cuối cùng, nếu vấn đề chưa đúng hoặc khơng chính xác thì
người viết phải bày tỏ được quan điểm của riêng mình, cách nhìn nhận đánh

giá của bản thân đối với vấn đề. Việc lựa chọn một trong ba khả năng trên
19


×