Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Thực trạng và giải pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học ở vùng biển tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.77 KB, 73 trang )

t
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
========

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG HỌC SINH BỎ HỌC Ở VÙNG BIỂN
BÃI NGANG HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Hương
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thùy Chi

Lớp

: 09SGC

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2013

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả khóa luận này là sự nỗ lực nghiên cứu, tìm
tòi của bản thân dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Thị Hương.
Tôi xin bảo đảm về tính trung thực của lời cam đoan trên.


Đà Nẵng, tháng 05 năm 2013
Người thực hiện

Nguyễn Thùy Chi

2


TRANG GHI ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Thực trạng và
giải pháp nhằm khắc phục tình trạng học sinh bỏ học ở
vùng biển bãi ngang huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị”,
chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận tình, đóng
góp ý kiến và động viên của cô giáo Nguyễn Thị
Hương.
Xin cảm ơn chân thành đến Sở Giáo dục & Đào
Tạo tỉnh Quảng Trị, Phòng Giáo Dục & Đào Tạo huyện
Gio Linh, các thầy, cô giáo trong khoa Giáo dục Chính
trị và các bạn đã đóng góp ý kiến chân thành cho khóa
luận của chúng tôi.
Đề tài không tránh khỏi những thiếu sót rất mong
nhận được sự góp ý, bổ sung của quý thầy cô và tất cả
các bạn.
Đà Nẵng, ngày 15 tháng 5 năm
2013
Sinh viên

Nguyễn Thùy Chi

3



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại bước sang thế kỷ XXI, sự phát triển của nền kinh tế tri thức
với nhiều ngành khoa học và công nghệ hiện đại, trong điều kiện các nguồn
lực khác đang ngày càng cạn kiệt, con người càng tỏ rõ vai trò là một yếu tố
cơ bản, năng động và vô hạn cho sự phát triển bền vững. Nguồn nhân lực là
tài sản vô giá của mọi quốc gia, vùng lãnh thổ và doanh nghiệp... Chính vì
vậy, con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Cùng với xu hướng
trên, Việt Nam luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, tạo mọi điều kiện để
phát triển nguồn lực con người nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những chính sách an sinh xã
hội, quan tâm đến vấn đề con người đạt kết quả cao. Đất nước đã có những
thay đổi tích cực về mặt xã hội: tỷ lệ đói nghèo được giảm bớt, nhu cầu vật
chất và tinh thần của người dân ngày càng cải thiện, tuổi thọ cũng được tăng
cao, giáo dục - y tế ngày được quan tâm đầu tư... Tuy nhiên, nước ta vẫn còn
nhiều vấn đề xã hội diễn ra bức xúc như: ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
dịch bệnh hoành hành; chủ nghĩa thực dụng diễn ra ở thế hệ trẻ, các tệ nạn xã
hội, tỷ lệ học sinh bỏ học, tỷ lệ ly hôn ngày càng gia tăng… Trong đó, vấn đề
bỏ học của học sinh đang là vấn đề “nóng” cần được xã hội quan tâm.
Vấn đề học sinh bỏ học, thất học đang là mối lo ngại chung cho cả nước.
Việc học sinh bỏ học có thể kéo theo nhiều hệ lụy cả trước mắt lẫn lâu dài,
4



không chỉ đối với cá nhân, gia đình học sinh mà cả với nhà trường và xã hội.
Khi bỏ học, tâm trạng chán chường, mặc cảm luôn đè nặng khiến những học
sinh này thường dễ bị kích động, lôi kéo. Từ đó có thể hình thành nên một
lượng thanh thiếu niên lêu lổng, dễ sa vào các thói hư tật xấu như bỏ nhà đi
lang thang, gây gỗ, trộm cắp, kết bè phái, thậm chí một số trường hợp có thể
sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật.
Huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị là một huyện ven biển thuộc vùng Bắc
Trung Bộ Việt Nam. Kể từ ngày lập lại, được sự chỉ đạo của huyện uỷ, Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và sự tham gia của Sở, Ban ngành, sự
nghiệp Giáo dục - Đào tạo của huyện đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
góp phần tích cực vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài và thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện phát triển. Trong quá trình phát
triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nhiều yếu tố mới tích cực đã xuất hiện.
Những yếu tố này đang tác động sâu sắc đến sự phát triển giáo dục và đào tạo
của huyện nhà. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành giáo
dục - đào tạo của huyện Gio Linh đang đứng trước một vấn đề bức xúc cần
được giải quyết kịp thời đó là tình trạng học sinh bỏ học, đặc biệt là học sinh
ở các xã thuộc vùng biển bãi ngang của huyện.
Là một người con của Quảng Trị, sinh ra và lớn lên trên vùng biển bãi
ngang, chứng kiến tận mắt những hệ lụy của việc học sinh bỏ học gây ra.
Đồng thời, là một sinh viên theo học ngành sư phạm, bản thân tôi nhận thấy
rằng, việc khắc phục tình trạng bỏ học của học sinh hiện nay là vấn đề hết sức
cần thiết đối với toàn tỉnh Quảng Trị nói chung và các vùng ven biển bãi
ngang của huyện Gio Linh nói riêng. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Thực trạng
và giải pháp nhằm khắc phục tình trạng học sinh bỏ học ở vùng biển bãi
ngang huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của
mình.

5



2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Thực trạng bỏ học của học sinh thực chất đã diễn ra trong một thời gian
khá dài nhưng hầu như chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề này chỉ được
nhắc đến và đưa ra bàn luận trong thời gian gần đây, đặc biệt là sau sự kiện
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Ngoài trọng tâm đào
tạo con người với đầy đủ năng lực và phẩm chất, vấn đề bỏ học của học sinh
cũng ngày càng được Đảng, Nhà nước và các tổ chức ban ngành quan tâm.
Tuy nhiên, có thể thấy các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này vẫn chưa
nhiều và chưa thật sự phản ánh một cách đầy đủ nhất thực trạng vấn đề. Có
chăng chỉ là những trang tin đăng tải trên các tờ báo (báo Tuổi trẻ, báo Thanh
niên, báo Sài Gòn giải phóng…), trên internet hoặc một số tin ngắn, phóng sự
trên các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh các sự kiện liên quan hay
một số bài trích ngắn của các tác giả quan tâm đến vấn đề này.
Liên quan đến vấn đề bỏ học của học sinh, đã có một số nghiên cứu nhỏ
được tiến hành như :
1. Đề tài: “Khảo sát tình hình lưu ban, bỏ học của học sinh 2 trường
vùng ven Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Đặng Văn Minh, Viện Nghiên
cứu giáo dục, năm 1992. Nghiên cứu được tiến hành tại hai trường: Trường
THCS Đặng Trần Côn và Trường Cấp trung học cơ sở, trung học phổ thong
Võ Văn Tần (năm học1990 - 1991).
2. Bài trích “Hiện tượng lưu ban, bỏ học: Thực trạng, nguyên nhân, vấn
đề và biện pháp”, Thái Duy Tuyên, nghiên cứu giáo dục - 1992 - Số 242 Tr.4-6. Tác giả đã phản ánh thực trạng, nguyên nhân của hiện tượng lưu ban,
bỏ học và đưa ra những biện pháp cần thiết để ngăn chặn và khắc phục tình
trạng trên.
3. Bài trích “Về nguyên nhân và biện pháp chống bỏ học” Phạm Thanh
Bình, nghiên cứu giáo dục - 1992 - Số 242 - Tr.31- 32. Tác giả đã chỉ ra

6



những nguyên nhân cơ bản nhất khiến học sinh phải bỏ học: nó có thể xuất
phát từ phía nhà trường, học sinh, gia đình và toàn xã hội.
4. Bài trích “Vấn đề lưu ban, bỏ học ở Thành phố Hồ Chí Minh” Hồ
Thiệu Hùng, nghiên cứu giáo dục - 1992 - Số 242 - Tr11-12. Tác giả đã nêu
lên được những đặc điểm chủ yếu về điều kiện kinh tế - xã hội - giáo dục ở
TP.Hồ Chí Minh và thực trạng lưu ban, bỏ học của học sinh tại thời điểm
nghiên cứu.
Tuy nhiên, vấn đề học sinh bỏ học của học sinh ở tỉnh Quảng Trị nói
chung và học sinh thuộc các xã vùng ven biển bãi ngang của huyện Gio Linh,
tỉnh Quảng Trị nói riêng, hầu như không được quan tâm, nghiên cứu đúng
mức.
Nguồn tư liệu tôi thu thập được chủ yếu được lấy từ các bài báo, dữ liệu
trên internet và tài liệu dự các hội thảo, các bài báo cáo tổng kết của Sở,
phòng giáo dục - đào tạo Quảng Trị… Qua đó, cũng có thể nhận định rằng,
tình hình nghiên cứu vấn đề bỏ học của học sinh còn rất hạn chế. Trên cơ sở
kế thừa kết quả nghiên cứu trên, tôi đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu một cách
khái quát thực trạng, nguyên nhân dẫn đến việc học sinh bỏ học ở các vùng
ven biển bãi ngang huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị để từ đó có thể đưa ra
được một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng nói trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích chủ yếu sau: nghiên cứu khái quát
những vấn đề mang tính lý luận chung của công tác giáo dục Việt Nam đối
với tình hình học sinh bỏ học và đánh giá thực trạng học sinh bỏ học ở vùng
ven biển bãi ngang huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị để đề ra các giải pháp chủ
yếu khắc phục tình trạng đó.
* Nhiệm vụ

7



- Góp phần hệ thống lại những vấn đề mang tính lý luận chung về công
tác giáo dục với tình hình học sinh bỏ học hiện nay.
- Phân tích thực trạng học sinh bỏ học ở vùng ven biển bãi ngang huyện
Gio Linh, tỉnh Quảng Trị để tìm ra nguyên nhân của vấn đề này.
- Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục tình
trạng học sinh bỏ học ở vùng biển bãi ngang huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng học sinh bỏ học ở các xã
ven biển bãi ngang thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng học sinh bỏ học ở các vùng
ven biển bãi ngang huyện Gio Linh giai đoạn 2008 - 2012.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Nghiên cứu theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục và quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam về sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng phương pháp chủ yếu là phương pháp duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu,
đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như: thống kê và phân tích số liệu,
tổng hợp, lôgic, so sánh, diễn dịch và quy nạp,… để nghiên cứu và hoàn thành
đề tài của mình.
5. Đóng góp của đề tài
Đưa ra số liệu cụ thể, phân tích tình trạng bỏ học của học sinh trong giai
đoạn 2008 - 2012 để tìm ra nguyên nhân và đưa ra các biện pháp nhằm khắc
phục tình trạng bỏ học của học sinh ở các vùng ven biển bãi ngang huyện Gio
Linh, tỉnh Quảng Trị.


8


6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài là một công trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả về thực trạng
bỏ học của học sinh ở các vùng ven biển bãi ngang huyện Gio Linh, tỉnh
Quảng Trị. Thông qua việc thực hiện đề tài, tôi mong muốn góp một phần
nhỏ vào việc cải thiện tình trạng bỏ học đang trở thành điểm nóng như hiện
nay. Từ đó, đề tài góp phần vào việc nâng cao nhận thức của xã hội về nguyên
nhân, hiện trạng và thấy được hậu quả to lớn của việc bỏ học đối với chính
bản thân học sinh, gia đình và toàn thể xã hội trong giai đoạn hiện tại và
tương lai.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3
chương:
Chương 1: Giáo dục Việt Nam với vấn đề học sinh bỏ học ở vùng biển
bãi ngang
Chương 2: Thực trạng học sinh bỏ học tại vùng ven biển bãi ngang Gio
Linh - Quảng Trị giai đoạn 2008 - 2012.
Chương 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục tình trạng
học sinh bỏ học ở vùng biển bãi ngang huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.

9


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIÁO DỤC VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ HỌC SINH
BỎ HỌC Ở VÙNG BIỂN BÃI NGANG
1.1. Giáo dục và vai trò của giáo dục Việt Nam đối với vấn đề học sinh bỏ
học

1.1.1. Khái niệm giáo dục và vai trò của giáo dục - đào tạo
1.1.1.1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục - đào tạo là lĩnh vực quan trọng được các quốc gia hết sức quan
tâm đầu tư phát triển. Hiện nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về giáo dục,
cụ thể như:
Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày
“Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và
lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người”. Khái niệm
trên nhấn mạnh đến sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn mạnh đến
các yếu tố dạy học, nhưng chưa nói đến mục đích sâu xa, mục đích cuối cùng
của việc dạy học.
Từ “Education” (nghĩa tiếng việt là giáo dục) - vốn có gốc từ tiếng La
tinh “Educare” có nghĩa là “làm bộc lộ ra”, có thể hiểu “giáo dục là quá trình,
cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục”.
John Dewey (1859 - 1952), nhà triết học, tâm lý học và nhà cải cách giáo
dục người Mỹ, cũng đề cập đến việc truyền đạt trong khái niệm giáo dục,
nhưng ông đã nói rõ hơn mục tiêu cuối cùng của việc giáo dục. Theo J.

10


Dewey, cá nhân của con người không bao giờ vượt qua được qui luật của sự
chết và cùng với sự chết thì những kiến thức, kinh nghiệm mà cá nhân mang
theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn tại xã hội lại đòi hỏi những kiến thức,
những kinh nghiệm của con người phải vượt qua sự khống chế của sự chết để
duy trì sự liên tục của sự sống xã hội. Giáo dục là “khả năng” của loài người
để đảm bảo tồn tại xã hội. Hơn nữa, J. Dewey cũng cho rằng, xã hội không
chỉ tồn tại nhờ truyền dạy mà còn tồn tại trong chính quá trình truyền đạt ấy.
Bên cạnh đó, một số nhà giáo dục cho rằng, giáo dục là quá trình được tổ
chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng

lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo hướng tích cực. Điều
này góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức
từ bên ngoài, đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã
hội đương đại.
Giáo dục bao gồm việc dạy và học, đôi khi cũng mang ý nghĩa như là
quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn,
truyền thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho sự truyền thụ, phổ biến văn
hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Hơn nữa, giáo dục là phương tiện cho sự
đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của mỗi cá nhân, đánh thức
trí tuệ của mỗi người. Đồng thời, giáo dục ứng dụng phương pháp nghiên cứu
mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần và làm
chủ được các mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, cách ứng xử trong xã hội.
Xét trong mối quan hệ với kinh tế, giáo dục là một bộ phận của quá trình
tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội. Trong thời đại ngày nay, giáo dục là
một nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy kinh tế phát triển. Do đó, đầu tư cho
giáo dục là sự đầu tư sáng suốt nhất, đem lại nhiều lợi ích nhất và bền vững
nhất. Muốn phát huy tác dụng lớn lao đó của giáo dục, các quốc gia phải gắn
chặt giáo dục với sản xuất, phải kết hợp giáo dục với lao động. Trong xã hội

11


chủ nghĩa, giáo dục và lao động tác động lẫn nhau và thống nhất với nhau
nhằm phát triển toàn diện người lao động.
Xét trong mối quan hệ với văn hóa, giáo dục là phương thức chủ yếu để
giữ gìn, phổ biến, giao lưu và phát triển văn hóa. Thông qua giáo dục, thế hệ
trước truyền lại cho thế hệ sau kho tàng văn hóa của dân tộc và của loài
người. Thế hệ sau có nhiệm vụ tiếp thu, cải tạo và phát triển nền văn hóa đó.
Giáo dục còn là nền tảng văn hóa của một quốc gia. Trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, giáo dục là bộ phận cực kì quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn

hóa.
Do đó, giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc trưng của xã hội loài
người. Giáo dục nảy sinh cùng với xã hội loài người, trở thành một chức năng
sinh hoạt không thể thiếu được và không thể mất đi ở mỗi giai đoạn phát triển
của xã hội. Giáo dục là một nhu cầu thiết yếu của con người, gắn chặt với
những nhu cầu cơ bản của con người là lao động, hiểu biết, thẩm mỹ. Con
người không thể sống được, càng không thể sống hạnh phúc được nếu không
có giáo dục, không được học.
Nói tóm lại, giáo dục là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ người nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách của con
người, đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội đương đại.
1.1.1.2. Vai trò của giáo dục - đào tạo ở Việt Nam hiện nay
Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người, giáo dục và
đào tạo luôn chiếm một vị trí quan trọng. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh đã đưa ra hệ thống quan điểm về giáo dục một cách sâu sắc và
toàn diện, khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo
đối với quá trình phát triển của mỗi quốc gia mà còn là cơ sở để Đảng ta vạch
ra đường lối chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đổi mới
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu

12


của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

13


* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của giáo dục và
đào tạo

Bất kỳ ở một giai đoạn lịch sử nào, giáo dục - đào tạo luôn đóng một vai
trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, tập thể, cộng
đồng, dân tộc và cả nhân loại. Theo C.Mác “Nền giáo dục tương lai, nó sẽ kết
hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục đối với tất cả những trẻ em trên
một lứa tuổi nào đấy, coi đó không chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm
nền sản xuất xã hội mà còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra
những con người phát triển toàn diện nữa”. [15, tr.668]. Còn Ph.Ăngghen thì
khẳng định: giáo dục - đào tạo “Tạo ra cho nền kinh tế của một dân tộc
những nhà khoa học, chuyên gia, kỹ sư trên các lĩnh vực kinh tế và nhờ đó
những tri thức ấy mới có thể sáng tạo ra những kỹ thuật tiên tiến, những công
nghệ mới. Nếu chúng ta không có đội ngũ ấy thì sự nghiệp xây dựng CNXH
chỉ là lời nói huênh hoang, rỗng tuếch”. [16, tr.552-553]. Như vậy, cả C.Mác
và Ăngghen đều coi giáo dục - đào tạo là chìa khoá, là động lực đối với sự
phát triển của xã hội, đặc biệt là đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
của một quốc gia, một dân tộc.
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen và thực trạng
giáo dục - đào tạo ở Nga trong những ngày đầu cách mạng tháng Mười thành
công, V.I.Lênin đã sớm khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục - đào tạo
trong việc đưa nước Nga thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Theo V.I.Lênin: “Những người lao động khao khát có tri thức, vì tri thức
cần cho họ để chiến thắng. Chín phần mười quần chúng lao động đã hiểu rõ
rằng tri thức là một vũ khí trong cuộc đấu tranh tự giải phóng của họ, rằng sở
dĩ họ thất bại là do thiếu học thức; rằng giờ đây việc làm cho mọi người có
thể thực sự được học hành, là do bản thân họ quyết định. Sự nghiệp của chúng
ta sẽ thắng vì bản thân quần chúng đã bắt tay xây dựng một nước Nga mới, xã

14


hội chủ nghĩa”. [33, tr.93]. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội, ông luôn coi sự nghiệp giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ hàng
đầu, là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng suất lao động, để chiến thắng
nghèo nàn lạc hậu.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của giáo dục và đào tạo
Kế thừa truyền thống văn hoá lịch sử của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá của nhân loại mà điển hình là Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn quan tâm và đề cao vai trò của giáo dục - đào tạo.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi con người là vốn quý nhất, là
nhân tố quyết định của sự nghiệp cách mạng. Người mong muốn mỗi người
dân đều biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ để nâng cao dân trí, giữ vững nền
độc lập và làm cho dân giàu nước mạnh. Chính vì vậy, trước lúc đi xa, Người
đã căn dặn: “Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo lớp
ngươi thừa kế vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
là một việc rất quan trọng và cần thiết”. [18, tr.510].
Tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với nhân cách cao
đẹp của Người đã thể hiện vấn đề cơ bản nhất, nổi bật nhất là vấn đề xây
dựng và hoàn thiện con người thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục.
Giáo dục - đào tạo luôn thể hiện yêu cầu giáo dục toàn diện, đào tạo con
người vừa có tài, có khả năng vươn lên chiếm lĩnh khoa học kỹ thuật lại vừa
có đức. Mục đích giáo dục và đào tạo theo quan điểm Hồ Chí Minh là sẽ đào
tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền
giáo dục làm phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của các em. Học để làm
việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân,
Tổ quốc và nhân loại.

15


* Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác giáo dục - đào tạo
Giáo dục - đào tạo là môi trường để nâng cao mặt bằng dân trí, phát triển

và bồi dưỡng nhân tài. Đây là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển và tiến
bộ xã hội của mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, sang
thế kỉ XXI, trí tuệ, chất xám đóng vai trò quyết định cho sự phát triển của các
quốc gia. Vì vậy, hơn bao giờ hết, các nước đang ngày càng chú trọng đến
việc đầu tư nhằm nâng cao chất lượng của nền giáo dục quốc dân. Điều này,
tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
các quốc gia.
Xuất phát từ nhận thức sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết
định của yếu tố con người, chủ thể của tất cả những sáng tạo, những nguồn
của cải vật chất và văn hóa, những nền văn minh của các quốc gia, Đảng và
Nhà Nước ta luôn luôn quan tâm đến sự nghiệp chăm sóc và phát huy yếu tố
con người. Sự phát triển của giáo dục - đào tạo sẽ tạo ra một nguồn nhân lực
có đạo đức và trí tuệ cao đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, đặc biệt yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể thấy rằng, trình
độ văn hóa kĩ thuật của người lao động là một nhân tố chủ yếu quan trọng góp
phần làm tăng năng suất lao động. Động lực và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
là xây dựng và phát triển con người có trí tuệ cao, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định “Giáo
dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn
hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo
là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo
nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá,

16


hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo
cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”.
Như vậy, giáo dục - đào tạo có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển
của đất nước.
- Giáo dục - đào tạo là nhân tố quan trọng để nâng cao chất lượng
nguồn lực con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất
nước.
Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc cho con người là mục
tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Đảng ta coi việc nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa; khẳng định con
người Việt Nam phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực, cả về khả năng lao
động, năng lực sáng tạo và tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đức, tâm
hồn và tình cảm là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Chìa khóa để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chính là nâng
cao giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung,
phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”,
chấn hưng nền giáo dục quốc dân.
Có thể nói giáo dục, đào tạo là một trong những biện pháp cơ bản nhất
để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời chất lượng nguồn nhân lực
cũng trở thành mục tiêu hàng đầu của giáo dục - đào tạo. Không thể có một
nguồn nhân lực chất lượng tốt nếu không thông qua giáo dục, đào tạo và cũng
không thể có sự nghiệp giáo dục - đào tạo mà lại không nhằm vào việc giáo
dục lòng yêu nước, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp
vụ và kỹ năng ứng dụng tri thức vào hoạt động thực tiễn... Đó chính là những
nhân tố tạo nên chất lượng nguồn nhân lực.

17



- Giáo dục - đào tạo thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế trí
thức
Giáo dục - đào tạo là một trong những lĩnh vực hoạt động hết sức quan
trọng của xã hội loài người. Một hoạt động có khả năng phát huy cao độ, khơi
dậy và tạo nên tiềm năng vô tận của con người. Đặc biệt, trong thời đại ngày
nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ
làm xuất hiện xu thế lớn của nền kinh tế tri thức. Nguồn lực chủ yếu của kinh
tế tri thức là thông tin và tri thức khác với các nền kinh tế truyền thống là sức
lao động và vốn. Kinh tế tri thức bao hàm trong đó vốn, con người có tri thức,
năng lực sáng tạo; vốn vật chất kỹ thuật để tiếp thu, xử lý, lưu trữ, trao đổi và
chế biến thông tin - tri thức. Vốn tri thức xã hội - tri thức về con người và
phát triển con người.
Vấn đề đặt ra là muốn xây dựng nền kinh tế tri thức phù hợp với tốc độ
phát triển hiện đại, đặt nền móng vững chắc để phát triển kinh tế - xã hội
trong tương lai đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, quốc gia, khu vực trên
toàn cầu phải luôn tích cực bổ sung tri thức mới. Muốn vậy phải đầu tư cơ sở
vật chất, có chính sách giáo dục và đào tạo phù hợp với mọi đối tượng nhằm
phát huy thế mạnh, tiềm năng trong đội ngũ trí thức, nâng cao tri thức văn
minh trí tuệ trong xã hội, thông qua việc lĩnh hội tri thức, tích luỹ tri thức, trao
đổi và sáng tạo tri thức.
Giáo dục nhằm đào tạo những con người có phẩm chất, bản lĩnh, có
trách nhiệm với xã hội, dám nghĩ dám làm, có tư duy độc lập, năng lực sáng
tạo, năng lực tiếp thu, làm chủ tri thức mới, vận dụng linh hoạt sáng tạo vào
thực tiễn. Để làm được điều đó, cần xây dựng một hệ thống giáo dục hữu hiệu
cho việc học tập suốt đời, thiết lập các điều kiện và thiết chế cần thiết cho một
xã hội học tập. Đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc nội dung và phương pháp giáo dục,

18



chuyển trọng tâm từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng năng lực và phương
pháp, đặc biệt chú trọng rèn luyện tính sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
- Giáo dục - đào tạo đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế thông qua ứng
dụng và thúc đẩy tiến bộ công nghệ.
Giáo dục đạo tạo, tạo ra những người lao động có trí tuệ, biểu hiện ở khả
năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến, sự nhạy bén, thích nghi nhanh và làm chủ được những kỹ thuật
- công nghệ hiện đại; khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghề
nghiệp thể hiện qua trình độ tay nghề, mức độ thành thạo chuyên môn nghề
nghiệp... từ đó, tạo ra được năng suất lao động cao, thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
Việc áp dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất sẽ góp phần tăng
trưởng kinh tế của đất nước. Để làm được điều đó, nguồn nhân lực cần phải
đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng và chuyên môn, mà vấn đề này phải nhờ
vào hệ thống giáo dục. Giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao học vấn cũng như
trình độ của người lao động, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm làm
việc, năng lực tiếp cận khoa học - công nghệ… để có thể áp dụng những tiến
bộ của khoa học công nghệ vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động,
góp phần tăng trưởng kinh tế.
1.1.2. Học sinh bỏ học và hậu quả của vấn đề học sinh bỏ học đối với
nền kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Khái niệm học sinh bỏ học
Theo các nhà giáo dục Quốc tế và các chuyên gia UNESCO, một học
sinh được xác định bỏ học khi học sinh đó trong độ tuổi giáo dục học đường
bắt buộc (phổ cập giáo dục) mà không thể đến trường: “Học sinh rời trường
sớm trước khi kết thúc năm học cuối của giai đoạn giáo dục mà học sinh đó
được tuyển vào”.

19



Bộ Giáo dục và đào tạo đã đưa ra quy định học sinh bỏ học là học sinh
có trong danh sách của trường, nhưng đã tự ý nghỉ học quá 45 buổi, tính đến
thời điểm báo cáo.
Học sinh bỏ học đồng nghĩa với việc các em không tiếp tục đi học. Tình
trạng bỏ học của học sinh gồm các dạng sau: học sinh bỏ học khi vừa học
xong chương trình một lớp nào đó; học sinh bỏ học khi năm học mới bắt đầu,
vào giữa năm học hoặc khi năm học gần kết thúc; học sinh bỏ học một vài
ngày, một vài tiết (bỏ học trong thời gian ngắn) rồi trở lại lớp học.
Ngoài ra, trong các trường phổ thông hiện nay, một đối tượng học sinh
khác, mặc dù vẫn ngồi trong lớp nhưng không chú ý nghe giảng hoặc làm
việc riêng trong khi thầy, cô giáo đang giảng bài, không tham gia vào các hoạt
động trên lớp và chỉ mong hết giờ. Đối tượng này chính là đối tượng “tiền bỏ
học”.
Học sinh bỏ học có thể chia ra làm hai loại. Một là, bỏ học “tích cực”
nếu học sinh bỏ học để đi học nghề hoặc tiếp tục học bổ túc; Hai là, bỏ học
“tiêu cực” nếu học sinh bỏ học để đi chơi la cà, bám vào cha mẹ, phá phách
xóm giềng…, có thể sẽ xảy ra tình trạng xấu hơn nữa: trở thành “con nghiện”
ma túy, rơi vào các tệ nạn xã hội khác...
Dù cho học sinh bỏ học “tích cực” hay “tiêu cực” cũng gây ảnh hưởng
xấu đến chất lượng nguồn nhân lực, đến cộng đồng và xã hội. Xét về sâu xa
hơn, việc bỏ học bất thường sẽ gây xáo trộn về mặt tâm lý của học sinh đang
còn đi học, gây hậu quả xấu cho việc phổ cập giáo dục, làm giảm niềm tin của
xã hội vào nhà trường, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống tương lai.
Do đó, một trong các yêu cầu cơ bản đối với quá trình dạy học nói riêng,
quá trình giáo dục nói chung là phải đảm bảo cho mỗi học sinh được học trọn
vẹn bậc học.

20



1.1.2.2. Hậu quả của việc bỏ học
Đồng hành cùng gia đình, nhà trường là cái nôi nuôi dưỡng nhân tài, góp
phần hình thành và ổn định nhân cách cho học sinh. Nhà trường đóng một vai
trò hết sức quan trọng, đây là nơi cung cấp kiến thức khoa học nền tảng, là
nơi tạo mọi điều kiện để học sinh có thể phát triển một cách toàn diện cả về
thể chất lẫn tinh thần. Vì vậy, tình trạng bỏ học sẽ đưa đến những hậu quả gì
cho bản thân học sinh, gia đình và xã hội.
Hậu quả trước tiên là bản thân học sinh sẽ bị thiếu hụt một nền tảng tri
thức cơ bản cần thiết cho sự phát triển, từ sự mặc cảm, tự ti thua kém bạn bè,
không có môi trường để rèn luyện đạo đức… dễ dàng đưa học sinh đến với
những thói hư xấu, những hành vi lệch chuẩn ngay thời điểm hiện tại. Hơn
nữa, khi trưởng thành, học sinh bỏ học sẽ không có trình độ học vấn và
chuyên môn đáp ứng yêu cầu xã hội trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa
hiện nay. Từ đó những học sinh này sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình và xã
hội. Nếu gia đình không có điều kiện để bao bọc hoặc lo cho một công việc
nào đó thì học sinh bỏ học sẽ thất nghiệp, bị ảnh hưởng tiêu cực từ các tệ nạn
xã hội khi họ không có bản lĩnh. Có thể nói, hậu quả từ việc bỏ học hết sức
nghiêm trọng mà chúng ta không thể lường hết được. Tình trạng học sinh bỏ
học tác động xấu đến sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của cả nước nói
chung và của địa phương có học sinh bỏ học nói riêng. Thậm chí ở những địa
phương có tỷ lệ học sinh bỏ học đông sẽ xảy ra tình trạng “khủng hoảng cộng
đồng” vì một số thanh niên chưa học hết bậc phổ thông ở các địa phương
thường sẽ không có nghề nghiệp, không có thu nhập, cuộc sống nghèo khó,
dân số, tệ nạn xã hội sẽ gia tăng.
Bác Hồ dạy: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, đúng vậy, khi học sinh
bỏ học tăng sẽ làm tăng thêm số lượng người thất học, mù chữ gây ra nhiều
hậu quả cho nền kinh tế và xã hội; “Thanh niên mới là chủ nước nhà”, “thật

21



vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh
niên”.
Là những chủ nhân tương lai của đất nước nhà, thế hệ trẻ sẽ làm cho
nước nhà thịnh hay suy với khối óc trống rỗng, không kiến thức, không kinh
nghiệm; các em nếu có kiến thức tốt, kinh nghiệm phong phú thì mỗi cá nhân
có điều kiện tìm được việc làm, tăng thu nhập, giảm tỷ lệ đói nghèo vượt lên
phía trước để tiếp cận với những cơ hội, có thu nhập cao, để cải thiện cuộc
sống. Chính sự hiểu biết nông cạn đã biến những người thất học thành nạn
nhân của những vụ lừa đảo, thành công cụ cho các thế lực phản động, chống
phá lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc ảnh hưởng đến chính trị, trật tự an ninh
của xã hội.
Hiện trạng học sinh bỏ học là một vấn đề “nóng” hiện nay ở Việt Nam.
Do đó, cần thiết phải có sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội và chính
bản thân học sinh, tìm ra những biện pháp tốt nhất, triệt để nhất nhằm ngăn
chặn và hạn chế tình trạng bỏ học, tạo điều kiện cho học sinh đến trường và
học tập với kết quả cao.
1.1.3. Vai trò của giáo dục Việt Nam đối với việc khắc phục tình trạng
học sinh bỏ học hiện nay
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, để hội nhập vào
nền kinh tế chung của thế giới thì vấn đề “đào tạo con người” là một trong
những yếu tố then chốt, luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được, ngành giáo dục nước ta vẫn
còn đó không ít vấn đề nan giải đang tìm hướng giải quyết. Một trong số đó là
vấn đề học sinh ở các cấp học hiện nay.
Theo số liệu thống kê đến hết học kỳ I năm học 2011 - 2012, cả nước có
212.800 học sinh bỏ học ở cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ
thông. Trong những năm gần đây, được sự quan tâm hỗ trợ đặc biệt của Đảng,


22


Nhà nước và các cấp ban ngành, tỉ lệ học sinh bỏ học có giảm về tỷ lệ nhưng
về số lượng thì vẫn tăng và thật sự đáng “báo động”. Tính đến tháng 12 năm
2010, số lượng học sinh trung học cơ sở bỏ học là 63.729 học sinh 1,3% và ở
học sinh trung học phổ thông là 50.309 học sinh chiếm 1,96 %. Các tỉnh có số
lượng học sinh bỏ học nhiều là: An Giang với 17.000 học sinh, Trà Vinh gần
7000 học sinh; trong đó số học sinh bỏ học ở cấp trung học cơ sở là 8800 em
ở An Giang, 5500 em ở Trà Vinh và tại Kiên Giang là 5000 em. Học sinh bỏ
học không chỉ thiệt thòi cho chính các em mà còn khiến cho mục tiêu xây
dựng xã hội học tập, mục tiêu nâng cao dân trí trở nên khó khăn. Những
nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học được xác định chủ yếu
do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn; học sinh có học lực yếu kém; học
sinh ở xa trường, lớp học trong khi giao thông ở một số vùng sâu, xa còn quá
khó khăn; một số địa phương vận động học sinh tới lớp chưa thật sự quyết
liệt, chưa có giải pháp thích hợp; nhận thức về việc học tập của một bộ phận
phụ huynh học sinh, nhất là vùng cao, vùng dân tộc khó khăn còn hạn chế…
Để giảm đến mức thấp nhất tình trạng học sinh bỏ học, Bộ Giáo dục đào tạo cần tham mưu với các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội và cấp ủy,
chính quyền địa phương giải pháp thích hợp vận động học sinh đến lớp như:
(1) Xác định và đánh giá thực chất nguyên nhân bỏ học của học sinh từng địa
bàn để có biện pháp giải quyết kịp thời; (2) Gắn kết giữa các Sở Giáo dục đào tạo với Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố để nắm bắt tình
hình và bàn biện pháp chỉ đạo, các biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ
học; (3) Huy động các nguồn lực giúp học sinh có hoàn cảnh khó khăn về
kinh tế, hỗ trợ sách giáo khoa, văn phòng phẩm, mua tài liệu đọc thêm, sách
truyện, dụng cụ thể thao để thu hút học sinh vào hoạt động vui chơi giải trí.
Trong nhà trường, mỗi thầy, cô giáo cần triển khai đồng loạt có hiệu quả các
giải pháp về chuyên môn như đổi mới phương pháp giảng dạy, cải thiện các

23



điều kiện học tập, ứng dụng công nghệ thông tin, cải tiến các hình thức tổ
chức học tập linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng tạo hứng thú cho học sinh
trong học tập; (4) Triển khai thực hiện tốt phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong đó, chú trọng tổ chức các hoạt
động tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp để cuốn hút học sinh đến
trường; (5) Mở cuộc vận động học sinh trở lại trường đến tận từng làng, xã
thông qua việc nắm bắt đối tượng, tìm hiểu nguyên nhân bỏ học ở từng học
sinh và có hỗ trợ đúng chỗ, đúng cách. Các nhà trường tổ chức tốt việc phụ
đạo cho học sinh yếu kém; thực hiện phân loại học sinh để phân công giáo
viên dạy cho phù hợp, đồng thời tăng cường đổi mới công tác quản lý chuyên
môn dạy và học; (6) Từng bước cải thiện đời sống cho giáo viên, đặc biệt là
vùng cao, vùng khó khăn; triển khai có hiệu quả đề án kiên cố hóa trường lớp
học và nhà công vụ cho giáo viên, nhà ở cho học sinh nội trú dân nuôi... nhằm
tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh đến trường học tập chuyên cần.
Với những động thái tích cực và mạnh mẽ như vậy, Bộ Giáo dục - đào
tạo, các sở, ban ngành, chính quyền địa phương, các trường học đang dần tiến
tới khắc phục hiện tượng học sinh bỏ học nhiều trong những năm qua. Nhiều
giải pháp đã được đề ra và thực hiện có hiệu quả, tỷ lệ học sinh bỏ học của
các vùng đều giảm so với năm học trước. Tuy nhiên, so với tổng số học sinh
tới lớp đầu năm học thì số bỏ học vẫn còn nhiều. Cả nước vẫn còn 75.691 học
sinh (chiếm tỷ lệ 0,51%) bỏ học, trong đó, tiểu học là 0,11%, trung học cơ sở
là 0,66%, trung học phổ thông là 1,17%. Đó là một thực trạng đáng báo động,
cần được sự quan tâm sâu sắc hơn nữa của các cấp, các ngành và toàn thể xã
hội.

24



1.2. Giáo dục Việt Nam đối với vấn đề học sinh bỏ học ở vùng biển bãi
ngang
1.2.1. Vùng biển bãi ngang
* Khái niệm vùng ven biển
Vùng ven biển là khu vực có giao diện khá hẹp giữa biển và đất liền. Đó
là nơi các quá trình sinh thái phụ thuộc vào sự tác động lẫn nhau giữa đất liền
và biển.
Vùng ven biển thường được hiểu như là nơi tương tác giữa đất và biển,
bao gồm các môi trường ven bờ cũng như vùng nước kế cận. Các thành phần
của nó bao gồm các vùng châu thổ, vùng đồng bằng ven biển, các vùng đất
ngập nước, các bãi biển và cồn cát, các rạn san hô, các vùng rừng ngập mặn,
đầm phá, và các đặc trưng ven bờ khác.
* Khái niệm vùng ven biển bãi ngang
Vùng ven biển bãi ngang là vùng có vị trí ở vùng bãi ngang ven biển và
hải đảo có đường ranh giới sát bờ biển hoặc xã cồn bãi, cù lao, đầm phá, bán
đảo, hải đảo; có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, luôn chịu ảnh hưởng của triều
cường, hạn hán, đất khô cằn, bạc màu, canh tác khó khăn. Vùng ven biển bãi
ngang chịu tác động tổng thể từ ba yếu tố cơ bản: đất liền, biển cả và con
người.
Đặc điểm người dân vùng ven biển bãi ngang là những ngư dân đã kí
thác cả cuộc đời với biển, gắn liền với biển, không tách rời biển. Thu nhập
chính từ nghề đánh bắt cá nặng nhọc, lại có ít đất cho các hoạt động sản xuất
nông nghiệp nên kinh tế khó khăn. Đời sống của ngư dân rất dễ gặp rủi ro bởi
thời tiết thay đổi theo mùa, các cơn bão tàn phá và sự di cư. Mặc dù, điều kiện
kinh tế khó khăn, cuộc sống vất vả nhưng những ngư dân vùng ven biển bãi
ngang có ý chí tự lực tự cường rất lớn; cần cù, chăm chỉ, chịu khó, chịu khổ
trong lao động; có ý thức học tập, nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm trong lao

25



×