Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

THỰC TRẠNG về cầu LAO ĐỘNG từ năm 1986 đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 57 trang )

z

TIỂU LUẬN:

THỰC TRẠNG VỀ CẦU LAO
ĐỘNG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY


A. LỜI MỞ ĐẦU
Dự báo các chỉ tiêu kinh tế xã hội có vai trò quan trọng đối với việc soạn
thảo các chiến lược, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã
hội. Việc dự báo được các chỉ tiêu này trong tương lai càng đáng tin cậy bao nhiêu
thì việc lập các chiến lược dài hạn, các quy hoạch, các kế hoạch, các chương trình
càng phù hợp với thực tế bấy nhiêu; điều này đến lượt nó lại có tác động tích cực,
nó kích thích các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp trong nền kinh tế hoạt
động hiệu quả. Hơn thế nữa, các đối tác nước ngoài, các công ty nước ngoài còn
lấy chúng làm cơ sở để nhận định về kinh tế xã hội nước ta từ đó đưa ra những kế
hoạch đầu tư một cách khôn ngoan. Ngoài ra điều này còn góp phần làm minh
bạch hơn môi trường kinh doanh trong nước.
Đánh giá các yếu tố tác động lên cầu lao động và dự báo nhu cầu lao động từ năm
2010 giúp chúng ta biết được số lao động sẽ có việc làm trong tương lai, số thất
nghiệp, đây là một cơ sở để nhà nước đề ra chính sách giải quyết việc làm phù
hợp.


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT VỀ LAO ĐỘNG VÀ CẦU LAO ĐỘNG

1.1 Nguồn lao động
1.1.1 Khái niệm


Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của
pháp luật có khả năng lao động,có nguyện vọng tham gia lao động và những người
trên độ tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân .
1.1.2 Đặc điểm
a. Về mặt chất lượng của nguồn nhân lực: chất lượng nguồn nhân lực là trạng
thái nhất định của nguồn nhân lực, thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành
nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là chỉ tiêu
phản ánh trình độ phát triển kinh tế và đời sống của người dân trong một xã hội
nhất định. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện thông qua một hệ thống các
chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu sau:
-

Chỉ tiêu biểu hiên trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực:

Sức khỏe là trang thái thoải mái về thể chất cũng như tinh thần của con người,
và được biểu hiện thông qua nhiều chuẩn mực đo lường về chiều cao, cân nặng,
các giác quan nội khoa,ngoại khoa…ngoài ra người ta còn sử dụng các chỉ tiêu
như tỷ lệ sinh, chết, tỷ lệ tử vong của trẻ em, tỷ lệ thấp cân trẻ sơ sinh, tuổi thọ
trung bình,cơ cấu giới, cơ cấu tuổi, mức GDP/đầu người…
-

Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa của nguồn nhân lực:

Chỉ tiêu này được đo lường thông qua các chỉ tiêu như số lượng và tỷ lệ biết
chữ, số lượng và tỷ lệ người qua các cấp học như tiểu học, phổ thông cơ sở,trung
học phổ thông, cao đẳng, đại học, trên đại học…
-

Trình độ văn hóa của nguồn nhân lực:


Đây là chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và có
tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hóa cao tạo


khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào thực tiễn.
-

Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn nhân lực:
Trình độ chuyên môn kỹ thuật là trạng thái hiểu biết, khả năng thực hành về

một chuyên môn nghề nghiệp nào đó. Có thể phân làm hai loại: lao động đã qua
đào tạo và lao động chưa qua đào tạo. Về cơ cấu lao động được đào tạo có: cấp
đào tạo (sơ cấp,trung cấp, cao cấp), công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn,
trình độ đào tạo(cơ cấu bậc thợ, cơ cấu ngành nghề…)
Thông qua chỉ tiêu trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực cho
thấy năng lực sản xuất của con người trong ngành, trong một quốc gia, khả năng
sử dụng khoa học hiện đại vào sản xuất.
b. Về mặt số lượng: nguồn nhân lực được đo thông qua chỉ tiêu quy mô và
tốc độ tăng dân số. Quy mô và tốc độ tăng dân số càng lớn thì quy mô và tốc độ
tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên tác động của nó phải sau
một khoảng thời gian nhất định mới có biểu hiên rõ vì con người phải phát triển
đến một mức độ nhất định mới trở thành người có sức lao động, có khả năng lao
động.
1.1.3 Phân loại nguồn nhân lực
Căn cứ nguồn gốc hình thành người ta chia ra 3 loại:
-

Nguồn nhân lực có sẵn trong dân số


-

Nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế

-

Nguồn nhân lực dự trữ

Căn cứ vai trò của từng bộ phân nguồn nhân lực:
-

Nguồn lao động chính

-

Nguồn lao động phụ

-

Nguồn lao động bổ sung

1.1.4 Vai trò của nguồn lao động
Nguồn lao động cung cấp sức lao động cho nền kinh tế, cùng với các đầu vào khác
tạo ra sản phẩm cho nền kinh tế. Nguồn lao động còn giúp cho ta học tập và tiếp
thu khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý của người nước ngoài, là nhân tố thu hút
đầu tư từ bên ngoài.


1.2 Cầu lao động
1.2.1 Khái niệm

Theo giáo trình kinh tế nguồn nhân lực: cầu lao động là lượng lao động mà
người thuê có thể thuê ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được.
Vấn đề cầu lao động rất gần gũi với vấn đề việc làm và người có việc làm,
bởi một cách đơn giản nhất để dự báo cầu lao động là dựa vào con số người có
việc làm trong các năm trước. Theo Bộ luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, việc làm là “ mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật
cấm”. Người có việc là những người từ đủ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động
gồm:
-

Những người làm các công việc được trả công dưới dạng hiện vật hoặc
bằng tiền để đổi công.

-

Những người tự làm công việc để thu lợi nhuận hoặc thu nhập cho bản thân
và gia đình.

-

Những người làm các công việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong gia
đình mình nhưng không hưởng tiền lương, tiền công.

Cầu về lao động khác với lượng cầu vê lao động, cầu về lao động mô tả toàn
bộ hành vi của người mua có thể mua được hàng hóa sức lao động ở mỗi mức giá
hoặc ở tất cả các mức giá có thể đặt ra. Ở mỗi mức giá có một lượng cầu nhất
định.
Cầu lao động có thể được xác định thông qua số người có việc làm. Người có
việc làm là những người trong thời gian quan sát đang có việc trong các cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ được nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng

tiền hay hiện vật hoặc làm các công việc sản xuất, kinh doanh cá thể, hộ gia đình
hoặc đã có công việc làm nhưng đang trong thời gian tạm nghỉ việc và sẽ tiếp tục
trở lại sau thời gian tạm nghỉ.
Cầu lao động là cầu dẫn suất bởi lẽ nó được suy ra từ cầu về sản lượng mà lao
động được dùng để sản xuất ra.
Cầu về lao động phụ thuộc vào sản phẩm giá trị biên của lao động (MPVL).
MPVL lại phụ thuộc vào các yếu tố khác như tài nguyên, vốn, kỹ thuật.
Trong điều kiện kinh tế Việt Nam, cầu về lao động được xác định ở mức


giá cả thấp.
1.2.2 Phân loại cầu lao động
-

Theo trình độ lao động: lao động có trình độ kỹ thuật cao, lao động lành
nghề, lao động phổ thông

-

Theo ngành nghề: lao động trong khu vực nông lâm ngư nghiệp, lao động
trong khu vực công nghiệp, lao động trong ngành dịch vụ.

-

Theo thành phần kinh tế: lao động trong khu vực quốc doanh, lao động
trong khu vực kinh tế tư nhân, lao động trong khu vực kinh tế hộ gia đình,
lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lao động trong khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài.

1.2.3 Các nhân tố tác động đến cầu về lao động

a. Tăng trưởng kinh tế
-

Khái niệm tăng trưởng kinh tế:

Một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà mọi quốc gia trên thế giới đều
theo đuổi là duy trì mức tăng trưởng kinh tế thích hợp. Nhận thức đúng đắn về
tăng trưởng kinh tế và sử dụng có hiệu quả những kinh nghiệm về nghiên cứu,
hoạch định chính sách tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng. Các nhà khoa học đều
thống nhất cho rằng, tăng trưởng kinh tế trước hết là một vấn đề kinh tế, song nó
còn mang tính chính trị, xã hội sâu sắc.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng thực tế được tính
cho toàn bộ nền kinh tế (của một quốc gia, một vùng hay một ngành) trong một
thời kỳ nhất định, thường là một năm. Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số
tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng). Trong phân
tích kinh tế, để phản ánh mức độ mở rộng quy mô của nền kinh tế, khái niệm tốc
độ tăng trưởng kinh tế thường được dùng. Đây là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng
tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó hoặc
thời kỳ gốc.


-

Các thước đo tăng trưởng kinh tế:

Đứng trên góc độ toàn nền kinh tế, thu nhập hay sản lượng thường được thể hiện
dưới dạng giá trị: có thể là tổng giá trị thu nhập (sản lượng), hoặc có thể là thu
nhập (sản lượng) bình quân trên đầu người. Các chỉ tiêu giá trị phản ánh tăng
trưởng theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) bao gồm: tổng giá trị sản xuất
(GO); tổng sản phẩm quốc nội (GDP); tổng thu nhập quốc dân (GNI); thu nhập

quốc dân (NI); tổng thu nhập được quyền chi (GDI); trong đó chỉ tiêu GDP thường
là chỉ tiêu quan trọng nhất và được sử dụng phổ biến nhất.
+ Tổng giá trị sản xuất (GO):
Tổng giá trị sản xuất là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trên
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.
+ Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân (GNP):
Tổng sản phẩm quốc nội đo lường tổng giá trị của các hàng hóa và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ
nhất định (thường là một năm).
GDP có thể có nhiều cách tính khác nhau dưới các góc độ: sản xuất, tiêu
dùng và phân phối.
+ Tổng thu nhập quốc dân (GNI):
GNI về nội dung thì GNP và GNI là như nhau. Tuy nhiên GNI tiếp cận dưới góc
độ từ thu nhập chứ không phải dưới góc độ sản phẩm sản xuất như GNP.
+ Thu nhập bình quân đầu người:
Để đánh giá xác thực hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia dưới góc độ
mức sống dân cư, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu bình quân đầu người,
chẳng hạn như GDP bình quân đầu người (hay GNI bình quân đầu người). Khi đó,
tốc độ tăng trưởng lại phụ thuộc hai yếu tố: tốc độ tăng trưởng thu nhập (sản
lượng) và tốc độ tăng trưởng dân số.
b. Đầu tư
-

Khái niệm đầu tư:


Đầu tư là sự gia tăng thêm vốn/tư bản vào sản xuất hay nền kinh tế nhằm tăng
năng lực sản xuất và được huy động dưới dạng vật chất là tiền và hiện vật như
máy móc, thiết bị, nhà xưởng, ... Cũng như lao động, đầu tư là một trong các nhân
tố đầu vào cơ bản, không thể thiếu được trong sản xuất nói riêng hay trong hoạt

động kinh tế nói chung, thiếu đầu tư sản xuất không phát triển, số lao động có việc
làm không tăng, kinh tế cả nước vì thế mà trì trệ. Ngược lại, đầu tư càng lớn thì
khả năng sản lượng được tạo ra từ sản xuất tăng lên theo qui luật lợi tức biên, kèm
theo đó là số lao động có việc làm gia tăng, thu nhập từ nền kinh tế do đó cũng
tăng lên. Đầu tư, do vậy, là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế.
-

Quá trình hình thành vốn đầu tư:

Vốn đầu tư được hình thành từ việc tích lũy, tiết kiệm, nói cách khác, để có được
vốn đầu tư thì phải hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Tiết kiệm được nhiều thì khả
năng đầu tư càng lớn. Thế nhưng, tiết kiệm lớn đến đâu tùy thuộc vào chính sách
chi tiêu của các hộ gia đình, các doanh nghiệp và chính phủ hoặc tùy thuộc vào thu
nhập của nền kinh tế. Đối với các nước đang phát triển vốn đầu tư luôn trong tình
trạng khan hiếm. Chính sách mở cửa và hội nhập đã giúp các nước có cơ hội huy
động vốn từ nước ngoài dưới nhiều hình thức (vốn FDI, vốn viện trợ ODA và vốn
vay thương mại)1, tạo điều kiện cho kinh tế trong nước tăng trưởng cao hơn.
c. Năng suất và thu nhập của lao động
Công việc mà người lao động dùng sức lao động của mình tạo ra sản phẩm có
giá trị cho nền kinh tế và không bị luật pháp ngăn cấm thì được gọi là việc làm. Về
thực chất, nói đến việc làm chính là nói đến người lao động có việc làm. Vấn đề là
kinh tế phát triển ra sao để thu hút được nhiều người có việc làm, cải thiện thu
nhập và giảm nguy cơ nghèo đói. Mặt khác, như chúng ta đều biết, mỗi người sinh
ra đã khác nhau về sức khỏe, vị thế, kiến thức hiểu biết, trình độ kỹ năng, tính kỷ
luật lao động, ... do đó trong lao động năng lực sản xuất của mỗi người cũng sẽ
khác nhau. Điều đặc biệt là ở chỗ người lao động trước hết là con người, ở họ có
tư duy và hành động theo lý trí, có cân nhắc, sáng tạo chứ không hoàn toàn theo
bản năng và cũng không phải là cái máy thụ động. Những tiềm năng tư duy và



sáng tạo này được gọi là vốn con người, nó là nguồn tài sản vô giá của mỗi quốc
gia, nếu biết nuôi dưỡng và đào tạo đúng thì vốn con người sẽ là chìa khóa của sự
phát triển. Bởi mọi thứ do con người tạo nên, vốn con người là nhân tố có vai trò
quyết định chất và lượng thành quả hoạt động kinh tế. Sẽ là người thành công nếu
biết khai thác, sử dụng nguồn vốn tiềm năng này. Các nhân tố sản xuất như máy
móc, thiết bị, nguyên vật liệu và công nghệ sản xuất có phát huy tối đa hiệu quả
hay không tùy thuộc vào các tiềm năng này (gọi là chất lượng) của người lao
động. Chất lượng lao động hay nguồn nhân lực càng cao thì khả năng phát triển
kinh tế càng lớn. Việc sử dụng lao động của các quốc gia khác nhau sẽ dẫn đến
những thay đổi tăng trưởng kinh tế.
Trong một thời gian nhất định (ngày, tháng hoặc năm) mỗi lao động tùy thuộc
vào năng lực mà tạo ra một sản lượng nhất định gọi là năng suất lao động cá nhân.
Tổng hợp sản lượng hay thu nhập của cả nước tính bình quân chung cho một lao
động gọi là năng suất lao động bình quân hay năng suất lao động xã hội.
Thu nhập của người lao động gắn với kết quả lao động mà họ tạo ra, do đó,
năng suất lao động càng lớn thì thu nhập của người lao động càng lớn, đồng thời
tăng trưởng kinh tế gia tăng.
d. Tiến bộ khoa học công nghệ
-

Đối với lao động có trình độ: tác động cùng chiều.

Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, năng suất lao động tăng, chi
phí lao động giảm, tăng lợi nhuận, tăng tích lũy, là tiền đề cho việc mở rộng sản
xuất và tăng cầu lao động.
-

Đối với lao động phổ thông: tác động ngược
chiều.
Áp dụng tiến bộ KH-KT vào sản xuất làm tăng NSLĐ. Khi NSLĐ tăng lên


sẽ tiết kiệm lao động, giảm cầu lao động, làm tăng thất nghiệp. Ở các nước tiên
tiến, người ta thường sử dụng máy móc công nghệ sử dụng nhiều vốn, ít lao động.
Ngoài các yếu tố chính nói trên còn một số nhân tố khác như: cơ cấu các
ngành kinh tế, tỷ trọng công nghiêp – nông nghiệp – dịch vụ. Trình độ phát triển
càng cao thì cầu về nhân lực có chất lượng cao tăng lên, số chỗ việc làm cũng tăng


lên trong các ngành công nghiệp,dịch vụ và giảm trong ngành nông nghiệp.
Sự mở cửa nền kinh tế: sẽ thu hút vốn , kỹ thuật công nghệ, đa dang hóa
sản phẩm trong nước, làm tăng việc làm. Mở cửa cũng mở rộng thị trường làm
tăng cầu về sản phẩm làm tăng việc làm.

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG VỀ CẦU LAO ĐỘNG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

2.1 Thị trường lao động năm 1986 – 1995
2.1.1 Đặc điểm:
Một số nội dung đổi mới của nhà nước thời kỳ này đã có tác động đến lao
động việc làm của nước ta:
- Phát triển nền kinh tế thị trường hàng hóa.
- Tổ chức lại nền kinh tế, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
- Mở cửa nền kinh tế với bên ngoài.
- Thực hiện Nghị quyết 10 về khoán hộ trong nông nghiệp.
Điều này đã kích thích người nông dân làm việc chăm chỉ hơn, nâng cao hiệu
quả, năng suất lao động, giảm bao cấp tương đối về mặt tài chính đối với các khu
vực quốc doanh và hợp tác xã.
- Quyết định 111 về giảm biên chế trong quân đội và trong các cơ quan
hành chính sự nghiệp.
- Quyết định 176 về giảm biên chế trong các xí nghiệp quốc doanh.

- Các định hướng mới trong các chính sách kinh tế như: thành lập doanh
nghiệp gia đình và sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế ngoài quốc
doanh đã tồn tại từ trước 1986, đến nay được làm rõ thêm và được phép hoat động.
+ Tác động của việc phát triển nền kinh tế thị trường tạo điều kiện cho
ngành thương mại dịch vụ phát triển, tạo thêm việc làm mới. Từ năm 1993, tỷ lệ
lao động trong khu vực thương mại tăng lên song song là tỷ lệ lao động nông


nghiệp giảm xuống.
+ Tác động của giảm biên chế trong khu vực quốc doanh đối với việc làm:
Nếu như trước năm 1970, khu vực kinh tế nhà nước chiếm trên 50 % lao
động thì sau đổi mới đã bắt đầu suy giảm, đạt mức thấp nhất vào năm 1991. Tuy
nhiên từ 1991-1995, khu vực nhà nước phục hồi, và lao động trong khu vực nhà
nước lại tăng lên, lao động tự do giảm.
+ Tác động của việc tổ chức, cơ cấu lại nền kinh tế với việc làm:
Việc tổ chức, cơ cấu lại nền kinh tế ví dụ như việc Nhà nước thay vì đứng ra
lập kế hoạch cho mọi hoạt động sản xuất, phân phối, tiêu dùng thì nay nhà nước để
cho các doanh nghiệp tự lập kế hoạch sản xuất kinh doanh theo thị trường, tự hạch
toán, nhà nước chỉ đóng vai trò định hướng tạo môi trường cho doanh nghiệp phát
triển và thu thuế của doanh nghiệp. Nhờ những đổi mới thông thoáng như vậy mà
doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận luôn có nhu cầu về lao động giỏi có trình độ.
Vì vậy nhu cầu lao động có trình độ cũng tăng lên.
+ Tác động của nghị quyết 10 về khoán hộ với vệc làm:
Nếu như năm 1985 vẫn có khoảng 73% lao động làm việc trong khu vực
nông nghiệp, th́ sau khi có chính sách đổi mới, trước hết là nghị quyết 10 về khoán
hộ đã kích thích người nông dân lao động chăm chỉ, nâng cao năng suất lao động
và dần dần số lao động trong nông nghiệp được chuyển dịch sang các khu vực
khác, đặc biệt là khu vực thương mại dịch vụ. Đến năm 1993, tỷ lệ lao động trong
khu vực nông nghiệp bắt đầu giảm.
2.1.2 Thực trạng:

-

Về tốc độ:

Tốc độ tăng việc làm còn thấp, năm 1995( 1,67%), 1992( 3,34%), 1993( 2,61%).
Trong khi đó tốc độ tăng lao động trong độ tuổi thời kỳ 1989-1993 bình quân là
4,68%. Tốc độ tăng lao động công nghiệp có xu hướng ngày một cao hơn nhưng
so với yêu cầu công nghiệp hóa mạnh mẽ đẻ phát triển, số việc làm công nghiệp
còn thấp.
-

Về chất lượng cầu lao động:

Có xu hướng tăng lên cùng với sự đổi mới nền kinh tế. Nhiều kỹ sư, kỹ thuật viên
được đào tạo trước đây không đủ. Trình độ đáp ứng yêu cầu của công nghệ mới.


-

Về cơ cấu cầu lao động:

Cơ cấu theo ngành: Nông nghiệp là khu vực tạo nhiều việc làm nhất, nhưng tăng
trưởng lại do khu vực công nghiệp và dịch vụ tạo ra. Tỷ trọng việc làm nông
nghiệp trong tổng việc làm đạt mức cao vào năm 1985(73%), đến năm 1993 tỷ lệ
này bắt đầu giảm. Nguyên nhân là do đây là bước đầu của quá trình chuyển dịch
mang tính lịch sử từ các hoạt động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ mà
quá trình này vốn đã bị trì hoãn bấy lâu nay. Từ năm 1993 việc làm trong khu vực
nông nghiệp tăng chậm hơn các khu vực khác, trong khi đó lao động thương mại
tăng lên.
Bảng 2.1: Cơ cấu cầu lao động theo ngành kinh tế

Tổng
Năm

động(triệu
người)

lao

Nông

CN-

nghiệp(%)

XD(%)

Dịch vụ(%)

1991

30,794

72,6

13,9

13,5

1992


31,819

72,9

13,4

13,7

1993

32,716

73,0

13,3

13,7

1994

33,664

70,0

13,2

16,8

1995


34,589

69,7

12,5

17,3

Nguồn: niên giám thống kê.
Biểu 2.1: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế

-

Cơ cấu việc làm theo hình thức lao động:


Hình thức lao động không được trả công nổi trội trong giai đoạn này cùng với
sự phát triển của loại hình kinh tế hộ gia đình mà người làm chủ yếu là người thân,
họ hàng, ¾ các hộ gia đình kinh doanh không phải thuê thêm nhân công vào năm
1991.
Các hình thức lao động được trả lương một phần phát triển trong các xí nghiệp
nhỏ, tư nhân và một số xí nghiệp Nhà nước với những lao động tạm thời gia
công…
-

Cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế:
+ Thành phần kinh tế hộ gia đình: đây là thành phần giải quyết được khối
lượng lớn lao động dôi dư trong khu vực kinh tế Nhà nước khi giảm
biên chế, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
+ Thành phần kinh tế tư nhân: trong giai đoạn này đã phát triển tương đối

khá, thế nhưng tỷ trọng của khu vực trong GDP còn nhỏ, tổng vốn đầu
tư của khu vực này cũng thấp hơn so với khu vực kinh tế Nhà nước rất
nhiều, cho nên số việc làm mà khu vực này giải quyết được chưa cao,
đến năm 1994 khu vực này sử dụng 7% tổng số nhân lực đô thị, năm
1995 khu vực này đã tạo ra được 25% tổng số việc làm của cả nước.
Tính chung, tỷ lệ lao động sử dụng trong cả hai khu vực tăng từ
20%(1990) lên 32%(1991).
+ Thành phần kinh tế Nhà nước: vào cuối năm 1970, thành phần này tạo
ra trên 50% số việc làm, sau đó ít thay đổi từ 1978-1989, thu nhỏ dần và
đạt mức thấp nhất vào năm 1991. Từ năm 1991-1995, khu vực Nhà
nước phục hồi, tuyển dụng lại và số lao động trong khu vực Nhà nước
lại tăng lên. Trong khu vực thành thị, khu vực quốc doanh vẫn có vai trò
lớn trong việc tạo ra việc làm, trong năm 1994, 29% nhân lực đô thị
được sử dụng trong khu vực kinh tế quốc doanh.
+ Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: trong giai đoạn này thành
phần này chưa phát triển mạnh, bị nhà nước kiểm soát chặt chẽ nên số
lượng việc làm tạo ra còn thấp.

2.2 Thị trường lao động năm 1996-2000
2.2.1 Đặc điểm:


Giai đoạn này tiếp tục sắp sếp lại doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa, tư
nhân hóa. Hội nhập kinh tế mạnh hơn, tháng 7/ 1995, Việt Nam chính thức ra nhập
hiệp hội ASEAN.
2.2.2 Thực trạng:
- Về quy mô:Nguồn lao động của Việt nam dồi dào, trẻ, khoảng trên 70%
dân số trong nguồn lao động ở độ tuổi 15- 44. Lao động nông thôn chiếm trên
70%.
- Về cơ cấu:

+ Cơ cấu theo ngành kinh tế: Tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực.
Bảng 2.2: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế(%)
năm

Tổng số lao động Nông

CN-XD(%)

Dịch

(triệu người)

nghiệp(%)

1996

35,729

69,2

12,5

18,2

1997

36,994

68,7


12,5

18,7

1998

38,194

68,2

12,7

19,0

1999

39,394

66,7

12,9

19,3

vụ

(%)

Nguồn: Niên gián thống kê.
Biểu 2.2: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế(%)


Nhận xét: Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp có xu hướng giảm, nhưng rất chậm
chạp. Tỷ trọng lao động trong công nghiệp tăng rất nhỏ, tương tự tỷ trọng lao động
trong ngành dịch vụ cũng tăng rất nhỏ.


+ Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực thành thị, nông thôn:
Bảng 2.3: Lao động có việc làm phân theo khu vực thành thị và nông thôn
năm 1996-2000
Đơn vị (triệu
người)
Cả nước
Tổng
số

Thành thị

Nông thôn

Nam Tổng số

Nam

Tổng số

Nam

1996

35.4


17.4

6.8

3.5

28.6

13.9

1997

35.6

17.6

7.5

3.8

28.2

13.9

1998

37.0

18.4


7.8

4.0

29.2

14.4

1999

38.1

19.0

8.1

4.2

30.0

14.9

2000

38.4

19.3

8.3


4.3

30.1

15.0

2.06

2.63

5.152

5.303

1.305

1.935

Tốc

độ

tăng
TB(%)

Nguồn: niên giám thống kê
Nhận xét:
Số lao động có việc làm trong cả nước tăng từ 35,4 triệu người năm 1996
lên 38,4 triệu người năm 2000 với tốc độ tăng trung bình/ năm là 2,06 %. Số lao

động nam có việc làm tăng với tốc độ tăng trung bình/năm là 2,63%, cao hơn tỷ lệ
của nữ(1,8%). Tỷ lệ tăng lao động có việc làm ở khu vực thành thị trung bình là
5.152352 %/năm trong khi tỷ lệ lao động nam có việc làm ở khu vực thành thị còn
cao hơn, trung bình là 5.303885 %. Tổng số lao động ở nông thôn vẫn còn lớn.
Người lao động tự tạo việc làm cho mình và cho gia đình tăng nhanh:
Bảng 2.4: Lao động có việc làm phân theo vị thế công việc năm 1996-2000
Đơn vị: triệu người
1996

1997

1998

1999

2000

Tổng số

35,4

35,6

37,0

38,1

38,4

Chủ sử dụng


-

0,1

-

-

0,1


lao động
Làm việc cho
bản thân
Làm công
Làm việc gia đình
không công
Khác không
phân loại

12,8

14,8

15,1

16,2

16,5


5,9

6,6

7,8

6,9

7,1

16,2

14,1

14,0

14,6

14,2

0,1

0,1

0,1

0,3

0,5


Nguồn: Số liệu điều tra lao động việc làm từ năm 1996 - 2000
Từ bảng trên cho thấy, làm việc cho bản thân là 14,8 triệu, chiếm 41,5% của
lao động có việc làm cả nước năm 1997 và tăng lên 16,5 triệu năm 2000, tỷ trọng
cũng tăng lên 43.75%. Phần lớn việc làm được tạo ra trong khu vực kinh tế hộ gia
đình và trong khu vực phi chính thức, nên đó cũng là lý do tại sao lao động tự làm
việc cho bản thân chiếm tỷ trọng việc làm lớn nhất so với các hình thức vị thế
công việc khác ở Việt Nam.
Số lao động làm việc gia đình không hưởng công giảm từ 14,1 triệu từ năm
1997 lên 14,2 triệu năm 2000. Tỷ trọng có xu hướng giảm xuống từ 39,5% năm
1997 xuống 36,98% năm2000.
Lao động làm công tăng từ 6,6 triệu năm 1997 lên 7,1triệu người năm 2000.
Tỷ trọng không tăng.
Từ năm 1997-2000 số lượng chủ sử dụng lao động không tăng.
Về thất nghiệp:
Bảng 2.5: Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giai đoạn 1994-2000( %)
Năm

1994

1995

1996

1997

1998

1999


2000

Tỷ lệ

6,1

6,4

5,9

6

6,9

7,4

6,44

Nguồn: Niên giám thống kê 1995 - 2000.
Biểu 2.3: Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giai đoạn 1994 – 2000 (%)


Nhận xét: tỷ lệ thất nghiệp cao nhất vào năm 1999, do ảng hưởng của khủng
hoảng tài chính châu Á.
-

Cầu về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, quản lý, tay nghề, ngoại
ngữ, tin học vẫn tiếp tục tăng.

-


Cầu về lao động làm việc trong khu vực công nghiệp, dịch vụ tiếp tục tăng,
cầu về lao động trong khu vực nông lâm ngư nghiệp có sự giảm tương đối.

-

Về quy mô: quy mô lao động có việc làm tăng lên trong giai đoạn này.

Bảng 2.6: Quy mô lao động có việc làm từ 1996 - 2000
Năm

1996

1997

1998

1999

2000

34352226

34800561

35679558

36205432

1.101


1.305

2.526

1.474

Số lao động
có việc làm 33978024
(người)
Tốc độ(%)

Nguồn: Niên gián thống kê.

Nhận xét: tốc độ tăng việc làm của Việt Nam không theo một xu hướng.
Trong 3 năm 1997, 1998, 1999 tốc độ này liên tục tăng, nhưng đến năm 2000 đột
ngột giảm.
Về xuất khẩu lao động: trong thời kỳ 1980- 1990, lao động Việt Nam chủ
yếu được đưa sang các nước thông qua việc nhà nước ký kết các hiệp định lao
động và trực tiếp thực hiện, chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa đông âu, gồm


Liên Xô cũ, Công hòa Dân chủ Đức(cũ), Tiệp Khắc(cũ) và Bungari. Một Bộ phận
không nhỏ được đưa đi làm việc ở Iraq, Libya và đưa chuyên gia trong lĩnh vực y
tế, giáo dục và nông nghiệp sang làm việc ở các nước châu Phi.
Trong thời kỳ 1991 đến nay: vào cuối những năm 1980, đầu những năm
1990 các nước xã hội chủ nghĩa mà tiếp nhận lao động của Việt Nam đều xảy ra
những biến động về chính trị và kinh tế. Vì vậy, phần lớn các nước này đều không
có nhu cầu tiếp nhận lao động và chuyên gia Việt Nam. Do vậy ngày 9/11/1991,
Chính phủ ban hành nghị định 370/HĐBT về đưa người lao động ở Việt Nam đi

làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Theo Nghị định này, các tổ chức kinh tế được
thành lập và được Bộ lao động thương binh và xã hội cấp giấy phép hoạt động
cung ứng lao động và chuyên gia cho nước ngoài. Việc xuất khẩu lao động và
chuyên gia được thực hiện thông qua các hợp động do các tổ chức kinh tế đó ký
với bên nước ngoài. Đến tháng 8/1998 nước ta đã có 55 tổ chức kinh tế là doanh
nghiệp nhà nước có giấy phép đang hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia.
Tính đến tháng 9/2004, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ xuất khẩu
lao động là 144 doanh nghiệp, trong đó có 118 doanh nghiệp Nhà nước, 11 doanh
nghiệp thuộc các tổ chức đoàn thể, 12 công ty cổ phần và 3 công ty trách nhiệm
hữu hạn. Nhờ đổi mới cơ chế hoạt động xuất khẩu lao động và sự gia tăng số
lượng các doanh nghiệp tham gia vào dịch vụ xuất khẩu lao động và chuyên gia
của Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài gia tăng nhanh chóng. Từ 1991
đến 2005 nước ta đã đưa 320.699 lao động đi làm việc ở nước ngoài(theo số liệu
từ T/c Thị trường lao động).
2.3 Thị trường lao động năm 2001-2005
2.3.1 Về quy mô
Cầu lao động vẫn tiếp tục tăng nhưng với tốc độ không đều.
Bảng 2.7: Quy mô lao động có việc làm từ 2001 - 2005
Năm

2001

2002

2003

2004

2005


Lao động có
việc

làm 37.677.429 39.289.638 39.585.007 42.316.041 43.452.043

(người)
Tốc

độ 4.066

4.279

0.752

6.899

2.658


tăng(%)
Nguồn: Niên giám thông kê.
Nhận xét: tốc độ tăng cầu lao động cao nhất vào năm 2004(6.899%), thấp
nhất vào năm 2003, đến năm 2005 tốc độ tăng lại không mạnh như năm 2004 nữa.
2.3.2 Về chất lượng lao động
Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo của cả nước năm 2005 là 22,5%,
trong đó tỷ lệ tốt nghiệp THCN chỉ đạt 4,4%, tỷ lệ tốt nghiệp CĐ,ĐH chỉ đạt
4,8%. Chất lượng lao động không đồng đều giữa các vùng trong nước, vùng kinh
tế đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ lực lượng qua đào tạo cao nhất cả nước( 31,9%),
tiếp đến là Đông Nam Bộ(31,8%), tiếp đến là duyên hải Nam Trung Bộ, thấp nhất
là Tây Bắc(13,1%).

Bình quân hàng năm giai đoạn 2001-2005 đã có khoảng 983000 lao động đã
qua đào tạo bổ sung vào lực lượng lao động, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển. Lao động đã qua đào tạo vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường, đặc
biệt là các khu đô thị các vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước và kể cả việc xuất
khẩu lao động của Việt Nam đi nước ngoài. Khoảng trống việc làm ở các vị trí cần có
lao động trình độ cao vẫn chưa được lấp đầy, cho dù trong lực lượng lao động xã hội
vẫn tồn tại không ít số lao động đã qua đào tạo nhưng đang thất nghiệp, hoặc phải làm
những việc không phù hợp với chuyên môn, kể cả lao động ở bậc cao đẳng đại học.
Nền kinh tế nước ta xét riêng quan hệ cung cầu lao động, hiện đang đứng
trước mâu thuẫn nan giải, đó là tình trạng dân số tăng nhanh( tuy tỷ lệ sinh hàng
năm đã giảm xuống nhiều so với trước) dẫn đến số lao động tăng nhanh sẽ là
nguồn cung lao động lớn cho quá trình đô thị hóa cùng với sự phát triển ngày càng
gia tăng của các khu công nghiệp, khu chế xuất; thế nhưng chúng ta vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu thực tế, do số lượng lao động đã được đào tạo còn chưa đủ và
chất lượng lao động đã được đào tạo chưa cao, vẫn còn thiếu nhiều lao động có tay
nghề kỹ thuật, nhất là kỹ thuật cao. Đã có tình trạng có doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam nhất quyết phải đưa lao động Nhật sang làm
việc cho dù mức lương phải trả tới 5000 USD/tháng vì không tuyển được lao động
địa phương. Trong khi nếu tuyển tại chỗ lao động Việt Nam thì vị trí đó, doanh
nghiệp chỉ phải trả 500 USD/tháng. Điều này cho thấy hạn chế về trình độ đào tạo


của người lao động Việt Nam.
2.3.3 Cơ cấu lao động
-

Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực thành thị và nông thôn

Bảng 2.8: Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực thành thị và nông thôn
Đơn vị: triệu

người
Cả nước

Thành thị

Nông thôn

Tổng số

Nam

Tổng số

Nam

Tổng số

Nam

2001

39.0

19.7

8.8

4.5

30.2


15.2

2002

40.2

20.4

9.3

4.8

30.9

15.6

2003

41.2

21.0

9.6

5.1

31.6

15.9


2004

42.3

21.6

10.0

5.3

32.3

16.4

2.744

3.117

4.358

5.612

2.266

2.744

Tốc
TB(%)


độ

Nguồn: Niên giám thống kê.
Nhận xét: tốc độ tăng lao động thành thị nhanh hơn so với tốc độ tăng lao động
của cả nước. Tốc độ tăng lao động nam ở thành thị tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao
động chung ở khu vực thành thị. Như vậy cơ cấu lao động theo khu vực thành thị,
nông thôn đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa.
-

Cơ cấu lao động theo vị thế công việc:


Bảng 2.9: Phân loại lao động theo vị thế công việc
Đơn vị: triệu người
2001

2002

2003

2004

Tổng số

39,0

40,2

41,2


42,3

Chủ sử dụng lao động

0,1

0,2

0,1

0,2

làm việc cho bản thân

15,7

16,2

16,9

17,4

Làm công

8,1

8,2

9,0


10,8

14,5

15,2

14,8

13,8

0,6

0,3

0,3

0,0

Làm việc cho gia đình
không công
Khác không phân loại
Nguồn: Niên giám thống kê.

Nhận xét: số lượng chủ sử dụng lao động tăng lên. Số làm việc cho bản thân
cũng tăng lên từ 15.7 triệu người năm 2001( 40,27%) lên 17.4 triệu người(
41.13%). Số lao động làm công cũng tăng lên từ 8.1 triệu người năm 2001( tương
ứng 20.77%) lên 10.8 % năm 2004 ( tương ứng 25.53%). Lượng lao động làm việc
cho gia đình không công đã giảm.
Việc làm trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài: ước tính tạo ra được 3345
nghìn việc làm, với tốc độ tăng trưởng việc làm hàng năm trên 10- 31%. Tuy

nhiên khu vực này luôn trong tình trạng thiếu lao động kỹ thuật.
Bảng 2.10: Lao động kỹ thuật của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài
Đơn vị : người
Năm/ giới

Lao động Sơ

cấp/ Trung

CĐ-ĐH

Tổng

PT

CNKT

cấp

trở lên

2002

155

86

19


30

290

Nữ

113

57

8

15

193

2003

188

87

20

33

328

Nữ


141

58

9

16

224

6 tháng đầu 195

92

21

35

343


2004
Nữ

149

61

10


16

236

Nguồn : Kết quả điều tra doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Lao động bình quân một doanh nghiệp có xu hướng tăng khá từ 2003-2004,
nhưng cơ cấu lao động kỹ thuật không thay đổi nhiều. Lao động phổ thông chiếm
đa số trong tổng số lao động. Cơ cấu lao động có trình độ sơ cấp/CNKT năm 2002
là 1/ 2.88, thấp hơn so với cơ cấu này của lao động nữ 1/ 3.95. Cơ cấu lao động
trung cấp so với lao động CĐ-ĐH trở lên lại có xu hướng ngược lại là số lao động
trung cấp thấp hơn.
So với các nước khác trong khu vực, thì có sự khác biệt rất lớn, ví dụ cơ cấu
lao động CĐ-ĐH, trung cấp, công nhân kỹ thuật của Hàn Quốc khoảng 1:4:18, còn
ở nước ta là 1:0,26:2,27, cơ cấu này chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một trong những nguyên nhân
khiến cơ cấu lao động theo trình độ, tay nghề ở nước ta còn thấp là do công tác
dạy nghề chưa thực sự đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
2.3.4 Việc làm trong các vùng kinh tế trọng điểm
-

Về quy mô việc làm:
Tính chung cả 3 vùng KTTĐ, tại thời điểm 01/07/2005 có 17.919.059

người từ đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, chiếm
41% so với cả nước và tăng 8,77% so với thời điểm 01/07/2004. Trong 3 vùng,
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có tốc độ tăng việc làm rất cao( 18,83%- kể cả
tăng cơ học), hai vùng còn lại tăng chậm( 2,4-2,6%).
-

Về cơ cấu việc làm và xu hướng biến động:

Chia theo 3 khu vực ngành: tính chung cả 3 vùng, có 7.402.504 người làm

việc chính ở khu vực 1( nông, lâm nghiệp và thủy sản), chiếm 41,31%; 4.657.206
người làm việc chính ở khu vực 2( công nghiệp và xây dựng), chiếm 25,99% và
5.859.349 người làm việc chính ở khu vực 3( dịch vụ), chiếm 32,7%.
Chia theo loại hình kinh tế: Tính chung, có 13,77% trong tổng số lao động
có việc làm đang làm việc ở khu vực kinh tế nhà nước, 82,79% làm việc ở khu vực
kinh té ngoài nhà nước, 3,44% làm việc ở khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.


Chia theo quan hệ lao động :Tính chung cả 3 vùng, có 34% trong tổng số lao
động có việc làm đang làm công ăn lương.
2.3.5 Lao động xuất khẩu
Thị trường được mở rộng, số người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài theo hợp đồng lao động cũng tăng lên, chất lượng lao động xuất khẩu ngày
càng cao. Tỷ lệ lao động được giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2005 khoảng
3,42%. Tuy nhiên tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu về chất lượng lao động
có xu hướng gia tăng, đặc biệt là chuyên gia và kỹ thuật viên cũng như công nhân
kỹ thuật bậc cao.


Bảng 2.11: Lao động Việt Nam đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng:
Đơn vị:
người
Tổng

Năm

2001


2002

2003

2004

2005

Tổng

36.168

46.122

75.700

67.442

57.500

282.937

Hàn quốc

3.910

1.190

4.226


4.779

3.850

17.955

Nhật bản

3.249

2.202

2.264

2.752

2.500

12.967

Malaixia

23

19.965

39.624

14.567


19.500

93.679

Đài loan

7.782

13.191

27.981

37.144

20.750

106.849

Các nước khác

21.204

9.574

1.605

8.205

10.900


51.488

2001-2005

Nguồn: Số liệu thống kê Bộ lao động thương binh và xã hội.
Qua bảng trên cho thấy số lao động đi làm việc ở nước ngoài nhìn chung đã
tăng lên so với giai đoạn trước, số lao động đi làm việc ở nước ngoài cao nhất vào
năm 2003.

Hiện tượng lao động đi làm việc ở nước ngoài giảm vào năm 2004 - 2005 một
phần là do
lao động tự ý phá vỡ hợp đồng và lao động bất hợp pháp ở nước ngoài nên làm
mất uy tín.
2.3.6 Về thất nghiệp
a. Thực trạng
Bảng 2.12: Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi ở khu vực thành thị cả
nước và các vùng lãnh thổ giai đoạn 2000-2005(%)
Năm

2000

2001

2002

2003

2004


2005

Cả nước

6,42

6,28

6,01

5,78

5,6

5,31

1. ĐBSH

7,34

7,07

6,64

637

6,03

561


2. Đông Bắc

6,49

673

6,10

5,95

5,45

5,2

3. Tây Bắc

6,02

5,62

5,11

5,1

5,3

4,91


4. Bắc Trung Bộ


6,87

6,72

5,82

5,45

5,35

4,98

6,31

6,2

5,5

5,46

5,7

5,52

6. Tây Nguyên

5,16

5,6


4,9

4,39

4,53

4,23

7. Đông Nam Bộ

6,16

5,9

6,3

6,08

5,92

5,62

8. ĐBS Cửu Long

6,15

6,10

5,5


5,26

25,03

4,87

5. Duyên hải
Nam Trung Bộ

Nguồn: Niên giám thống kê.
Qua bảng trên ta thấy: tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ từ 15 tuổi trở lên của khu
vực thành thị cả nước là 5,13%, giảm 1,2% so với thời điểm 1/7/2000, bình quân
hàng năm giai đoạn giảm được 0,24%. Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi
lao động là 5,31%( giảm 1,11%) so với thời điểm 1/7/2000, bình quân năm giai
đoạn 2001- 2005 giảm được 0,22%. Tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trẻ(15-24 tuổi) là
13,4%, giảm 13,4% so với thời điểm 1/7/2000, bình quân giai đoạn 2001-2005
giảm được 1,13%.
Trong 8 vùng lãnh thổ, vùng đang có tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ
tuổi lao động khu vực thành thị cao nhất là ĐNB và ĐB sông hồng(5,6%), tiếp đến
là Đông Bắc và D.H Nam Trung Bộ.(5,1%-5,5%), các vùng khác tỷ lệ này dưới
5%, so với 1/7/2000, tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động ở khu vực
thành thị đều giảm rõ rệt ở tất cả các vùng.
Tình trạng thất nghiệp đối với nhóm lao động mới tốt nghiệp trong các cơ
sở đào tạo luôn là vấn đề bức xúc. Nguyên nhân của tình trạng này là do: (1) đào
tạo không đúng ngành nghề mà thị trường lao động địa phương đang cần. (2)
không đáp ứng được kỹ năng và tay nghề. (3) tiền lương doanh nghiệp trả quá thấp
so với những chi phí mà người lao động bỏ ra để mưu sinh.(4) cường độ làm việc
cao, điều kiện lao động không đảm bảo, tiền lương không thỏa đáng khiến lao
động phải bỏ việc. (5) thị trường lao động chưa thống nhất còn mamg tính cục bộ,

thiếu bình đẳng trong thu nhập, trong việc thụ hưởng các dịch vụ xã hội giữa
người địa phương với người ngoại tỉnh
b. Nguyên nhân
Trong giai đoạn này nước ta đạt được những thành tựu lớn về giải quyết việc
làm, có thể kể đến một số nguyên nhân sau:


×