Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Sự ảnh hưởng của phật giáo đối với văn hóa tinh thần người việt thế kỷ x XI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.14 KB, 56 trang )

Khóa luận tốt nghiệp đại học

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=======***=======

QUỐC THỊ MINH THÚY

SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO
ĐỐI VỚI VĂN HÓA TINH THẦN
NGƢỜI VIỆT THẾ KỶ X - XI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI, 2015

SV: Quốc Thị Minh Thúy

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=======***=======

QUỐC THỊ MINH THÚY

SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO
ĐỐI VỚI VĂN HÓA TINH THẦN


NGƢỜI VIỆT THẾ KỶ X - XI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. Nguyễn Thị Giang

HÀ NỘI, 2015

SV: Quốc Thị Minh Thúy

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cả ơn chân thành nhất tới ThS. Nguyễn Thị Giang,
người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy, cô trong trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2, đặc biệt các thầy cô trong khoa Giáo dục chính trị đã giảng
dạy em suốt trong thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng như bạn bè đã tạo điều
kiện và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân nên
khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự chỉ bảo của thầy, cô
cũng như các bại sinh viên.
Hà Nội, tháng 05, năm 2015
Tác giả khóa luận

Quốc Thị Minh Thúy


SV: Quốc Thị Minh Thúy

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
ThS. Nguyễn Thị Giang. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05, năm 2015
Tác giả khóa luận

Quốc Thị Minh Thúy

SV: Quốc Thị Minh Thúy

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẬT GIÁO .......................... 5
1.1. Khái quát chung về Phật giáo ............................................................... 5
1.2. Phật giáo Việt Nam thế kỷ X – XI ...................................................... 12
Chương 2. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VĂN HÓA
TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT THẾ KỶ X- XI ...................................... 22

2.1. Phật giáo trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt ................ 22
2.2. Ảnh hưởng tích cực ............................................................................ 24
2.3.Ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo ....................................................... 41
KẾT LUẬN .................................................................................................. 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 50

SV: Quốc Thị Minh Thúy

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo du nhập vào Việt Nam gần 2000 năm và để lại nhiều dấu ấn
sâu sắc trong lịch sử dân tộc. Triết lí Phật giáo đã thực sự ảnh hưởng đến tư
tưởng con người Việt Nam trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội. Điều này
được chứng tỏ khi số lượng Phật tử ngày càng tăng.
Với tư tưởng hòa đồng, đồng thời với tinh thần tư bi và trí tuệ, tư tưởng
Phật giáo đã trở thành một điểm tựa vững chắc, một công cụ sắc bén để giữ
gìn bản sắc dân tộc, chống lại âm mưu đồng hóa của phong kiến phương Bắc
suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
qua các thời kỳ lịch sử, tinh thần Phật giáo đã ảnh hưởng tới tất cả các mặt
của đới sống xã hội người Viêt. Bản thân Phật giáo cùng các bậc cao tăng
cũng có những đóng góp đáng kể vào sự hưng thịnh của quốc gia, sự trường
tồn của dân tộc. Chính vì vậy một số triều đại phong kiến đã rất chú trọng tới
quan hệ Phật giáo. Dưới triều đại nhà Lý( thế kỷ X –XI), Phật giáo đã trở
thành quốc giáo và giữ vai trò trụ cột trong đời sống văn hóa xã hội Đại Việt.
Tôn giáo này có tầm quan trọng rất lớn trên tất cả mọi mặt từ chính trị đến

kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, nghệ thuật, phong tục tập quán.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thực tiễn đổi
mới và hội nhập quốc tế 25 năm qua, các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói
riêng đã có những đóng góp không nhỏ. Tuy nhiên thực tế cũng đã và đang
đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, nóng bỏng đòi hỏi những con người mới của
thời đại cần có cái nhìn đầy đủ và toàn diện về Phật giáo.
Nghiên cứu về vấn đề “Sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa
tinh thần người Viêt thế kỷ X –XI” sẽ góp phần rút ra bài học hữu ích cho
việc xây dựng và thực thi chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước

SV: Quốc Thị Minh Thúy

1

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
Việt Nam, đồng thời sẽ tìm thấy từ lịch sử những kinh nghiệm quý báu cho
giáo hội, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trên con đường đồng hành cùng dân tộc.
2. Lịch sử nghiên cứu
“Đại Việt sử ký toàn thư”, được in khắc lần đầu tiên năm Chính Hòa thứ
18 (1697), gắn liền với tên tuổi của các nhà sử học nổi tiếng như Lê Văn Hưu,
Ngô Sĩ Liên, Lê Huy. Đây là nguồn tài liệu quan trọng để nghiên cứu tiến
trình lịch sử dân tộcViệt Nam từ đầu khởi nguyên cho tới thời Hậu Lê nói
chung và Phật giáo nói riêng. Các tác giả sâu này đều coi đây là tài liệu gốc
cho việc nghiên cứu tư tưởng chính tri, văn hóa, ngoại giao, quân sự và tôn
giáo của các triều đại phong kiến Việt Nam.
“Việt Nam Phật giáo sử lược” của hòa thượng Thích Mật Thể, xuất bản
lần đầu năm 1943, sau đó được tái bản năm 1970, 1996. Có thể coi đây là

cuốn sử Phật giáo đầu tiên của thời cận đại Việt Nam, được biên soạn tương
đối bài bản, với các tư liệu có giá trị để dựng lên bức tranh tổng thể của Phật
giáo Việt Nam viết bằng chữ Quốc ngữ. Cuốc sách này tuy tính học thuật
chưa cao nhưng những sự kiện lịch sử đã được tác giả sắp xếp có thứ tự cụ thể
giúp cho người đọc dễ đọc, dễ nhớ.
“Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của tập thể các tác giả do Nguyễn Tài
Thư chủ biên, Nxb Khoa học xã hội tại Hà Nội, năm 1991. Công trình này
tiếp cận lịch sử Phật giáo chủ yếu ở góc độ lịch sử tư tưởng.
“Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Duy Hinh, xuất bản năm
1999 chủ yếu đi sâu nghiên cứu hệ tư tưởng của Phật giáo nói chung và của
các bậc cao tăng đức độ trong Phật giáo, trong đó cá cả bậc minh quân xuất
gia tu hành giác ngộ, qua đó cho thấy vai trò của Phật giáo trong xã hội đương
thời, và mối quan hệ giữa Phật giáo và hệ thống chính trị của triều đại nhà Lý
Cuốn sách “Phật giáo đời lý” của Tăng, Ni sinh khóa VI chuyên ngành
Phật giáo Việt Nam thực hiện chào mừng đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội

SV: Quốc Thị Minh Thúy

2

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
do Nxb Tôn giáo in năm 2010. Qua các bài viết của Tăng, Ni sinh có thể thấy
được giá trị hào hùng của dân tộc qua hàng nghìn năm, nhưng vẫn chảy trong
huyết quản của mỗi người dân Việt Nam nói chung và của Tăng Ni nói riêng.
Liên quan đến khóa luận này có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu
Việt Nam và nước ngoài về lịch sử Phật giáo, đặc điểm của Phật giáo Việt
Nam thế kỷ X- XI. Các công trình này, đều đã đem lại cái nhìn khái quát

những nội dung tư tưởng Phật giáo và ảnh hưởng của nó tới đời sống xã hội
Việt Nam từ xưa cho tới nay. Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về Phật
giáo, nhưng về đề tài: “Sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa tinh thần
người Việt thế kỷ X – XI” thì chưa có hoặc nếu có cũng mới chỉ phân tích
từng khía cạch mà chưa tập trung . Vì vậy tôi đã chọn đề tài khóa luận này
làm đề tài khóa luận của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
Mục đích của khóa luận là nghiên cứu sự ảnh hưởng của Phật giáo đến
đời sống văn hóa tinh thần người Việt thế kỷ X – XI.
Để thực hiện mục tiêu trên hóa luận có những nhiệm vụ sau:
+ Khái quát chung về Phật giáo, sự ra đời, những giáo lý, giáo điều của
Phật giáo và quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam.
+ Nghiên cứu sự ảnh hưởng của Phật giáo đến các lĩnh vực: đạo đúc,
phong tục tập quán, lễ hộ, nghệ thuật của người Việt thế kỷ X- XI.
+ Chỉ ra nguyên nhân của những mặt tích cực và tiêu cực của Phật giáo
và ảnh hưởng của nó đến văn hóa tinh thần người Việt thế kỷ X-XI.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa tinh
thần người Việt thế kỷ X- XI.
Phạm vi nghiên cứu đó là một số mặt của đời sống tinh thần như: đạo
đức, phong tục tập quán, lễ hội, nghệ thuật.

SV: Quốc Thị Minh Thúy

3

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học


Thời gian nghiên cứu thế kỷ X- XI.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề ra, khóa luận đã sử dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa,
lịch sử - lôgíc.
6. Ý nghĩa của khóa luận
Khóa luận làm rõ những ảnh của Phật giáo đến văn hóa tinh thần người
Việt thế kỷ X – XI.
Làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chính quyền trong các chính
sách về tôn giáo ở Việt Nam.
Khóa luận còn làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên trong việc tìm
hiểu những ảnh hưởng của Phật giáo ở thế kỷ X- XI.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khỏa, phần mục lục, nội
dung của khóa luận gồm 2 chương và 5 tiết.

SV: Quốc Thị Minh Thúy

4

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
Chƣơng 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẬT GIÁO

1.1. Khái quát chung về Phật giáo

1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo
Người sáng lập Phật giáo tên là Đà (hay buddha). Đạo Phật chính là
giáo lý của Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6
đến thế kỷ thứ 9 trước công nguyên, Phật giáo được lưu hành rộng rãi ở các
nước trong khu vực Á – Phi, gần đây được truyền bá tới các nước Âu – Mỹ.
Trong quá trình truyền bá của mình, đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng,
phong tục, dân gian, văn hóa bản địa để hình thành rất nhiều tông phái và
học phái, có tác động vô cùng quan tọng tới đời sống xã hội và văn hóa của
rất nhiều quốc gia.
Đến năm 29 tuổi, một lần Hoàng tử ra khỏi cung điện dạo chơi, thấy một
cụ già, hôm khác lại thấy một người ốm, lần khác nữa lại thấy một người chết.
Những cảnh khổ của con người như vậy đã in sâu vào tâm trí Hoàng tử. Vì
vậy, Hoàng tử quyết tâm từ bỏ cuộc sống gia đình êm ấm để đi tìm con đường
cứu vớt mọi nỗi khổ đau của loài người.
Ông bỏ nhà, lẻn ra đi, trút bỏ bộ quần áo hoàng bào ở trong rừng, lấy
kiếm cắt tóc trở thành một người tu hành.
Ông đi tìm gặp những ngừơi tu hành lâu năm để học hỏi, nhưng không
thỏa mãn. Ông rủ năm người bạn đến núi Tuyết Sơn và tu luyện khổ hạnh
suốt 6 năm, nhưng không tu được kết quả gì. Ông cho rằng con đường tu
luyện đó là sai lầm.
Ông tìm đến gốc cây bồ đề lấy cỏ làm nệm, ngồi tập trung suy nghĩ, tĩnh
tâm. Sau 49 ngày đêm, tư tưởng của ông đã sáng tỏ, đắc đạo. Ông đã hiểu ra
quy luật của cuộc đời, bản chất của sự tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau. Từ

SV: Quốc Thị Minh Thúy

5

Lớp:K37- GDCD



Khóa luận tốt nghiệp đại học
đó ông được gọi là Butđa (“Người đã giác ngộ” hoặc “người đã hiểu được
chân lý”) – Phật.
Ông rủ 5 người cùng tu luyện khổ hạnh trước đây để giác ngộ cho họ, rồi
cùng họ trong suốt 40 năm đi khắp nơi để tuyên truyền những tư tưởng của
mình. Những tư tưởng học thuyết đó là đạo Phật.
Đến năm 80 tuổi, biết mình cao tuổi, sức yếu, Đức Phật cùng các môn đồ
trở về chân núi Hymalaya nơi ngài sinh ra và lớn lên. Trên đường Phật đã
chuẩn bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập được sau khi ngài viên
tịch, và tồn tại một nơi thuộc phạm vi thành phố Cusinagara Phật đã ra đi.
Câu nói cuối cùng của Phật là: “ Hỡi các tì kheo tất cả những gì đang tồn tại
rồi sẽ ra đi. Vậy các ngươi không nên ngừng gắng sức!”.
1.1.2. Những giáo lý, giáo điều căn bản của Phật giáo
Phật là tên theo âm Hán Việt của Buddh, có nghĩa là giác ngộ. Phật giáo
là hình thức giáo đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ Đức Phật, tức từ
biển lớn trí tuệ và từ bi của Siddharta.
1.1.2.1. Kinh điển
Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh
điển rất lớn, được tổ chức thành ba bộ kinh diển lớn gọi là tam tạng gồm:
- Tạng luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo quy định cho cả
năm bộ phái Phật giáo như: “ Tứ phần luận” của thượng tọa bộ, Maha tăng kỷ
luật của “ Đại chúng bộ”, “ can bản nhất thiết hữu bộ luật”... Sau này còn có
các bộ luật của Đại thừa như An Lạc, Phạm Võng.
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều
tập dưới dạng các tiền đề, mỗi tập dược gọi là một Ahàm.
- Tạng luật: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật
giáo. Tạng luật gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm và
giáo pháp của Phật giáo.


SV: Quốc Thị Minh Thúy

6

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về thế giới quan và
nhân sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
1.1.2.2. Thế giới quan
Phật giáo cho rằng, vũ trụ là bao la, vô cùng, vô tận. Vạn vật trong thế
giới chỉ là sự biến hóa vô thường, vô định không do một vị thần, một lực
lượng siêu nhiên hoặc Brahman nào sáng lập ra. Thế giới này, kể cả con
người được cấu thành bởi sự liên hợp của hai yếu tố “Sắc” và “danh”. Sắc là
yếu tố vật chất, là cái có thể cảm giác được. Nó bao gồm đất, nước, lửa và
không khí. Danh là yếu tố tinh thần, là cái tâm lí không có hình chất mà chỉ có
tên gọi. Nó bao gồm: Thụ, Thưởng, Hành và Thức.
Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân
tích nhân – quả. Theo Phật giáo nhân – quả là một chuỗi liên tục không gián
đoạn và không hỗn loạn, có nghĩa là nhân nào quả ấy. Mối quan hệ nhân –
quả này Phật giáo thường gọi là nhân duyên với ý nghĩa là một kết quả của
nguyên nhân nào đó sẽ là nguyên nhân của một kết quả khác.
Giáo lí cơ bản của thuyết Phật giáo là thuyết “Duyên khởi”. Duyên khởi
là cách nói tắt của: Chủ pháp do nhân duyên nhi khởi. Nghĩa là các pháp đều
do “nhân duyên” mà ra. Pháp là quy luật phát triển của sự vật, đồng thời cũng
là bản thân sự vật.
Theo giáo lí nhà Phật, nhân loại và các loài sing động vật đều tự tạo,
hoặc thụ động. Vũ trụ không phải đồng tâm; nó là môi trường cộng tác của
vạn hữu. Phật giáo không tin rằng vạn hữu đến từ một nguyên nhân, nhưng

cho rằng mọi vật nhất định được tạo thành ít nhất là hai nguyên nhân. Nhưng
sáng hóa hay biến thành của các nguyên nhân đi trước nối tiếp trong liên tục
thời gian, từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, như một chuỗi dây xích. Chuỗi
dây xích này được chia làm 12 bộ phận, gọi là 12 duyên sinh hay Duyên khởi
(vô minh, hành, thức, danh sắc, lục thập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử).

SV: Quốc Thị Minh Thúy

7

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
Vì các bộ phận này liên tục nên chúng được gọi lầ Duyên khởi hay chuỗi
duyên sinh. Cái này có, cái kia có; cái này sinh, cái kia sinh; cái này không,
cái kia không; cái này diệt, cái kia diệt. Nói cách khác, vạn hữu vận hành theo
quy trình thành, trụ, hoại, không.
Mọi vật đều có “nguyên nhân” mà thành. Sacchs Phật nói: „ Vật này có,
cho nên vật kia có, cái này diệt thì cái kia cũng diệt”.
Nghĩa là mọi vật đều có liên quan mật thiết với nhau. Không có thực thể
nào tồn tại riêng biệt.
Nhưng “Duyên khởi” sinh ra vạn vật, nên Phật giáo chủ trương “Vô
giả”, “Vô ngã”, “Vô thường”.
Vô tạo giả: là không có vị thần linh tối cao tạo ra vũ trụ. Đây là nội
dung cơ bản của đạo Phật chống lại đạo Bàlamôn. Đạo Bàlamôn cho rằng:
Mỗi con người đều có bản ngã, nghĩa là có linh hồn. Còn đạo Phật cho
rằng: không có gì, chỉ có một mình tức là không có nhân và duyên mà có
thể tồn tại mãi mãi được. Do vậy không thể có bản ngã tồn tại, cũng như
không có linh hồn bất tử.

Vô thường: Là mọi sự vật và luôn biến đổi và tiêu diệt trong chốc lát.
Thế giới sự vật và hiện tượng luôn luôn biến đổi theo chu trình: Sinh – trụ - dị
- diệt (hoặc: thành – trụ - hoại – không) theo luật nhân quả.
Sinh – diệt là hai quá trình xảy ra trong mỗi sự vật, hiện tượng cũng như
trrong toàn vũ trụ. Thế giới ày là sự hoại – không của thế giới khác, pháp
khác, cứ như vậy mà tiếp diễn. Các pháp chuyển động, biến đổi đều bị chi
phối bởi luật nhân duyên.
Nhân là mầm tạo quả. Duyên là điều kiện, phương tiện. Nhân duyên hòa
hợp thì sự vật sinh. Nhân duyên tan rã thì sự vật diệt. Tùy theo nhân duyên
mà hợp thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. Một sự vật, hiện tượng không
phải do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân duyên đã có từ trước.

SV: Quốc Thị Minh Thúy

8

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
Trong vũ trụ, nhân – duyên là vô tận. Do đó các sự vật, hiện tượng quan hệ
mật thiết với nhau, nương nhờ chi phối lẫn nhau. Thế giới sự vật, hiện tượng
biến đổi ở các trạng thái sắc (hữu hình) và không (vô hình). Sắc – không là
hai dạng tồn tại của vạn pháp.
Như vậy thế giới luôn biến đổi, vô thủy, vô chung, không có bắt đầu,
không có kết thúc. Thế giới sự vật biến đổi không phải do thần thánh, mà là tự
nó (tự kỉ nhân quả). Sự vật hiện tượng do con người nhận biết qua thần sắc,
hình tướng chỉ là giả tạm. Do đó thế giới khách quan đang tồn tại chỉ là hư ảo,
không có thực, là vô thường.
Đây chính là mấu chốt của sự chuyển hóa từ thế giới quan duy vật sang

nhân sinh quan yếm thế, không tưởng có tính duy tâm của đạo Phật.
1.1.2.3. Nhân sinh quan
Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự “giải thoát”
(Moksa) khỏi vòng luân hồi, “nghiệp báo” để đạt tới trạng thái tồn tại “Niết
bàn” (Nivara). Nội dung triết học nhân sinh tập trung trong thuyết “Tứ diệu
đế” với ý nghĩa là bốn chân lý tuyệt vời: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
Khổ đế (dukkha): Là chân lý về bản chất của nỗi khổ. Khổ là gì? Là
trạng thái buồn phiền ở con người. Phật giáo cho rằng: Cuộc đời con người là
một bể khổ, con người sinh ra đã mang sẵn cho mình nỗi khổ: “sinh-lão-bệnhtử” là bốn cái khổ không ai tránh khỏi. Năm mối quan hệ gắn bó, năm giác
quan (mắt, mũi, tai, lưỡi, da) với năm ngoại cảnh (màu sắc, mùi, vị, âm thanh,
cảm giác), mà không được toại nguyện gọi là ngũ uẩn khổ, đó là cái khổ thứ
năm. Cái khổ với ý thức mong muốn giàu sang mà không đạt được gọi là sở
cầu bất đắc khổ (muốn mà không được), là cái khổ thứ sáu. Trong cuộc sống
hằng ngày muốn sum họp, yêu thương nhau lại cứ phải chia ly, lìa xa nhau là
thụ biệt ly khổ, cái khổ thứ bảy. Ngược lại không muốn sống chung, ghét
nhau như muốn xúc đất đổ đi mà cứ bắt buộc ở gần nhau, gọi là oán tăng hội

SV: Quốc Thị Minh Thúy

9

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học

khổ, cái khổ thứ tám.
Tóm lại, dukkha trong Phật giáo có ý nghĩa rất rộng, vừa mang ý nghĩa
của từ khổ thông thường, nhưng nó còn bao gồm cả những gì bất toàn, những
gì không như ý, những gì thay đổi...trong khi Kính pháp luân, Phật dạy: “sự

chấp lấy thân này là không thể”. Dukkha không có gì khác ngoài việc không
thỏa mãn những gì trong cuộc sống và tình cảm của chúng ta.
Tập đế - hay Nhân ( nghĩa là tích tụ, tập trung mà khởi lên):
Đây là chân lý về nguyên nhân nỗi khổ. Đó là “ái dục” ( ham muốn) và “
vô minh” ( kém sáng suốt).
Dục vọng thể hiện thành hành động gọi là “ Nghiệp” (Karma).
Hành động xấu khiến con người phải nhận tội lỗi, hậu quả của nó
(Nghiệp báo), thành ra cứ luẩn quẩn trong vòng luân hồi không thoát ra được.
Đây là thuyết “Nhân – quả” (Nhân nào – quả nấy).
Diệt đế: Là chân lí nói về lối thoát cho khổ đau. Đây là chân lí cao cả về
chấm dứt sự khổ, đó là Niết bàn (Nirvana).
Muốn diệt trừ được khổ đau phải diệt cội gốc chính của nỗi khổ. Đó là lòng
khao khát hay tham ái, bởi thế Niết bàn còn là diệt ái, sự diệt hẳn dục vọng.
Niết bàn là cái tuyệt đối không bị giới hạn, là sự diệt tắt của ham muốn,
vọng tưởng, hận thù. Con người có thể chấm dứt được khổ đau ngay trong
cõi đời này. Người chứng ngộ chân lí Niết bàn là người nhiều hạnh phúc
nhất trần gian. Người ấy thoát khỏi mặc cảm và ám ảnh, phiền não, lo âu,
sức khẻo, tinh thần thoải mái, không tiếc quá khứ, không mơ mộng về tương
lai, thông cảm và khoan dung. Họ phục vụ người khác trong sạch, không
nghĩ về mình, không vụ lợi, họ thoát khỏi ảo tưởng về ngã và lòng khát
khao.
Đạo đế: Là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ. Tức là phương thức thục
hiện về việc diệt khổ. Theo nhà Phật thì con người có thể đạt được chính đạo

SV: Quốc Thị Minh Thúy

10

Lớp:K37- GDCD



Khóa luận tốt nghiệp đại học
trong tu hành, đi lên cõi Niết bàn, được giải thoát không còn khổ đau. Đồng
thới đòi hỏi phải thực hiện tu luyện ba môn học:
- Giới: Rèn luyện đạo đức.
- Đinh: Tư tưởng
- Tuệ: Khai sáng trí tuệ
Ba bộ môn này cụ thể hóa trong con đường “Bát chính đạo” ( Tám con
đường đúng đắn).
1. Chính ngữ: Giữ lời nói chân chính.
2.Chính nghiệp: Nghiệp có tà nghiệp và chính nghiệp. Nếu là tà nghiệp (
sát hại, trộm cướp...) thì phải tu sửa cải tạo, nếu là chính nghiệp thì phải giữ
cho vững. Có thân nghiệp (do hành động gây ra), khẩu nghiệp (do lời nói gây
ra) và ý nghiệp (mới trong ý nghĩ).
3. Chính mệnh: Phải tiết chế dục vọng, tì giới ( giữ các diều răn).
4. Chính niệm: Phải thường hằng nhờ Phật, niệm Phật.
5. Chính định: Phải tĩnh lặng, tập trung tư tưởng mà suy nghĩ về Tứ diệu
đế, về vô ngã, vô thường, khổ.
6. Chính kiến: Hiểu đúng đắn, nhất là Tứ diệu đế.
7. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn.
8. Chính tinh tiến: Phải hăng hái, tích cực trong việc tìm kiếm và truyền
bá chân lý của Phật.
Theo giáo lý Phật giáo, Đạo là 8 con đường đúng, tựu chung là loại trừ
mọi ham muốn hay xa lánh những cám dỗ trần tục.
Đây là hình thức tu thân, hướng tới chân lý của Phât là không phân biệt về
mức độ thực hiện và hiệu quả giữa các sắc đẳng. Sự tự tu và tinh thần trái
ngược với sự phân biệt đẳng cấp. Điều đó đã hạ uy thế của tầng lớp tăng nữ
Bàlamôn, cũng như khuôn mặt chật hẹp của các quốc gia cổ đại sơ kỳ ở Ấn Độ.
Phật giáo là một tôn giáo nhưng mang tính chất duy vật khi giải thích về


SV: Quốc Thị Minh Thúy

11

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
thế giới vật chất, vũ trụ. Theo ý kiến của một số hòa thượng trong Giáo hội
Phật giáo Việt Nam thì Phật giáo không phải là duy vật mà cũng không phải
là duy tâm, mà là cầu nối giữa duy vật và duy tâm.
Phật giáo không tôn thờ vị thần nào cả, mà cũng không tự cho mình là
thần, mà đưa ra một triết lý về nhân sinh quan; được con người cảm phục,
tôn sùng.
Giáo lý của Phật có kế thừa Vêđa, có phần không rõ ràng, triệt để, nhưng
những biện pháp, những con đường thực hiện có ý nghĩa tích cực, đáp ứng
những yêu cầu xã hội Ấn Độ trong suốt 6 thế kỷ TCN. Đó là những biện pháp
rèn luyện đạo đức, bản lĩnh (diệt ác, hướng thiện), khuyến khích xóa bỏ ranh
giới chật hẹp của công xã nông thôn, các tiểu quốc, đi tới thông nhất, phát
triển cao hơn của Ấn Độ.
Phật giáo tiếp thu một cách căn bản những quan điểm của đạo Bàlamôn
và làm phong phú thêm cho những quan niệm này.
Những quan niệm của Phật cho thấy những nhu cầu phát triển mới của
Ấn Độ. Việc đề cao con đường “giải thoát” nhân thân (con người) bằng diệt
dục, chống đối mọi ham muốn về sắc, danh, lợi đã nói lên sự khác biệt trong
xã hội đương thời của đạo Bàlamôn. Đó là sự chống dối bon chen, cạnh tranh
của một xã hội tư hữu, phân chia đẳng cấp, và sự khổ sở vì tham lam.
Quan niệm của Phật vầ sự giải phóng là tự mình, có nghĩa là không cần
sự can thiệp của tăng lữ. Mọi người đều có thể tu luyện thực hiện như nhau,
nghĩa là không có sự phân biệt đẳng cấp, xã hội, quốc gia. Con đường giải

thoát mở ra cho mọi người.
1.2. Phật giáo Việt Nam thế kỷ X – XI
1.2.1. Sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam
1.2.1.1. Nguồn gốc nguyên thủy Ấn Độ của Phật giáo Việt Nam
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước căn bản đầu tiên

SV: Quốc Thị Minh Thúy

12

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
thật ra không phải xuất phát từ Trung Hoa, mà chính là được truyền sang trực
tiếp từ Ấn Độ. Dựa trên những chứng liệu lịch sử đáng tin cậy, một số nhà
nghiên cứu chuyên sâu, có uy tín về Phật giáo đã khẳng định điều này. Trong
cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, Giáo sư Trần Quốc Vượng khẳng định:
“Đạo Phật từ Giao Châu chắc chán do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp, mãi về
sau mới lại do từ Trung Hoa tiếp tục truyền xuống” [18,tr.105].
Quốc gia

u Lạc đã bị Nam Việt của Triệu Đà thôn tính vào năm 179

TCN, và lập thành quận Giao Chỉ. Năm 110 TCN, Nam Việt trở thành nội
thuộc của nhà Hán, Giao Châu theo đó mà cũng quy về, và được chia thành
hai quận là Giao Chỉ và Cửu Chân.
Trên lãnh thổ của nhà Hậu Hán, sau đó đã tồn tại ba trung tâm Phật
giáo là Luy Lâu, Lạc Dương và Bành Thành. Ta có thể đồng ý với sử gia
Nguyễn Lang rằng: “Nhiều dữ kiện hiến chúng ta nghĩ trung tâm Luy Lâu

được hình thành sớm và trung tâm nà đã làm bàn đạp của sự hình thành các
trung tâm Bành Thành và Lạc Dương”. Tức là nửa sau thế kỷ thứ hai, Luy
Lâu đã tồn tại như một trung tâm Phật giáo quan trọng và phồn thịnh. Điều
này cho thấy việc du nhập Phật giáo vào Giao Châu là rất sớm, có lẽ từ đầu
công nguyên.
Vào đầu công nguyên, Ấn Độ đã có được sự giao thương mạnh mẽ với
Trung Đông, và gián tiếp với vùng Địa Trung Hải, do đó họ cần có một nguồn
cung cấp nguyên vật liệu, vật phẩm cho sự giao thương này. Họ giong buồm,
theo gió mùa tây nam mà đi về đông. Họ đến Giao Chỉ, rồi có thể từ Giao Chỉ
mà lại theo tiếp đường biển hay đường bộ vào trong nội địa Trung Hoa. Trong
khi đợi gió mùa đông bắc để quay về Ấn, sự lưu trú của số thương gia này đã
lan truyền dần những nét văn hóa Ấn Độ, trong đó có việc thờ cúng Phật, tụng
kinh

Những tăng sĩ mà các thương nhân đem theo trên thuyền buôn nhằm

làm công việc cầu khấn sự phù trợ của đức Phật, là những người đã trực tiếp

SV: Quốc Thị Minh Thúy

13

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
truyền bá Phật học và lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu.
Ngoài ra, một số lập luận đáng chú ý khác cũng củng cố nguồn gốc khởi
thủy sớm sủa từ Ấn Độ của Phật giáo Việt Nam so với Phật giáo Trung Hoa.
Theo sách “Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục” do nhiều vị sư nối tiếp nhau biên

soạn, đã chép truyện Thiền Sư Trí Không vào cung điện giảng kinh Phật cho
hoàng hậu Ỷ Lan. Hoàng hậu có hỏi Phật giáo nước ta có từ bao giờ? Nhà Sư
Trí Không dẫn lời quốc sư Đàm Thiên (Trung Quốc) khi trả lời Thái hậu Linh
Khải vợ vua Tùy Văn Đế hỏi về tình hình Phật giáo ở Giao Châu. Nhà sư
Đàm Thiên trả lời: “Giao Châu có đường thông với Thiên Trúc (Ấn Độ), khi
Phật giáo mới tới Giang Đông chưa đầy đủ thì ở phủ Luy Lâu của Giao Châu
đã có tới 20 ngôi chùa, độ được 500 vị tăng già và dịch được 15 cuốn kinh
rồi. Như vậy là Phật giáo được truyền vào Giao Châu trước khi truyền đến
Giang Đông vậy”.
Theo đó thì vào thời kỳ nhà Hán, Khổng và Lão giáo, đặt biệt là Khổng
giáo, đã rất mạnh, giới trí thức Khổng, Lão đã chống lại Phật giáo, một luận
thuyết tỏ ra khá xa lạ với những chuẩn mực đạo đức, xã hội của Khổng, Lão.
Do đó mà Phật giáo rất khó để có thể thâm nhập. Người Hán muốn đưa Phật
giáo vào, sau đó đã phải mượn thuyết “hóa Hồ” để dễ dàng hơn trong việc
thực hiện công việc này . Trong khi đó, ở Giao Châu, Phật giáo xem ra rất
phù hợp với tín ngưỡng dân gian, nên việc thâm nhập không gặp trở ngại, mà
lại còn dễ dàng và nhanh chóng.
Dù từ Trung Hoa đã có con đường bộ đi đến Ấn gần hơn đường biển,
nhưng con đường xuyên qua Trung Á lại chứa đựng nhiều hiểm nguy, và
đường biển lại là con đường an ninh hơn, không có núi non, sa mạc, hay cướp
bóc, giết chóc. Bằng chứng là vào đầu thế kỷ thứ tư, con đường bộ đã dễ đi
hơn, nhưng đến cuối thế kỷ này, Pháp Hiển mới từ Trung Hoa sang Ấn, và
đến tận thế kỷ thứ bảy, Huyền Trang đã phải trải qua không biết bao nhiêu

SV: Quốc Thị Minh Thúy

14

Lớp:K37- GDCD



Khóa luận tốt nghiệp đại học
gian nan mới đi trọn vẹn con đường.
Ngoài ra còn có hai chứng liệu rất quan trọng cho nguồn gốc rất sớm của
Phật giáo Việt Nam. Thứ nhất, tập luận thuyết Phật giáo đầu tiên bằng Hán tự,
Lý hoặc luận của Mâu Tử (165 170 - ) đã được viết ở Giao Chỉ, chứ không
phải ở một nơi nào khác sâu trong nội địa Hán. Thứ hai, vào thế kỷ thứ hai, ở
Giao Chỉ đã có một tăng đoàn đến 500 vị và khoảng 15 bộ kinh, trong khi đến
thế kỷ thứ ba ở Hán mới có tăng đoàn.
Như vậy, khởi thủy du nhập của Phật giáo vào Việt Nam là từ Ấn Độ,
Qua các đoàn thuyền buôn mà người Ấn đã đem vào nước ta những sinh hoạt
và giáo lý Phật giáo. Trên đất Giao Chỉ vốn đã hình thành một nền tín ngưỡng
bản địa. Đối với người dân nơi nà , Ông Trời là một đấng ở trên cao, thấu
hiểu mọi việc, biết rõ người tốt kẻ xấu, từ đó mà phù giúp người hiền, trừng
phạt kẻ ác. Quan niệm này khiến cư dân Giao Chỉ dễ tiếp nhận thuyết nhân
quả, nghiệp báo của nhà Phật. Ngoài Ông Trời, họ cũng quan niệm có những
vị thần thánh khác như Thần Sấm, Thần Mưa

như là những thủ hạ của Ông

Trời. Họ cũng coi Ma Xó là linh hồn của người chết còn tồn tại quẩn quanh
trong nhà để phù trợ cho gia đình. Điều này làm cho họ cảm thấy dễ gần gũi
khi thuyết luân hồi tiếp xúc với họ. Người Giao Chỉ cũng tin vào nguồn gốc
con rồng cháu tiên của mình. Thêm vào đó, trong thời đại lịch sử này, người
Giao Chỉ không hề là những tín đồ trung kiên của Khổng, Lão giáo, nên sự
thâm nhập của Phật giáo không gặp phải sự cản trở có ý thức.
Sự hòa hợp giữa tín ngưỡng bản địa có sẵn với những sinh hoạt văn hóa,
giáo lý cơ bản của Phật giáo đã hình thành nên một loại tín ngưỡng Phật giáo
bình dân trong thế kỷ đầu tiên của công lịch.
Người Giao Chỉ xưa quan niệm Phật như một vị Bụt (xuất phát từ

“Buddha”), có phép thần thông, nghe và biết mọi chuyện như Ông Trời,
nhưng Bụt không ở trên cao, mà thân cận với mọi người. Bụt hiện ra dưới

SV: Quốc Thị Minh Thúy

15

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
nhiều hình thức để cứu người, giúp đời. Bụt thương người nhưng không trừng
phạt kẻ ác như Ông Trời vẫn làm. Phép Bụt là biểu hiện của quan niện về
pháp trong thời kỳ này. Đó là phép thần thông của Bụt. Mà cũng là điều người
ta làm theo nếu tin vào Bụt, như đọc tam quy, cúng dường, bố thí...Pháp cũng
là niềm tin vào nghiệp báo, luân hồi, linh hồn bất diệt. Quan niệm về Tăng khi
đó chỉ dừng lại ở tăng môn, chưa phải tăng đoàn. Đó là những tu sĩ khoác áo
vàng, đầu cạo trọc, rời bỏ gia đình, của cải, thờ Bụt, đọc Kinh Phạn. Quan
niệm về nghiệp báo, luân hồi là ở sự làm lành gặp lành. Người ta cũng quan
niệm về từ bi, công đức, làm công đức cho kiếp sau được tốt đẹp là dân thức
ăn cho tăng môn, bố thí cho người nghèo khó. Quan niệm tiết dục cũng là ở
chỗ bỏ bớt những hưởng thụ cho riêng mình.
Vào thế kỷ thứ hai, sự xâm nhập của Phật giáo đã ở vào một giai đoạn
mới. Đã hình thành tăng đoàn, công việc hành đạo từ đó cũng đi vào tổ chức,
các tăng sĩ bắt đầu dịch kinh, sáng tác, chùa chiền cũng được xây cất. Ở thế
kỷ này, sự hành đạo cũng gặp một ít trở ngại từ phía những người ủng hộ
Khổng, Lão. Tuy nhiên, điều đó không ngăn cản được sự ảnh hưởng của Phật
giáo vì nó đã xâm nhập vào dân gian.Tích Quang và Nhâm Diên là hai thái
thú của hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Hai người này đã đẩy mạnh việc
truyền bá văn hóa Hán cả trong sinh hoạt kinh tế, phong tục tập quán, lẫn

trong việc giáo dục, văn học. Đến đời thái thú Sĩ Nhiếp thì Hán học phát triển
rất mạnh, nhưng chính điều này lại đóng vai trò lớn trong việc truyền bá tư
tưởng, văn hóa Phật giáo. Việc ra đời của Lý hoặc Luận, hay kinh Tứ thập nhị
chương, những tác phẩm Phật học viết bằng Hán tự là minh chứng.
Những kinh điển đầu tiên được phiên dịch (như Tứ thập nhị chương) là
đã nhắm vào người xuất gia, chứ không phải nhằm vào quần chúng Phật tử
trong dân gian, do xuất phát từ một thực tế là sự du nhập và định hình Phật
giáo giai đoạn này đã mang tính học thuật chuyên sâu hơn. Điều này cũng

SV: Quốc Thị Minh Thúy

16

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
được thể hiện thông qua hệ thống quan niệm giáo lý đã mang nhiều nét kinh
kệ hơn trước rất nhiều so với bây giờ và sau này.
Quan niệm về Phật thì vẫn nối tiếp tĩn ngưỡng bình dân về Phật trong thế
kỷ trước, nhưng đã mang màu sắc Hán hơn khi những khái niệm của Khổng,
Lão được đưa vào. Trong Lý hoặc Luận, Phật đã được trình bày như nguyên
tổ của Đạo và Đức những vẫn mang màu sắc biến hóa thần thôn. Về Pháp,
giới Phật tử trí thức có cách quan niệm gần với “đạo” (sau thành “đạo pháp”).
Trong giới Phật tử dân dã, pháp vẫn là phép Phật, là phép tam quy, ngũ giới,
cúng dường. Tăng đồ thì coi đạo như lời Phật dạy về vô thường, vô ngã, cách
giữ tâm gìn ý,tu chứng Niết bàn. Quan niệm về tăng là phải thực hiện 250 giới
luật, cạo dầu, y vàng, từ bỏ tài sản, khuất thực, hóa đạo.
Vào thời kỳ này, Niết bàn đã là mục đích của người xuất gia. Luân hồi
và nghiệp báo vẫn tồn tại trong tín ngưỡng dân gian. Quan niệm vô ngã đã

được nói đến trong Tứ thập nhị chương, nhưng chưa phổ biến lắm trong dân
gian. Tinh thần hòa đồng giáo lý là nét nổi bật trong sự du nhập vầ định hình
Phật giáo Giao Châu trong thế kỷ thứ hai này. Phật giáo xâm nhập vào đây
một cách êm thấm, không có sự chống đối của tín ngưỡng dân gian. Tuy Phật
giáo cũng phải có một ít nỗ lực trước giới cai trị Hán tộc, nhưng không bằng
sự phản kháng, mà bằng sự hòa đồng. Điều này xuất phát từ tinh thần cởi mở
của Phật học, và Phật tử thì sẵn sàng học hỏi, đối thoại với những tư tưởng
khác. Kết quả của tinh thần này là không những đã sử dụng được từ ngữ Nho,
Lão, để truyền bá Phật giáo, mà còn làm cho những người theo Khổng, Lão
thấy được chiều sâu của Phật học.
1.2.1.2. Sự du nhập Phật giáo từ phương Bắc
Từ thế kỷ thứ ba, Phật giáo ở Giao Châu vẫn tiếp tục tự phát triển mạnh
mẽ, với sự xuất hiện của Tăng Hội (? – 280) và tư tưởng thiền của ông. Ông
không những là sáng tổ học của Thiền Việt Nam, mà còn là người dầu tiên

SV: Quốc Thị Minh Thúy

17

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
đem thiền học phát huy ở Trung Hoa.
Thiền định Việt Nam, từ nguyên thủy vốn không phải truyền từ Trung
Hoa sang. Nó đã xuất hiện, dù có thể là hoàn toàn bước đầu, ở Giao Chỉ từ
trước Tăng Hội. Trong Tứ thập nhị chương, danh từ thiền định đã một lần
được nhắc đến. Kinh này còn nói đến “quán thiên địa, niệm vô thường”, là
một phép thiền, gọi là Vô thường quán. Nhưng dù sao, đến thế kỷ thứ ba, có
lẽ đã có một thực tế là Phật giáo từ phương Bắc, cho dù có hình thành những

trung tâm muộn hơn, cũng đã bắt đầu có ảnh hưởng trở lại lên Phật giáo Giao
Chỉ. Cho dù Tăng Hội có một vai trò lớn đến đâu thì sử sách cũng ghi nhận
trong thế kỷ này, các kinh sách về thiền đã được đem từ Lạc Dương xuống, và
Tăng Hội cũng là một người đã học tập lĩnh hội được tư tưởng Phật giáo Đại
thừa Trung Hoa.
Đại thừa (Mahayana) hoàn toàn không xa rỏi Phật pháp, nhưng về chủ
trương nó khác với Tiểu thừa (hinayana) vốn xuất phát từ Phật giáo Nguyên
thủy (Thérévada). Đại thừa không cố chấp vào kinh điển, trong khi Tiểu thừa
thì nhất nhất bám sát vào đó. Đại thừa chủ trương “tự giác” và “giác tha”, tức
giác ngộ cho chính mình và cho người khác, trong khi Tiểu thừa chỉ nhắm vào
việc giác ngộ cho bản thân. Tiểu thừa chỉ thờ một Phật Thích Ca và bậc tu cao
nhất là đến La Hán. Đối với Đại thừa, họ thờ nhiều Phật và bậc tu cao nhất lên
đến Bố Tát. Có thể nói những quan niệm, chủ chương của Đại thừa – một
trong những tông phái lớn nhất của Phật giáo (một tông phái lớn khác của
Kim Tam thừa) có xuất phát điểm của Trung Hoa, đã có một sự xâm nhập
xuống phương Nam kể từ thế kỷ thứ ba trở đi, để lại những dấu ấn phổ biến
trong sinh hoạt Phật giáo, cũng như trong tín ngưỡng dân gian.
Sự thâm nhập của Phật giáo phương Bắc sau đó còn được thể hiện ở việc
các thiền sư lớn, những người sáng lập ra những thiền phái có vị trí lớn trong
lịch sử Phật giáo Việt Nam, đều ít nhiều có liên hệ và tiếp thu Phật. Thiền sư

SV: Quốc Thị Minh Thúy

18

Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
Tỳ Ni Đa Lưu Chi ( – 594), người sáng lập ra thiền phái mang tên ông,

truyền đến 19 đời, đến đầu thế kỷ 13, là một người gốc nam Thiên Trúc vân
du về phái đông bắc (562), tiếp xúc với Phật giáo Trung Hoa và hành đại tại
đây. Năm 820, thiền sư Vô ngôn Thông từ nội địa Trung Hoa xuống Giao
Châu. Sau này, vào thế kỷ 11, Thảo Đường cũng vốn là một thiền sư Trung
Hoa đang hành sự tại Chiêm Thành, bị quân chinh phạt của vua Lý Thái Tông
bắt đem về Thăng Long. Sự uyên thâm Phật giáo của người này sau đó được
nhận ra, được nhà vua đưa về trụ trì tại chùa Khai Quốc, và lập ra một thiền
phái lớn của Phật giáo Việt Nam.
Tuy nhiên, ở đây khi nói về sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam, ta
có thể xem xét việc này đã cơ bản hoàn tất trước thế kỷ thứ 10, khi mà một
mặt có sự du nhập trực tiếp từ Ấn Độ cùng với sự ảnh hưởng của Phật giáo
Đại thừa từ phương Bắc sau đó, mặt khác là sự sản sinh, hình thành nền thiền
học Việt Nam với những thiền phái đầu tiên nhưng lại lớn mạnh. Từ đây đã
tạo nên một tiền đề vững vàng cho sự phát triển của Phật giáo.
1.2.2. Vai trò của Phật giáo việt Nam thế kỷ X – XI.
Sang thời Lý, Phật giáo trở thành quốc giáo của nhà nước Đại Việt.
Triều đại nhà Lý tồn tại hơn 200 năm (1009 – 1225) với 9 dời vua. Trong lịch
sử Việt Nam, triều Lý là một triều đại lớn và để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trên
nhiều lĩnh vực khác nhau. Đấu ấn quan trọng nhất trên lĩnh vực chính trị
chính là là sự kiện lịch sử năm 1010, sau khi lên ngôi Lý Thái Tổ đã cho rời
đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Thăng Long từ đó trở thành thủ đô văn hiến
ngàn đời sau của dân tộc. Đến năm 1054, triều Lý lại đặt quốc hiệu mới cho
nước Đại Việt và buộc nhà Tống phải thừa nhận nước ta là một quốc giia
riêng. Trên lĩnh vực quân sự, triều Lý để lại dấu ấn trên trang lịch sử hào hùng
chống ngoại xâm của dân tộc (đánh Chiêm Thành phá tan âm mưu của nhà
Tống trong việc lợi dụng Chiêm Thành để xâm lược nước ta và sau đó tổ chức

SV: Quốc Thị Minh Thúy

19


Lớp:K37- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp đại học
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Tóng). Ngoài ra, triều Lý cũng chăm lo
phát triển kinh tế, thúc đẩy văn hóa nên đã đạt được nhiều thành tựu rực
rỡ...Một dấu ấnquan trọng khác trên trên lĩnh vực tôn giáo thời Lý là sự hưng
thịnh của đạo Phật. Sự hưng thịnh của đạo Phật thời Lý biểu hiện rõ nhất ở tổ
chức tăng đoàn. Không chỉ có số lượng Phật tử đông đảo (hầu như trên cả
nước từ vua, quan đến dân đều theo đạo Phật) mà tăngđoàn còn có nguồn
ruộng đất và tài sản riêng rất lớn. Triều đình phong kiến nhà Lý tham gia
chính quyền từ trung ương đến các địa phương.
Các vua Lý đã kế thừa tổ chức tăng quan thời Đinh – Tiền – Lê. Đây là
tổ chức có tính chất tôn giáo liên quan chặt chẽ với hệ thống nhà nước. Tăng
quan nhà Lý là những người giúp cho nhà nước quản Lý các tín đồ Phật tử về
mặt hành chính, đồng thời trên thực trên cũng là bảo vệ quyền lợi của Phật
giáo. Một số học sĩ đắc đạo và có học vấn uyên bác thời này được vua Lý hết
sức trọng dụng. Có sư là thầy dạy của vua và được phong làm Quốc sư. Dưới
triều Lý một loạt nhà sư được ban hiệu Quốc sư như sư Van Hạnh, Văn
Chiếu, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ. Vai trò chủ yếu của các Quốc sư
thời Lý là những cố vấn đắc lực giúp vua hiểu biết về giáo lý của đạo Phật,
ngoài ra khi cần các Quốc sư còn cố vấn cho vua những vấn đề về chính trị,
ngoại giao, quân sự, văn hóa,...
Nhà Lý đề cao Phật giáo xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Xét về quan
hệ, thái tổ nhà Lý (Lý Công Uẩn) có mối quan hệ đặc biệt với các nhà sư
đương thời, thời nhỏ từng là con nuôi của sư Lý Khánh Vân và là đệ tử thụ
giáo của sư Vạn Hạnh. Xét về niềm tin tôn giáo, các vua thời Lý rất sùng đạo.
Bản thân một số nhà vua được tôn là tổ của các phái thiền. Vua Lý Thái Tông
là vị tổ thuộc thế hệ thứ bảy phái thiền Vô Ngôn Thông. Vua Lý Thánh Tông

là tổ thứ hai thiền phái Thảo Đường. Xét về chính trị, việc nhà Lý thành lập
có công hậu thuẫn to lớn của các thế lực Phật giáo trong nước đứng đầu là sư

SV: Quốc Thị Minh Thúy

20

Lớp:K37- GDCD


×