Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tính hiện đại của kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.03 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc từ 1858 đến 1945 là một lĩnh vực được
nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước làm rõ. Trong đó có những vấn đề đã
được thống nhất và còn những vấn đề tiếp tục cần làm rõ thêm. Nhìn tổng thể,
quan niệm chính thống trước đây vẫn xem xét kinh tế Việt Nam thời kì này mang
tính chất thực dân nửa phong kiến, trên cơ sở đó các nhà nghiên cứu đều xoáy sâu
phân tích những hạn chế, những mặt tiêu cực của của chủ nghĩa thực dân như
khủng bố, tàn sát, áp bức, bóc lột. Chính vì lẽ đó, những yếu tố lạc hậu của nền
kinh tế thực dân phong kiến được chú ý nhiều hơn trong nghiên cứu kinh tế Việt
Nam thời kì Pháp thuộc.
Khác với các nước TBCN khác ở phương tây, thực dân Pháp chuyển sang
chủ nghĩa đế quốc mang tính chất là chủ nghĩa đế quốc cho vay nặng lãi. Đây là
bản chất của chủ nghĩa thực dân Pháp, thực dân Pháp chủ yếu xuất khẩu tư bản chủ
yếu bằng bộ phận tư bản tài chính, lập các ngân hàng nhằm cho vay nặng lãi, chính
vì vậy bản chất của thực dân Pháp khi đến Việt Nam xâm lược cũng thực hiện
chính sách đó.
Bên cạnh đó, việc xác định thời gian để nghiên cứu cũng là một vấn đề cần
được xem xét nghiêm túc bởi vì nếu xét kinh tế Việt Nam thời kì thuộc địa thì mãi
tới khi Nhà Nguyễn đầu hàng sau hiệp ước Hác – măng (1883) và Pa – tơ – nốt
(1884) thì Việt Nam mới thực sự trở thành một nước thuộc địa đúng nghĩa của nó.
Xét về góc độ chính trị là vậy nhưng nếu xét trên lĩnh vực kinh tế thì cần phải xem
xét quá trình thực dân Pháp xâm lược nước ta. Năm 1862 Nhà Nguyễn nhượng 3
tỉnh miền Đông Nam kì, đến năm 1867 lại chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây. Như vậy đến
năm 1867 Nam kì đã rơi vào tay thực dâp Pháp và chúng đã có những chính sách
để ổn định chính trị, khai thác về kinh tế để phục vụ cho việc mở rộng chiến tranh
ra cả nước và để đối phó với phong trào đấu tranh của nhân dân ta tại những vùng
chúng chiếm đóng. Sau khi Nhà Nguyễn đầu hàng, thực dân Pháp lại tiếp tục phải
lo đối phó với phong trào đấu tranh của nhân dân ta chống Pháp diễn ra mạnh mẽ,
tiêu biểu là phong trào Cần Vương, do đó một mặt thực dân Pháp phải ổn định tình
hình chính trị bằng cách thiết lập bộ máy tay sai nhằm chống lại phong trào vũ
trang chống pháp diễn ra khắp nơi, mặt khác bước đầu có những chính sách trên


lĩnh vực nhằm thực hiện chính sách khai thác bóc lột ở Việt Nam.


Mặt khác chính sách thực dân từ nước Pháp của mỗi thời kì cũng có sự khác
nhau, Mỗi viên Toàn quyền Đông Dương lại có những chính sách khác nhau. Điều
này cũng tác động không nhỏ đến nền kinh tế thuộc địa ở Việt Nam
Một đặc điểm nữa là tác động của cuộc chiến tranh thế giới cũng để lại
những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế Việt Nam thời Pháp Thuộc.
Từ những vấn đề đặt ra ở trên, chúng tôi lựa chọn chuyên đề nghiên cứu
môn Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc là: Sự phát triển của các yếu tố kinh tế
hiện đại ở Việt Nam thời Pháp thuộc từ 1858 – 1945.
Trong bài viết này chúng tôi chia ra ba thời kì để nghiên cứu dựa vào
phương pháp nghiên cứu lịch sử cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử nhất định và trên
các lĩnh vực chủ yếu nhất nhằm có một cái nhìn khách quan nhất trong việc nhìn
nhận thêm về ảnh hưởng của chính sách khai thác của của thực dân Pháp ở Việt
Nam thời kì này.
Chương 1. Những mầm mống đầu tiên của nền kinh tế hiện đại ở Việt Nam
Chương 2. Sự phát triển của các yếu tố kinh tế hiện đại ở Việt Nam từ 1884 đến
1914
Chương 3. Kinh tế Việt Nam trong và giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1914 –
1945)
Bằng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, chúng tôi cố gắng làm rõ
những sự xuất hiện của các yếu tố hiện đại và những đóng góp của nó trong kinh tế
lúc bấy giờ ở Việt Nam trên một số lĩnh vực nhất định trong từng thời kì.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng tuy nhiên trong thời gian hạn hẹp, với nguồn tài
liệu hạn chế chắc chắn bài viết còn nhiều hạn chế, rất mong sự đóng góp ý kiến của
Giảng viên hướng dẫn và các anh chị học viên trong lớp để chuyên đề được hoàn
thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!



Chương 1
NHỮNG MẦM MỐNG ĐẦU TIÊN CỦA NỀN KINH TẾ HIỆN ĐẠI
Ở VIỆT NAM
1.

Khái quát tình hình Việt Nam từ 1858 đến 1884

Sau một thời gian thăm dò tình hình Việt Nam, trước sự gia tăng xâm lược
của thực dân Anh, thực dân Pháp cũng quyết tâm xâm lược nước ta nhằm biến Việt
Nam trở thành một nước thuộc địa của Pháp. Lợi dụng triều đình phong kiến Nhà
Nguyễn suy yếu thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta vào ngày 1 tháng 9 năm
1858. Cuộc kháng chiến của quân dân ta đã làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng
nhanh của thực dân Pháp tại vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng. Sau một thời gian
chống cự Triều đình phong kiến bạc nhược bị chia rẽ sâu sắc, tư tưởng chủ hòa làm
li tán lòng dân, bên cạnh đó những chính sách sai lầm của triều đình nhà Nguyễn
đã làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta ngày càng khó khăn.
Sau khi thất bại ở Đà Nẵng, thực dân Pháp quyết định đánh lâu dài với ta.
Chúng thay đổi chiến thuật đem quân vào miền nam hòng chiếm vựa lúa lớn nhất
cả nước. Thực hiện chính sách đó, từ tháng 2 năm 1959 chúng rút khỏi Đà Nẵng
đem quân vào Gia Định.
Đi đến đâu thực dân Pháp cũng gặp phải tinh thần kiên quyết chiến đấu
chống quân xâm lược của nhân dân ta. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau
thực dân Pháp lần lượt chiếm được 3 tỉnh miền Đông (1862) và đến năm 1867 cả 6
tỉnh Nam kì rơi vào tay thực dân Pháp.Sau đó chúng đã nhanh chóng ổn định vùng
đất này, lập ra bộ máy tay sai để quản lí và bước đầu tiến hành khai thác, vơ vét
nhằm phục vụ cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Từ năm 1873 đến năm 1883 thực dân Pháp hai lần cho quân ra chiếm Bắc kì
nhằm nhanh chóng đặt cách thống trị lên nước ta, tuy nhiên cả hai lần này thực dân
Pháp đều bị những tổn thất nặng nề do vấp phải tinh thần kháng chiến buất khuất

của quân và dân miền bắc. Đứng trước tình hình đó, khi mà thực dâp Pháp không
thể kéo dài cuộc chiến vì những toan tính với các nước đế quốc trong cuộc cạnh
tranh giành giật thuộc địa, chúng đã đem quân đánh thẳng vào Huế buộn triều đình
nhà Nguyễn phải kí hiệp ước đầu hàng vào tháng 8/1883 gọi là hiệp ước Hà măng.
Và sau đó là hiệp ước Pa – tơ – nốt (1884). Từ đây Việt Nam trở thành một nước
thuộc địa nửa phong kiến.


2.

Sự ra đời của các yếu tố hiện đại trong nền kinh tế ở Việt Nam từ
1858 đến 1884

Trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nền kinh tế Việt Nam nhìn
chung vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, quan hệ bóc lột phong kiến làm cho
nền kinh tế Việt Nam không có những tiến bộ lớn. Trong cơ cấu kinh tế Việt Nam
nông nghiệp vẫn là ngành chủ đạo, bên cạnh đó thủ công nghiệp và thương nghiệp
đã có những bước đáng kể đặc biệt là những ngành thủ công nghiệp nhà nước. Kể
từ khi thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, công nghiệp, theo đúng nghĩa của nó,
mới hình thành những mầm mống đầu tiên của công nghiệp hiện đại. Trước đó,
trong các triều đại phong kiến, công nghiệp chủ yếu là thủ công nghiệp, giải quyết
những nhu cầu về xây dựng, giao thông, các nhu yếu phẩm cho triều đình, quan lại
và dân cư. Các cơ sở của nhà nước khai thác mỏ sắt, mỏ đồng, mỏ muối… một số
xưởng đúc tiền, đúc vũ khí của triều đình…, hầu hết chỉ dùng phương pháp sản
xuất thủ công.
Song song với quá trình xâm lược nước ta thực dân Pháp cũng đã bắt đầu
cho xây dựng những cơ sở công nghiệp đầu tiên ở nước ta nhằm phục vụ cuộc
chiến tranh ở Việt Nam và phục vụ nhu cầu trong đời sống hàng ngày của thực dân
Pháp. Các cơ sở công nghiệp trong thời gian này chủ yếu được thành lập ở Nam kì
mà tập trung chủ yếu tại Sài Gòn và biến nơi đây trở thành nơi có tốc độ đô thị hóa

nhanh nhất cả nước thời bấy giờ.
Cơ sở công nghiệp đầu tiên xuất hiện ở nước ta có lẽ là nhà máy đóng tàu Ba
Son ở Sài Gòn do thực dân Pháp xây dựng năm 1864. Đây là cơ sở đóng và sửa
chữa tàu tương đối quy mô do quân đội Pháp quản lí nhằm xây dựng nơi đây trở
thành nơi đóng mới và sửa chữa phần lớn tàu bè của Pháp hoạt động ở vùng Viễn
Đông.
Ngoài ra, từ sau khi hoàn thành xâm lược Nam kì năm 1867 thực dân Pháp
bắt đầu cho xây dựng một số ngành công nghiệp chế biến. Năm 1874 lập hãng
rượu bia và mở một số cơ sở sản xuất bia rượu ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn.
Năm 1967 chúng thành lập nhà máy cưa, năm 1876 lại cho xây dựng nhà máy kéo
sợi. Ngoài ra một số cơ sở xay xát lúa gạo được Pháp đặc biệt chú ý nhằm vơ vét
nguồn lương thực để xuất khẩu. Nhà máy xay xát đầu tiên được xây dựng tại Chợ
Lớn vào năm 1870. Mười lăm năm sau, tới năm 1885, khắp Nam bộ đã có tới 200
xưởng xay xát. Đi kèm với nó là các nhà máy dệt bao đay, sữa chữa máy móc, xe
cộ, thuyền bè… để vận chuyển lúa gạo.


Trong thời kì này do phải tập trung vào việc mở rộng xâm lược nước ta nên
các cơ sở khai thác khoáng sản chưa được đầu tư nhiều. Các cơ sở này được Pháp
tận dụng việc khai thác thủ công như dưới thời phong kiến trong các hầm mỏ. Do
đó năng suất khai thác và sản lượng trên lĩnh vực này không đáng kể. Mặt khác,
các ngành khai mỏ tập trung nhiều hơn ở phía bắc nên chỉ sau khi xâm lược toàn
cõi Việt Nam thì thực dân Pháp mới có sự đầu tư vào ngành công nghiệp khai mỏ.
Bên cạch sự xuất hiện của các yếu tố công nghiệp, thời kì này sau khi xâm
lược và bình định miền Nam thực dâp Pháp ra sức bóc lột và vơ vét của cải nhằm
xuất khẩu thu lợi nhuận.Ngày 30 tháng 9 năm 1968 thống đốc Nam Kì đã thành lập
phòng Thương mại Nam kì. Mặt hàng chủ yếu lúc bấy giờ ở Nam kì là nông sản.
Ngay từ năm 1860 Pháp xuất khẩu 58.000 tấn gạo từ cảng Sài Gòn. Năm 1867 sau
khi mở một số cơ sở xay xát lúa gạo thì số lượng gạo mà thực dân Pháp xuất khẩu
tăng lên đến 98.000 tấn. Năm 1870 xuất khẩu đạt 230.000 tấn. Như vậy thực dân

Pháp đã khai thác tối đa lợi thế của Nam kì để vừa thu lợi nhuận vừa phục vụ chiến
tranh vừa làm suy yếu triều đình nhà Nguyễn khi nơi cung cấp lương thực chủ yếu
rơi vào tay thực dân Pháp.
Nhằm phục vụ cho việc khai thác, bóc lột cũng như phát triển một số ngành
công nghiệp ở Nam kì, thực dân Pháp cũng cho mở cửa cảng Sài Gòn năm 1860,
sau đó xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên Sài Gòn – Mĩ Tho. Công trình bắt đầu từ
tháng 11-1881, tốn 11,652 triệu phơrăng và bắt đầu cho khai thác từ 20-7-1885.
Tuy chỉ dài có 71 km nhưng việc xây dựng tuyến đường sắt này có ý nghĩa quan
trọng vì nó nối liền trung tâm Sài Gòn với miền Đồng bằng sông Cửu Long. Tuyến
đường sắt đi qua vùng đông dân cư, nối liền hai thành phố Sài Gòn và Mỹ Tho
đồng thời đi ngang qua Chợ Lớn nên vừa có tác dụng thúc đẩy đô thị hóa, vừa đẩy
mạnh quá trình vơ vét lúa gạo từ các tỉnh miền Tây về Sài Gòn. Mặt khác, đây còn
là thành tựu điển hình về giao thông vì trước đó từ Sài Gòn đi Mỹ Tho, nếu xuất
phát từ cảng Nhà Rồng trên tàu thủy của hãng tàu Nam Vang, phải mất trên 12 giờ,
nay chỉ mất 4 giờ. Đoạn đường sắt này tuy ngắn nhưng đã trở thành mẫu mực về
thực nghiệm kỹ thuật để rút kinh nghiệm cho việc xây dựng toàn bộ hệ thống
đường sắt về sau.
Tuy nhiên nhìn tổng thể thời kì này Pháp chủ yếu khai thác giao thông đường thủy
nhờ vào hệ thống sông ngòi kênh rạch ở Nam bộ. Trước khi tiến hành khai thác
thuộc địa lần thứ nhất thực dân Pháp đã tiến hành khai thác mạng lưới giao thông
thủy bằng các hoạt động đào sông, khơi lạch, đào kênh như: kênh Cột Cờ (1875),
kênh Trà Ôn (1876), kênh Phú Túc (1879), kênh Xanh Ta (1880), đặc biệt là công
trình đào kênh Chợ Gạo (thực dân Pháp gọi là Canal Duperrel) dài 10 km ở địa


phận tỉnh Mỹ Tho vào năm 1877. Tại đây, thực dân Pháp đã huy động 40.000 nhân
công là nông dân và buộc phải xong trong vòng 2 tháng, với tổng cộng 900.000 m3
đất đào, chuyển, đắp trong tổng số 676.000 ngày công.
Trên lĩnh vực bưu chính viễn thông Trước kia ở Nam Kỳ, phương tiện thông
tin, chuyển giao công văn chủ yếu là theo hệ thống đường trạm (chạy bộ, ngựa hay

thuyền) hoặc sử dụng các loại âm thanh (như pháo lệnh), ánh sáng (đốt lửa)… Đến
thời Pháp thuộc, người Pháp đưa kỹ thuật thông tin mới vào Nam Kỳ, đầu tiên là ở
Sài Gòn. Đường dây thép đầu tiên được khánh thành ngày 27-3-1862 dài 28 km
nối liền Sài Gòn – Biên Hòa. Đến năm 1872 đã có 6.600 km đường dây điện tín,
36 đường dây cáp đặt ngầm dưới nước. Nhà bưu chính đầu tiên đặt ở Sài Gòn,
khánh thành ngày 13-1-1863, đưa vào sử dụng công cộng từ 1-1-1864 và hoàn
chỉnh xây dựng thiết bị năm 1867. Năm 1863, Bưu chính Sài Gòn phát hành con
tem đầu tiên và năm 1864 bắt đầu phát triển bưu chính bằng thư.
Trên lĩnh vực tài chính ngân hàng: Ngân hàng Đông Dương ra đời ngày 21
tháng 1 năm 1875 có trụ sở ở nước Pháp. Mặc dù thời kì này Pháp đang gặp khó
khăn về tài chính và lệ thuộc vào các ngân hàng khác tuy nhiên Pháp vẫn quyết
tâm thành lập ngân hàng Đông Dương nhằm hoạch định ngân sách cho cuộc chiến
ở đây. Những báo cảo của thực dân Pháp về Đông Dương về những món lợi khổng
lồ về thương mại cùng những nhu cầu của nhân dân về vay vốn để trang trải cho
mùa vụ và cuộc sống hàng ngày và người nông dân ở đây thường đi vay với một
lãi suất cao lên tới 50 đến 60%/năm thậm chí còn cao hơn vậy. Điều này làm cho
cuộc sống của nhân dân ngày càng thêm bần cùng. Mặt khác khi Pháp vào xâm
lược Việt Nam đã có một số công ty Pháp và châu Âu vào kinh doanh trên đất Nam
kì, sau một thời gian các công ti này lâm vào khó khăn vì thiếu vốn sản xuất kinh
doanh. Được sự tán thành của Quốc hội Pháp, ngày 21-01-1875, Tổng thống Pháp
ra sắc lệnh về việc “thiết lập Đông Dương ngân hàng và cho cơ quan này được
hưởng độc quyền phát hành tiền tại các xứ Đông Dương, các thuộc địa Pháp miền
Thái Bình Dương và các tỉnh Ấn Độ thuộc Pháp”
Sự phát triển của một số cơ sở ngành công nghiệp, dịch vụ và thương mại ở
khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn đã làm cho diện mạo nơi khu vực này có sự thay đổi
khá nhanh chóng. Trên cơ sở đó chính quyền thực dân đã đã ra sắc lệnh ngày 8
tháng 1 năm 1877 thành lập thành phố Sài Gòn (TP cấp 1) và hai năm sau đó nghị
định ngày 20 tháng 10 năm 1978 của thống đốc Nam kì thành lập TP Chợ Lớn (TP
cấp 2). Sự phát triển của một số cơ sở công nghiệp ít nhiều phản ánh quá trình đô
thị hóa diễn ra khá nhanh chóng ở Sài Gòn và khu vực Chợ Lớn.



Như vậy ta có thể nhận thấy từ năm 1958 đến trước 1884, cùng với quá trình
xâm lược nước ta, thực dân Pháp cũng đã bước đầu có những hoạch định ban đầu
trong việc hình thành cơ cấu kinh tế VIệt Nam về lâu dài nhằm phục vụ cho mưu
đồ khai thác bóc lột. Chính trong thời gian này một số kết cấu hạ tầng mang tính
hiện đại được hình thành. Điều này làm thay đổi diện mạo một số vùng đất từ xã
hội nông thôn làm xuất hiện một số đô thị mà lớn nhất là Sài Gòn, Chợ Lớn.
Các yếu tố hiện đại trong nền kinh tế Việt Nam thời kì này chủ yếu được
hình thành ở những khu vực thực dân Pháp chiếm được ở Nam kì và chỉ tập trung
ở một số đô thị. Nhìn toàn cảnh thì nền kinh tế trong thời kì Pháp xâm lược từ
1858 đến 1884 vẫn là nền nông nghiệp lạc hậu. Chưa xuất hiện nhiều các yếu tố
tiền tư bản trong lòng xã hội Việt Nam mà chủ yếu là dưới tác động của cuộc chiến
tranh xâm lược các yếu tố kinh tế hiện đại mới xuất hiện một cách nhỏ lẻ vụn vặt
trên một số ngành, lĩnh vực kể trên ở các đô thị.
Chương 2.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM
TỪ 1884 ĐẾN 1914
1. Bối cảnh lịch sử sau khi Pháp hoàn thành xâm lược Việt Nam
Sau khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, thực dân Pháp thiết lập một bộ
máy cai trị trên toàn Việt Nam với chính sách chia cắt nước ta ra thành ba miền để
dễ bề cai trị. Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập có chủ quyền trở thành một
nước thuộc địa nửa phong kiến. Quyền dân tộc cơ bản không còn nữa, triều đình
nhà Nguyễn tồn tại với tư cách là bộ máy tai sai bù nhìn.
Trong hoàn cảnh đó, với tinh thần yêu nước sâu sắc, nhân dân Việt Nam vẫn
không chịu khuất phục. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam vẫn tiếp tục
bùng nổ ngay sau khi thực dân Pháp hoàn thành xâm lược nước ta. Tiêu biểu cho
phong trào đấu tranh đó là phong trào Cần Vương. Phong trào này nổ ra một cách
mạnh mẽ từ bắc chí nam, từ đồng bằng đến vùng rừng núi, phong trào diễn ra trong
một thời gian dài dưới sự lãnh đạo của các Văn thân, sĩ phu phong kiến. Phong trào

Cần Vương đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, nhiều tầng lớp
nhân dân tham gia các đội quân nghĩa dũng chiến đấu chống sự đô hộ của Pháp
mong giành lại độc lập. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan
các phong trào yêu nước dưới ngọn cờ Cần Vương lần lượt bị thất bại.


Sau khi hoàn thành xâm lược Việt Nam, một mặt thực dân Pháp củng cố
chính quyền và quân đội nhằm đối phó với cuộc kháng chiến của nhân ta. Mặt
khác chúng vạch ra một kế hoạch khai thác thuộc địa ở Đông Dương nói chung và
Việt Nam nói riêng.
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất đã làm cho xã hội việt nam có những
chuyển biến nhất định. Con đường cứu nước theo xu hướng phong kiến lần lượt
thất bại. Các tri thức Nho học từ bỏ ý thức hệ truyền thống để tìm con đường cứu
nước mới. Từ nhu cầu thực tiễn của đất nước trong việc tìm đường cứu nước, các
nhà yêu nước Việt Nam bắt đầu truyền bá con đường cứu nước theo con đường
cách mạng dân chủ tư sản nhằm lật đổ chế độ phong kiến hay đánh đuổi thực dân
Pháp. Đây là con đường cứu nước mới xuất hiện sau khi con đường cứu nước theo
xu hướng phong kiến thất bại và sau những thay đổi của xã hội dưới tác động của
cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Cùng với sự biến đổi về kinh tế, xã hội thì trong giai đoạn này cũng diễn ra
mạnh mẽ việc tiếp xúc văn hóa, nhiều yếu tố văn hóa phương tây du nhập vào
nước ta trong đó có cả những ý thức hệ tiến bộ tác động sâu sắc đến bộ phận tri
thức Việt Nam thời đó.
Trong thời kì này, thực dân Pháp đã vạch một chương trình khai thác toàn
diện, do đó làm thay đổi nền kinh tế Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Đây là thời kì
đầu Pháp thực hiện chính sách khai thác bóc lột do đó chúng phải xây dựng lại hệ
thống cơ sở hạ tầng nhằm đáp ứng tốt nhất cho công cuộc khai thác thuộc địa ở
Đông Dương. Chính vì vậy thời kì này các yếu tố kinh tế hiện đại xuất hiện trên
nhiều lĩnh vực ở trên toàn lãnh thổ Việt Nam đặc biệt là các đô thị lớn.
2. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp

Sau khi thực dâp Pháp căn bản hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam về
mặt quân sự, chúng bắt tay ngay vào việc khai thác thuộc địa ở Việt Nam một cách
qui mô. Ngày 22-3-1897, Toàn quyền Đông Dương Pôn Đume (Paul Doumer) gửi
cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án chương trình hoạt động:
“1. Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức bọ máy cai trị
hành chính riêng cho từng “xứ” thuộc Liên bang.
2. Sửa đổi lại chế độ tài chính, thiết lập một hệ thống thuế khóa mới sao cho phù
hợp với yêu cầu của ngân sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể, và phải
chú ý khai thác những phong tục, tập quán của dân Đông Dương.


3. Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho Đông Dương, như xây dựng hệ thống đường sắt,
đường bộ, sông đào, bến cảng... rất cần thiết cho công cuộc khai thác.
4. Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công cuộc thực dân
của người Pháp và lao động của người bản xứ.
5. Bảo đảm phòng thủ Đông Dương bằng việc thiết lập những căn cứ hải quân và
phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh.
6. Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc Kì, bảo đảm an ninh vùng biên giới Bắc
Kì.
7. Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở
vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận".
Đume rất am hiểu tình hình Đông Dương vì đã từng là nghị sĩ giữ
chức Thượng thư Tài chính trong Chính phủ Pháp và là báo cáo viên những dự án
luật thanh toán tạm thời và tổng thanh toán tài chính Bắc và Trung Kì. Chương
trình khai thác do Đume vạch ra để thi hành ở Đông Dương (chủ yếu là Việt Nam)
từ những năm đầu thế kỉ XX có mục đích tối thượng là biến gấp Đông Dương
thành một thuộc địa khai khẩn bậc nhất, bảo đảm siêu lợi nhuận cao nhất cho đế
quốc Pháp.
Sênô (Jean Chesneaux) trong cuốn Đóng góp vào lịch sử dân tộc
Việt Nam đã đánh giá cao Dume: “Chính ông đã đưa chế độ thuộc địa từ giai đoạn

kinh nghiệm chủ nghĩa hầu như “thủ công" sang giai đoạn tồ chức hệ thống. Chính
ông đã tạo dựng bộ máy thống nhất về bóc lột tài chính và đàn áp chính trị trong
thực tế sẽ được duy trì nguyên vẹn đến tận 1945”
Như vậy đây có thể xem là dấu mốc cho công cuộc khai thác bóc lột của
thực dân Pháp ở Đông Dương.
3. Sự phát triển của các yếu tố kinh tế hiện đại ở Việt Nam (1884 – 1914)
Từ năm 1884 đến năm 1897 là thời kì mà thực dâp Pháp vừa phải lo đối phó
với phong trào kháng chiến của nhân dân ta dưới ngọn cờ Cần Vương trên phạm vi
cả nước. Từ Nam chí Bắc, các cuộc nổi dậy vũ trang của dân ta khi sôi động, khi
âm ỉ không một lúc ngừng. Thực dân Pháp một mặt đàn áp vô cùng dã man, mặt
khác lôi kéo, mua chuộc một số người cầm đầu thiếu kiên định, làm cho các phong
trào tạm lắng (trừ khởi nghĩa Yên Thế). Chính vì thế gánh nặng tài chính ngày một
đè lên ngân sách chính quốc tới mức không chịu đựng nổi. Điều này buộc thực dâp
Pháp phải song song vừa tiến hành đối phó với cuộc kháng chiến của nhân ta vừa
khai thác bóc lột nhằm phục vụ cho cuộc chiến. P. Doumer khi sang nhận chức toàn
quyền Đông Dương thay cho người tiền nhiệm có sứ mệnh: Hoàn thành cuộc “bình


định” bằng bất cứ giá nào, xây dựng bộ máy cai trị thực dân thay thế chế độ cai trị
của triều đình nhà Nguyễn, và để nhanh chóng đẩy mạnh khai thác tài nguyên, bóc
lột sức lao động người bản xứ, lấy tiền bù đắp những “hy sinh” của chính quốc
nhiều năm trước đó.
Trong thời kì này, Pháp tiến hành khai thác thuộc địa có hệ thống do đó
chúng tôi sẽ tiếp cận trên một số lĩnh vực trong các ngành kinh tế Việt Nam để thấy
được những thay đổi rõ nét hơn.
3.1 Ngành công nghiệp, khai mỏ
Đông Dương dưới thời toàn quyền Paul Doumer đã có những bước tiến lớn
đáng kể trong tất cả các ngành kinh tế. Đặc biệt đó là quá trình đầu tư bằng ngân
sách nhà nước vào Đông Dương đều tăng lên hàng năm.
Với bản chất là chủ nghĩa đế quốc cho vay nặng lãi, việc xuất khẩu tư bản

của thực dân Pháp tập trung nhiều hơn vào các tập đoàn tư bản tài chính, tuy nhiên
để phục vụ việc khai thác bóc lột ở Đông Dương, thực dân Pháp tiến hành đầu tư
vào các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp hàng tiêu dùng. Trong các
ngành công nghiệp chế biến Pháp chú ý đến các ngành công nghiệp chế biến nông
lâm thủy hải sản, nơi có nguồn nguyên liệu dồi dào và rẻ mạt.
Đi đôi với ngành công nghiệp xay xát, có ngành công nghiệp nấu rượu.
Nhưng khác với xay xát, công nghiệp nấu rượu không nhằm mục đích xuất khẩu,
cũng không nhằm mục đích phục vụ dân sinh nội địa, mà nhằm mục đích tài chính,
tức là giải quyết nhu cầu ngân sách cho chính quyền đô hộ Pháp ở Đông Dương.
Nấu rượu là độc quyền của chính quyền thuộc địa. Chỉ một hãng rượu Đông
Dương tại Hà Nội đã xây dựng tới 4 nhà máy vào năm 1901, mỗi tháng dùng
khoảng 3.000 tấn thóc để nấu rượu.
Ngành công nghiệp đường cũng được Pháp rất chú ý. Đến năm 1923, Công
ty tinh lọc đường đã xây dựng nhiều nhà máy sản xuất đường ở cả ba miền Bắc Trung - Nam. Đến năm 1938, sản lượng của nó đã lên tới 10.000 tấn.
Trong ngành công nghiệp thực phẩm, Pháp còn xây dựng một số nhà máy
bia khá lớn. Ở Nam kỳ, Hãng Victor Larue có tới 14 nhà máy. Ở Bắc kỳ, Công ty
Bia Hommel đã xây dựng một nhà máy lớn ở Hà Nội, vừa sản xuất bia, vừa sản
xuất nước đá và nước có ga.
Ngành công nghiệp nhẹ lớn nhất của Pháp ở Việt Nam có lẽ là ngành công
nghiệp dệt. Nhà máy dệt đầu tiên được xây dựng vào năm 1890, tại miền Nam.
Đến năm 1900, A.Dadre và Dupré lập ra ở Nam Định một nhà máy dệt lớn, đứng
hàng thứ 3 trong số 269 công ty vô danh các loại của Pháp.


Từ năm 1903, cũng đã xuất hiện ngành công nghiệp tơ lụa. Những nhà máy
đầu tiên sản xuất lụa được lập ra ở Trung kỳ, chủ yếu ở Quảng Nam. Ở Bắc kỳ,
cũng thời kì này, Dadre đã xây dựng một nhà máy tơ ở Nam Định. Tất cả những
sản phẩm của nhà máy tơ lụa đều được xuất khẩu sang Pháp.
Công nghiệp chế biến lâm sản được Pháp lưu ý từ đầu thế kỉ XX. Ba ngành
quan trọng nhất thuộc lĩnh vực này là giấy, gỗ và diêm. Đến thập kỷ 30 của thế kỷ

XX, ngoài việc phục vụ nhu cầu nội địa, sản xuất gỗ thành khí của Pháp đã xuất
khẩu được một khối lượng đáng kể, chủ yếu cho các thị trường lân cận như Hồng
Kông, Singapore, Nhật. Từ năm 1913, Pháp đã thành lập Công ty Giấy Đông
Dương. Công ty này có hai nhà máy khá lớn: Nhà máy Giấy Việt Trì và Nhà máy
Giấy Đáp Cầu, sản xuất nhiều loại giấy khác nhau, như giấy viết, giấy in báo, bìa
carton,… Một lĩnh vực công nghiệp có ý nghĩa khá quan trọng thời đó là sản xuất
diêm. Năm 1891, Pháp xây dựng một nhà máy sản xuất diêm đầu tiên ở Hà Nội,
nhưng sản lượng chưa lớn. Đến năm 1897, Pháp lập một nhà máy diêm lớn hơn
nhiều tại Bến Thuỷ (Nghệ An). Đến năm 1899, Schneider lập thêm một xưởng nữa
ở Hà Nội. Từ đây chấm dứt sự lệ thuộc của Việt Nam vào diêm nhập khẩu
Ngoài những lĩnh vực công nghiệp chủ yếu kể trên, Pháp còn mở một số
ngành công nghiệp khác khác nữa, nhưng quy mô không lớn, vì nhu cầu của xã hội
về các mặt hàng này còn thấp: Nhà máy sản xuất xà phòng ở Hải Phòng xây dựng
năm 1899; Xưởng in của Schneider tại Hà Nội sử dụng 150 công nhân, cũng lập ra
năm 1899; Các nhà máy thủy tinh, chủ yếu là làm kính và vỏ chai lập ra ở Hải
Phòng, Nam Định, Hà Nội, Sài Gòn mà dân ta thường gọi là “nhà máy chai”.
Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng và phục vụ giao thông ra đời tương
đối sớm. Ở miền Nam, sự phát triển của ngành vật liệu xây dựng không được thuận
lợi, vì thiếu một trong những yếu tố rất quan trọng là than. Do đó, chỉ từ khi Pháp
chiếm được Bắc kỳ thì ngành công nghiệp này mới phát triển mạnh. Cơ sở công
nghiệp vật liệu xây dựng quan trọng đầu tiên là Nhà máy Xi măng Hải Phòng, do
Công ty Xi măng Portland nhân tạo Đông Dương xây dựng năm 1894 với 4 lò
quay. Nhà máy Xi măng Hải Phòng là một trong những nhà máy lớn nhất và xưa
nhất ở Đông Dương. Khác với gạch, đá, vôi, vữa… xi măng và bê tông là yếu tố
hoàn toàn mới trong các loại vật liệu xây dựng mà Pháp đưa vào Việt Nam. Nhờ
đó, ngành xây dựng đã có những thay đổi rất lớn cả về chất lượng và phương pháp.
Nếu việc sản xuất xi măng được tập trung trong một nhà máy rất lớn, thì
ngành sản xuất gạch và ngói lại được phân tán hầu như ở tất cả các tỉnh miền Bắc
và miền Trung, là những nơi có sẵn nguồn than đá và đất sét. Tuy nhiên, cũng có
những nhà máy lớn, nổi tiếng và có phạm vi thị trường gồm nhiều tỉnh. Đó là các

nhà máy gạch ở Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Đáp Cầu, Biên Hoà…


Để phục vụ cho sự phát triển của các ngành công nghiệp, những nhà máy cơ
khí vận tải cũng đã hình thành khá sớm. Nhà máy Bason tiếp tục được mở rộng và
phát triển hơn quy mô hơn so với thời trước. Đến khi tiến hành xây dựng hệ thống
đường sắt và đường bộ, Pháp đã lập ra những nhà máy sửa chữa và chế tạo toa xe
lửa ở Gia Lâm, Vinh, Sài Gòn, một số nhà máy lắp ráp và sửa chữa ô tô như các
nhà máy Avia, Star ở Hà Nội…
Để phục vụ cho nhu cầu hàng ngày của thực dân Pháp ngành điện, nước
cũng bắt đầu được chú ý đầu tư Theo phúc trình của Ủy ban kế hoạch Pháp về tình
hình kinh tế Đông Dương (1900 – 1939) thì việc khai thác điện lực ở Đông Dương
để phân phối cho tiêu dùng được cấp giấy phép đầu tư cho hai ông Hermemier và
Planté vào năm 1892 ở Hà Nội và Hải Phòng. Đây là nguồn gốc thành lập Công ty
Điện lực Đông Dương vào năm 1903. Còn Công ty điện và nước Đông Dương
(Compagnie des Eaux et d’Electricité) được khai thác một vùng rộng lớn trong đó
có Sài Gòn hoạt động từ năm 1900. Sự phân phối điện và nước cho người dân Sài
Gòn là độc quyền của công ty này, công ty có nhà máy lớn đặt tại Chợ Quán (Sài
Gòn) có công suất 30.500 kw. Nhà máy cung cấp năng lượng không những cho
Chợ Lớn, Sài Gòn mà còn cho Thủ Đức, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Lái Thiêu.
Ngoài ra ở Nam Kỳ còn có hai công ty lớn khác đó là Công ty Thuộc Đại Thắp
sáng và Năng lượng (Société coloniale d’Eclairage et d’Energie) khai thác các tỉnh
Hậu Giang gồm Châu Đốc, Long Xuyên, Thốt Nốt, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bãi Xàu,
Bạc Liêu (250 cây số dây điện cao thế), Cà Mau; gần sông Bassac có Vĩnh Long,
Sa Đéc, Trà Vinh. Riêng nhà máy Cần Thơ có công suất 1.900 kw. Hiệp hội Điện
Đông Dương (Union Electrique d’Indochine) khai thác vùng Mỹ Tho, Bến Tre, Bà
Rịa, Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu).
Báo cáo của Ủy ban kế hoạch Pháp cũng cho biết điện lực hầu hết là
120/208 volts, 50 chu kỳ, 3 tần số (triphasé). Ở Nam Kỳ, những hệ thống nào còn
phân phối điện lực một chiều phải đổi qua điện 3 tần số. Hầu hết những trung tâm

phát điện ở Nam Kỳ đều tiêu thụ than đá, kế đến là dầu mazout và hơi than
(gazogènes). Giá 1 kw giờ cung cấp cho tư nhân thắp sáng là 0$14 đến 0$17 trong
những cơ sở phân phối điện lực lớn như Sài Gòn… Còn những trung tâm phân
phối nhỏ hơn giá lên từ 0$30 đến 0$31 (1$00=10 phơrăng).
Trên lĩnh vực Bưu chính viễn thông thời kì này tiếp tục phát triển
mạnh mẽ. đường dây thép nối từ Hà Nội vào Sài Gòn dài khoảng 2.000 km đi qua
Vinh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn. Đường dây khởi công từ năm 1884 đến năm 1888
mới hoàn thành. Từ năm 1886 đến năm 1891, Nhà bưu điện Sài Gòn được xây mới
tồn tại cho đến ngày nay.Năm 1893, Sở Điện thoại Đông Dương thành lập. Ngày 17-1894, Nhà bưu điện Sài Gòn bắt đầu sử dụng hệ thống điện thoại.
Việc khai thác các kim loại khác, ngoài kẽm và thiếc, không có gì đáng kể:
đó là những mỏ crôm, kền ở Thanh Hoá, mỏ bạc ở Ngân Sơn, mỏ đồng ở Vạn Tài,


mỏ sắt ở Linh Nham và Na Dương. Mỏ vàng ở Bồng Miêu đã từng có thời kỳ Pháp
khai thác được khoảng 100 kg/năm, nhưng sau một số năm thì vàng cạn kiệt, chi
phí khai thác quá tốn kém, không có lãi, nên mỏ này cũng ngừng hoạt động.
Khai thác mỏ là ngành đi đầu của công nghiệp Pháp ở Việt Nam. Số giấy
phép thăm dò do toàn quyền Đông Dương cấp tăng lên hàng năm: năm 1907: 496
giấy phép; năm 1908 là 664 giấy phép; năm 1909 là 859 giấy phép năm 1912 là
3070 giấy phép. Trong những năm cuối của thế kỷ XIX, số công nhân mỏ đã lên
tới trên 4.000 người. Kỹ thuật khai thác chủ yếu còn là thủ công. Sản lượng chưa
lớn, khoảng 10-12.000 tấn/năm. Số quản lý người Pháp ở Hòn Gai lúc đó khoảng
50 người. Đến năm 1913, sản lượng than đã tăng gấp 5, đạt tới nửa triệu tấn. Đa số
than khai thác ra được xuất khẩucho một số nước Viễn Đông như Nhật Bản, Trung
Quốc, phần còn lại dùng cho công nghiệp Pháp ở Việt Nam hoặc đưa về nước
Pháp.
Sau than là kẽm và thiếc, hai thứ này chiếm khoảng 10% tổng giá trị sản
lượng công nghiệp khai thác mỏ của Pháp ở Đông Dương. Mỏ thiếc Tĩnh Túc được
phát hiện từ cuối thế kỷ XIX và bắt đầu được khai thác vào năm 1903. Cũng vào
thời kỳ này, Pháp bắt đầu khai thác mỏ thiếc ở Tràng Đà, Chợ Đồn, Yên Bình.

3.2 Trên lĩnh vực Giao thông vận tải
3.2.1 Đường sắt.
Ngoài hai đoạn đường sắt ngắn từ Phủ Lạng Thương đi Lạng Sơn và chỉ
dùng vào việc tiếp tế quân sự và đoạn đường Sài Gòn – Mĩ Tho xây dựng trong
điều kiện các công trình kĩ thuật không đầy đủ, chỉ đem lại lợi ích thuần túy địa
phương. Sau khi Paul Dumer sang nhậm chức toàn quyền Đông Dương, ông đã rất
chú ý đến việc xây dựng hệ thống đường sắt hoàn chỉnh. Chính ông đã lập kế
hoạch tổng thể, nghiên cứu chi tiết tâng tuyến đường phải làm, xác định các khoản
chi phí cần thiết đồng thời tìm các nguồn tài chính. Ông cũng là người có công rất
lớn trong việc vận động chính phủ pháp xây dựng hệ thống đường sắt Đông
Dương. Và đã giành được sự ủng hộ mạnh mẽ từ nghị viện và Chính phủ Pháp cho
phép Đông Dương mở công trái 200 triệu francs để giành riêng cho việc xây dựng
đường sắt Đông Dương
Đê đẩy mạnh mục tiêu khai thác, lần lượt các đoạn đường sắt khác được xây
dựng ở trên khắp cả nước. Đầu mối và cũng là tâm điểm của hệ thống đường sắt ở
Nam Kỳ là Sài Gòn, còn Bắc kỳ là Hà Nội. Từ đây các tuyến đường Sài Gòn –


Hớn Quản – Lộc Ninh dài hơn 100 km được xây dựng phục vụ cho các đồn điền
cao su ở miền Đông. Năm 1889, Toàn quyền Doumer đã quyết định một trương
trình xây dựng hệ thống đường sắt xuyên Đông Dương, mà trước hết là gấp rút xây
dựng đoạn Hà Nội – Nam Định. Hà Nội – Lạng Sơn, Hà Nội – Vinh (1905), Đà
Nẵng – Huế (1906).Tuyến đường sắt Sài Gòn – Khánh Hòa (dài 408 km) được
khởi công từ năm 1901, hoàn thành từng chặng: Sài Gòn – Xuân Lộc (làm xong
ngày 30-10-1904), Xuân Lộc – Gia Lai (làm xong ngày 25-8-1905…), mãi đến
ngày 1-4-1912 mới hoàn thành và được đưa vào khai thác từ ngày 16-7-1913.Tính
đến năm 1912 tổng số đường sắt đã làm xong ở Việt Nam là 2059km.
3.2.2 Cầu, đường bộ
Trong hệ thống giao thông, giao thông bộ là một bộ phận quan trọng trong
kế hoạch xây dựng hạ tầng, phục vụ thiết thực nhu cầu khai thác. Để tiến hành

công cuộc khai thác lần thứ nhất, các trục lộ giao thông huyết mạch nối liền các
tỉnh với nhau đã được xây dựng và hoàn thành cơ bản vào năm 1913. Hệ thống
đường hàng tỉnh thời kì này lên tới 20.000 km trong đó ở Nam Kỳ có:
- Trà Vinh:
140 km
- Cần Thơ:
88 km
- Long Xuyên:
91 km
- Sa Đéc:
61 km
- Vĩnh Long:
108 km
- Bến Tre:
226 km
- Châu Đốc:
125 km
- Mỹ Tho:
199 km
- Hà Tiên:
16 km
- Rạch Giá:
8 km
- Sóc Trăng:
95 km
Đặc biệt, từ Sài Gòn, đã hình thành các đường liên tỉnh nối Sài Gòn với Lục tỉnh:
Đường số 13: từ Sài Gòn đến Kratié dài 248 km, đi qua Thủ Dầu Một và Bansot,
chấm dứt ở Hin Boun.
Đường số 14: từ Sài Gòn đến Kon Tum, đi qua Lộc Ninh, Bù Đốp, Ban Mê Thuột.
Đường số 15: từ Sài Gòn đi Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu) dài 132 km.

Đường số 16: từ Sài Gòn đi Cà Mau dài 343 km, gồm nhiều chặng:
+ Sài Gòn – Mỹ Tho: 70 km
+ Mỹ Tho – Cần Thơ: 107 km
+ Cần Thơ – Cà Mau: 179 km
Phương tiện đi lại thời kì này chủ yếu vẫn là đi bộ, xe kéo, ngựa, voi, kiệu…
các phương tiện hiện đại mới được du nhập vào khá khiêm tốn. Thời kì này có
khoảng trên 300 ô tô được mua về Việt Nam.


Ngoài bắc có một số tuyến như Vinh – Sầm Nưa, Hà Nội – Cao Bằng…
Đường bộ được mở rộng đến những khu vực hầm mỏ, đồn điền, bến cảng và
các vùng biên giới quan trọng. Trục đường xuyên Đông Dương được xây dựng và
mở rộng lên tới 6m.
Trong mạng lưới giao thông đường bộ và đường sắt, do địa hình Việt Nam
nhiều chia cắt bởi các con sông đèo dốc,do đó cùng với hệ thống đường còn có hệ
thống cầu bắc qua các con sông (như cầu Bến Lức dài 550 m và cầu Tân An dài
113 m trên tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho). Lần đầu tiên ở Việt Nam, việc xây
cầu bằng vật liệu mới được áp dụng (cầu quay và cầu bằng thép). Ở những đoạn
sông quá rộng hay do một yếu tố địa chất nào đó không làm cầu được như một vài
đoạn ở sông Tiền, phương tiện đi lại đôi bờ lúc này là phà, như phà Mỹ Thuận, phà
Cần Thơ, phà Lấp Vò, phà Rạch Miễu… tất cả các tuyến đường xây dựng đều
nhằm mục đích nối kết các địa phương trong vùng với trung tâm Sài Gòn – Chợ
Lớn nhằm kích thích việc khai thác lúa gạo thương phẩm trên quy mô lớn.
Trong thời gian này nhiều cây cầu quy mô cũng được xây dựng một cách
hiện đại như cầu Long Biên bắc qua sông Hồng bắt đầu xây dựng từ tháng 9 năm
1898 đến năm 1902 thì hoàn thành. Cầu dài 1680m tốn hơn 6 triệu francs. Đây là
một trong ba cây cầu dài nhất thế giới lúc bấy giờ. Ngoài ra một số cây cầu mới
như cầu Trường Tiền bắc qua sông Hương ở Huế, hay cầu Bình Lợi bắc qua sông
Sài Gòn cũng được xây dựng và đưa vào sử dụng.
Ngoài các tuyến đường bộ được xây dựng, để phục vụ nhu cầu đi lại ở các

đô thị lớn là Hà Nội và Sài Gòn, thực dân Pháp cũng tiến hành cho xây dựng các
tuyến xe điện.
3.2.3 Hệ thống đường thủy
Do địa hình Việt Nam bị chia cắt, giao thông đi lại khó khăn do vậy thực dân
Pháp vẫn triệt để lợi dụng hệ thống sông nước và bờ biển dài nhằm phục vụ nhu
cầu vận chuyển hàng hóa.
Sau khi mở cảng Sài Gòn, Pháp bắt đầu mở cửa biển Đà Nẵng, Cam Ranh,
sau đó là Hải Phòng. Cảng Sài Gòn cũng được đầu tư xây dựng hiện đại hơn vào
năm 1884. Tiếp theo là các cảng Bến Thủy, Quy Nhơn, Hòn Gai, Cẩm Phả…
Trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã có tàu buôn của các nước Anh,
Trung Quốc, Hà Lan đến buôn bán trao đổi hàng hóa và cạnh tranh với người
Pháp.
Mạng lưới vận tải đường sông của vùng châu thổ sông Hồng, sông Cửu
Long và các sông lớn miền Trung cũng được khai thác triệt để. Tại các cảng sông
số lượng tàu thuyền tăng đáng kể nhằm chuyên chở lúa gạo và hàng hóa khác. Lực
lượng tàu vận tải đường sông tiêu biểu thời đó có các hãng Sô Va (Pháp), Bạch
Thái Bưởi, Vĩnh Long (Việt Nam).


Ngoài việc nạo vét các kênh đào thực dân Pháp còn tổ chức đào kênh đào
mới, chúng đã thực hiện thêm hàng vạn kilomet, đưa tổng số kênh đào ở Nam Kỳ
từ 2.500 km thời Nguyễn lên 5.000 km thời Pháp, trong số đó gần một nửa rộng từ
18 – 60 m. Loại kênh này được quy hoạch ngay hàng thẳng lối trông rất đẹp mắt.
Nam Kỳ có nhiều sông lớn như sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông Vàm Cỏ, sông
Tiền và sông Hậu. Chúng tuy có thuận lợi cho tàu lớn nhưng lại hạn chế việc xây
dựng đường sắt và đường bộ. Riêng hệ thống sông Cửu Long quá lớn, việc làm cầu
rất khó khăn và tốn kém (nhất là cầu bắc qua sông Tiền và sông Hậu), vì vậy để
đảm bảo giao thông thông suốt khắp Nam Kỳ, thực dân Pháp đã đẩy mạnh đào
thêm kênh, rạch. Ở đôi chỗ, công việc được thực hiện bằng những thiết bị hiện đại
nhất bấy giờ dành riêng cho hoạt động đào kênh, Đào kinh không phải bằng sức

người đào mà người ta xáng cạp đất bằng máy móc chạy hơi nước đơn sơ thời đó.
Kênh đào bằng “xáng” được gọi là “kênh xáng”.
Đào kênh ở miền Tây Nam Kỳ vừa nhằm mở rộng giao thông, vừa nhằm
mục đích thủy lợi, đẩy mạnh khai hoang, là biện pháp tốt nhất để mở mang vùng
đất Tây Nam Kỳ. Đối với địa hình trũng thấp, sông nước như Nam Kỳ, đào kênh là
cách đầu tư hữu hiệu nhất, có lợi về kinh phí hơn đầu tư vào đường bộ. Kết quả là
kênh đào cùng hệ thống sông ngòi chằng chịt đã giúp người dân đi lại, chuyên chở
hàng hóa đến các trung tâm thương mại đầu mối bằng tàu thuyền nhanh chóng, tiện
lợi và đỡ tốn kém hơn trước.
Như vậy đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất, hệ thống giao thông vận tải
ở Đông Dương được xây dựng tương đôi quy mô, một bộ phận thiết yếu của cơ sở
hạ tầng kinh tế - kỹ thuật phục vụ công cuộc khai thác được hoàn thiện. Sự phát
triển của Giao thông vận tải đã thúc đẩy nhanh ngành thương mại ở Việt Nam.
3.3 Ngành Thương nghiệp
Chính sự phát triển của hệ thống giao thông vận tải đã thúc đẩy sự trao đổi
buôn bán giao thương trong cả nước và giao thương buôn bán Việt Nam với bên
ngoài.
Cùng với quá trình bình định Việt Nam, thưc dân Pháp cũng thiết lập một
chính sách độc quyền về thương mại. Thời kì đầu Pháp gặp phải sự cạnh tranh của
thương nhân người Hoa và Ấn Độ. Đến đầu thế kỉ XX Pháp đã kiểm soát được hầu
hết các ngành xuất nhập khẩu vào Việt Nam. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất
tổng giá trị xuất nhập khẩu của Đông Dương từ 140 triệu đồng đầu thế kỉ XX lên
197 triệu đồng.
Nhằm thực hiện cho công cuộc xây dựng hạ tầng kĩ thuật phục vụ cho việc
khai thác bóc lột Đông Dương, dười thời kì toàn quyền Paul Dumer, ông đã cho
xây dựng nhiều công trình kiến trúc cũng như hệ thống giao thông … do đó giá trị
hàng nhập khẩu từ Pháp vào Đông Dương từ năm 1900 đến 1906 tăng lên nhanh
chóng, giá trị hàng hóa nhập lớn hơn giá trị hàng hóa xuất. Đây có thể xem là thời



kì xuất khẩu Tư bản của Pháp vào Đông Dương mà chủ yếu là ở Việt Nam. Càng
về giai đoạn sau thì giá trị hàng hóa xuất khẩu ngày càng lớn hơn, điều này phản
ánh kết quả của công cuộc khai thác bóc lột của Pháp ở Việt Nam và đồng thời trên
một mặt nào đó cũng phản ánh trình độ phát triển của các ngành kinh tế trong
nước.
Chính sách độc quyền thương mại của Pháp đã đưa đến một hệ quả đó là tài
nguyên, khoáng sản, nguyên vật liệu từ Việt Nam đều được xuất sang Pháp và một
số nước khác. Trong khi đó Việt Nam phải nhập khẩu từ chiếc kim khâu đến đường
ray, đầu máy, toa xe từ Pháp sang. Các mặt hàng nông sản cũng được xuất sang
Pháp chế biến nhiều nhất phải kể đến là ngành cao su. Sản lượng cao su Việt Nam
phải xuất sang Pháp để rồi phải nhập từ các chế phẩm cao sư vào Việt Nam. Hàng
hóa của Việt Nam mà pháp cần (chủ yếu là khoáng sản, nguyên vật liệu và hàng
nông sản) thì phải giành cho Pháp ngược lại những hàng hóa Pháp dư thừa hay
kém chất lượng thì nhập vào Việt Nam.
Chính sách độc quyền thương mại đã làm cho nhiều ngành thủ công nghiệp
ở Việt Nam buộc phải phá sản do thực dân Pháp lũng đoạn thị trường. Chúng sử
dụng hàng rào thuế quan để bảo vệ hàng hóa Pháp.
Bên cạnh đó quá trình giao thương trong nước cũng nhọn nhịp hơn trước do
hệ thống giao thông được hoàn thiện và mở rộng. Tuy nhiên việc buôn bán trong
nước cũng bị thực dân Pháp thu thuế, kiểm soát gắt gao. Ngoài ra chúng còn độc
quyền kinh doanh một số mặt hàng quan trọng như rượu, muối và thuốc phiện.
Những ngành này đã đưa về một khoản lợi nhuận rất lớn cho tư bản Pháp.
3.4 Ngành tài chính – ngân hàng
Dưới thời toàn quyền Paul Dumer, ông đã thống nhất tài chính toàn Đông
Dương, lập ra ngân sách chung cho 5 xứ. Ngân sách Đông Dương chủ yếu được
thu từ các loại thuế đánh vào người dân bản xứ. Thực dân Pháp triệt để lợi dụng bộ
máy tai sai để tăng thuế cũ và đặt thêm thuế mới nhằm thu về cho ngân sách Đông
Dương. Chúng đánh thuế mạnh vào các mặt hàng như thuế muối ,thuế rượu và
thuế thuốc phiện… tình chung mỗi năm nhân dân Việt Nam phải đóng tới 90 triệu
francs cho thực dân Pháp.

Với ngân sách Đông Dương hiện có ngoài việc phải nộp về cho chính quốc
thì thực dâp Pháp cũng có nguồn vốn để đầu tư về cơ sở hạ tâng cho các nước
thuộc địa như xây dựng các công trình kiến trúc, công trình văn hóa, xây các
trường học, bệnh viện và cả hệ thống giao thông vận tải. Những công trình kiến
trúc này là sự du nhập của văn hóa phương tây vào Việt Nam, đến nay nhiều công
trình vẫn còn tồn tại và còn có giá trị sử dụng. Điều này trên một mặt nào đó đã tạo
cho các đô thị ở Việt Nam hoàn toàn mới mẻ, hiện đại.
Ngoài ra với bản chất là chủ nghĩa tư bản cho vay nặng lãi, thực dân Pháp
cũng tiến hành mở rộng sự hoạt động của ngân hàng Đông Dương. Chúng độc


quyền phát hành tiền giấy ở Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương nhận được sự
hỗ trợ đắc lực từ giới tài chính và các ông trùm ngân hàng Pháp, nhờ đó Ngân hàng
Đông Dương được Chính phủ Pháp cho hưởng thêm một số đặc quyền như: Nhận
tiền kí thác của khách hàng, cho nông dân vay, cho tư nhân vay và chiết khấu các
thương phiếu, có quyền thàm dự vào việc thiết lập những công ty kỹ nghệ, thương
mại hay nông nghiệp.
Với những độc quyền trên của ngân hàng Đông Dương thì nền kinh tế Đông
Dương hoàn toàn bị phụ thuộc vào ngân hàng Đông Dương.
Khi mới ra đời ngân hàng Đông Dương có vốn điều lệ là 8.000.000francs
vàng, mỗi francs vàng nặng 322mgr vàng nguyên chất, sau đó vốn điều lệ không
ngừng tăng lên; năm 1900 tăng lên 24 triệu francs. Điều này chứng tỏ ngân hàng
Đông Dương hoạt động rất mạnh và làm ăn có hiệu quả đúng như mong đợi của
giới tư bản tài chính Pháp.
Ngân hàng Đông dương được thành lập đã nhanh chóng trở thành một ngân
hàng trương ương tư hữu của xứ thuộc địa, nó có uy quyền khắp xứ Đông Dương,
miền Thái Bình Dương và vùng Ấn Độ thuộc Pháp. Theo Phạm Quang Trung trong
cuốn Lịch sử tín dụng nông nghiệp Việt Nam 1875 – 1945 có viết: “ Là ngân hàng
thương mại, ngân hàng Đông Dương chỉ chạy theo lợi nhuận, chỉ thực hiện những
nghiệp vụ nào mang lại nhiều lợi nhuận nhất. Là ngân hàng phát hành, ngân hàng

Đông Dương sử dụng nguồn vốn do độc quyền phát hành mang lại vào việc tham
gia đầu tư vào những sự nghiệp ở thuộc địa hoặc ở một lãnh thổ hải ngoại mà nó
quan tâm nhiều nhất… Tóm lại, ngân hàng Đông Dương có khả năng bóp nghẹt
mọi âm mưu cạnh tranh với nó ở trong nước và khoác cho mọi sự nghiệp đổi mới
của nó một tính cách ngoại giao và chính trị”.
Ngân hàng Đông Dương đã trở thành chỗ dựa tài chính lớn nhất của giới tài
chính Pháp, các ngân hàng Pháp và nền thương mại Pháp ở Viễn Đông, nhờ vậy có
thể cạnh tranh thương mại với các đổi thủ khác như Anh, Đức …
Bên cạnh những âm mưu, toan tính của thực dân Pháp, ngân hàng Đông
Dương trên một phương diện nào đó đã giúp cho một số người Việt Nam tận dụng
để đầu tư, mở rộng các hoạt động sản xuất và thương mại. Từ đó hình thành nên
một tầng lớp tư sản, tiểu tư sản ở Việt Nam.
Ngoài ra Ngân hàng Đông Dương đã giúp cho thương nhân Pháp, tư bản
Pháp đang làm ăn sinh sống ở Việt Nam có cơ hội đầu tư nhằm phô trương kĩ nghệ
của mình tại Viễn Đông gây ảnh hưởng lớn của Pháp ở các nước thuộc địa.
Có thể nói trên lĩnh vực Tài chính – ngân hàng, thực dân Pháp muốn vơ vét
tối đa các nguồn lực ở Việt Nam cũng như muốn dùng nó thành một công cụ chính
trị để gắn chặt nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế Pháp.
Như vậy, từ năm 1884 đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất, với tâm điểm
là công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp, nền kinh tế Việt Nam đã có


những sự chuyển biến rõ rệt. Nhiều đô thị hiện đại hình thành khắp cả 3 miền bắc
trung nam. Cùng với đó là hạ tầng kĩ thuật được xây dựng tương đối hoàn chỉnh và
quy cũ. Nhiều công ty nhà máy xí nghiệp của tư bản Pháp và tư Bản người Việt
mọc lên và hình thành nên những trung tâm tương đối sầm uất. Cùng với đó là sự
du nhập của nền kinh tế TBCN vào Việt Nam đã phần nào phá vỡ nền kinh tế
truyền thống ở Việt Nam. Cùng với sự thay đổi về kinh tế thì quá trình kahi thác
thuộc địa của thực dân Pháp cũng làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa nhanh
chóng, một số tầng lớp mới trong xã hôi ra đời như công nhân, tư sản, tiểu tư sản.

Đây là những lực lượng mới trong xã hội và sau khi ra đời đã có những hoạt động
trong phong trào đấu tranh chống Pháp.
Chương 3.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM
TỪ 1814 ĐẾN 1945
1. Bối cảnh lịch sử
Trước khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, thực dân Pháp đã tham gia
vào phe Hiệp ước cùng với Anh và Nga để tạo nên sức mạnh chống chọi lại với
những nước đế quốc đang có tham vọng chia lại thị trường thế giới. Để đối phó với
cuộc chiến tranh đế quốc, thực dân Pháp tăng cường khai thác, bóc lột thuộc địa để
chuẩn bị cho chiến tranh. Trong đó Đông Dương được coi là thuộc địa quan trọng
nhất.
Ngày 1/8/1914 chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ ở châu Âu và nhanh
chóng lan ra toàn thế giới, lôi cuốn vào vòng chiến đấu hầu hết các nướ thuộc địa.
Nước Pháp tham gia chiến tranh đế quốc và do đó phải huy động tối đa sức người
sức của trong nước và của các thuộc địa để cung cấp cho nhu cầu chiến tranh.
Năm 1918 chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, nước Pháp tuy là một nước
thắng trận nhưng cũng bị tổn thất nặng nề về kinh tế và tài chính. Chiến tranh đã
phá hoại hàng loạt các nhà máy, cầu cống, đường sá và làng mạc, nhiều ngành sản
xuất công nghiệp bị đình trệ, hoạt động thương mại sa sút nghiêm trọng. Sau chiến
tranh Pháp đã trở thành một con nợ lớn. Chiến tranh thế giới đã xóa sạch hàng triệu
francs của Pháp đầu tư xuất khẩu tư bản ra bên ngoài. Tất cả những điều trên làm
cho tình hình nước Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất gặp nhiều khó khăn.
Cùng với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 của thực dân Pháp nền kinh tế
Việt Nam cũng được phục hồi và phát triển. Tuy nhiên như ở chương 2 đã phân
tích, nền kinh tế Việt nam bị lệ thuộc chặt chẽ vào nền kinh tế Pháp do đó cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 cũng đánh mạnh vào nền kinh tế Việt
Nam.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, nước Pháp nhanh chóng thất bại
khi phát xít Đức tấn công. Ở Đông Dương, phát xít Nhật cũng tràn vào và câu kết



với Pháp bóc lột nhân dân Việt Nam. Trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới thực
dân Pháp đều thực hiện chính sách kinh tế chỉ huy để huy động tối đa sức người
sức của phục vụ cho cuộc chiến.
Cùng với quá trình khai thác bóc lột của thực dân Pháp các giai cấp mới ở
Việt Nam lần lượt ra đời và đứng lên đấu tranh đòi độc lập như giai cấp tư sản, tiểu
tư sản, công nhân. Trong thời kì này phong trào dân tộc dân chủ bùng lên mạnh
mẽ, những con đường cứu nước khác nhau lần lượt được truyền bá vào Việt Nam.
Chính điều này đã làm cho phong trào đấu tranh chống thực dân phong kiến ở Việt
Nam diễn ra hết sức sôi nổi. Đáng chú ý nhất là phong trào đấu tranh theo khuynh
hướng cách mạng vô sản mà hệ quả của nó là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam vào tháng 2 năm 1930.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam phong trào đấu tranh chống
phong kiến đế quốc của nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi. Gây
cho Pháp nhiều khó khăn trong việc ổn định tình hình xã hội thuộc địa để thực hiện
công việc khac thác bóc lột.
2. Kinh tế Việt Nam trong chiến tranh thế giới thứ Nhất
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất do phải tập trung mọi nguồn lực cho
chiến tranh khiến do đó mọi hoạt động kinh tế không chỉ ở nước Pháp mà ở các
thuộc địa Pháp trong đó có Việt Nam bị đình trệ
3. Kinh tế Việt Nam trong thời kì 1918 – 1929
4. Kinh tế Việt Nam từ 1929 đến 1933
5. Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1933 đến 1945
KẾT LUẬN



×