Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Vấn đề xâm hại tình dục trẻ em ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.58 KB, 79 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=======***=======

TRẦN THỊ THANH TRÀ

VẤN ĐỀ XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

HÀ NỘI, 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=======***=======

TRẦN THỊ THANH TRÀ

VẤN ĐỀ XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. HOÀNG THANH SƠN

HÀ NỘI, 2015



LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo
dục chính trị đã tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn em trong suốt quá trình học tập
và hoàn thành khóa luận, đặc biệt là thầy cô trong tổ chủ nghĩa xã hội.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Hoàng Thanh Sơn đã tận
tình hƣớng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Trong quá trình thực hiện khóa luận vì sự hạn chế về thời gian và kiến
thức của bản thân, nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,
em rất mong sự góp ý của thầy cô và các bạn sinh viên để khóa luận đƣợc
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5, năm 2015
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Thanh Trà


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của
Thạc sĩ Hoàng Thanh Sơn Em xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng em.
Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, Tháng 5, năm 2015
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Thanh Trà


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRẺ EM VÀ XÂM HẠI TÌNH

DỤC TRẺ EM ................................................................................................... 6
1.1 Khái quát chung về trẻ em .................................................................... 6
1.2 Khái quát chung về xâm hại tình dục trẻ em ........................................ 20
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA NẠN
XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM HIỆN NAY ............................................... 32
2.1 Thực trạng về xâm hại tình dục trẻ em ở nƣớc ta hiện nay .................. 32
2.2 Nguyên nhân dẫn đến xâm hại tình dục trẻ em ..................................... 38
2.3 Hậu quả của hành vi xâm hại tình dục trẻ em ....................................... 50
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VÀ NGĂN CHẶN
XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM HIỆN NAY .............................................. 54
3.1 Phòng chống và hạn chế xâm hại tình dục trẻ em từ phía gia đình ...... 54
3.2 Phòng chống và hạn chế xâm hại tình dục trẻ em từ phía cộng đồng xã
hội. ............................................................................................................... 57
3.3 Trẻ phải tự giác học tập và rèn luyện đạo đức, trách nhiệm đối với bản
thân và cộng đồng ....................................................................................... 60
3.4 Hạn chế và phòng tránh tình trạng tội phạm ẩn về xâm hại tình dục trẻ
em ................................................................................................................ 61
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 73


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh từng nói:
Trẻ em nhƣ búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan
Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đảm bảo quyền trẻ em đƣợc
sống hạnh phúc vừa là mục tiêu, vừa là động lực và tƣơng lai phát triển bền
vững đất nƣớc. Đây là một quá trình và sự nghiệp quốc gia, đòi hỏi sự phối
hợp, kết hợp đồng bộ, hiệu quả trách nhiệm và hoạt động của toàn hệ thống

chính trị với nỗ lực của gia đình, nhà trƣờng và toàn xã hội, cũng nhƣ các
nguồn lực trong nƣớc và quốc tế. Công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ
em ở nƣớc ta từ lâu đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm chú ý, quan điểm
của Đảng đƣợc nêu rõ tại Chỉ thị 38-CT/TW và đƣợc cụ thể hóa ở hệ thống
pháp luật liên quan đến quyền trẻ em. Trong đó nhấn mạnh: “Trẻ em
là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc, là lớp người kế tục
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cần được ưu tiên bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục.”
Ở nƣớc ta, sau khi phê chuẩn Công ƣớc của Liên Hiệp Quốc về quyền
trẻ em, nhà nƣớc ta đã có riêng một đạo luật quy định về bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em. Cụ thể, tại điều 4 của luật này đã quy định: “Mọi hành vi vi
phạm quyền trẻ em, làm tổn thƣơng đên sự phát triển bình thƣờng của trẻ em
đều bị nghiêm trị” Thông qua đạo luật này Nhà nƣớc ta xác định rất rõ ràng
về vị trí và tầm quan trọng của việc chăm sóc,bảo vệ và giáo dục trẻ em.
Nhờ những nỗ lực trên nên điều kiện về sức khỏe và thể chất của trẻ em
nƣớc ta ngày càng đƣợc cải thiện và nâng cao, cân nặng và chiều cao trung
bình tăng đều, điều kiện vui chơi giải trí có những bƣớc chuyển biến tích cực.
Số lƣợng văn hóa phẩm, sách báo, các chƣơng trình phát thanh, truyền hình

1


dành cho trẻ em của nƣớc ta có sự gia tăng về chất lƣợng và số lƣợng. Chính
sách ƣu tiên giáo dục cho vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn đã tạo điều kiện
cho các em đƣợc đến trƣờng. Công tác chăm lo giáo dục các đối tƣợng trẻ em
nghèo, trẻ em dân tộc ít ngƣời, trẻ em ở các vùng khó khăn, trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt đƣợc quan tâm. Khoảng cách về tiêp cận các điều kiện y tế, học
tập của trẻ em giữa các khu vực, vùng miền đƣợc rút ngắn đáng kể.
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc thì còn nhiều khó khăn thách thức
trong giai đoạn hiện nay. Theo đánh giá của UNICEF Việt Nam vẫn còn bị tụt

hậu trong một số lĩnh vực liên quan đến trẻ em so với các nƣớc trên thế giới.
Không chỉ nhƣ vậy, mà trong thời gian qua thông tin liên quan đến xâm hại
tình dục trẻ em đã thu hút nhiều sự quan tâm và lo ngại cho xã hội, gây nhức
nhối trong dƣ luận, vấn nạn này dấy lên hồi chuông báo động về sự suy đồi
nhân cách, đạo đức của một số phần tử biến chất, không chỉ ảnh hƣởng
nghiêm trọng tới sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý của trẻ mà còn ảnh
hƣởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự. Xâm hại tình dục trẻ em
gây ảnh hƣởng nghiêm trọng tới sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Nạn nhân
của xâm hại tình dục có nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đƣờng tình dục,
một số trẻ em gái mang thai ngoài ý muốn, có thể bị mất khả năng sinh sản.
Khi bị xâm hại tình dục, trẻ em thƣờng rơi vào trạng thái hoảng loạn, sợ hãi,
xấu hổ, sống mặc cảm, không muốn giao tiếp với mọi ngƣời, ít nói, nhút nhát,
học kém, một số em thƣờng trốn học, bỏ nhà ra đi do mặc cảm. Đây cũng
chính là những nguy cơ đẩy trẻ em tham gia vào tệ nạn xã hội và hoạt động
tội phạm khiến số vụ phạm tội tiếp tục gia tăng. Nghiêm trọng hơn, ở góc độ
xã hội thì tình trạng xâm hại tình dục trẻ em lại là mầm mống phát triển của
nhiều loại tội phạm khác nhƣ cƣớp tài sản, giết ngƣời, cố ý gây thƣơng tích
.v.v... Chính vì vậy em đã chọn đề tài “Vấn đề xâm hại tình dục trẻ em ở nước
ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khóa luận của mình, qua đó em hi vọng có

2


thêm những hiểu biết đúng đắn về vấn đề xâm hại tình dục trẻ em, góp phần
làm rõ, nâng cao vai trò và trách nhiệm của gia đình, nhà trƣờng và xã hội
trong việc hỗ trợ và phòng ngừa các vấn đề về xâm hại tình dục trẻ em đang
diễn ra hết sức phức tạp trong giai đoạn hiện nay, giúp các em có một sức
khỏe tinh thần vững mạnh, phát triển tốt về mọi mặt, trở thành một ngƣời chủ
tƣơng lai của đất nƣớc. Đồng thời thông qua đề tài này em mong muốn có thể
phổ biến rộng rãi, giúp mọi ngƣời có ý thức phòng tránh tốt hơn, bảo vệ chính

con em chúng ta, vì tƣơng lai của mỗi chúng ta và cũng là của nƣớc nhà.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay thì đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn nạn xâm
hại tình dục trẻ em ở Việt Nam, các bài nghiên cứu thƣờng thể hiện dƣới
những hình thức nhƣ: sách, báo, tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học. Một
số công trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề này nhƣ: Bản ghi chép tóm
lƣợc về khai thác kinh doanh tình dục trẻ em, phần Bảo vệ trẻ em, quỹ nhi
đồng Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội,
Báo cáo công tác đâu tranh phòng, chống hành vi bạo lực tình dục đối với
phụ nữ và trẻ em gái tại thành phố Hà Nội, 2014 Báo động tình trạng trẻ bị
ngƣời thân xâm hại của Nhƣ Lịch...
Với dung lƣợng của một bài khóa luận, em xin làm sáng tỏ một số lý
luận về trẻ em, khái niệm xâm hại tình dục trẻ em, thực trạng, nguyên nhân
của vấn nạn này ở nƣớc ta hiện nay, trên cơ sở đó đƣa ra một số giải pháp
nhằm ngăn chặn nạn xâm hại tình dục ở trẻ em.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Vấn nạn xâm hại tình dục trẻ em ở nƣớc ta hiện nay
Phạm vi nghiên cứu

3


Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng, hậu quả, cách xử lý, một số
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng xâm hại tình dục trẻ em đáng báo
động ở nƣớc ta hiện nay (giai đoạn từ năm 2007- 2014). Đồng thời đi sâu
nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến việc các hành vi xâm hại tình dục trẻ
em bị ẩn đi.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận về xâm hại tình dục trẻ em, thực
trạng đã và đang diễn ra trong giai đoạn hiện nay, để từ đó có nhận thức đúng
đắn và rõ ràng hơn về những hành vi cũng nhƣ những nguyên nhân của xâm
hại tình dục trẻ em, trên cơ sở đó góp phần bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em đƣợc tốt hơn, xử lý mạnh và nghiêm khắc với những ngƣời có hành vi
xâm hại đến thân thể và nhân phẩm của trẻ em.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ các lý luận về quyền trẻ em, các hành vi xâm hại tình dục trẻ
em, nêu bật lên thực trạng đáng báo động của vấn nạn này trong xã hội nƣớc
ta hiện nay, trên cơ sở đó xây dựng những biện pháp đấu tranh, phòng ngừa
nạn xâm hại tình dục trẻ em.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, nghiên cứu đề tài, em đã sử dụng phƣơng
pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, ngoài ra em còn sử
dụng các phƣơng pháp khác đó là phƣơng pháp phân tích, đối chiếu, chứng
minh, so sánh, thu thập tài liệu, phân tích số liệu có liên quan, liệt kê tổng
hợp, thống kê... để thể hiện nội dung của đề tài. Đồng thời em có tham khảo
các công trình nghiên cứu và bình luận, sƣu tầm, tham khảo các tài liệu có
liên quan để làm rõ vấn đề hơn.

4


6. Bố cục của đề tài
Bố cục của luận văn gồm có phần lời nói đầu, phần nội dung và phần
kết luận. Trong phần nội dung gồm có 3 chƣơng
Chƣơng 1: Khái quát chung về trẻ em và xâm hại tình dục trẻ em
Chƣơng 2: Thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tình trạng xâm hại tình
dục trẻ em hiện nay
Chƣơng 3: Giải pháp nhằm hạn chế và đẩy lùi xâm hại tình dục trẻ em

hiện nay.

5


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRẺ EM
VÀ XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM
1.1 Khái quát chung về trẻ em
1.1.1 Khái niệm trẻ em
Trẻ em không phải là ngƣời lớn thu nhỏ lại. Trẻ em vận động và phát
triển theo qui luật riêng của mình. Tâm lý học lứa tuổi lại xác định những
giai đoạn khác nhau trong lứa tuổi trẻ em nhƣ: tuổi sơ sinh, tuổi hài nhi,
tuổi mẫu giáo nhỏ, tuổi mẫu giáo lớn, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi
thanh niên mới lớn.
Về mặt pháp lý, theo Công ƣớc về quyền trẻ em 1989 tại điều 1 có quy
định: “Trong phạm vi của Công ƣớc này trẻ em có nghĩa là mọi ngƣời dƣới 18
tuổi, trừ trƣờng hợp pháp luật áp dụng với trẻ em có quy định tuổi thành niên
sớm hơn” Ở Việt Nam, trong phần pháp lý quy định về trẻ em nằm rải rác ở
một số ngành luật và đƣợc quy định liên quan đến nhau. Cụ thể, tại điều 1 của
Luật Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em năm 2004 có quy định: “Trẻ em là
công dân Việt Nam dƣới 16 tuổi”. Trong pháp luật Việt Nam khái niệm trẻ
em và ngƣời chƣa thành niên là 2 khái niệm khác nhau. Theo đó, căn cứ vào
độ tuổi thì trẻ em cũng là ngƣời chƣa thành niên.
Dựa vào pháp luật quốc tế, và do đặc trƣng của mỗi quốc gia khác nhau
nên việc xác định độ tuổi của trẻ em cũng có sự chênh lệch. Tuy nhiên theo
luật pháp Việt Nam hiện hành thì: “Trẻ em là những ngƣời dƣới 16 tuổi”
(Điều 1, luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004). Đây là độ tuổi
đang trong quá trình phát triển về tâm sinh lý, và nhận thức còn chƣa hoàn
chỉnh cho nên cần đƣơc quan tâm và chăm sóc đặc biệt về mọi mặt cả về vật

chất lẫn tinh thần từ phía gia đình, nhà trƣờng và xã hội.

6


1.1.2 Các quyền cơ bản của trẻ em
Quyền trẻ em về cơ bản là một thuật ngữ pháp lý, đƣợc xem nhƣ một
biện pháp của pháp luật để bảo vệ trẻ em, quyền trẻ em là những đặc quyền tự
nhiên, cơ bản và chính đáng mà trẻ em đƣợc hƣởng, đƣợc làm đƣợc tôn trọng
và thực hiện nhằm bảo đảm sự sống còn, tham gia và phát triển toàn diện.
quyền trẻ em chính là biện pháp nhằm đảm bảo cho trẻ em không những là
những ngƣời tiếp thu thụ động tình thƣơng hay lòng tốt của bất cứ ai, mà trở
thành chủ thể của quyền.
Quyền trẻ em đƣợc quy định rất nhiều trong các văn bản pháp luật quốc
tế và các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài, em chỉ đề cập đến một số quyền của trẻ em đƣợc quy
định trong Công ƣớc Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em 1989 và trong luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 của Việt Nam
1.1.2.1 Một số quyền cơ bản của trẻ em theo Công ước của Liên Hiệp Quốc
Quyền con ngƣời nói chung và quyền trẻ em nói riêng đóng vai trò rất
quan trọng trong từng thời kỳ phát triển của xã hội. Đây là vấn đề cần phải
đặc biệt quan tâm, không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia mà còn là cả
cộng đồng quốc tế. trẻ em ở tất cả các nƣớc trên thế giới vẫn còn sống trong
những hoàn cảnh khó khăn, cần đƣợc quan tâm, chăm sóc và bảo vệ. Do đó
sự hợp tác quốc tế về vấn đề “Làm thế nào để trẻ em có cuộc sống tốt hơn?”
là hết sức cấp thiết, nhất là đối với các nƣớc đang phát triển và chậm phát
triển, nơi điều kiện sống vẫn còn rất nhiều hạn chế. Với vai trò là trung tâm
của cộng đồng quốc tế, Liên Hiệp Quốc đã có những nỗ lực trong việc xây
dựng các văn bản pháp luật cho trẻ em, cũng nhƣ nghĩa vụ, trách nhiệm của
Quốc gia đối với trẻ em.

Với sự nỗ lực của các quốc gia Công ƣớc quyền trẻ em đã đƣợc thông
qua và ký ngày 20 tháng 11 năm 1989 (Công ƣớc quyền trẻ em 1989) và có

7


hiệu lực ngày 2 tháng 9 năm 1990. Nhận thấy tầm quan trọng của Công ƣớc
về vấn đề trẻ em đối với quốc gia mình, vào ngày 26/1/1990 Việt Nam đã ký
công ƣớc về quyền trẻ em và phê chuẩn ngày 20/2/1990.
Trong Công ƣớc có thể chia thành bốn nhóm quyền cơ bản sau:
Quyền được sống còn: Theo điều 6 Công ƣớc của Liên Hiệp Quốc về
quyền trẻ em “ Mọi trẻ em có quyền cố hữu đƣợc sống và Nhà nƣớc có nghĩa
vụ bảo đảm sự tồn tại và phát triển của trẻ em” [2;tr18]. Đây là nhóm quyền
đƣợc Công ƣớc xem là quyền cố hữu của trẻ em. Đó là quyền đƣợc sống và
đảm bảo các nhu cầu tối thiểu để tồn tại.
Do trẻ em những những cá thể non nớt, chƣa phát triển đầy đủ cả về thể
chất lẫn tinh thần, không thể tự nuôi sống đƣợc bản thân nên có thể nói đây là
một khía cạnh vô cùng quan trọng của Công ƣớc. vì đơn giản là, trẻ em có đƣợc
sống, có tồn tại thì chúng ta mới có cơ hội bàn về vấn đề quyền của trẻ em.
Nhƣ đã nói, sống còn là tiền đề cho sự phát triển và mục tiêu chung của
Công ƣớc là đem đến cho trẻ em một sự chăm sóc đặc biệt, sự bảo vệ và phát
triển hài hòa, cho nên tại điều 6 của Công ƣớc đã yêu cầu các quốc gia phải
đảm bảo ở mức độ cao nhất có thể sự sống còn và phát triển của các em. Khái
niệm bảo đảm sự sống còn của trẻ em ở đây đƣợc hiểu không chỉ là đƣợc bảo
đảm không bị tƣớc đoạt tính mạng mà còn là bảo đảm sự sống còn của các em
thông qua nhu cầu dinh dƣỡng và sự chăm sóc y tế ở mức độ cao nhất có thể,
điều này đƣợc hiểu là giảm tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh và trẻ em, giảm tình trạng
suy dinh dƣỡng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, cung cấp chăm sóc sức
khỏe ban đầu, cung cấp nƣớc sạch, các hoạt động y tế dự phòng và kế hoạch
hóa gia đình.

Quyền được phát triển: Quyền đƣợc phát triển là những nhu cầu cải
thiện cuộc sống, bao gồm tất cả các hình thức giáo dục và quyền có một mức

8


sống đầy đủ cho sự phát triển về thể lực, tinh thần, trí tuệ, nhân cách, đạo đức
và xã hội của trẻ em.
Công ƣớc đã định nghĩa sự phát triển của trẻ em theo khái niệm rộng
nhất, đó không chỉ là sự phát triển về thể lực, trí tuệ mà còn là sự phát triển về
tinh thần, đạo đức nhân cách và xã hội. Cách tiếp cận này đòi hỏi sự quan tâm
của toàn xã hội, từ gia đình, nhà trƣờng, nhà nƣớc đến các tổ chức, cá nhân
nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu cho sự sống của trẻ đến các tiêu chuẩn
khác nhằm chăm lo cho sự phát triển toàn diện của trẻ em. Chính vì vậy, tất
cả những quyền của trẻ em có tác động đến sự phát triển toàn diện của trẻ đều
đƣợc xếp vào nhóm quyền đƣợc phát triển.
Trẻ em có quyền đƣợc học tập và Nhà nƣớc có nghĩa vụ bảo đảm rằng
giáo dục tiểu học là bắt buộc và miễn phí, khuyến khích tổ chức những hình
thức khác nhau của giáo dục trung học đến đƣợc với mọi trẻ em. Kỷ luật nhà
trƣờng phải tôn trọng các quyền và nhân phẩm của trẻ em. Giáo dục phải
nhằm phát triển nhân cách, tài năng, các khả năng tinh thần và thể chất của
trẻ đến mức cao nhất. giáo dục phải chuẩn bị cho trẻ em một cuộc sống tích
cực ở tuổi ngƣời lớn trong một xã hội tự do theo tinh thần hiểu biết, hòa bình,
khoan dung...
Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa
nghệ thuật. Các quốc gia thành viên công nhận quyền của trẻ em đƣợc nghỉ
ngơi và tiêu khiển, đƣợc tham gia vui chơi vào những hoạt động phù hợp với
lứa tuổi.
Quyền được bảo vệ: Nhằm bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bị bỏ rơi
và lạm dụng, công ƣớc cũng thừa nhận sự cần thiết phải bảo vệ trẻ em khỏi

các tình huống có thể ảnh hƣởng tới sự sống còn và phát triển của trẻ em.
Khái niệm bảo vệ trẻ em không chỉ dừng lại ở việc ngăn chặn những sự xâm

9


hại về thể chất hay tinh thần, mà nó còn bao gồm cả việc ngăn ngừa và khắc
phục những điều kiện bất lợi đối với cuộc sống của trẻ em.
Nhà nƣớc phải bảo vệ trẻ em chống lại tất cả các hình thức ngƣợc đãi
của cha mẹ hay của những ngƣời khác, bảo vệ trẻ em khỏi tất cả các hình thức
bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, bị tổn thƣơng hay lạm dụng bị bỏ mặc hoặc
sao nhãng việc chăm sóc, bị ngƣợc đãi hoặc bóc lột gồm cả lạm dụng tình dục
trong khi trẻ em vẫn nằm trong vòng chăm sóc của cha mẹ.
Trẻ em có quyền đƣợc bảo vệ không phải làm những công việc gây tổn
hại đến sức khỏe, giáo dục và phát triển của các em, không bị bóc lột về kinh
tế. Nhà nƣớc phải ấn định tuổi tối thiểu cho việc tuyển mộ lao động và quy
định những điều kiện lao động (giờ giấc, công việc...)
Nhà nƣớc phải bảo vệ trẻ em chống lại sự lạm dụng và bóc lột tình dục,
kể cả mại dâm và việc trẻ em liên quan đến văn hóa phẩm khiêu dâm. Ngăn
ngừa việc xúi giục hay ép buộc trẻ em tham gia vào bất kỳ hoạt động tình dục
trái pháp luật nào.
Không trẻ em nào bị tra tấn, trừng phạt và đối xử tàn bạo, bắt bớ và
giam giữ không hợp pháp. Cấm áp dụng án tử hình và chung thân cho những
tội không có cơ hội phóng thích do những ngƣời dƣới 18 tuổi phạm phải. trẻ
em bị giam giữ có quyền đƣợc hƣởng sự giúp đỡ về pháp lý và sự giúp đỡ
thích hợp khác...
Quyền được tham gia: Công ƣớc nêu rõ tại điều 12: “Đảm bảo cho trẻ
em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, đƣợc quyền tự do
bày tỏ những quan điểm đó về tất cả các vấn đề có tác động đến trẻ em, những
quan điểm của trẻ phải đƣợc coi trọng một cách thích đáng, phù hợp với độ

tuổi và độ trƣởng thành của trẻ” [2;tr22].
Trẻ em có quyền đƣợc tham gia xuất phát từ quan niệm cho rằng trẻ em
cũng là con ngƣời, cũng là thành viên trong gia đình và trong xã hội, mỗi em

10


là một cá thể phát triển có nhận thức riêng về những điều mà các em tiếp nhận
từ thế giới xung quanh.. Quá trình thu nhận thông tin của mỗi em nếu đƣợc
chia sẻ, bộc lộ sẽ giúp cho trẻ phát triển. Quyền đƣợc tham gia chính là yêu
cầu của sự phát triển, là một chủ thể tích cực, có quyền với những tình cảm và
suy nghĩ riêng, trẻ em có quyền bày tỏ ý kiến về những vấn đề có liên quan
tới các em, và ngƣời lớn cần quan tâm, lắng nghe ý kiến của các em trƣớc khi
quyết định những vấn đề có liên quan đến trẻ em. Trẻ em phải đƣợc đặc biệt
tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình, có quyền bày tỏ các quan điểm của mình,
thu nhận thông tin và làm cho ngƣời khác biết đến các ý kiến có thể là truyền
miệng, viết tay hay bản in hoặc bất kỳ phƣơng tiện truyền thông nào khác mà
trẻ lựa chọn.
Thực hiện quyền đƣợc tham gia giúp cho trẻ hiểu biết hơn, nâng cao
hơn nhận thức, tích lũy đƣợc kinh nghiệm, giúp ngƣời lớn đƣa ra đƣợc quyết
định đúng đắn nhất để giải quyết những vấn đề xảy ra trong cuộc sống có liên
quan tới trẻ em.
1.1.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh – Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về quyền trẻ em
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời luôn dành tình cảm và sự quan
tâm đặc biệt cho trẻ em. Sự quan tâm đó không chỉ bắt nguồn từ tình yêu
thƣơng vô hạn đối với trẻ em, mà còn bắt nguồn từ tầm nhìn xa trông rộng
của chiến lƣợc “vì lợi ích mƣời năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
ngƣời”. Đặc biệt, sự quan tâm đó bắt nguồn từ việc nhận thức đƣợc vị trí,
vai trò của trẻ em: “Ngày nay các cháu là nhi đồng. Ngày mai các cháu là

ngƣời chủ của nƣớc nhà, của thế giới”, khi “các cháu đoàn kết thì thế giới
hoà bình và dân chủ, sẽ không có chiến tranh”. Hồ Chí Minh luôn xem
“Công tác giáo dục thiếu niên, nhi đồng rất quan trọng, đó là nhiệm vụ đào
tạo thế hệ tƣơng lai cho Tổ quốc”. Theo Ngƣời, nhiệm vụ to lớn này phải do

11


cả dân tộc và toàn xã hội đảm trách. Bác giao nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em cho các cấp, các ngành, nhất là các cơ quan làm công tác
thiếu niên nhi đồng, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, nhà trƣờng, gia đình và
tất cả những ngƣời lớn tuổi trong xã hội. “Thiếu niên, nhi đồng là ngƣời chủ
tƣơng lai của nƣớc nhà, vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm
vụ của toàn Đảng, toàn dân.
Kế thừa, tiếp thu và phát huy truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền trẻ em và trách nhiệm thực hiện quyền trẻ
em, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến trẻ em, coi
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là mối quan tâm đặc biệt hàng đầu,
với quan điểm xem con ngƣời vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp
phát triển đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, xem trẻ em là nguồn
hạnh phúc của gia đình, là tƣơng lai của dân tộc, là lớp ngƣời kế tục sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ thị 197/CT-TW ngày 19/3/1960
của Ban Bí thƣ TW Đảng đã chỉ rõ: “Quan tâm đến thiếu niên, nhi đồng là
quan tâm đến việc đào tạo, bồi dƣỡng một lớp ngƣời mới không những phục
vụ cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa hiện nay mà còn chính là sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa cộng sản sau này” .
Đầu năm 1990, Việt Nam là nƣớc đầu tiên của Châu Á và là nƣớc thứ
hai trên thế giới phê chuẩn Công ƣớc của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em
1989, và kể từ đó cho đến nay Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện hệ thống
pháp luật trong nƣớc để phù hợp với Công ƣớc. cụ thể đƣợc thể hiện ở các

ngành luật chuyên ngành hiện nay nhƣ:
+ Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em: đƣợc sửa đổi, bổ sung mới
nhất năm 2004 và các văn bản sửa đổi bổ sung đã đề ra nguyên tắc theo đúng
tinh thần của Công ƣớc từ đó làm nền tảng Nhà nƣớc thực thi áp dụng.

12


+ Luật lao động: Đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2005, 2006 và năm 2007
và các văn bản hƣớng dẫn thi hành đã quy định cụ thể về độ tuổi lao động tối
thiểu (15 tuổi) các trƣờng hợp về lao động trẻ em trong ngành nghề lĩnh vực
đặc biệt, các chế độ phụ cấp, trợ cấp riêng dành cho ngƣời lao động là trẻ em
quy định rất rõ ràng và đƣợc áp dụng mang tính thực tiễn cao.
+ Luật tố tụng hình sự năm 2003: Triệt để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em
vi phạm pháp luật, điển hình, khi ngƣời bị tạm giữ, tạm giam là ngƣời chƣa
thành niên dƣới 14 tuổi thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao
những ngƣời đó cho ngƣời thân thích chăm nom.
+ Luật hình sự: Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009)
đã dành riêng một số điều khoản trong chƣơng XII nhắm đảm bảo cho tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em tránh bị xâm hại. Cụ thể tại
điều 94 (tội giết con mới đẻ), điểu 112 (tội hiếp dâm trẻ em), điều 116 (tội dâm
ô đối với trẻ em) và điều 120 (tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em).
Trong đó luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là luật chuyên ngành
dành riêng cho trẻ em, quy định các quyền cơ bản, bổn phận của trẻ em, trách
nhiệm của gia đình, Nhà nƣớc và xã hội, luật này đƣợc áp dụng với cơ quan
Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang
nhân dân, gia đình và công dân Việt Nam (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ
chức gia đình, cá nhân), tổ chức nƣớc ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt

Nam, ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú tại Việt Nam. Luật đang có hiệu lực hiện nay là
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, nhƣng từ trƣớc khi có sự
ra đời của luật này Việt Nam đã ban hành rất nhiều những văn bản pháp luật
có liên quan đến vấn đề bảo vệ trẻ em, điển hình là Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 1991 chƣa đáp ứng đủ nhu cầu cần thiết đặt ra trong khi

13


vấn đề quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em không thể không đƣợc quan tâm.
Ở luật 2004 cũng nhƣ luật 1991 chỉ quy định về những quyền cơ bản của trẻ
em gói gọn trong 10 điều từ điều 11 tới điều 20, bao gồm:
-

Quyền đƣợc khai sinh và có quốc tịch (Điều 11)

-

Quyền đƣợc chăm sóc, nuôi dƣỡng (Điều 12)

-

Quyền sống chung với cha mẹ (Điều 13)

-

Quyền đƣợc tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và

danh dự (Điều 14)
-


Quyền đƣợc chăm sóc sức khỏe (Điều 15)

-

Quyền đƣợc học tập (Điều 16)

-

Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể

thao, du lịch (Điểu 17)
-

Quyền đƣợc phát triển năng khiếu (Điều 18)

-

Quyền có tài sản (Điểu 19)

-

Quyền đƣợc tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động

xã hội (Điều 20)
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 đã thực sự bám sát và
phù hợp với những quy định của Công ƣớc về quyền trẻ em 1989 mà Việt
Nam đã tham gia. Cùng với sự ra đời của luật này, Nghị định số 36/2005/NĐCP của Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em 2004 đã thực sự cụ thể hóa các quy định của luật. Nghị định
dài 6 chƣơng, 41 điều này đã quy định cụ thể về các hành vi vi phạm quyền

trẻ em, trách nhiệm bảo đảm các quyền cơ bản của trẻ em, công tác bảo vệ
quyền đối với trẻ em có hoàn cành đặc biệt, trách nhiệm của từng cơ quan
quản lý nhà nƣớc đối với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, những
quy định này đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ quyền trẻ em ở
Việt Nam hiện nay.

14


Tuy nhiên có thể thấy rằng, quyền trẻ em với tƣ cách là một khái niệm
mới về mặt lịch sử vì khái niệm này mới chỉ đƣợc chấp nhận ở Việt Nam
trong thời gian gần đây ở thời kỳ đổi mới khi có những thay đổi trong các mối
quan hệ xã hội và gia đình. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên từ
“quyền trẻ em” đƣợc dùng trong các văn kiện của Đảng. Từ đó, quyền trẻ em
với tƣ cách là quyền con ngƣời đƣợc thảo luận công khai và rộng rãi ở Việt
Nam. Trong lịch sử, cấu trúc gia đình VN chịu ảnh hƣởng sâu sắc của đạo
Khổng và cho đến nay vẫn còn mang nặng tính gia trƣởng. Theo đó, ngƣời
nam giới đứng đầu gia đình có quyền lực tuyệt đối đối với các thành viên gia
đình, phụ nữ và trẻ em hoàn toàn theo ý của ngƣời chồng và ngƣời cha. Cha
có thể bán con, cho thuê và dùng con làm vật gán nợ, cha hoàn toàn quyết
định việc hôn nhân của con. Trong gia đình, con chỉ mãi mãi là đứa trẻ cho
đến khi cha mẹ qua đời. Nhìn chung, trong nhiều thế kỷ, trẻ em Việt Nam
không đƣợc hƣởng một quyền gì cả. Nó cũng lý giải vì sao hàng triệu trẻ em
nông thôn phải tham gia lao động, làm các công việc tạo thu nhập cho gia
đình. Bên cạnh đó là hàng ngàn trẻ em bị buôn bán, bị lạm dụng và bị bạo lực.
Từ khi Việt Nam ký Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em, hàng loạt luật mới ra
đời nhƣ Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (1991); Luật Phổ cập giáo
dục tiểu học (1991); Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân (1989) đã nhấn mạnh
nhiệm vụ của xã hội đối với việc chăm sóc, giáo dục trẻ em, trừng phạt
nghiêm khắc đối với vi phạm quyền trẻ em; đề ra việc giáo dục tiểu học bắt

buộc đối với tất cả trẻ em Việt Nam từ 6 đến 14 tuổi; quy định mọi trẻ em đều
đƣợc khám chữa bệnh và tiêm chủng một số bệnh miễn phí. Mặc dù vậy,
quyền và luật không phải là những khái niệm đồng nghĩa. Việc thực hiện
quyền trẻ em trong thực tế vẫn đang đứng trƣớc nhiều khó khăn thách thức do
những rào cản mà văn hoá truyền thống để lại.

15


1.1.3 Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em
Các nhà tâm lý học và giáo dục học chia quá trình phát triển của con
ngƣời từ khi sinh ra đến lúc chết đi thành các giai đoạn khác nhau. Trẻ em cần
đƣợc chăm sóc, giáo dục, nuôi dƣỡng và đối xử phù hợp với mỗi giai đoạn
phát triển trở thành ngƣời lớn. Quá trình phát triển diễn ra thông qua việc tiếp
xúc xã hội, nhận thức về các chuẩn mực và học hỏi. Gia đình và bạn bè đồng
lứa có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển của trẻ em và ngƣời chƣa
thành niên bởi vì sự gần gũi gắn bó của các thành viên trong gia đình. Phụ
thuộc vào độ tuổi và ảnh hƣởng của môi trƣờng sống xung quanh, trẻ em sẽ
có những biểu hiện về tâm sinh lý khác nhau tùy vào từng giai đoạn trong quá
trình phát triển của mình. Sự phát triển của trẻ là một quá trình liên tục, mỗi
thời kỳ có những nét tâm lý đặc trƣng nhất định mà trẻ em phải trải qua. Sự
chuyển giao từ thời kỳ này sang thời kỳ khác bao giờ cũng gắn với sự xuất
hiện những cấu tạo tâm sinh lý đặc thù.
Theo nhà tâm lý học ngƣời Đức Erik Erikson, hoàn cảnh xung quanh
ảnh hƣởng rất mãnh liệt trong việc phát triển tính tình con ngƣời. Ông phân
chia cuộc sống con ngƣời theo 8 giai đoạn tâm lý căn bản, và nhấn mạnh rằng
ngƣời ta chỉ có thể phát triển đầy đủ ở một giai đoạn nào đó về phƣơng diện
tình cảm, tâm lý, xã hội, nếu giai đoạn trƣớc đó không bị gián đoạn. các giai
đoạn phát triển bao gồm: Tuổi 0-1, tuổi 2-3, tuổi 3-5, tuổi 6-12 (thiếu niên),
tuổi 13-19 (Thanh thiếu niên), tuổi 20-35 (Thanh niên), tuổi 35-60 (Trung

niên), tuổi 60- (Cao niên)
Và theo các nhà tâm lý học Mác xít đã căn cứ vào sự thay đổi căn bản
trong điều kiện sống và hoạt động của trẻ, vào sự phát triển về thể chất ở trẻ
và sự thay đổi trong cấu trúc chức năng tâm lý của trẻ, ngƣời ta chia sự phát
triển tâm lý của trẻ: tuổi sơ sinh từ 0-2 tháng; tuổi hài nhi từ 2-12 tháng; tuổi

16


nhà trẻ từ 1- 3 tuổi, tuổi mẫu giáo từ 3-6 tuổi; tuổi nhi đồng từ 6 đến 11 tuổi;
tuổi thiếu niên từ 11- dƣới 16 tuổi.
1.1.3.1 Đặc điểm tâm lý, sinh lý của trẻ em ở giai đoạn từ 3 tuổi đến 6 tuổi
Trong giai đoạn này trẻ em tiếp tục phát triển về chiều cao và trọng
lƣợng của cơ thể. Tốc độ phát triển chiều cao và cân năng của trẻ em từ 4 đến
6 tuổi chậm hơn so với trẻ em dƣới 3 tuổi, nhƣng tính trong cả đời ngƣời thì
đây vẫn nằm trong giai đoạn phát triển với tốc độ cao, mỗi năm trẻ chỉ tăng
trung bình khoảng 3kg thể trọng và 5 đến 7cm chiều cao. Cơ quan sinh dục
vẫn chƣa có sự phát triển và thay đổi gì lớn. hệ thần kinh của trẻ vẫn tiếp tục
tăng trƣởng về hình thái và cấu trúc, trọng lƣợng não tăng từ khoảng 1.1001.300g, tức là 90% trọng lƣợng não ngƣời trƣởng thành.
Ở giai đoạn này trẻ nói chuyện tốt hơn, kiểu diễn đạt không liên tục,
chen lẫn những cử chỉ nhƣ lúc 2 – 3 tuổi dần đƣợc thay đổi bằng ngôn ngữ
liên lạc khi trò chuyện với ngƣời lớn, về tƣ duy và tƣởng tƣợng của trẻ phát
triển phong phú, chúng bắt đầu quan sát ngƣời khác để học hỏi và bắt chƣớc.
Đây cũng là thời kỳ nhân cách bắt đầu đƣợc hình thành, những nếp
sống, thói quen, cách cƣ xƣ, tình cảm làm nền tảng cho nhân cách sau này
rất khó thay đổi. các công trình nghiên cứu về tâm lý cho thấy những nét
tình cách cơ bản trong nhân phẩm của trẻ đƣợc hình thành chính trong giai
đoạn này và thƣờng ảnh hƣởng đến đạo đức mai sau của trẻ. Theo bà
Grupxakia “Những cảm giác đầu tiên thời thơ ấu để lại dấu vết suốt đời,
cho nên từ buổi đầu ta phải thận trọng trong việc dạy trẻ” tình cảm hồn

nhiên, dễ yêu, dễ nổi giận, muốn đƣợc tự chủ là một trong những nét tâm
lý nổi bật ở trẻ trong giai đoạn này, tƣơng ứng với giai đoạn này là sự lựa
chọn giữa mong muốn đƣợc chủ động, sáng tạo và cảm giác có lỗi, xấu hổ
và đang dần hình thành ý thức, tính cách.

17


1.1.3.2 Đặc điểm tâm lý, sinh lý của trẻ em ở giai đoạn từ 6 tuổi đến 11 tuổi
Trong giai đoạn này trẻ tiếp tục phát triển về chiều cao và trọng lƣợng
cơ thể. Não phát triển châm hơn, đến 12 tuổi trọng lƣợng não gần bằng ngƣời
lớn khoảng 1400g, cơ thể của trẻ bắt đầu có những thay đổi lớn về hệ xƣơng,
hệ cơ, hệ thần kinh và chiều cao.
- Hệ xƣơng: còn nhiều mô sụn, xƣơng sống, xƣơng hông, xƣơng tay,
xƣơng chân đang trong thời kỳ phát triển nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập... vì thế
mà trong các hoạt động vui chơi của các em, cha mẹ và thầy cô cần phải chú ý
quan tâm, hƣớng các em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn.
- Hệ cơ: Đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các
trò chơi vận động nhƣ chạy, nhảy, nô đùa... do đó thầy cô và cha mẹ nên đƣa
các em vào các trò chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm
bảo sự an toàn cho trẻ.
- Hệ thần kinh cao cấp: Đang hoàn thiện về mặt chức năng, tƣ duy của
trẻ chuyển dần từ trực quan hành động sang tƣ duy hình tƣợng, do đó các em
rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ nhƣ đố vui, các cuộc thi trí tuệ... dựa vào
đặc điểm này thầy cô và cha mẹ nên đặt ra nhiều câu hỏi cuốn hút các em
nhằm phát triển tƣ duy của các em.
1.1.3.3 Đặc điểm tâm lý, sinh lý của trẻ em ở giai đoạn từ 11 đến
dưới 16 tuổi
Đây là giai đoạn quan trọng nhất của mỗi đời ngƣời, giai đoạn chuyển
tiếp từ tuổi thơ ấu sang tuổi trƣởng thành, cơ chế sinh lý thay đổi một cách rõ

rệt, sự chín muồi về thể chất, sự biến đổi điều chỉnh tâm lý và các quan hệ xã
hội, này sinh nhiều rối nhiễu tâm lý nhất so với các lứa tuổi khác.
Ở lứa tuổi này, trẻ phát triển mạnh mẽ nhƣng không đồng đều về mặt
cơ thể. Sự hoạt động của các tuyến nội tiết quan trọng nhất (tuyến yên, tuyến
giáp trạng, tuyến thƣợng thận) tạo ra nhiều thay đổi trong cơ thể trẻ. Nổi bật

18


là sự nhảy vọt về chiều cao, trung bình 1 năm cao từ 5 – 6 cm, các em nữ 12,
13 tuổi cao nhanh hơn các em trai cùng độ tuổi, nhƣng đến 18 – 20 tuổi sự
phát triển chiều cao dừng lại, các em nam ở tuổi 15 – 16 thì cao đột biến, đến
24 -15 mới dừng lại... trọng lƣợng cơ thể mỗi năm tăng từ 2,4 – 6 kg. trẻ em
bƣớc vào tuổi dậy thì có sự biến đổi nhanh về vóc dáng cơ thể, cơ quan sinh
dục phát triển, các đặc điểm giới tính nhƣ lông, râu, ngực trở nên rõ rệt hơn. ở
nữ giới bắt đầu có kinh nguyệt, ở nam giới có hiện tƣợng xuất tinh. Tuổi dậy
thì đối với nữ khoảng 13 đến 14 tuổi, nam khoảng 14 đến 15 tuổi, trƣờng hợp
cá biệt có thể sớm hơn hoặc muộn hơn tuy nhiên không đồng đều ở các cá thể,
không có một sự giới hạn cứng nhắc nào cho giai đoạn này mà chịu ảnh
hƣởng bởi các yếu tố nhƣ: vị trí địa lý, khí hậu, dân tộc, các điều kiện kinh tế
- xã hội (nới sống, mức sống, điều kiện giáo dục).
Có thể nói đây là lứa tuổi quá độ trong quá trình phát triển từ trẻ em
thành ngƣời lớn. sự phát triển cơ thể và sự chín muồi giới tính nhanh chóng
tạo ra cuộc “cách mạng tâm lý” trong các em. Điều đó gây ra nỗi sợ hãi và sự
căng thẳng, nhân cách lúc này bị giằng co giữa những xu thế trái ngƣợc nhau,
khi hăng hái, lúc chán nản bi quan và có thể dẫn đến trầm lặng.
Trẻ em ở tuổi thanh thiếu niên rất tò mò, ham hiểu biết, rất thích cái
mới và khám phá cái mới của mình. Hoạt động trí tuệ của các em phát triển
nhiều hơn nhiều so với lứa tuổi trƣớc nhờ sự phát triển tƣ duy trừu tƣợng. ghi
nhớ và chú ý có chủ định, trí tƣởng tƣợng phong phú.

Sự giao tiếp của thanh thiếu niên đã vƣợt ra khỏi phạm vi học tập,
phạm vi nhà trƣờng, trong quá trình mở rộng quan hệ giao tiếp, trẻ em ở tuổi
thanh thiếu niên có nhiều hoạt động tập thể phong phú về nội dung và đa dạng
về hình thức, nhờ đó kiến tạo nên những quan hệ mới trong cuộc sống hằng
ngày. thanh thiếu niên có những nhu cầu cần đƣợc ngƣời lớn tôn trọng, sự can
thiệp thô bạo, áp đặt đối với các em có thể dẫn đến sự phản kháng mạnh mẽ.

19


trẻ em ở tuổi thanh thiếu niên bắt đầu có sự ý thức, tự nhìn nhận về bản thân
mình, nếu có sự định hƣớng đúng thì các em có thể có sự tự giáo dục. Ở độ
tuổi này đã chú ý đánh giá hành vi, thái độ của ngƣời lớn và có thái độ phê
phán, xem xét, bình luận về các hành vi, thái độ của ngƣời lớn.
1.2 Khái quát chung về xâm hại tình dục trẻ em
Xâm hại tình dục trẻ em nghĩa là sử dụng trẻ vào một hoạt động tình
dục nào đó. Mọi trẻ đều có thể bị xâm hại tình dục, nó xảy ra ở mọi cộng
đồng, kể cả ở các gia đình giàu và nghèo. Điều này xảy ra với cả bé trai và bé
gái. Hầu hết các trẻ bị xâm hại tình dục trên 5 tuổi nhƣng cũng có những
trƣờng hợp diễn ra ở trẻ nhỏ hơn.
Chúng ta chƣa biết chính xác nạn xâm hại tình dục phổ biến nhƣ thế
nào vì nhiều trẻ không kể về những gì đã diễn ra với chúng, nhƣng có thể
thống kê một con số là cứ 4 trẻ thì có 1 trẻ bị xâm hại tình dục. Trẻ có thể bị
xâm hại theo nhiều cách khác nhau, không phải tất cả những ngƣời xâm hại
tình dục trẻ em đều dùng bạo lực, đôi khi họ lợi dụng sự tin tƣởng hoặc sự
ảnh hƣởng của mình để bắt trẻ thực hiện hành vi tình dục. Họ cũng có thể
thuyết phục hoặc dùng “lòng tốt” sự đe dọa, hoặc bắt nạt, hoặc cho quà, bao
ăn uống, cho dù có sử dụng bạo lực hay không thì việc bắt trẻ thực hiện hành
vi tình dục vẫn sẽ gây tổn thƣơng nghiêm trọng cho trẻ.
1.2.1 Khái niệm xâm hại tình dục trẻ em

Theo định nghĩa của tổ chức Y tế thế giới (WHO): “Xâm hại tình dục
trẻ em là sự tham gia của một đứa trẻ vào hoạt động tình dục mà đứa trẻ đó
không có ý thức đầy đủ, không có khả năng đƣa ra sự chấp thuận tham gia,
hoặc hoạt động tình dục mà đứa trẻ đó chƣa đủ phát triển cả về mặt tâm sinh
lý để tham gia và không thể chấp thuận tham gia, hoặc hoạt động tình dục trái
với các quy định của pháp luật hoặc các thuần phong mĩ tục của xã hội”

20


×