Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức trong dạy học phần công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học (môn GDCD lớp 10) ở trường THPT nguyễn du, tỉnh thái bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.92 KB, 72 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ THU DIỆU

ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TÍNH VỪA SỨC TRONG
DẠY HỌC PHẦN: “CÔNG DÂN VỚI VIỆC HÌNH THÀNH
THẾ GIỚI QUAN, PHƢƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC”
(MÔN GDCD LỚP 10) Ở TRƢỜNG THPT NGUYỄN DU,
TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học môn GDCD ở trƣờng THPT

HÀ NỘI - 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ THU DIỆU

ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TÍNH VỪA SỨC TRONG
DẠY HỌC PHẦN: “CÔNG DÂN VỚI VIỆC HÌNH THÀNH
THẾ GIỚI QUAN, PHƢƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC”
(MÔN GDCD LỚP 10) Ở TRƢỜNG THPT NGUYỄN DU,
TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học môn GDCD ở trƣờng THPT


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

ThS. NGUYỄN QUANG THUẬN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai đề tài khóa luận, em đã nhận đƣợc sự giúp đỡ
tận tình của thầy cô và bạn bè. Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong Khoa Giáo dục Chính trị, Trƣờng
Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy chỉ bảo em trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu.
Em xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo – ThS Nguyễn
Quang Thuận, ngƣời đã định hƣớng cho em nghiên cứu đề tài, cung cấp cho
em những kiến thức lý luận, thực tiễn cùng với những kinh nghiệm quý báu,
nhiệt tình hƣớng dẫn, động viên khích lệ trong suốt quá trình nghiên cứu để
em hoàn thành khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô, các em học sinh trƣờng
THPT Nguyễn Du, tỉnh Thái Bình và tất cả các bạn sinh viên đã tạo điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành khóa học và khóa luận của mình.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng nhƣ kiến thức của bản thân nên
khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong nhận đƣợc sự đóng
góp của thầy cô cùng các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 6 tháng 5 năm 2015
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Thu Diệu



LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của thầy
Nguyễn Quang Thuận, tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không trùng với bất kì công
trình nghiên cứu nào của các tác giả khác.

Hà Nội, ngày 6 tháng 5 năm 2015
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Thu Diệu


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- GDCD

: Giáo dục công dân

- THPT

: Trung học phổ thông


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC
TÍNH VỪA SỨC TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI VIỆC
HÌNH THÀNH THẾ GIỚI QUAN, PHƢƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC”
(MÔN GDCD LỚP 10) Ở TRƢỜNG THPT .................................................... 6
1.1. Cơ sở lý luận của việc đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức trong dạy học
phần “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phƣơng pháp luận khoa

học” (môn GDCD lớp 10) ở trƣờng THPT ................................................... 6
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức trong dạy
học phần: “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phƣơng pháp luận
khoa học” (môn GDCD lớp 10) ở trƣờng THPT ........................................ 21
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TÍNH VỪA
SỨC TRONG DẠY HỌC PHẦN: “CÔNG DÂN VỚI VIỆC HÌNH THÀNH
THẾ GIỚI QUAN, PHƢƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC” Ở TRƢỜNG
THPT NGUYỄN DU, TỈNH THÁI BÌNH ..................................................... 25
2.1. Khái quát về trƣờng THPT Nguyễn Du, tỉnh Thái Bình ..................... 25
2.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh TPHT nói chung và học sinh THPT
Nguyễn Du, tỉnh Thái Bình nói riêng ......................................................... 27
2.3. Thực trạng của việc đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức trong dạy học
môn GDCD ở trƣờng THPT Nguyễn Du, tỉnh Thái Bình hiện nay............ 30
2.4. Những nguyên nhân ảnh hƣởng tới việc đảm bảo nguyên tắc tính vừa
sức trong dạy học môn GDCD ở trƣờng THPT Nguyễn Du, tỉnh Thái Bình
hiện nay ....................................................................................................... 39


Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TÍNH
VỪA SỨC TRONG DẠY HỌC PHẦN: “CÔNG DÂN VỚI VIỆC HÌNH
THÀNH THẾ GIƠI QUAN, PHƢƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC” (MÔN
GDCD LỚP 10) Ở TRƢỜNG THPT NGUYỄN DU, TỈNH THÁI BÌNH ... 43
3.1. Những giải pháp về phía nội dung, chƣơng trình sách giáo khoa mới 43
3.2. Những giải pháp đối với các cấp quản lí.............................................. 45
3.3. Những giải pháp đối với giáo viên. ...................................................... 47
3.4. Những giải pháp thực hiện đối với học sinh ........................................ 53
3.5. Một số đề xuất của cá nhân nhằm đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức
trong dạy học môn GDCD .......................................................................... 55
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 60



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế với
những ảnh hƣởng của xã hội trí thức và toàn cầu hoá tạo ra những cơ hội,
nhƣng đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc cũng nhƣ đối với giáo dục và đào tạo. Giáo dục ở nƣớc ta
đang đứng trƣớc nguy cơ tri thức loài ngƣời tăng nhanh nhƣng lại ngày càng
trở nên lạc hậu nhanh. Bên cạnh đó thị trƣờng lao động luôn đòi hỏi ngày
càng cao ở đội ngũ lao động về năng lực hành động, khả năng sáng tạo, linh
hoạt, năng lực công tác làm việc. Đó là nguồn nhân lực không thể thiếu, chỉ
có nguồn nhân lực đó mới đáp ứng đƣợc đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất
nƣớc và hội nhập kinh tế quốc tế.
Để có nguồn nhân lực chất lƣợng cao, một trong những giải pháp có
chiến lƣợc lâu dài là đổi mới và không ngừng nâng cao chất lƣợng nền giáo
dục quốc dân, trong đó giáo dục phổ thông phải đƣợc coi là bƣớc đột phá
quan trọng. Vì giáo dục phổ thông là cơ sở, nền tảng khơi dậy niềm đam mê
khám phá và nuôi cấy những tƣ chất ban đầu của tƣ duy, nhận thức của mỗi
cá nhân của thế hệ trẻ sau này. Đổi mới giáo dục là một quá trình đổi mới
toàn diện không những về nội dung mà đổi mới cả phƣơng pháp. Muốn thay
đổi về chất của quá trình đó chúng ta phải nhất thiết tuân thủ những luận điểm
mang tính quy luật của quá trình dạy học. Đó chính là nguyên tắc dạy học.
Trong các nguyên tắc dạy học thì nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức là
một trong những nguyên tắc có tác dụng thúc đẩy học sinh có niềm tin vào
năng lực của bản thân, phát huy đƣợc tính chủ động sáng tạo đối với việc lĩnh
hội tri thức và vận dụng tri thức đó vào thực tiễn. Tuy nhiên, thực tế hiện nay
ở Việt Nam nguyên tắc này chƣa thực sự có một vị trí xứng đáng đúng nhƣ
hiệu quả mà nó mang lại.


1


Với đặc thù tri thức môn GDCD mang tính khái quát cao, tính trừu
tƣợng tính khái quát, tính lôgíc về kinh tế, chính trị - xã hội, pháp luật,… trực
tiếp giúp cho học sinh bƣớc đầu tìm hiểu phân tích đánh giá và rút ra những
kết luận đúng đắn về những vấn đề nóng bỏng của đất nƣớc và thế giới. Thực
tiễn cho thấy, nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức chƣa đƣợc sử dụng thƣờng
xuyên hoặc nếu có sử dụng thì lại rơi vào tình trạng quá đơn giản, không có
tác dụng đối với học sinh hoặc đƣa ra những vấn đề quá mới, quá phức tạp
học sinh không lĩnh hội nổi. Điều đó đã ảnh hƣởng không nhỏ đến kết quả
giảng dạy trong nhà trƣờng.
Chính vì những lí do đó tác giả đã chọn đề tài: “Đảm bảo nguyên tắc
tính vừa sức trong dạy học phần: “Công dân với việc hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học” (môn GDCD lớp 10) ở trường THPT
Nguyễn Du, tỉnh Thái Bình hiện nay” làm đề tài khoá luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Vấn đề đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức trong dạy học có từ rất sớm và
đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm với nhiều bài viết, nhiều công trình ở
nhiều góc độ khác nhau.
Tác giả Nguyễn Văn Cƣờng trong cuốn “ Lý luận dạy học hiện đại” đã
viết: “ Dạy học vừa sức là những yêu cầu, nhiệm vụ học tập đƣợc đặt ra phù
hợp với đối tƣợng, sao cho ngƣời học có thể hoàn thành đƣợc với sự nỗ lực
cao nhất về trí tuệ và thể lực của mình” [7;59].
Tác giả Nguyễn Ngọc Bảo – Trần Kiểm trong cuốn “Lí luận dạy học ở
trƣờng trung học cơ sở” chỉ rõ: “Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức trong dạy
học là phải vận dụng nội dung, phƣơng pháp, hình thức dạy học nhằm thúc
đẩy sự phát triển trí tuệ của mọi thành viên trong lớp đồng thời phải quan tâm
đến từng cá nhân ngƣời học, đảm bảo cho mọi ngƣời đều có thể phát triển ở
mức tối đa so với khả năng của mình” [1;38].


2


Tác giả Đinh Văn Đức – Dƣơng Thị Thuý Nga (đồng chủ biên) trong
cuốn “Phƣơng pháp dạy học môn giáo dục công dân ở trƣờng trung học phổ
thông” đã viết: “ Vừa sức trong dạy học không thể hiểu đơn giản là sức học
sinh đến đâu thì dạy đến đó mà bao giờ cũng đề ra nhiệm vụ khó khăn mà
dƣới sự chỉ đạo của giáo viên thì học sinh bằng sự nỗ lực của mình có thể
khắc phục đƣợc. Cần lƣu ý rằng mức độ khó khăn trong học tập của học sinh
khác với sự quá tải về mặt trí lực và thể lực, bởi vì sự quá tải đó sẽ làm yếu đi
sự nỗ lực ý chí, làm học sinh sớm bị mệt mỏi trong học tập, khả năng học tập
sẽ bị hạ thấp” [9;61].
Nhƣ vậy, đã có nhiều tác giả đề cập đến vai trò của nguyên tắc tính vừa
sức trong quá trình dạy học ở nhiều phƣơng diện, khía cạnh khác nhau. Tuy
nhiên chƣa có tác giả nào đề cập đến việc đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức
trong dạy học phần: “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phƣơng
pháp luận khoa học” trong môn GDCD lớp 10 ở trƣờng trung học phổ thông.
Do đó, đề tài: “Đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức trong dạy học phần: Công
dân với việc hình thành thế giới quan, phƣơng pháp luận khoa học (môn
GDCD lớp 10) ở trƣờng THPT Nguyễn Du, tỉnh Thái Bình hiện nay” sẽ góp
phần làm phong phú hơn về lý luận của nguyên tắc tính vừa sức trong dạy học
nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục và dạy học trong môn GDCD ở trƣờng
THPT nói chung và trƣờng THPT Nguyễn Du tỉnh Thái Bình nói riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức trong dạy học phần: “Công dân với
việc hình thành thế giới quan, phƣơng pháp luận khoa học” (môn GDCD lớp
10) ở trƣờng THPT Nguyễn Du, tỉnh Thái Bình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Lý luận cơ bản về nguyên tắc tính vừa sức trong dạy học phần: “Công
dân với việc hình thành thế giới quan, phƣơng pháp luận khoa học” ở trƣờng
THPT Nguyễn Du, tỉnh Thái Bình.

3


Làm rõ thực trạng và đƣa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng
dạy và học môn GDCD ở trƣờng THPT Nguyễn Du, tỉnh Thái Bình.
4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1 Mục đích nghiên cứu
Đánh giá đƣợc thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo
nguyên tắc tính vừa trong dạy học phần: “Công dân với việc hình thành thế
giới quan, phƣơng pháp luận khoa học” ở trƣờng THPT Nguyễn Du, tỉnh Thái
Bình hiện nay.
1.5.4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích của đề tài cần thực hiện 3 nhiệm vụ sau:
Làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của nguyên tắc tính vừa sức
trong dạy học phần: “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phƣơng
pháp luận khoa học” ở trƣờng THPT.
Trình bày thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm nguyên
tắc tính vừa sức trong dạy học phần: “Công dân với việc hình thành thế giới
quan, phƣơng pháp luận khoa học” ở trƣờng THPT Nguyễn Du, tỉnh Thái
Bình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phƣơng pháp luận biện chứng duy vật, khoá luận còn sử dụng
các phƣơng pháp: phƣơng pháp phân tích – tổng hợp, phƣơng pháp lôgíc –
lịch sử, phƣơng pháp điều tra xã hội học, phƣơng pháp quan sát sƣ phạm,…
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về nguyên tắc tính vừa sức

trong dạy học môn GDCD ở trƣờng THPT.
Đề tài xác định đƣợc điều kiện và một số giải pháp nhằm đảm bảo tính
vừa sức trong dạy học phần: “Công dân với việc hình thành thế giới quan,
phƣơng pháp luận khoa học” ở trƣờng THPT Nguyễn Du, tỉnh Thái Bình.
Đề tài góp phần nâng cao chất lƣợng dạy học môn GDCD.

4


7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, nội
dung của khoá luận gồm 3 chƣơng và 11 tiết.

5


Chƣơng 1.
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC
TÍNH VỪA SỨC TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI
VIỆC HÌNH THÀNH THẾ GIỚI QUAN, PHƢƠNG PHÁP LUẬN
KHOA HỌC” (MÔN GDCD LỚP 10) Ở TRƢỜNG THPT
1.1. Cơ sở lý luận của việc đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức trong dạy
học phần “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phƣơng pháp
luận khoa học” (môn GDCD lớp 10) ở trƣờng THPT
1.1.1. Nguyên tắc dạy học môn giáo dục công dân
1.1.1.1. Khái quát về nguyên tắc dạy học môn giáo dục công dân ở
trường trung học phổ thông
Theo Ăngghen: “ Nguyên tắc không phải là điểm xuất phát, mà nguyên
tắc là kết quả cuối cùng của sự nghiên cứu khách quan” [10;580].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nguyên tắc là những điều cơ bản đã đƣợc

quy định để dùng làm cơ sở cho các mối quan hệ xã hội. Nguyên tắc của chúng ta
thì phải vững chắc nhƣng chiến lƣợc của ta thì phải linh hoạt” [11;469].
Theo từ điển triết học: “Nguyên tắc là kết quả nghiên cứu có tính chất lý
thuyết, dẫn đƣờng và quyết định giới hạn cho thực hành; là điều thoả thuận
lƣu truyền hoặc thành văn dùng làm cơ sở cho các mối quan hệ, xã giao,
chung sống hoà bình giữa các nƣớc có chế độ chính trị khác nhau” [12;556].
Theo tiếng La tinh: Nguyên tắc – “Pricipium”, là tƣ tƣởng chỉ đạo, quy
tắc cơ bản, yêu cầu cơ bản đối với hoạt động, đƣợc xây dựng trên cơ sở
nghiên cứu bản chất, quy luật của hoạt động.
Tuy đƣợc đề cập dƣới nhiều góc độ khác nhau nhƣng nhìn chung các
quan điểm thống nhất – nguyên tắc, là những luận điểm có định hƣớng, đƣợc
rút ra từ mục đích công việc, từ những quy luật, điều kiện khách quan cũng
nhƣ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.

6


Nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng lý luận và do đó, chỉ đạo
cả quá trình vận dụng lý luận và hoạt động thực tiễn của con ngƣời – nó bao
gồm những yêu cầu bắt buộc con ngƣời phải tuân theo để đạt đƣợc hiệu quả
cao. Ngƣợc lại, nếu không tuân theo con ngƣời sẽ dễ phạm phải sai lầm.
Nguyên tắc có giá trị chỉ dẫn các hoạt động có đông ngƣời tham gia, nó
có tính khách quan, có thể đƣợc xây dựng trên cơ sở của một quy luật hay tập
hợp quy luật. Nếu nhƣ quy luật là vốn có của hiện thực khách quan, biểu thị
các mối quan hệ phổ biến, bản chất bền vững của các sự vật hiện tƣợng thì
nguyên tắc chỉ tồn tại khi xác lập đƣợc mối liên hệ giữa chủ thể và khách thể
trong mọi quá trình hoạt động cụ thể nào đó.
Cũng nhƣ bất cứ quá trình nào trong thế giới khách quan, quá trình dạy
học là một chỉnh thể toàn vẹn, luôn vận động và phát triển. Nó đòi hỏi các chủ
thể phải thực sự sáng tạo, phải tổ chức điều khiển quá trình dạy học theo

hƣớng đã định sao cho đạt kết quả tối ƣu đáp ứng đƣợc nhu cầu của xã hội đối
với sự nghiệp giáo dục nói chung và hoạt động dạy học nói riêng mà thực chất
là đối với hoạt động nhận thức độc đáo của học sinh. Nghĩa là nó phải bị chi
phối bởi những nguyên tắc nhất định – nguyên tắc dạy học. Do đó có thể coi
các nguyên tắc dạy học là những tính quy luật có khả năng rất lớn trong việc
tổ chức, điều khiển quá trình dạy học một cách hợp quy luật; là những luận
điểm chỉ đạo toàn bộ hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò một
cách hợp quy luật. Hay nói cách khác, chúng chỉ đạo việc lựa chọn và vận
dụng nội dung, phƣơng pháp và hình thức tổ chức dạy học, nghĩa là chỉ đạo
toàn bộ tiến trình dạy học phù hợp với mục đích dạy học và thực hiện tốt nhất
các nhiệm cụ dạy học. Hiệu quả của việc đảm bảo các nguyên tắc trong dạy
học phụ thuộc vào trình độ vận dụng của thầy và trò cùng với các điều kiện cơ
sở vật chất và môi trƣờng dạy học.
Nhƣ vậy, nguyên tắc dạy học là những luận điểm cơ bản có tính quy luật,
có tác dụng chỉ đạo toàn bộ tiến trình giảng dạy và học tập phù hợp với mục
đích dạy học nhằm thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ dạy học đã đề ra.

7


Việc đảm bảo các nguyên tắc dạy học là nhiệm vụ rất quan trọng của lí
luận dạy học. Bên cạnh các nguyên tắc chung cho hoạt động dạy học nói
chung – nghĩa là chung cho tất cả các môn học, thì cần thiết còn phải có các
nguyên tắc riêng, đặc thù cho từng môn học, cấp học,… Theo đó, nguyên tắc
dạy học môn giáo dục công dân ở trƣờng THPT là những luận điểm cơ bản,
những tiền đề mang tính quy luật để xây dựng lí luận dạy học môn GDCD, có
tác dụng chỉ đạo toàn bộ quá trình giảng dạy và học tập môn GDCD nhằm
thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ của việc học tập và giảng dạy môn học
này ở trƣờng THPT, từ việc xác định nội dung, lựa chọn phƣơng pháp đến
việc quyết định hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp với quy luật nhận

thức và đặc điểm tâm sinh lí của học sinh, và cả hoạt động giảng dạy của giáo
viên với hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh,…
Nguyên tắc dạy học là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dạy học, đảm bảo
cho quá trình dạy học môn GDCD đạt đƣợc mục tiêu. Do đó, nhận thức và
vận dụng đúng đắn các nguyên tắc dạy học GDCD ngƣời giáo viên mới có
khả năng đạt đƣợc hiệu quả cao trong giảng dạy, hoàn thành tốt nhiệm vụ của
môn GDCD nói riêng và nhiệm vụ giáo dục nói chung.
Nguyên tắc dạy học môn GDCD không chỉ đƣợc hình thành từ những
nguyên tắc chung của hoạt động dạy và học mà nó còn quy định bởi đối
tƣợng, kết cấu lôgíc và mục tiêu của quá trình dạy học bộ môn GDCD ở
trƣờng THPT bị chi phối bởi nhũng nguyên tắc, quy luật nhận thức của lứa
tuổi, của môi trƣờng dạy học môn này ở trƣờng THPT,…
1.1.1.1. Một số nguyên tắc cơ bản trong dạy học môn GDCD ở trường
THPT
Nguyên tắc bao giờ cũng mang tính khách quan, mặc dù nguyên tắc đƣợc
con ngƣời nêu ra khi khái quát kinh nghiệm hoạt động của mình nhƣng nó
không phải là sản phẩm của tƣ duy thuần túy, ý chí chủ quan của con ngƣời.

8


Nguyên tắc có thể đƣợc xây dựng trên cơ sở của một quy luật và cũng có
thể đƣợc xây dựng trên cơ sở của một tập hợp quy luật. Nhƣng nguyên tắc và
quy luật không đồng nhất với nhau.Quy luật là vốn có của hiện thực khách
quan, biểu thị các mối quan hệ và quan hệ phổ biến, bản chất, bền vững của
các sự vật, hiện tƣợng.Còn nguyên tắc chỉ tồn tại khi xác lập đƣợc mối quan
hệ giữa chủ thể và khách thể trong mọi quá trình hoạt động cụ thể, nhất định
nào đó. Nguyên tắc khác với nội quy, quy định, quy chế. Nội quy, quy định và
quy chế là những điều khoản đặt ra mà các thành viên trong tổ chức nào đó
phải thực hiện, nó thuộc về lĩnh vực quản lí, điều hành hoạt động xã hội.

Nguyên tắc khác với quy tắc, quy tắc đƣợc hiểu nhƣ những quy trình có tính
kĩ thuật.Và thƣờng đƣợc rút ra từ các thí nghiệm, thực nghiệm khoa học. So
với nguyên tắc, quy tắc có phạm vi hẹp hơn, nó đƣợc suy ra từ nguyên tắc,
phản ánh những luận điểm riêng của một nguyên tắc nào đó.
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và
nhận thức của con ngƣời, các nguyên tắc dạy học môn GDCD ở trƣờng THPT
vẫn đang không ngừng đƣợc phát triển và hoàn thiện thành một hệ thống hoàn
chỉnh, thông thƣờng nó bao gồm các nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tính khoa học.
Nguyên tắc tính khoa học trong dạy học môn GDCD là nguyên tắc đảm
bảo cung cấp đầy đủ và chính xác hệ thống tri thức cơ bản, thiết thực, hiện đại
phù hợp với thực tiễn của môn học và đặc điểm nhận thức của học sinh.
Nội dung của môn học bao giờ cũng mang tính khoa học. Tính khoa học
của nội dung môn học sẽ quyết định tính khoa học của việc lựa chọn phƣơng
pháp và hình thức tổ chức dạy học bộ môn. Nội dung môn GDCD bao gồm
những vấn đề cơ bản nhất của các môn khoa học Mác – Lênin, đƣờng lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nƣớc Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Vì thế, môn GDCD mang tính khoa học sâu sắc, do
đó việc giảng dạy môn học cũng phải đảm bảo tính khoa học.

9


Thực hiện nguyên tắc tính khoa học trong dạy học môn GDCD sẽ đảm
bảo việc thực hiện những yêu cầu của quy luật về sự thống nhất giữa dạy học
và giáo dục, giữa dạy chữ và dạy ngƣời.
Đảm bảo tính khoa học trong dạy học môn GDCD là điều kiện cần thiết
để biến tri thức mà học sinh tiếp thu đƣợc thành niềm tin, thôi thúc học sinh
hành động theo lẽ phải, chân lí, học sinh sẽ say mê, hứng thú với môn học.
Tri thức khoa học bao giờ cũng là cơ sở của việc rèn luyện kĩ năng, kĩ

xảo, là tiền đề để xây dựng phƣơng pháp tƣ duy khoa học, phát triển trí tuệ,
phẩm chất đạo đức, hình thành và củng cố những thói quen tốt cũng nhƣ định
hƣớng cho hoạt động của học sinh. Quá trình xây dựng hệ thống giá trị của
con ngƣời cho học sinh luôn gắn với quá trình truyền thụ tri thức. Việc truyền
thụ tri thức mang tính khoa học càng cao bao nhiêu thì việc xây dựng hệ
thống giá trị sẽ càng nhanh chóng và vững chắc bấy nhiêu. Nhƣ vậy kết quả
của việc dạy học môn GDCD không chỉ đơn thuần là đánh giá mức đọ học
sinh thu nhận tri thức lí luận của môn học mà điều cần thiết là phải đánh giá
học sinh ở mức độ tƣ tƣởng, hành vi và thói quen đƣợc thể hiện trong cuộc
sống hằng ngày. Điều này cũng chỉ có đƣợc khi thực hiện tốt nguyên tắc tính
khoa học trong dạy học môn GDCD.
Để đảm bảo nguyên tắc tính khoa học trong dạy học môn GDCD giáo
viên cần phải:
Một là truyền thụ đầy đủ, chính xác các khái niệm, phạm trù, nguyên lí,
quy luật, luận điểm.
Khái niệm, phạm trù, nguyên lí, quy luật, luân điểm chính là công cụ của
nhận thức khoa học, là những nấc thang giúp con ngƣời đi sâu vào bản chất
của sự vật và hiện tƣợng trong thế giới khách qua.
Truyền thụ đầy đủ các khái niệm, phạm trù, nguyên lí, quy luật, luận
điểm của môn GDCD không phải là nhắc nguyên văn, từng câu, từng chữ,

10


mà điều quan trọng là làm rõ nội hàm, ngoại diên, sự phát sinh, phát triển của
những khái niệm, phạm trù, nguyên lí, quy luật. Để làm đƣợc điều đó cần nắm
vững lí luận về khái niệm, phạm trù, nguyên lí, quy luật, luận điểm do môn
Lôgíc học cung cấp, nắm vững hệ thống tri thức khoa học của học thuyết Mác
– Lênin, biết vận dụng những khái niệm, phạm trù, nguyên lí, quy luật, luận
điểm vào việc giải thích những hiện tƣợng diễn ra trong đời sống xã hội, nắm

vững đối tƣợng học sinh, môi trƣờng xung quanh.
Hai là, sự kiện phảo chân thực,khái quát phải đúng, kết luận phải chính xác.
Để góp phần hình thành năng lực hoạt động, khả năng lí giải các hiện
tƣợng của cuộc sống cho học sinh và nâng cao tính thực tiễn, tính thuyết phục
của môn học tất yếu phải đƣa vào bài giảng những sự kiện thực tế sinh động
đã đƣợc chọn lọc. Phải hiểu rõ sự kiện, những nguyên nhân nhận thức và xã
hội dẫn tới sự kiện đó, phải biết vận dụng tri thức khoa học, những sự kiện
nêu ra cần đực lựa chọn cẩn thận, đảm bảo tính chân thực của chúng. Cần có
thái độ tôn trọng các ý kiến của học sinh nêu ra, phải đảm bảo tính chính xác,
tính thuyết phục của kết luận.
Ba là, đảm bảo hệ thống lôgíc của bài học.
Dạy học theo trình tự của sách giáo khoa GDCD chính là đảm bảo hệ thống
lôgíc của bài học. Vì khi xây dựng nội dng môn học các tác giả đã phải quan tâm
đến yêu cầu tính lôgíc khoa học của nội dung. Để thực hiện đƣợc đòi hỏi giáo
viên phải có trình độ khái quát cao, kiến thức khoa học chắc chắn, vốn sống và
kinh nghiệm giảng dạy phong phú. Nếu thực hiện tốt cách dạy học này sẽ góp
phần tích cực vào việc hình thành phát triển tƣ duy khoa học cho học sinh, gắn
chặt lí luận của môn học với thực tiễn luôn vận động và phát triển.
Thứ hai, nguyên tắc tính đảng.
Tính đảng của việc nghiên cứu và giảng dạy bất kỳ môn khoa học nào
đƣợc thể hiện ở quan điểm, lập trƣờng, ý thức chính trị của ngƣời nghiên cứu

11


và giảng dạy các môn khoa học đó. Tính đảng của việc nghiên cứu và giảng
dạy môn GDCD là tính đảng cộng sản, tức là nghiên cứu và giảng dạy môn
học này theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng trên lập
trƣờng của giai cấp công nhân, bảo vệ và phục vụ lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.

Nguyên tắc tính đảng trong dạy học môn GDCD ở trƣờng THPT là kiên
quyết bảo vệ những luận điểm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, đƣờng lối chính trị đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm
thực hiện mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Nguyên tắc tính đảng là vốn có của khoa học. Môn GDCD ở trƣờng
THPT là một môn khoa học xã hội, nhiệm vụ của môn GDCD là trang bị cho
học sinh một hệ thống tri thức phổ thông cơ bản và thiết thực về chủ nghĩa
Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, về đạo đức, pháp luật, tiếp tục củng cố và
phát triển niềm tin của học sinh vào lý tƣởng xã hội chủ nghĩa, vào sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong dạy học và giáo dục, giáo viên phải đảm bảo sự thống nhất giữa
tính khoa học và tính đảng. Tính khoa học càng cao thì tính đảng càng vững
chắc, dễ khiến học sinh biến tri thức thành niềm tin và hành động theo lẽ phải.
Giáo dục và dạy học phụ thuộc vào xã hội, xã hội phát triển đến mức độ nào
thì giáo dục và dạy học sẽ phát triển tƣơng ứng, sẽ đào tạo đƣợc những con
ngƣời phục vụ cho xã hội đó. Vì thế, nguyên tắc tính đảng trong dạy học môn
GDCD chính là đáp ứng yêu cầu của xã hội, góp phần vào sự phát triển của
xã hội, góp phần định hƣớng cho nhận thức và hoạt động của giáo viên, học
sinh và đóng góp có hiệu quả, thiết thực vào việc bảo vệ và phát triển những
di sản lí luận của học thuyết Mác – Lênin, truyền bá tƣ tƣởng tiên tiến nhất
của thời đại; giữ vững và củng cố niềm tin có cơ sở khoa học cho học sinh.
Yêu cầu của việc đảm bảo nguyên tắc tính đảng:

12


Một là giữ vững và phát triển các quan điểm khoa học của học thuyết
Mác – Lênin.
Trong dạy học môn GDCD đòi hỏi giáo viên phải công khai đứng vững
trên lập trƣờng của giai cấp công nhân để truyền thụ chính xác các khái niệm,

phạm trù, quy luật của học thuyết Mác – Lênin. Giáo viên phải luôn tự bổ
sung những tri thức mới, tự làm giàu thêm tri thức của mình bằng việc nghiên
cứu, đào sâu, suy nghĩ về những vấn đề lí luận đang và sẽ đặt ra. Giáo viên
cần và có thể tham gia phát triển sáng tạo các luận điểm của nó, phù hợp với
những điều kiện lịch sử cụ thể mới của thời đại, thế giới và dân tộc.
Hai là, đảm bảo tính chiến đấu của học thuyết Mác – Lênin trong dạy học.
Bản thân nguyên tắc tính đảng đã bao hàm tính chiến đấu.Khi giảng dạy
môn GDCD giáo viên cần phải phê phán những nhận thức lệch lạc, cần nhạy
bén, linh hoạt, kiên quyết vạch trần những thủ đoạn, hành vi công khai chống
học thuyết Mác, đặc biệt là cần phê phán sự vận dụng máy móc, giáo điều học
thuyết Mác – Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nƣớc ta. Thực hiện
nguyên tắc này không chỉ nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học bộ môn
GDCD mà còn góp phần quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển học thuyết
Mác – Lênin – học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động toàn thế giới
Đảm bảo nguyên tắc tính đảng trong dạy học môn GDCD còn góp phần
quan trọng trong việc hình thành, củng cố, phát triển và nâng cao ý thức pháp
quyền trong điều kiện thực hiện dân chủ hóa ở nƣớc ta, hình thành những
nhân tố đạo đức mới cho những thế hệ công dân tƣơng lai.
Thứ ba, nguyên tắc tính thực tiễn
Đảm bảo tính thực tiễn trong dạy học môn GDCD là nguyên tắc đòi hỏi
trong quá trình dạy học môn GDCD ở trƣờng THPT, ngƣời giáo viên bộ môn
phải đảm bảo làm cho tri thức của môn học gắn liền với thực tiễn sinh động

13


của cuộc sống, làm cho tri thức của môn học thực sự trở thành cơ sở, động lực
thôi thúc học sinh hành động theo lẽ phải.
Trong nhà trƣờng muốn học sinh tiếp thu đƣợc các tri thức khoa học,

tránh đƣợc sự mò mẫm trong hoạt động nhận thức thì cần phải khái quát
những tri thức khoa học sẽ trang bị cho học sinh bằng những kết quả thực
tiễn, quá trình dạy học phải luôn liên hệ với thực tiễn, đời sống. Tri thức đƣợc
truyền thụ cho học sinh càng gần với cuộc sống thực tiễn sinh động, càng gắn
với sự biến đổi không ngừng của hiện thực khách quan bao nhiêu thì giá trị và
vai trò của nó đối với quá trình hình thành, phát triển nhân cách của học sinh
càng cao bấy nhiêu.
Đối với môn GCDC, thực tiễn là đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách xây
dựng đất nƣớc, phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nƣớc. Cơ sở của
những đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách đó là các kiến thức về tự nhiên, xã
hội, tƣ duy đƣợc khái quát từ các bộ môn Triết học, Kinh tế chính trị, Đạo đức
học,… Đây cũng chính là nội dung học tập của môn GDCD. Thực tiễn của
môn GDCD còn là những diễn biến xảy ra trong đời sống kinh tế chính trị, xã
hội ở nƣớc ta và trên thế giới mà sách giáo khoa không thể phản ánh hết đƣợc
một cách đầy đủ, nhanh chóng. Thực tiễn môn GDCD còn bao gồm cả đời
sống bản thân học sinh do hàng ngày, hàng giờ các em đƣợc tiếp xúc với các
hoạt động kinh tế - xã hội, đọc sách báo, xem truyền hình, học tập và lao động
sản xuất,… Do đó, nếu đảm bảo đƣợc nguyên tắc tính thực tiễn thì dạy học
môn GDCD sẽ thuận lợi, sâu sắc và hiệu quả.
Trong quá trình dạy học môn GDCD, thông qua nguyên tắc tính thực
tiễn để thực hiện nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, nhà trƣờng gắn liền
với xã hội, rèn luyện năng lực sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn của
học sinh. Một mặt lấy thực tiễn để bổ sung cho nội dung dạy học, làm cho nội
dung đó ngày càng phong phú, sinh động. Mặt khác, tập cho học sinh cách
vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống học tập, lao động và các hoạt động
14


khác. Tuy nhiên, để đạt đến những mức độ hoạt động thực tiễn có hiệu quả thì
giáo viên cần phải có nghệ thuật sƣ phạm, học sinh phải nắm chắc các tri thức

của môn GDCD đến mức có thể làm chủ đƣợc chúng, sử dụng tƣơng đối
thành thạo chúng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình.
1.1.2.Nguyên tắc tính vừa sức
Thứ nhất, quan niệm về nguyên tắc tính vừa sức
Trong quá trình dạy học, khi lựa chọn nội dung, phƣơng pháp và hình
thức tổ chức dạy học, việc nâng cao dần mức độ khó khăn trong học tập tƣơng
ứng với giới hạn cao nhất của vùng phát triển trí tuệ gần nhất nhằm tạo nên sự
căng thẳng về mặt trí lực, thể lực một cách phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, đặc
điểm cá biệt chính là bản chất của nguyên tắc tính vừa sức trong dạy học. Nói
cách khác nguyên tắc vừa sức trong dạy học đƣợc quan niệm là quá trình dạy
học phù hợp với trình độ tiếp thu tri thức mới của học sinh, kích thích, thúc
đẩy và đi trƣớc sự phát triển trí tuệ của học sinh.
Vừa sức trong dạy học không thể hiểu đơn giản là sức học sinh đến đâu
thì dạy đến đó, mà bao giờ dạy học cũng đề ra những nhiệm vụ khó khăn mà
dƣới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh bằng sự nỗ lực của mình có thể khắc
phục đƣợc. Cần lƣu ý rằng, mức độ khó khăn trong học tập của học sinh khác
với sự quá tải về mặt trí lực và thể lực, bởi vì sự quá tải đó sẽ làm yếu đi sự
nỗ lực ý chí, làm học sinh sớm bị mệt mỏi trong học tập, khả năng học tập sẽ
bị hạ thấp.
Trong thực tế thƣờng có hai loại biểu hiện của dạy học không vừa sức:
Một là, dạy những vấn đề quá mới, quá phức tạp học sinh không thể tiếp
thu nổi.
Hai là, dạy những vấn đề đơn giản, sơ sài không có tác dụng đối với học sinh.
Đảm bảo vừa sức trong dạy học môn GDCD là nguyên tắc đòi hỏi trong
quá trình dạy học môn GCDC ở trƣờng THPT, ngƣời giáo viên bộ môn phải
đảm bảo dạy học sao cho phù hợp với đặc điểm, trình độ của học sinh nhằm
15


phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của các em trong quá trình

lĩnh hội tri thức môn GDCD.
Thứ hai, cơ sở và ý nghĩa của nguyên tắc tính vừa sức
Nhờ hoạt động vật chất của bộ não nên quá trình nhận thức của con
ngƣời diễn ra bao giờ cũng phải phù hợp với những quy luật tâm – sinh lí của
con ngƣời. Nhờ sự chuyển hóa giữa các quá trình hƣng phấn và ức chế của hệ
thần kinh trung ƣơng không vƣợt quá giới hạn quy định (ngƣỡng) của các
kích thích mà con ngƣời có phản ứng ngoại cảnh. Vì thế, với hệ tri thức trừu
tƣợng và khái quát cao vƣợt quá ngƣỡng lĩnh hội tri thức của học sinh sẽ làm
cho học sinh không thể vƣợt qua đƣợc khó khăn trong học tập.
Tính vừa sức đòi hỏi phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, mỗi độ tuổi gắn
liền vói sự trƣởng thành của những cơ quan trong cơ thể và những chức năng
của các cơ quan đó cũng nhƣ với sự tích lũy kinh nghiệm về mặt nhận thức,
mặt xã hội và hoạt động chủ đạo của lứa tuổi đó. Do đó, lứa tuổi thay đổi thì
nhu cầu trí tuệ và hứng thú nhận thức cũng biến đổi. Tuy nhiên, theo định đề
của Buns, không thể có hai học sinh giống nhau, vì trong cùng một lứa tuổi
cũng có những đặc điểm khác nhau về hoạt động của hệ thần kinh cao cấp, về
sự phát triển thể chất và tinh thần, về năng lực và hứng thú,… Điều đó cho
thấy, vừa sức trong dạy học còn phải chú ý đến cả những đặc điểm cá biệt của
học sinh. Chính vì lẽ đó nên trong quá trình biên soạn chƣơng trình và sách
giáo khoa môn GDCD, các tác giả đã phải căn cứ vào đối tƣợng học sinh, đặc
điểm tâm – sinh lí lứa tuổi, trình độ lĩnh hội tri thức, những tri thức cơ bản và
thiết thực cần trang bị cho học sinh, thời gian hợp lí giành cho môn học này để
xác định đƣợc lƣợng tri thức có thể gây đƣợc những khó khăn vừa sức với học
sinh. Vì vậy, trong quá trình dạy học môn GDCD, ngƣời giáo viên cũng phải
chú ý đến những đặc điểm này, đây chính là chỗ dựa vững chắc cho giáo viên
phát huy năng lực sƣ phạm và nghệ thuật giảng dạy nhằm đạt đƣợc hiệu quả

16



dạy học, góp phần phát triển những tƣ chất tốt đẹp của học sinh.
Môn GDCD bao gồm những tri thức về triết học, kinh tế - chính trị học
xã hội chủ nghĩa, khoa học lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam, đƣờng lối chính
trị, đạo đức, pháp luật. Những tri thức đó đã đƣợc nâng lên trình độ lý luận
trừu tƣợng và khái quát cao. Đảm bảo tính vừa sức là điều kiện cần thiết để
đem lại chất lƣợng giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Đồng thời
cũng đảm bảo đƣợc nguyên tắc tính khoa học, tính đảng, tính thực tiễn trong
giảng dạy bộ môn.
Thứ ba, yêu cầu cơ bản của việc đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức trong
dạy học môn GDCD ở trƣờng THPT
Một là, xác định khối lượng, mức độ kiến thức cần phải truyền thụ
Trong sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kĩ thuật, sự đổi mới để xây
dựng và phát triển đất nƣớc, khối lƣợng tri thức của môn GDCD không chỉ
thay đổi mà còn tăng lên. Trong khi đó thời gian học tập môn học này ở trƣờng
THPT lại hạn chế. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải lựa chọn nội dung tri thức
môn học nhƣ thế nào cho vừa phải, hợp với khả năng nhận thức của học sinh
và quỹ thời gian dành cho môn học mà vẫn đảm bảo đƣợc hệ thống tri thức
khoa học hiện đại của môn GDCD. Đây là một điều rất khó xác định. Trong
thực tế, nhiều giáo viên khi dạy học đã sử dụng và bổ sung quá nhiều tƣ liệu
thông tin làm cho việc học tập của học sinh trở nên nặng nề, căng thẳng.
Ngƣợc lại có những giáo viên lại quá đơn giản nội dung tri thức trong sách
giáo khoa, biến nó thành bản tóm tắt để học sinh học cho dễ học thuộc. Câu
hỏi đặt ra nhiều khi quá dễ, học sinh không cần suy nghĩ cũng trả lời ngay
đƣợc, nhƣng có khi câu hỏi đƣa raang tính đánh đố hoặc quá khó vƣợt khả
năng trả lời của học sinh khiến học sinh không thấy hứng thú trong học tập.
Có giáo viên khi giảng dạy lại quá xa đà vào những câu chuyện vui vặt, giật
gân làm loãng trọng tâm của bài học hoặc lạm dụng quá mức các đồ dùng dạy

17



học làm cho bài học không đạt yêu cầu về mặt tri thức… Do đó, việc xác định
khối lƣợng mức độ kiến thức rất quan trọng để bảo đảm cho học sinh tiếp
nhận tri thức một cách hiệu quả trên cơ sở giải quyết các khó khăn vừa sức
trong học tập dƣới sự định hƣớng của giáo viên. Để thực hiện điều này trong
quá trình chuẩn bị và dạy học, giáo viên cần chọn lọc các tri thức cơ bản và
cần thiết, phải cân nhắc kĩ khối lƣợng, mức độ kiến thức và hệ thống câu hỏi.
Hai là, cần phải hiểu biết, nắm vững đặc điểm tâm – sinh lí của học sinh,cần
nắm được trình độ nhận thức và khả năng lĩnh hội tri thức của học sinh.
Nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của học sinh để từ đó lựa chọn nội dung,
phƣơng pháp, hình thức tổ chức dạy học,… phù hợp là yêu cầu của tất cả các
môn học ở mọi cấp học, trong đó có môn GCDC ở trƣờng THPT. Học sinh
THPT thƣờng ở vào lứa tuổi từ khoảng 15 đến 18 tuổi. Đây là giai đoạn có
nhiều thay đổi mạnh mẽ về mặt tâm – sinh lí. Những biến động về tâm sinh lí
không chỉ tác động đến năng lực, thái độ, tình cảm của học sinh trong quá
trình học tập mà còn tác động đến sự định hình nhân cách của các em. Mỗi
giáo viên GDCD trƣớc hết phải trang bị cho mình những kiến thức về tâm lí
học nhƣ tâm lí học lứa tuổi, tâm lí học giao tiếp,… những kiến thức về giới
tính để vận dụng đánh giá đúng về học sinh; phải nhạy cảm để nắm bắt đƣợc
tâm tƣ, tình cảm, thái độ các em. Trên cơ sở xác định đặc điểm tâm – sinh lí
của ngƣời học, giáo viên bộ môn lựa chọn nội dung, phƣơng pháp, hình thức
tổ chức dạy học, phƣơng tiện dạy học, hình thức kiểm tra, đánh giá sao cho
phù hợp, hiệu quả.
Trình độ nhận thức của học sinh ở mỗi lớp, mỗi khối lớp thƣờng không
đồng đều. Trong quá trình dạy học môn GDCD, giáo viên bộ môn cần phải
tìm hiểu và đánh giá đúng về trình độ nhận thức và khả năng lĩnh hội tri thức
của học sinh trong từng lớp, từng khối lớp để lựa chọn mức độ, khối lƣợng
kiến thức, phƣơng pháp và hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra, đánh giá một

18



×