Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Ngôn ngữ nghệ thuật trong nhật ký chiến tranh của chu cẩm phong (KL07159)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.69 KB, 63 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------------------

ĐỖ THỊ THU HƢƠNG

NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG NHẬT KÝ CHIẾN TRANH
CỦA CHU CẨM PHONG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

HÀ NỘI - 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------------------

ĐỖ THỊ THU HƢƠNG

NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG NHẬT KÝ CHIẾN TRANH
CỦA CHU CẨM PHONG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. Hoàng Thị Duyên


HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian cố gắng, tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với
đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật trong Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm
Phong. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới các thầy cô giáo
trong khoa Ngữ Văn, các thầy cô giáo trong tổ Lí luận văn học và đặc biệt là
Thạc sĩ– Giảng viên Hoàng Thị Duyên đã tạo điều kiện giúp đỡ và hướng dẫn
nhiệt tình để tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tác giả khóa luận xin được bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn trân
trọng nhất tới các thầy cô.
Do năng lực nghiên cứu có hạn, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô.

Hà Nội, ngày… tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Đỗ Thị Thu Hương

i


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận Ngôn ngữ nghệ thuật trong Nhật ký chiến tranh của Chu
Cẩm Phong được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Giảng viên–
Thạc sĩ Hoàng Thị Duyên. Tôi xin cam đoan: Khóa luận là kết quả nghiên
cứu, tìm tòi của riêng tôi. Những gì được triển khai trong khóa luận không
trùng khớp với bất cứ một công trình nghiên cứu của tác giả nào đã được công

bố trước đó. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày…tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Đỗ Thị Thu Hương

ii


M C

C

MỞ ĐẦU................................................................................................. 1
1.

do chọn đề tài......................................................................... 1

2. ịch sử vấn đề ............................................................................. 3
3. Nhiệm v nghiên cứu ................................................................... 4
4. ối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................. 5
5. hương ph p nghiên cứu .............................................................. 5
6.

óng góp của khóa luận .............................................................. 5

7. ố c c khóa luận ......................................................................... 5
NỘI DUNG
CHƢƠNG


NHỮNG VẤN Đ

CHUNG V

NG N NGỮ NGHỆ

THUẬT VÀ OẠI HÌNH KÝ VĂN HỌC .............................................. 7
1.1. Vài nét về ngôn ngữ nghệ thuật ................................................. 7
1.1.1. Quan niệm về ngôn ngữ nghệ thuật......................................... 7
1.1.2.

ặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật ........................................ 8

1.1.3. C c thành phần cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật ....................11
1.2. Vài nét về loại hình k văn học nói chung và thể loại nhật k
nói riêng ..................................................................................................11
1.2.1. Kh i qu t về loại hình ký văn học ..........................................11
1.2.2. Vài nét về thể loại nhật k .....................................................14
1.3. Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm hong ..................................20
CHƢƠNG 2 ĐẶC TRƢNG NG N NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG
NHẬT KÝ CHIẾN TRANH CỦA CHU CẨM PHONG......................... 23
2.1. Ngôn ngữ mang đậm tính chất hướng nội, độc thoại.................23
2.2. Ngôn ngữ có khả năng đan xen, đổi hướng liên t c theo dòng
hồi tưởng, suy nghĩ của t c giả .................................................................32

iii


2.3. Ngôn ngữ mang đậm tính chủ quan của t c giả...........................34

2.4. Ngôn ngữ mang tính quy ước ẩn d ...........................................35
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ THỦ PHÁP XÂY DỰNG NGÔN NGỮ
NGHỆ THUẬT TRONG NHẬT KÝ CHIẾN TRANH CỦA
CHU CẨM PHONG ............................................................................. 39
3.1. Sử d ng linh hoạt và độc đ o nhiều lớp từ vựng .......................39
3.2. Cấu trúc câu đa dạng gợi cảm ...................................................32
3.3. Những câu văn trần thuật chứa đựng nhiều thông tin .................44
3.4. Sử d ng linh hoạt c c loại câu kể, câu tả và câu cảm th n ..........46
KẾT UẬN
TÀI IỆU THAM KHẢO

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1.

Mỗi một loại hình nghệ thuật đều tồn tại những chất liệu riêng để

cấu thành nên nó. Nếu như giai điệu và ca từ là chất liệu của âm nhạc, đường
nét và màu sắc làm nên hội họa thì đối với văn học, ngôn từ chính là chất liệu
chủ đạo, là phương tiện chủ yếu mang tính đặc trưng của văn học. Văn học
chính là nghệ thuật ngôn từ. Ta có thể thấy, không có ngôn ngữ thì không có
tác phẩm văn học bởi ngôn từ đã vật chất hóa, c thể hóa sự biểu hiện của chủ
đề, tư tưởng, cốt truyện,…
Với nhật ký, một thể loại mang tính chất riêng tư, đời thường, ghi chép
lại những sự việc, suy nghĩ, cảm xúc cá nhân bằng những câu chữ thì ngôn từ
lại càng đóng một vai trò quan trọng, góp phần phân biệt nhật ký với các thể
loại văn học khác và tạo nên diện mạo của thể loại. Chính vì vậy, khi khám

phá một tác phẩm văn học nghệ thuật nói chung, một tác phẩm ở thể loại nhật
ký nói riêng thì tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật có

nghĩa quan trọng hàng đầu.

1.2. Văn học là bức tranh chân thực phản nh đời sống. Theo dòng
chảy của thời gian và dấu ấn lịch sử của dân tộc, văn học đã có những phản
ánh kịp thời, ghi lại những mốc son hào hùng, đ ng nhớ của cha ông.

ặc

biệt, với những giai đoạn khác nhau của lịch sử dân tộc, văn học lại có những
sự phản ánh với những khuynh hướng khác nhau. Tiêu biểu phải kể đến giai
đoạn lịch sử 1965 – 1975, những năm mà nhân dân cả nước dồn hết sức
người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, những năm mà văn
học nói chung và thể ký nói riêng tập trung toàn lực để phản ánh cuộc kháng
chiến của dân tộc thì khuynh hướng sử thi là đặc điểm bao trùm lên cả nền
văn học, nó chi phối và ảnh hưởng rõ nét đến các sáng tác của c c nhà văn,
nhà thơ. Các sáng tác của họ, dù có dung lượng hạn chế của một bài tùy bút
hay mở rộng tới bức tranh toàn cảnh trong một tiểu thuyết dài, dù câu chuyện

1


chỉ diễn ra quanh một tình huống của một con người hay có quy mô bao quát
cả một giai đoạn lịch sử, một chiến dịch lớn thì các tác phẩm đều đề cập đến
những vấn đề hệ trọng của dân tộc và thời đại, vận mệnh của đất nước và
nhân dân. Ký và văn xuôi giai đoạn này đặc biệt phát triển, tiêu biểu phải kể
đến những tác phẩm: Tập truyện và ký Bức thư Cà Mau (1965) của Anh ức,
tập ký Cửu Long cuộn sóng (1965) của Trần Hiếu Minh, truyện ký Người mẹ

cầm súng (1965) của Nguyễn Thi…Khuynh hướng sử thi không chỉ ảnh
hưởng nhiều đến nội dung của các sáng tác thời kỳ này mà nó còn t c động
mạnh mẽ đến khía cạnh khai thác ngôn từ, đặc điểm từ ngữ, câu văn, c c thủ
pháp sáng tạo về ngôn từ…
Năm 2000, tập nhật ký Chu Cẩm hong được NX Văn Học xuất bản
mang tên Nhật ký chiến tranh và cuốn s ch đã được Hội Nhà Văn Việt Nam
trao tặng thưởng. Ngay khi được xuất bản, cuốn nhật k đã làm rung động
hàng triệu con tim của bạn đọc bởi vẻ đẹp tâm hồn thuần khiết, tình yêu quê
hương đất nước nồng nàn thể hiện qua những cảm nhận bình dị của một nhà
văn, một người chiến sĩ luôn gương mẫu, đi đầu trong công t c. Rất nhiều
cuộc hội thảo đã được tổ chức, nhiều bài phê bình, đ nh gi về Nhật ký chiến
tranh xuất hiện. Tuy vậy, c c cuộc hội thảo, c c bài viết, nghiên cứu mới
dừng lại ở việc giới thiệu về cuốn sách, khai thác thông tin bên lề tác phẩm,
tìm hiểu cuộc đời, thân thế của Chu Cẩm hong cũng như nghiên cứu về
chiến tranh dưới góc nhìn chân thực của một nhà văn mang o lính…chứ
chưa có một công trình nghiên cứu c thể nào đi sâu tìm hiểu về nghệ thuật
của thể loại văn học đặc biệt này. Những đặc trưng về ngôn ngữ trong thể loại
nhật ký nói chung và ngôn ngữ mang đặc trưng của Chu Cẩm Phong nói riêng
vẫn chưa được nghiên cứu, đề cập và tìm hiểu một cách tỉ mỉ.
Vì vậy, đề tài khóa luận này góp phần tìm ra một hướng đi mới trong
việc nghiên cứu về đặc trưng nghệ thuật cơ bản nhất của thể loại nhật ký

2


chiến tranh đó là ngôn ngữ nghệ thuật. Từ đó có một c i nhìn đầy đủ và xác
đ ng hơn về những đóng góp của nhà văn liệt sĩ Chu Cẩm hong đối với nền
văn học nước nhà.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Với đặc trưng thể loại “Nhật ký” là những ghi chép mang tính chất

riêng tư vì thế có thể nói trước những năm 1986, sự xuất hiện của chúng
không nhiều, chưa thu hút được sự chú ý, quan tâm của độc giả và giới nghiên
cứu. Vì thế sự góp mặt của nhật ký chiến tranh trên diễn đàn văn học trong
giai đoạn gần đây được cho là của “hiếm” vì chưa có một công trình nghiên
cứu nào đi sâu vào tìm hiểu về thể loại nhật ký chiến tranh này, đặc biệt ở
khía cạnh ngôn ngữ.
2.2. Từ sau năm 1986, đặc biệt là từ khi có sự xuất hiện đầu tiên của
cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm – tác giả là một nữ b c sĩ, liệt sĩ đã được công
bố rộng rãi và đã tạo nên một cơn sốt trong dư luận về nhật ký chiến tranh;
tiếp theo đó là Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc, Nhật ký chiến
tranh của Chu Cẩm hong…đã thực sự gây được ấn tượng mạnh mẽ và thu
hút được sự quan tâm của toàn xã hội, khiến các nhà nghiên cứu phải có cái
nhìn sâu rộng và nghiêm túc với thể loại văn học đặc biệt này. Bên cạnh việc
xuất hiện của những cuốn nhật ký gây xôn xao dư luận thì hàng loạt các bài
viết, bài giới thiệu, phê bình…cũng được ra mắt với tần suất lớn trên các
phương tiện thông tin đại chúng, điển hình phải kể đến hàng ch c bài báo viết
về đề tài này với những nội dung phong phú khác nhau:
- Đọc Nhật ký chiến tranh: Một tác phẩm văn học kì lạ; Chu Cẩm
Phong xứng đáng là một anh hùng; Đi tìm người cất giữ Nhật ký chiến tranh
của Chu Cẩm Phong… Những bài viết này đã có những t c động tích cực tới
dư luận xã hội, khiến cho độc giả có một cái nhìn chân thực hơn về cuộc
chiến vĩ đại mà thế hệ cha anh đã đi qua; những khó khăn gian khổ và sự hi

3


sinh vô tư vì lí tưởng tuổi trẻ. Hơn thế nữa, nhờ đó mà văn hóa đọc được
hưởng ứng sâu rộng, thu hút hấp dẫn hàng triệu độc giả đón đọc và theo dõi cuộc
hành trình cùng số phận để cuốn nhật ký đến được với bạn đọc ngày hôm nay.
- Những bài nghiên cứu về nhật ký chiến tranh có tính chất chuyên sâu

xuất hiện rất ít: Nguồn tư liệu đ ng qu qua nhật ký chiến tranh của tác giả
Tôn hương an cũng là một trong những đóng góp điển hình.
Có thể nói nghiên cứu về Nhật ký chiến tranh bước đầu chỉ dừng lại ở
việc giới thiệu sách và khai thác thông tin bên lề tác phẩm, chứ chưa có một
công trình nghiên cứu c thể nào đi sâu vào khai th c về nghiên cứu về khía
cạnh nghệ thuật, đặc biệt về ngôn ngữ của cuốn nhật ký này. Chính vì vậy, đề
tài khóa luận của chúng tôi đã tìm một hướng đi mới trong việc nghiên cứu về
Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm hong, đó là khai th c khía cạnh ngôn ngữ
nghệ thuật. Có thể khóa luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong
quý thầy cô và toàn thể hội đồng nhận xét và cho ý kiến đóng góp để khóa
luận có thể hoàn thiện hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
M c đích của khóa luận là tìm tòi, phát hiện những nét độc đ o của
ngôn ngữ trong Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm Phong; chỉ ra những thủ
pháp tiêu biểu trong sáng tạo ngôn từ của nhà văn, tất nhiên không tách rời nó
với việc thể hiện, làm sáng tỏ giá trị nội dung của cuốn nhật ký.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Xuất phát từ việc nắm vững những kiến thức về ngôn ngữ trong
văn học nói chung và ngôn ngữ trong thể ký, nhật ký nói riêng, khóa luận có
nhiệm v chỉ ra những đặc điểm cơ bản về ngôn ngữ trong cuốn Nhật ký chiến
tranh của Chu Cẩm Phong.

4


3.2.2. Khóa luận đi sâu ph t hiện những sáng tạo độc đ o về ngôn ngữ
của nhà văn và hiệu quả nghệ thuật của những sáng tạo đó trong khi thể hiện
nội dung tác phẩm.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Ngôn ngữ nghệ thuật trong Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm Phong.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm Phong , Nxb Hội Nhà Văn t i bản
năm 2011 và những công trình nghiên cứu, phê bình liên quan đến tác phẩm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
ể triển khai đề tài này, chúng tôi sử d ng những phương ph p nghiên
cứu sau:
-

hương ph p nghiên cứu đối tượng theo quan điểm hệ thống

-

hương ph p so s nh hệ thống

-

hương ph p lịch sử phát sinh

-

hương ph p phân tích, tổng hợp

6. Đóng góp của khóa luận
6.1. Trên cơ sở những kiến thức lí luận cơ sở, khóa luận chỉ ra những nét
độc đ o về tổ chức ngôn ngữ trong Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm Phong.
6.2. Phát hiện và phân tích những thủ pháp sáng tạo ngôn ngữ trong
Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm Phong. Với những phát hiện này, khóa luận
sẽ chỉ ra được sự khác biệt và cá tính sáng tạo của nhà văn trong việc sử d ng

ngôn ngữ so với những tác phẩm của những tác giả cùng thể loại.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư m c tham khảo, nội dung chính
của khóa luận sẽ được triển khai theo bố c c sau:

5


Chƣơng : Những vấn đề chung về ngôn ngữ nghệ thuật và loại
hình ký văn học
Chƣơng 2: Đặc trƣng ngôn ngữ nghệ thuật trong Nhật ký chiến
tranh của Chu Cẩm Phong
Chƣơng 3: Một số thủ pháp và hiệu quả biểu đạt của việc xây dựng
ngôn ngữ nghệ thuật trong Nhật ký chiến tranh của Chu Cẩm Phong

6


NỘI DUNG
CHƢƠNG
NHỮNG VẤN Đ CHUNG V NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
VÀ LOẠI HÌNH KÝ VĂN HỌC

1.1. Vài nét về ngôn ngữ nghệ thuật
1.1.1. Quan niệm về ngôn ngữ nghệ thuật
Từ trước đến nay, ngôn ngữ được coi là một phương tiện giao tiếp
trọng yếu và quan trọng nhất của loài người. Nhờ có ngôn ngữ mà con người
truyền đạt được những suy nghĩ, tư tưởng, m c đích,

định với nhau để có


thể tồn tại và phát triển đến ngày nay. Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt đã định
nghĩa: “ Ngôn ngữ là hệ thống những âm, những từ và những quy tắc kết hợp
chúng, làm phương tiện để giao tiếp chung trong một cộng đồng” [18;688].
Cuốn Bàn về ngôn ngữ thì nhận định: “ Ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn,
ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả người khác nữa, như vậy cũng tồn tại lần đầu
tiên cho bản thân tôi nữa, và cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra là do nhu
cầu, do cần thiết phải giao dịch với người khác nữa”[15;14].
Văn học là nghệ thuật ngôn từ nhưng không chỉ là ngôn từ. Nghệ thuật
ngôn từ xa xưa đã bao gồm không chỉ thơ trữ tình, kịch, sử thi, mà bao gồm
cả nghệ thuật hùng biện dùng trong giảng đạo, trong xét xử, trong diễn thuyết
chính trị trước công chúng. Ngày nay, với sự phát triển của b o chí và phương
tiện truyền thông đại chúng thì phạm vi của nghệ thuật ngôn từ còn rộng hơn
và đổi khác. Do vậy, khi nói văn học là nghệ thuật, ta chỉ nói tới một loại hình
của nghệ thuật đó – tức là loại hình sử d ng ngôn từ để sáng tạo ra thế giới
nghệ thuật, vì m c đích nghệ thuật. Xét ở lĩnh vực văn chương, ngôn ngữ
nghệ thuật chính là ngôn ngữ trong tác phẩm văn học. Từ điển thuật ngữ văn

7


học viết: “ Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn
học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ… Trong tác phẩm, ngôn ngữ
văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo,
phong cách, tài năng của nhà văn…”[6;215]. Ở đây, ta cần phân biệt rõ ngôn
ngữ tự nhiên và ngôn ngữ nghệ thuật. Nếu như ngôn ngữ tự nhiên là hệ thống
tín hiệu đầu tiên con người dùng để diễn đạt

nghĩ, diễn đạt tình cảm nảy


sinh trong hoàn cảnh nhất định một cách cảm tính thì ngôn ngữ nghệ thuật là
hệ thống tín hiệu thứ hai, được phát triển từ hệ thống tín hiệu thứ nhất, có
nhiệm v thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Ngôn ngữ tự nhiên có chức năng
giao tiếp là chủ yếu, còn chức năng thứ yếu là chức năng thẩm mĩ. Nhưng đối
với ngôn ngữ nghệ thuật, chức năng thẩm mĩ là chức năng cơ bản nhất, quan
trọng nhất.

ó là ngôn ngữ giàu tính hình tượng nhất, được tổ chức một cách

đặc biệt để phản nh đời sống, thể hiện tư tưởng tình cảm và t c động thẩm
mĩ tới người đọc.
Ngôn ngữ nghệ thuật là biểu hiện đầy đủ nhất và nổi bật nhất của ngôn
ngữ văn hóa toàn dân. Nó được hoàn thiện nhờ tài năng và khả năng s ng tạo
của nhà văn. Qua ngôn ngừ nghệ thuật, người đọc không chỉ kh m ph được
tư tưởng, quan niệm của người viết gửi gắm trong tác phẩm mà còn thấy được
phong cách cá nhân của nhà văn đó.
1.1.2. Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật
Bắt nguồn từ nhu cầu trao đổi thông tin mà ngôn ngữ ra đời, bắt nguồn
từ nhu cầu thưởng thức c i hay, c i đẹp mà văn học ra đời. Văn học sử d ng
ngôn ngữ nhưng văn học và ngôn ngữ là hai loại hình ký hiệu khác nhau, do
đó không thể suy trực tiếp đặc điểm của ngôn từ nghệ thuật từ đặc điểm của
ngôn ngữ thông thường. Mà đây là điều nhầm lẫn rất phổ biến. Ngôn từ văn
học là một hiện tượng nghệ thuật do nghệ sĩ s ng tạo theo quy luật chung của

8


nghệ thuật. Văn bản nghệ thuật phải truyền đạt một

nghĩa mà không một


ph t ngôn đồng nghĩa nào có thể thay thế được.
Có rất nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra quan niệm của mình về đặc
trưng của ngôn ngữ nghệ thuật. Chẳng hạn như tác giả

inh Trọng Lạc trong

cuốn Phong cách học Tiếng Việt đã chỉ ra tính chất cơ bản của ngôn ngữ nghệ
thuật là: tính cấu trúc, tính hình tượng, tính cá thể hóa và tính c thể hóa.
Tác giả

ỗ Hữu Châu trong Cơ sở ngữ học từ vựng đã bổ sung thêm

tính hệ thống bên cạnh bốn tính chất của tác giả inh Trọng Lạc đã đưa ra.
Nguyễn Phan Cảnh trong chuyên luận Ngôn ngữ thơ (2000) đã nhấn
mạnh tính tạo hình, tính biểu hiện của ngôn từ nghệ thuật.
Nguyễn Thế Lịch trong bài viết Về các tính chất của ngôn ngữ nghệ
thuật (TCNN số 4 – 1998) cho rằng: Ngôn ngữ nghệ thuật có tính chính xác.
Tính hàm súc, tính phóng đại, tính c ch điệu và tính tổ chức.
Trong cuốn Lý luận văn học (NXB GD – 2006), Hà Minh

ức (chủ

biên) thì cho rằng tính chính x c, tính hàm súc và tính hình tượng là những
đặc điểm chung của ngôn ngữ văn học…
Tóm lại, từ những quan niệm khác nhau của các nhà nghiên cứu về đặc
trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, ta có thể nhìn nhận khái quát những tính chất
cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật, đó là: Tính chính x c, tính hình tượng, tính
cấu trúc, tính hệ thống, tính cá thể hóa.
Tính chính xác của ngôn ngữ nghệ thuật xuất phát từ một yêu cầu rất

quan trọng của văn học là nói phải phản ánh hiện thực một cách chân thực,
đầy đủ như nó vốn có. Giống như nhà b c học ê Qu

ôn đã từng nói: “Văn

muốn hay trước hết phải đúng”. Nói rõ hơn, đây chính là khả năng của ngôn
ngữ văn học có thể biểu hiện đúng điều mà nhà văn muốn nói, miêu tả đúng
c i mà nhà văn muốn biểu hiện. Tính chính xác là một đặc trưng cơ bản đầu
tiên của ngôn ngữ nghệ thuật.

9


Tính hình tượng là khả năng gợi lên những hình tượng nghệ thuật đưa
ta thâm nhập vào thế giới của những cảm xúc, ấn tượng, suy tưởng. Tính hình
tượng của ngôn ngữ thể hiện ở nhiều mặt như c c loại từ, c c phương thức
chuyển nghĩa để soi sáng một vật này qua vật khác. Ngôn ngữ nghệ thuật
không chấp nhận những mô hình có sẵn mà tính hình tượng của nó thể hiện ở
sự thống nhất giữa mặt tạo hình và mặt biểu đạt của văn bản ngôn từ. Hai
bình diện này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong việc tạo thành một tác
phẩm nghệ thuật hoàn hảo.
Ngôn ngữ nghệ thuật cũng là một cấu trúc có tính hệ thống. Trong một
tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh phải có mối quan hệ chặt chẽ giữa cấu trúc bề
mặt và cấu trúc bề sâu. Là sự kết hợp hữu cơ giữa văn bản ngôn từ (về mặt
hình thức biểu đạt, chất liệu), hệ thống hình tượng (thành tố trung gian gắn bó
thành tố và nội dung) và các lớp nội dung

nghĩa của tác phẩm nghệ thuật

(cấu trúc chiều sâu: chủ đề tư tưởng, cảm xúc), cấu trúc bề mặt và cấu trúc bề

sâu có sự thống nhất căn bản: nội dung nào thì hình thức ấy. Tính cấu trúc và
tính hệ thống của ngôn ngữ tự nhiên biểu hiện ở mối quan hệ bên trong ngôn
ngữ (chủ thể lời nói luôn luôn thống nhất) thì với ngôn ngữ nghệ thuật biểu
hiện chủ yếu trong quan hệ với các nhân tố ngoài ngôn ngữ (hình tượng nghệ
thuật, phong cách tác giả, tác phẩm, khuynh hướng, trào lưu văn học, hệ tư
tưởng, quan niệm thẩm mĩ thời đại). Từ mối quan hệ đó, văn bản tác phẩm trở
thành một bản hòa tấu có một tổng hợp lực mạnh mẽ, t c động đến người tiếp
nhận văn bản.
Ngôn ngữ nghệ thuật có tính cá thể hóa và đó chính là đặc điểm phong
cách tác giả thể hiện trên văn bản nghệ thuật. Nó thể hiện qua các thao tác sử
d ng ngôn từ, các thủ pháp sáng tạo mà tác giả sử d ng để xây dựng hình
tượng. Ngôn ngữ nghệ thuật được cá thể hóa khi nó mang dấu ấn phong cách
tác giả tức là mang quan niệm của tác giả về đời sống con người. Những nhân

10


tố ảnh hưởng đến bút pháp tác giả, hệ thống hình tượng nghệ thuật trong tác
phẩm đó là c c biện pháp thể hiện hình tượng và nội dung tư tưởng sự vận
d ng ngôn ngữ qua các thao tác. Ngôn từ nghệ thuật đạt tới tính cá thể (có
phong cách) phải thể hiện được nhân cách, tâm hồn, tư tưởng của nhà văn
thông qua những thao tác lựa chọn từ vựng, phương thức thể hiện giọng điệu
của họ. Tác giả có phong cách ngôn ngữ riêng biệt, độc đ o phải là người có
quan niệm nghệ thuật riêng, c i nhìn riêng đối với đời sống con người và phải
được biểu đạt bằng một giọng điệu riêng, tiếng nói riêng của mình.
1.1.3. Các thành phần cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật
Nếu như trong thơ trữ tình, kiểu nói duy nhất thống lĩnh toàn bộ thế
giới nghệ thuật là lời trực tiếp của nhân vật trữ tình thì trong văn xuôi tự sự
các kiểu lời lại phong phú hơn nhiều: Ngôn ngữ nhân vật có lời đối thoại, lời
độc thoại, độc thoại nội tâm; Ngôn ngữ trần thuật có lời kể, lời tả, lời bình

luận trữ tình, các kiểu lời trung gian như lời nửa trực tiếp, sự đan xen c c kiểu
lời. Tùy thuộc vào các chức năng của mỗi kiểu lời và khả năng vận d ng của
mình mỗi nhà văn lại sử d ng và phát huy các kiểu lời ấy trong quá trình sáng
tạo nghệ thuật.
2 Vài nét về loại hình ký văn học nói chung và thể loại nhật ký nói
riêng
1.2.1. Khái quát về loại hình ký văn học
1.2.1.1. Khái niệm chung về loại hình ký văn học
Ký là loại hình văn học có nhiều biến thể. Nghĩa gốc của chữ “ký” là
ghi chép một sự việc gì đó để không quên. hải có chữ viết rồi mới có ghi
chép, cho nên so với c c thể loại văn thơ c ch luật, ký văn học xuất hiện
muộn; lịch sử của nó gắn liền với lịch sử của văn học b c học. Ở Việt Nam,
sau năm 1945, chúng ta có cả một nền văn học ký. Công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và hiện thực hai cuộc kh ng chiến chống h p và chống Mỹ để

11


lại dấu ấn đậm nét trong ký của Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyễn Tuân,
Nguyễn Khải, Anh

ức, Hoàng hủ Ngọc Tường…

Tuy xuất hiện muộn nhưng trên thế giới cũng như ở Việt Nam, lịch sử
của ký đã trải qua nhiều giai đoạn, vận động, phát triển với rất nhiều sự đổi
thay và hàng loạt những biến thể. Từ văn học trung đại đã thấy có l c, thực
l c, ngữ l c, tạp văn, tạp l c, mạn l c, tiểu l c, tiệp bút, to i sự, mị ngữ, khảo,
văn chú, truyện ký, sử ký, ký sự, tùy bút. ước sang thời hiện đại lại thấy có
du ký, nhật ký, hồi ký, phóng sự, tản văn, ký chính luận, tiểu luận…
1.2.1.2. Đặc trưng chung của loại hình ký văn học

a. Ký là sự can dự trực tiếp của nghệ thuật vào đời sống xã hội
Nghệ thuật là hoạt động nhằm thỏa mãn những tình cảm thẩm mĩ của
con người. Nó có c c yếu tố của trò diễn giúp con người giải trí, vui chơi. Văn
học nghệ thuật chính là trò diễn bằng ngôn từ nhằm chiếm lĩnh những gi trị
tinh thần mang

nghĩa nhân sinh.

Ký là một loại hình nghệ thuật, một hình thức hoạt động thực tiễn –
tinh thần có tham vọng can dự trực tiếp vào mọi lĩnh vực của đời sống. Nhà
văn ê Minh đã từng nói: “Với thể loại k , từ sự thôi thúc của cuộc sống mà
t c giả có nhu cầu được công bố kịp thời những nhận xét, những đ nh gi ,
những

tưởng… K ghi được rất rõ những dấu ấn của một sự kiện, của một

thời kỳ, của một lớp người, của một vùng miền”.
ê Minh đã khẳng định một đặc điểm nổi bật, thuộc loại quan trọng
nhất của ký mà từ lâu đã được mọi người thừa nhận. Tìm mọi cách can dự
trực tiếp vào đời sống, ký trở thành loại hình văn học thời sự, một thể văn
xung kích theo sát các vấn đề nóng hổi, cấp bách của hiện thực mang nghĩa
xã hội rộng lớn.

ể can dự trực tiếp vào tiến trình đời sống, người viết ký

chẳng những phải nhập cuộc mà nhiều khi còn phải “dấn thân” với tinh thần
chiến đấu cao và tính khuynh hướng rõ ràng. Sau năm 1975, nhất là những
năm 80 của thế kỉ trước, nhiều nhà văn Việt Nam đã có tinh thần “dấn thân”

12



như thế. Những bài ký nảy lửa như Tiếng đất của Hoàng Hữu Cát, Người đàn
bà quỳ của Trần Khắc, Cái đêm hôm ấy đêm gì? của Phùng Gia Lộc… đã góp
phần vào công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước.
b. Ký là sự thông tin về sự thực của các giá trị nhân sinh
Do “k ” là ghi chép sự việc, nên tính xác thực của việc ghi chép được
xem là đặc trưng quan trọng nhất của thể loại. Có tư liệu để chứng minh, ở
c c nước xã hội chủ nghĩa như iên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, quan điểm
thể loại về ký được xác lập chủ yếu vào thời kì mà tư tưởng lí luận rất đề cao
việc s ng t c văn nghệ theo cách ghi chép sự thực đời sống. Cho nên, yêu cầu
về tính xác thực của ký càng được nhấn mạnh, gần như tuyệt đối hóa. Nó
được xem là tri thức, là quan điểm nền tảng mà khi biên soạn từ điển tra cứu
phổ thông hay viết s ch gi o khoa, gi o trình dùng trong nhà trường, tư duy lí
thuyết phải dựa vào đó để x c định nội hàm khái niệm.
c. Ký có cách xử riêng về khoảng cách giữa thời gian sự kiện và thời
gian trần thuật
Ký là sự can dự trực tiếp của nghệ thuật vào hiện thực xã hội.

ể tạo ra

những tác phẩm có khả năng t c động mạnh mẽ tới con người và đời sống, ký
điều chỉnh tối đa khoảng cách giữa thời gian sự kiện và thời gian trần thuật.
Và để xóa bỏ tối đa khoảng cách giữa thời gian trần thuật và thời gian sự kiện,
ký văn học sử d ng rất nhiều thủ pháp kết cấu. Có thể thường xuyên bắt gặp
bốn thủ ph p cơ bản: một: dựa vào c i đơn nhất, xác thực để xây dựng hình
tượng; hai: tôn trọng trật tự biên niên của thời gian sự kiện; ba: lược bỏ ngôn
ngữ trần thuật, sử d ng kĩ thuật “lắp r p” điện ảnh; bốn: làm nổi bật hình
tượng tác giả, người chứng kiến, tham gia.


13


d. Ký kết hợp linh hoạt các phương thức tự sự, trữ tình, nghị luận với
những thao tác tư duy khoa học
Tự sự là nền tảng cấu trúc của tác phẩm ký. Ký ghi chép sự việc, thuật
lại các sự kiện, biến cố. Trong ký có tả người, tả cảnh. Cho nên nhiều nhà
nghiên cứu xếp ký vào loại văn xuôi tự sự.
Tuy nhiên, là một loại hình văn học trung gian, ký thường có sự kết
hợp rất linh hoạt c c phương thức chiếm lĩnh đời sống. Như đã nói, k là sự
thông tin về sự thực của những giá trị nhân sinh. Cho nên trên nền tảng tự sự,
ký phát triển rất tự nhiên yếu tố nghị luận. Ta có thể thấy rõ điều này trong
Đường chúng ta đi của Nguyễn Trung Thành, Bản án chế độ thực dân Pháp
của Nguyễn Ái Quốc…
Việc nhận thức những giá trị nhân sinh cũng mở đường để ký kết hợp
một cách tự nhiên, linh hoạt giữa tự sự, nghị luận với trữ tình. Ký không chỉ
kể việc, tả người, tả cảnh mà còn là tiếng reo vui trước vẻ đẹp của cảnh, của
người.
Ký không chỉ kết hợp linh hoạt c c phương thức nghị luận, trữ tình, tự
sự mà còn kết hợp một cách tự nhiên tư duy nghệ thuật với tư duy khoa học.
Ở Việt Nam, Nguyễn Tuân là cây bút có biệt tài trong việc đưa nhiều lĩnh vực
tri thức vào những bài ký tài hoa của mình.
1.2.2. Vài nét về thể loại nhật ký
Dưới nhiều góc độ khác nhau của đời sống xã hội – đời sống tinh thần,
văn chương bằng thế mạnh của mình đã khai th c, kh m ph làm nổi bật tất
cả những âm điệu, cung bậc của cảm xúc con người trong sự đa dạng muôn
màu làm nên sự phong phú trong tâm hồn trước hiện thực đời sống xã hội.
Với các thể loại nổi bật: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch… văn chương Việt
Nam hiện đại đã hấp dẫn bao thế hệ độc giả. Tuy nhiên với những ưu thế, đặc
thù, mỗi thể loại văn học lại có sức hấp dẫn riêng. Nếu như, tiểu thuyết là thể


14


loại “tự sự dài hơi” với dung lượng lớn về nhân vật, cốt truyện, phạm vi phản
ánh thì truyện ngắn lại là những lát cắt của cuộc sống; với thơ lại nồng nàn
say đắm tâm hồn người với nhiều cung bậc cảm xúc đi kèm hình ảnh, nhạc
điệu…

ặc biệt hơn, nhật ký xuất hiện đã khẳng định vị trí trong lòng độc giả

với những hấp dẫn riêng của nó về giọng điệu tâm tình, tiếng nói bên trong,
tiếng nói của tư tưởng tình cảm, sự bộc lộ chân thành và sâu lắng nhất cảm
xúc suy nghĩ trong tâm hồn người viết.
Nằm trong loại thể ký, nhật ký nói chung và nhật ký viết về chiến tranh
nói riêng đều mang những nét đặc điểm chung của thể loại đồng thời lại có
nét riêng độc đ o góp phần làm nên sự phong phú của văn chương nghệ thuật.
1.2.2.1. Các quan niệm về nhật ký
Theo quan niệm của Từ điển thuật ngữ văn học thì nhật ký “là một thể
loại thuộc loại hình ký”, là một dạng biến thể của ký hiện đại. So với các thể
loại kh c như tiểu thuyết, thơ… thì ký xuất hiện muộn hơn, tận thế kỉ XVIII
khi có sự gia tăng chú

đến thế giới nội tâm của con người, khi xuất hiện nhu

cầu tự bộc bạch, tự quan sát thì thể loại này mới xuất hiện ở châu Âu và phát
triển cực thịnh vào thế kỉ XIX. Ở Việt Nam, thể ký ra đời muộn, có thể lấy
điểm mốc cho sự xuất hiện thể loại này ở thời Lý – Trần với Vũ Trung tùy bút
và Thượng kinh ký sự. Cũng như ở phương Tây, thể ký ở Việt Nam cũng được
coi là thể loại mở đường dẫn tới sự phát triển rực rỡ của chủ nghĩa hiện thực

trong văn học nghệ thuật. Qua nhiều giai đoạn lịch sử, ký cũng có những biến
thể cho phù hợp với xu thế phát triển của văn học. Nhật ký chính là một dạng
biến thể của ký hiện đại bên cạnh hồi ký, tùy bút, tản văn, phóng sự…
Từ điển văn học (bộ mới) định nghĩa nhật ký là “ oại văn ghi chép sinh
hoạt thường ngày. Trong văn học, nhật ký là hình thức trần thuật từ ngôi thứ
nhất số ít, dưới dạng những ghi chép hàng ngày có đ nh số ngày tháng (…)
bao giờ cũng chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, những gì đã nếm trải, thể nghiệm;

15


nó ít hồi cố; được viết ra chỉ cho bản thân người ghi chứ không tính đến việc
được công chúng tiếp nhận”[9;1257]. Từ điển thuật ngữ văn học cũng coi
nhật ký là “một thể loại thuộc loại hình ký” hay “là hình thức tự sự ở ngôi thứ
nhất được thực hiện dưới dạng những ghi chép hàng ngày theo thứ tự ngày
tháng về những sự kiện của đời sống mà tác giả hay nhân vật chính là người
trực tiếp tham gia hay chứng kiến”. Giáo trình Lý luận văn học, tập 2: Tác
phẩm và thể loại văn học do Gi o sư Trần ình Sử chủ biên thì định nghĩa: “
Nhật ký là thể loại ghi chép sự việc, suy nghĩ, cảm xúc hàng ngày của chính
người viết, là những tư liệu có giá trị về tiểu sử và thời đại của người
viết”[22;261]. Như vậy, có thể nói rằng, nhật ký chính là những ghi chép của
cá nhân về những sự kiện, những cảm xúc, suy nghĩ trước những sự kiện xảy
ra trong ngày hay trong thời điểm gần.
Về phân loại, tùy vào tính chất, m c đích mà người ta phân loại thành
những thể khác nhau của nhật ký. Rõ ràng nhất là sự phân chia nhật ký văn
học và nhật ký ngoài văn học. Các nhật ký ngoài văn học như: nhật ký riêng
tư, nhật ký khoa học, nhật ký công t c… không nhằm công bố rộng rãi, chỉ
viết dành cho m c đích c nhân; đơn thuần chỉ ghi chép lại những sự việc xảy
ra với cá nhân chứ không quan tâm đến những vấn đề, những sự kiện xảy ra
với


nghĩa xã hội rộng lớn,

nghĩa nhân bản… Vì thế, nhật ký ngoài văn học

thường không thu hút được sự quan tâm của đông đảo người tiếp nhận cũng
như giới nghiên cứu văn học, không có tầm ảnh hưởng lớn. Còn nhật ký văn
học thường hướng tới các chủ đề nhất định và có sự ưu tiên chú đến thế giới
nội tâm của tác giả hoặc của các nhân vật trước nhứng sự kiện lớn có

nghĩa

không chỉ với cá nhân mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội; nhật ký văn
học được viết ra nhằm hướng tới đông đảo công chúng. Bên cạnh đó có
những cuốn nhật ký riêng tư viết không nhằm làm văn, không hướng tới đông
đảo công chúng và không chủ định xây dựng hình tượng văn học, song một

16


khi nó “thể hiện được một thế giới tâm hồn, khi qua những sự việc và tâm
tình cá nhân, tác giả giúp người đọc nhìn thấy những vấn đề xã hội trọng đại”
thì nó đã mang trong mình phẩm chất văn học.
1.2.2.2. Đặc điểm của thể loại nhật ký
Là một biến thể của ký, nhật ký mang những nét đặc điểm chung nhất
của ký, đồng thời lại có điểm riêng biệt, làm nên sức thu hút riêng của thể
loại. Với thể ký – thể loại được coi là “sự can dự trực tiếp của nghệ thuật vào
đời sống xã hội” với đặc điểm nổi bật là ghi chép sự việc, thì tính xác thực
của việc ghi chép được xem là đặc trưng quan trọng nhất của thể loại. Nhật ký
cũng vậy, cho dù là nhật ký văn học hay các loại nhật ký ngoài văn học đều

coi trọng tính chân thực, đ ng tin cậy của sự kiện được ghi chép lại, vì một
cuốn nhật ký trước hết chính là sự giao lưu của người viết với chính bản thân
họ, bao giờ cũng chỉ ghi lại những gì đã xảy ra, những gì đã nếm trải, thể
nghiệm. Với thể loại nhật ký ngoài văn học thì tính xác thực là yếu tố quan
trọng hàng đầu, ví d một cuốn nhật ký công tác hay nhật ký khoa học đòi hỏi
một sự chính xác cao, hay với nhật ký riêng tư, yếu tố bí mật là yếu tố quan
trọng vì đó là những lời bộc bạch tâm sự của chủ thể không hướng tới m c
đích quảng bá nên những gì viết ra luôn chân thực. Còn với nhật ký văn học,
để mang tính hiện đại cho những vấn đề mang

nghĩa thì bản thân việc ghi

chép phải có sự chân thực mới thu hút được sự quan tâm của độc giả cũng
như xã hội: Ví d như nhật ký Ở rừng của Nam Cao là những ghi chép chân
thực những ngày tháng gian khổ mà đầy

nghĩa trong ngày đầu hoạt động

cách mạng của nhà văn, đó cũng là những gian khổ, khó khăn, th ch thức các
văn nghệ sĩ trong việc “nhận đường”… Tác phẩm thành công bởi trong nó
chứa đựng những cảm xúc chân thành của người viết thể hiện tư tưởng, tình
cảm và cái nhìn bao quát mọi sự vật, sự việc. Hay tập Nhật ký trong tù của
Nguyễn Ái Quốc đã cho chúng ta thấy được bộ mặt tàn ác của nhà tù với

17


những gian khổ, thiếu thốn đủ điều nhưng lại toát lên vẻ đẹp của tinh thần lạc
quan yêu đời của người chiến sĩ, thi sĩ c ch mạng. Tính xác thực của nhật ký
cũng có nét tương đồng với hồi ký, tuy nhiên nếu như hồi ký có thể có yếu tố

hư cấu những khi thể hiện th i độ, những sự việc mà nhân vật trải nghiệm
nhằm làm nổi bật hơn chủ đề của tác phẩm thì với nhật ký, yêu cầu về tính
xác thực rất khắt khe. Vì hư cấu trong nhật ký là điều tối kị. Người viết nhật
ký không được phép hư cấu thêm tình tiết. Hư cấu ở nhật ký chẳng khác với
sự phản bội chính bản thân mình, lừa dối chính mình.
Nhật ký chính là lời tâm sự, bộc bạch của tác giả hay nhân vật những
lúc cô đơn, muốn tự chiêm nghiệm lại những gì đã xảy ra. Vì thế, có thể nói,
nhật ký chính là thể loại mang tính chất riêng tư, chân thật và rất đời thường.
“Với tư c ch là những ghi chép cá nhân, trong nhật ký, người viết có thể tự do
trình bày suy nghĩ, quan điểm, tình cảm và th i độ trước một sự thật” [7].
Riêng tư chính là lí do tồn tại của nhật ký, là yếu tố hấp dẫn của thể loại văn
học đặc biệt này, vì nó liên quan đến những tâm tư, tình cảm, bí mật của cá
nhân, đặc biệt là những nhân vật được xã hội quan tâm. Trong Mãi mãi tuổi
hai mươi, Nguyễn Văn Thạc đã quan niệm về việc ghi nhật ký: “Nếu như
người viết nhật ký là viết cho mình, cho riêng mình thì đọc cuốn nhật ký đó sẽ
chân thực nhất, sẽ bề bộn và sầm uất nhất. Người ta sẽ mạnh dạn ghi cả vào
đấy những suy nghĩ tồi tệ nhất mà thực sự họ có. Nhưng nếu nhật ký mà có
thể có người xem nữa thì nó sẽ khác và khác nhiều – họ không dám nói sự
thật, nói đúng bản chất sự kiện xảy ra trong ngày, không dám nói hết và đúng
những suy nghĩ đã nảy nở và thai nghén trong lòng họ. Mà đó chính là điều
tối kị khi viết nhật ký. Nó sẽ dạy cho người viết tự lừa dối ngòi bút của mình,
tự lừa dối lương tâm của mình” [24;225].
Nhật ký là thể loại độc thoại, tự mình nói với mình, vì thế chúng ta luôn
thấy tác giả hay nhân vật luôn giữ ngôi thứ nhất. Nếu trong các thể loại như

18


phóng sự, tùy bút, bút ký… trung tâm thông tin không phải là tác giả mà là
các vấn đề xã hội thì ở nhật ký văn học người viết luôn là trung tâm. So với

các thể loại kh c, “vai trò của cái tôi trần thuật trong nhật ký văn học bao
quát, quán xuyến toàn bộ tác phẩm. Tác giả không ngần ngại xuất hiện trong
từng chi tiết nhỏ nhất và chính sự có mặt của cái tôi ấy đã góp phần quan
trọng trong việc tạo ra niềm tin của công chúng vì họ tin rằng đang được nghe
kể về những sự thật mà tác giả là người trực tiếp chứng kiến”[7]. Tuy nhiên,
có những khi lời độc thoại của tác giả hay nhân vật lại chính là một cuộc đối
thoại ngầm với người khác về con người và cuộc đời nó chung, về bản thân
mình nói riêng. Hình tượng tác giả trong nhật ký văn học là hình tượng mang
tầm kh i qu t tư tưởng thẩm mĩ lớn lao.
Nhật ký ghi chép sự việc, suy nghĩ, cảm xúc theo ngày tháng ở thì hiện
tại, có thể liên t c nhưng cũng có thể ngắt quãng tùy vào người ghi. Nếu như
ở hồi ký là sự ghi chép thời gian đã qua, thời gian quá khứ bằng cách hồi cố,
hồi tưởng lại thì nhật ký ghi chép bằng thời gian hiện tại. Có thể ngắt quãng
nhưng chắc chắn thời gian phải là thời gian của hiện tại, không thể ở thời
điểm ghi nhật ký mà ghi hộ cho thời điểm trước hay sau đó được.
ặc điểm lời văn của nhật ký là sự ngắn gọn, tự nhiên bởi nó là lời nói
bên trong, là tiếng nói nội tâm về những sự việc riêng tư, những tâm sự thầm
kín,

nghĩa thành thực, vì thế lời văn thường kết hợp linh hoạt giữa tự sự và

trữ tình, giữa ngôn ngữ đời thường và giọng văn trữ tình mượt mà.
1.2.2.3. Đôi nét về nhật ký chiến tranh
Xuất hiện trong dòng văn học viết về đề tài chiến tranh, thể loại nhật ký
được biết đến như một điển hình về sự mới mẻ và chân thực của nó kể từ khi
có sự phát hiện và công bố hai cuốn nhật ký gây ấn tượng mạnh mẽ với đông
đảo nhân dân như Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Mãi mãi tuổi hai mươi và tiếp đó
là Nhật ký chiến tranh; Tài hoa ra trận… ến lúc này nhật ký chiến tranh mới

19



×