Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Khoá luận tốt nghiệp nghi thức nói vòng trong ca dao việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.26 KB, 52 trang )



TRƯỜNG ĐAI HOC sư PHAM HÀ NÔI 2
• • • KHOA NGỮ VĂN

HOÀNG THỊ LƯỢT

NGHI THỨC NÓI VÒNG TRONG CA DAO
VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

• • • •

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Người hướng dẫn khoa học:

TS. Đổ THỊ THU HƯƠNG

HÀ NỘI, 2015


Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Thị Thu Hương, người đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn th ành khóa luận này. Nhờ cô, tôi đã học hỏi được rất
nhiều về phương pháp nghiên cứu khoa học và biết cách nghiên cứu vấn đề khoa học một
cách nghiêm túc và đúng đắn nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các
LỜI CẢM

thầy cô trong khoa Ngữ Văn đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu để hoàn
thành khóa luận này.


Và cuối cùng tôi xin cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện cũng như giúp đỡ
tôi hoàn thành được khóa luận này.
Hà Nội, tháng 05 năm 2015 Sinh viên
Hoàng Thị Lượt

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi và không trùng với kết
quả nghiên cứu của tác giả nào đã công bố trước đây. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện
khóa luận này đã được chú thích đầy đủ và ghi rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm
Hà Nội, tháng 05 năm 2015 Sinh viên


Hoàng Thị Lượt

LỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1

Mỗi một loại hình nghệ thuật cụ thể sẽ có một chất liệu riêng để

thể hiện. Hình tượng nghệ thuật sẽ không sinh ra nếu không có chất liệu.
Ngược lại chất liệu sẽ mất đi tính thẩm mĩ khi ta tách rời hình tượng. Đặc trưng
của mỗi loại hình nghệ thuật sẽ xuất từ đặc điểm của chất liệu tạo nên hình
tượng nghệ thuật đó, mà chất liệu của văn học nghệ thuật chính là ngôn từ.

Có thể nói muốn hiểu biết về tình cảm của nhân dân Việt Nam xem dồi
dào, thắm thiết, sâu sắc đến mức độ nào, rung động nhiều hơn về những khía
cạnh nào của cuộc đời thì không thể nào không nghiên cứu ca dao Việt Nam.
Ca dao Việt Nam là những bài tình tứ tiêu biểu cho lối thơ trữ tình, đó chính là
những bài ca dao viết về tình yêu của những con người lao động, tình yêu nam
nữ, yêu gia đình, tình cảm YỢ chồng thủy chung, gắn bó.
Ngoài biểu hiện đời sống tình cảm, đời sống vật chất, ca dao còn phản ánh
ý thức lao động sản xuất của con người Việt Nam. Tính tư tưởng của nhân dân
Việt Nam biểu lộ ở ca dao không những làm cho con người ta cảm thông mà
còn gắn bó thân mật gần gũi nhau hơn.
1.2 Điều đặc biệt trong ca dao đó chính là nghi thức nói vòng. Nói vòng
trong ca dao xuất phát từ đặc trưng giao tiếp của người Việt, ưa cách nói nhẹ
nhàng tế nhị, ưánh lối nói trực tiếp khiến mất lòng. Chính YÌ thế nói vòng
trong ca dao là một cách nói gián tiếp bày tỏ tâm tư tình cảm của tác giả dân
gian một cách chân thành qua lời ca dao.
Vì thấy được tầm quan trọng của ca dao xuất phát từ hai lý do trên chúng
tôi chọn đề tài: Nghi thức nói vòng trong ca dao Việt Nam.
2. Lích sử vấn đề


Nói vòng là một hiện tượng ngôn ngữ xảy ra ttong hoạt động giao tiếp
thường ngày. Đây là một hiện tượng ngôn ngữ nảy sinh khi sự phát triển của tư
duy đã đạt tới trình độ cao. Trước đây cũng đã có nhiều nhà nghiên cứu đã
từng nghiên cứu và đề cập đến nghi thức nói vòng trong giao tiếp và văn hóa
người Việt Nam, tuy nhiên trong ca dao thì chưa có công trình nào nhắc tới cụ


thể, chỉ có các công trình liên quan. Trong phạm vi đề tài của khóa luận, chúng
tôi xin nêu ra những tài liệu có liên quan và gần gũi nhất với vấn đề của khóa
luận. Cụ thể, có thể kể tới một số công trình nghiên cứu sau:

2.1.

Nghiên cứu nghỉ thức nói vòng từ góc độ phong cách học
Trong bài viết Nói vòng đăng trên tạp chí Ngôn ngữ, tác giả Nguyễn Hữu

Chương định nghĩa rõ ràng về nói vòng cũng như hiệu quả của nó. Tác giả
khẳng định nói vòng là một trong những lối nói độc đáo. Nó không phải là một
lối nói dài dòng mà là một lối nói dựa trên những cơ sở và qui tắc ngữ nghĩa cú
pháp nhất định, đem lại những sắc thái tu từ, sắc thái biểu cảm riêng cho câu
văn, cho lời nói.
2.2.

Nghiên cứu nghi thức nói vòng từ lý thuyết hội thoại.
Ở Việt Nam, một số tác giả như Đỗ Hữu Châu, Hoàng Phê, Nguyễn Đức

Dân... khi bàn về các hành vi giao tiếp như trao lời, đáp lời, dẫn ý, tham thoại...
đều đề cập đến vấn đề lời nói trực tiếp và lời nói gián tiếp. Thực chất, đó là các
vấn đề có liên quan đến nói thẳng, nói vòng. Tuy nhiên, nói vòng ở đây được
nghiên cứu từ góc đọ của lí thuyết hàm ngôn hơn là một hiện tượng ngôn ngữ
có liên quan mật thiết tới đặc trưng văn hóa và thói quen tư duy dân tộc.
2.3.

Nghiên cứu nghỉ thức nói vòng từ góc độ văn hóa
Trong khóa luận “Văn hóa ứng xử của người Việt qua tục ngữ, ca dao ” của

Nguyễn Huyền Trang - ĐHSP 2, tác giả khẳng định người Việt, nhất là ngưòi
Bắc Bộ có cách thể hiện tình cảm vòng vo, bóng gió, ưa triết lý với ngôn ngữ
chau chuốt. Các chàng trai, cô gái Bắc Bộ thường mượn việc lao động, mượn
việc chăm sóc mẹ già, mượn những đồ vật xung quanh như áo, khăn, yếm... để
nói chuyện tình yêu. Khóa luận cho thấy ca dao Việt Nam ưa cách nói vòng để

thể hiện tình cảm. Cả người nói và người nghe đều rất ý nhị, không thích sự sỗ
sàng ttong bày tỏ tình cảm. Điều này thuộc văn hóa ứng xử của ngưòi Việt và
vô hình chung nó đã ảnh hưởng tói ngôn ngữ.
Tiếp theo, tác giả Đỗ Thị Bảy vào năm 1999 cũng cho ra mắt công trình
tìm hiếu về “Sự phản ánh quan hệ gia đình, xã hội trong tục ngữ, ca dao người
Việt”, NXB ĐH Quốc Gia Hà Nội. Qua việc tìm hiểu về mối quan hệ gia đình,


xã hội trong ca dao, tác giả khẳng định người Việt chúng ta có lối nói vòng,
thiên về gián tiếp để thể hiện sự tế nhị, tôn trọng người nghe. Trong cuộc sống
hàng ngày người Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề giao tiếp, ngưòi Việt
Nam do thiên về tình hơn về lí nên khi giao tiếp con người luôn đề cao vai trò
của việc xử dụng ngôn ngữ đẻ đảm bảo cho sự đoàn kết nhất trí, cho cuộc sống
vui vẻ hài hoà. Người Việt Nam luôn nhắc nhở nhau khi giao tiếp, nói năng
phải cân nhắc lựa chọn, tránh kiểu hành xử khiếm nhã làm mất lòng người
khác. Ông cha ta luôn dạy con cháu: Ấn phải nhai nói phải nghĩ. Hơn nữa người
Việt luôn coi trọng nghĩa tình, những lúc khó khăn, có công có việc người ta
đến với nhau vì tình chứ không phải vì yật chất, nên trong văn hoá ứng xử
Người Việt rất coi trọng tinh thần, đặt tinh thần lên hàng đầu.
Bên cạnh đó, trong các công trình nghiên cứu về ca dao, nghi thức nói
vòng cũng được đề cập đến. Trong công trình nghiên cứu “ Thi pháp ca dao” của
Nguyễn Xuân Kính năm 1992, tác giả đã viết về cách thức nói vòng ừong ca
dao qua việc sử dụng biện pháp phú, tỉ và hứng. Thể hứng là một loại ca dao
được mở đầu bằng một hay vài câu tả ngoại cảnh để gợi hứng, sau đó tác giả
mới xúc cảm sinh tình, muốn bộc lộ nỗi lòng của mình. Thể phú là là phô bầy,
mô tả. Phô bầy, mô tả một cách trực tiếp về con người, về cảnh vật thiên
nhiên... Phú cũng là tự sự, kể chuyện về những sự việc, những biến cố xảy ra
trong cuộc đời. Thể tỉ là so sánh. Tác giả tập trung làm rõ hiệu quả của hai biện
pháp này trong ca dao. Vì ca dao trữ tình chủ yếu là bộc lộ tình cảm, tâm sự cá
nhân nên cảnh được mô tả, hay chuyện được kể lại (dù thật hay hư cấu) cũng

chỉ là cái cớ để tình cảm con người được phát triển, hoặc nương vào đó mà
biểu lộ ra được. Ca dao trữ t ình thường nói về đề tài tình cảm, thuộc về vấn đề
trừu tượng nên rất khó diễn tả. Bởi vậy, ca dao trữ tình rất ưa sử dụng các thể
này. Nó là một phương pháp nghệ thuật đặc sắc, giúp cho ý tứ diễn đạt thêm rõ
ràng linh động, mà tình cảm bộc lộ cũng có phần bóng bẩy tế nhị.
Nghi thức nói vòng không chỉ được thực hiện thông qua biện pháp tỉ và
hứng mà còn thông qua các công thức mang tính truyền thống. Năm 1997, bài
viết “Công thức truyền thống và đặc trưng của cẩu trúc ca dao, dân ca trữ tình ”


Bùi Mạnh Nhị tiếp tục khẳng định nền móng vững chắc của việc nghiên cứu
nghi thức nói vòng trong ca dao. Người Việt thích dùng các công thức truyền
thống để dẫn dắt tới ý định mà mình trinh bày. Đôi khi những công thức ấy khá
vòng vo song tự nó đã báo hiệu trước nội dung của bài ca dao. Từ các công
thức truyền thống của ca dao, ta hiểu được ý định, tâm tư mà nhân vật trữ tình
trình bày. Tác giả Đinh Gia Khánh vào năm 1996 cũng khẳng định: “Nhận xét
về đặc điểm của câu mở đầu trong thơ ca dân gian ” (Đại học Tổng hợp Hà Nội).

Bài viết làm rõ hơn tính công thức trong sử dụng câu mở đầu của các bài ca
dao. Câu mở đầu không bao giờ đi vào nội dung chính. Nó mang tính gợi mở,
dẫn dắt để rồi thường câu cuối bài, tâm tư sâu kín của nhân vật trữ tình mới
bộc lộ. Đấy chính là một biểu hiện cụ thể của lối nói vòng trong ca dao.
Nói vòng còn được thể hiện qua các sử dụng các biểu tượng nghệ thuật.
Bài viết “Những yểu tố trùng lặp trong cao dao trữ tình ” tác giả Đặng Văn Lung
(1968) đã đề cập đến những hình ảnh trùng lặp con cò, cây tre, trầng, nước... như
một cách gián tiếp nhấn mạnh cảm xúc của nhân vật trữ tình. Cảm xúc ấy
không được diễn tả trực tiếp mà ẩn ý, vòng vo qua việc lặp đi lặp lại các biểu
tượng. Ke tiếp ý tưởng từ bài viết đó, các tác giả đi sâu vào tìm hiểu biểu
tượng. Năm 1988, tác giả Bùi Công Hùng đã phân tích một số biểu tượng trong
ca dao: trăng, con đò, mặt trời, đôi mắt, con chim, lá trầu, sông núi, cỏ, thuyền,

đêm trong “ Biểu tượng thơ ca tác giả Hà Công Tài cũng chú ý đi sâu tìm hiểu
“Biểu tượng trăng trong thơ ca dân gian Năm 1998, Phạm Thu Yến viết chuyên

luận “Những thế giới nghệ thuật ca dao” một lần nữa nhấn mạnh hơn vai trò của
biểu tượng trong cách nói vòng của nhân dân lao động. Trong đó, ta thấy, tác
giả đã làm rõ khái niệm biểu tượng trong sự phân biệt biểu tượng và ẩn dụ,
phân loại biểu tượng theo tiêu chí đối tượng và tiêu chí cấu trúc, đặc điểm và ý
nghĩa của biểu tượng, sự hình thành và phát triển của biểu tượng. Năm 2001
đến 2005, trong các bài báo, luận văn tiến sỹ của tác giả Nguyễn Thị Ngân Hoa
“Biểu tượng chiếc áo trong đời sổng tinh thần người Việt qua thơ ca, và Biểu tượng
đôi giày trong văn hóa và ngôn ngữ thơ ca Việt Nam” và luận án tiến sĩ “Sự phát
triển ỷ nghĩa của hệ biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam ”... đã


nghiên cứu các biểu tượng này ở ca dao trong tính chỉnh thể, chú ý đến những
biến thể, những hình thái cũng như ý nghĩa của biểu tượng đặc biệt là mối quan
hệ giữa các biểu tượng làm nổi bật chiều sâu của đặc trưng văn hóa và cảm xúc
thẩm mỹ của biểu tượng. Luận án tiến sỹ “Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao
truyền thống” của tác giả Nguyễn Thu Ngọc Điệp 2002 đã khảo sát - thống kê

khá hoàn chỉnh về chi tiết các hệ thống biểu tượng ừong ca dao; gồm ba hệ
thống lớn ừong đó gồm nhiều tiểu hệ thống dựa trên tiêu chí đối tượng. Tác giả
cũng đã thành công khi đưa ra: khái niệm biểu tượng nghệ thuật ừong ca dao,
tìm hiểu nguồn gốc, phân loại miêu tả, cấu tạo và chức năng của biểu tượng
nghệ thuật trong ca dao. Nhìn chung, các tác giả đã có những phát hiện mới về
đặc điểm, vai trò của biểu tượng trong thơ ca dân gian tới nghi thức nói vòng
của nhân dân ta. Biểu tượng trong thơ ca dân gian càng phong phú càng thể
hiện rõ cách nói gián tiếp song đầy ý vị của người dân lao động. Từ đó, chúng
ta hiểu thêm về mỹ học dân tộc, về đặc điểm tư duy người Việt: ưa ngụ ý hơn
nói thẳng, ưa gợi hơn nói rõ ràng.

Trong cuốn “Thi pháp văn học dân gian ”, nhà nghiên cứu Lê Trường Phát
cũng đã tìm hiểu vấn đề ngôn từ nghệ thuật trong ca dao. Tác giả khẳng định,
cách nói trong ca dao là mang tính ước lệ, mang t ính tượng trung, đôi khi nó
chỉ có ừong tưởng tượng của nhân vật trữ tình. Nó thường vòng vo, không đi
thẳng vào ý chính cần nói song không mấy ai lại không hiểu. Cái hay của cách
nói trong ca dao chính là ở đây.
Từ những công tình nghiên cứu trên đây, chúng tôi có thể nhận diện rõ
hơn về nghi thức nói vòng tong ca dao truyền thống. Từ đó thấy được sự kế
thừa của việc thể hiện cách nói trong thơ ca hiện đại với ca dao truyền thống.
Tuy nhiên, qua những công trình giới thiệu ừên đây chúng tôi không thấy công
trình nghiên cứu riêng về nghi thức nói vòng trong ca dao. Phần lớn những
nghiên cứu về nghi thức nói vòng được viết chung trong phàn nghiên cứu về
văn hóa hoặc nghệ thuật của ca dao. Việc khảo sát nghi thức nói vòng trong ca
dao vẫn chưa ừở thành đề tài nghiên cứu trọn vẹn. Vì vậy, tong khóa luận này,


chúng tôi sẽ khảo sát nghi thức nói vòng trong ca dao một cách có hệ thống, cụ
thể để thấy được tầm quan trọng của nói vòng trong ca dao Việt Nam.
3. Muc đích, nhiêm vu.
7



3.1.





Mục đích

Tìm hiểu nghi thức nói vòng ừong ca dao để thấy được đặc trưng văn

hóa giao tiếp người Việt Nam. Đó là lối nói xa gần, ưa vòng vo, bóng gió. Từ
đó góp phần hữu ích vào việc giảng dạy ca dao ừong nhà trường nói chung.
3.2 Nhiêm vu




-

Tổng hợp các vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài

-

Khảo sát, thống kê và phân loại ngữ liệu

-

Phân tích một số mục đích của lối nói vòng ttong ca dao

4. Đổi tượng và phạm vỉ nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghi thức nói vòng trong ca dao Việt

Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đe phục vụ cho mục đích nghiên cứu, ngữ liệu được khảo sát ttong
cuốn:
Ca dao trữ tình Việt Nam, Phan Hách, NXB Hải Phòng, 2006.

Tục ngữ Ca dao Dân ca Việt Nam, Vũ Ngọc Phan, NXB Văn học 2013.
5. Phương pháp nghiền cứu
-

Phương pháp thống kê - phân loại.

-

Phương pháp phân tích - tổng hợp

-

Phương pháp miêu tả.

6. Đóng góp
6.1.

Đóng góp về lý luận.
Đề tài góp phần làm sáng tỏ cách thức nói vòng trong ca dao, từ đó làm

sáng rõ đặc trưng văn hóa giao tiếp của người Việt Nam
6.2.

Đóng góp về thực tiễn


Các kết quả nghiên cứu của đề tài có những đóng góp thiết thực góp
phần nâng cao hiệu quả của hoạt động giao tiếp nói chung.
Đặc biệt, các kết quả thống kê của đề tài góp phần hữu ích trong hoạt
động giảng dạy Ngữ vãn nói chung và ca dao nói riêng.

7. Bố eue
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo khóa luận
của chúng tôi có hai chương:
Chương 1 : Cơ sở lí luận
Chương 2: Các kiểu nói vòng trong ca dao Việt nam

NỘIDUNG CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÍ LUÂN
1.1.
1.1.1.

Khái quát
Khái niêm.
Nói vòng là một lối nói phổ biến trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc. Bản

chất của nó là một phép thế danh từ, hay thế đồng sở chỉ, song khác phép thế
thông thường ở chỗ, người ta có thể suy ra sở chỉ của cụm từ nói vòng, dựa vào
ý nghĩa của bản thân cụm từ đó, mà không cần dựa nhiều vào ngữ cảnh như
phép thế các danh ngữ đồng sở chỉ thông thường. Chính vì vậy mà R.martin
(1976) đã xếp lối nói vòng vào loại câu đồng nghĩa ngữ nghĩa học (parphrase
semantique)
Theo tác giả Hữu Đạt, nói vòng là kiểu nói mà người nói (hay người viết)
chú ý muốn tạo ra một phát ngôn nhằm hỏi hay thông báo hoặc trả lời một vấn
đề nào đó mà không muốn nói thẳng ra.
1.1.2.

Quá trình hình thành nghỉ thức nói vòng
Trước hết cần khẳng định rằng, nói vòng là một hiện tượng ngôn ngữ

thường xảy ra trong hoạt động giao tiếp hàng ngày, ở các chức năng như phong
cách khẩu ngữ, phong cách nghệ thuật... về mặt lịch sử, nói vòng là hiện tượng


xuất hiện khá muộn, khi ngôn ngữ đã phát triển lên đến một trình độ nhất định
thoát ra khỏi thời kì sơ khai, nói một cách khác đây là một hiện tượng ngôn
ngữ nảy sinh khi trình độ phát triển của tư duy đạt đến một trình độ cao. Hoạt
động tương tác giữa các thành viên trong xã hội, không chỉ dừng lại ở việc ừao
đổi thông tin thông thường mà đã chuyển sang một giai đoạn mói - giai đoạn


của giao tiếp văn hóa. Vì yậy đến giai đoạn này ngôn ngữ không chỉ làm chức
năng đơn thuần là gọi tên sự vật, hiện tượng nữa mà nó còn dùng để phản ánh
nhận thức lý tính của con người. Ngoài ra, nó còn có chức năng biểu đạt sự
tinh tế của hành vi giao tiếp .
Nói vòng là một hiện tượng phổ quát trong các ngôn ngữ và đã được quan
tâm tò lâu của giới nghiên cứu Ngữ văn ừên thế giới. Nhưng với tư cách là đối
tượng ngiên cứu của ngôn ngữ học, nói vòng trước hết được chú ý miêu tả
ttong phong cách học, về sau nó được bàn luận nhiều trong nghiên cứu ngữ
dụng học, trong lý thuyết hội thoại. Tuy nhiên hiện tượng nói vòng lại vô cùng
đa dạng và phong phú, nhưng các tác giả lại chưa có quan niệm thống nhất với
nhau, bởi thế việc phân tích để tìm hiểu một số các đặc trưng cơ bản của nói
vòng. Nó có ý nghĩa quan trọng đối vói việc nghiên cứu một ngôn ngữ cụ thể,
đặc biệt là việc hiểu mối quan hệ giữa văn bản và ngôn ngữ.
1.1.3.

Đặc trưng văn hóa cách thức nói vòng.
Đặc trưng văn hóa của cách thức nói vòng là dựa trên đặc điểm giao tiếp

của ngưòi Việt, với lối sống trọng tình cảm, ưa sự tế nhị và đặc biệt là lối giao
tiếp vòng vo bóng gió. Chính vì yậy lối nói vòng được tạo ra phù hợp với đặc
điểm, mục đích cũng như đặc trưng văn hóa giao tiếp của người Việt.
1.1.4.


Cơ sở tạo ra các kiểu nói vòng.
Muốn tạo ra các kiểu nói vòng, người ta phải giả định rằng, người nghe có

cùng với mình những tri thức về nền ngôn ngữ, văn hóa, phong tục. Nghĩa là
hai bên có thể cùng giải mã được các tín hiệu ngôn ngữ mà người nói thiết lập
trong một bối cảnh giao tiếp cụ thể. Điều này quy định, muốn nói vòng thành
công và có hiệu lực trong giao tiếp người nói cần phải hiểu rõ đối tượng của
mình .

Từ những điều trên có thể tìm hiểu một số đặc điểm của cách thức nói
vòng.
1.1.5.

Đặc điểm của cách thức nói vòng.

1.1.5.1.

Tính đồng chiếu

Xét đối thoại:


A: Hôm nay thứ mấy hả anh ?
B: Thứ bảy, (nhưng) anh lại mắc họp.
Sở dĩ đối thoại này được coi là đối thoại theo kiểu nói vòng là vì giữa hai
người đối thoại có một mối quan hệ đồng chiếu với thứ bảy. Chẳng hạn họ có
thói quen, cứ đến thứ bảy là B lại rủ A đi picnic. Lần này, không thấy B rủ, A
sốt ruột nhưng tế nhị không hỏi trực tiếp mình có đi chơi không mà nói vòng
thành một câu khác. Nếu B không có quan hệ đồng chiếu vói A thì câu trả lời

sẽ là hôm nay thứ bảy. Câu trả lời của B chính là kiểu nói vòng nhằm giải thích
cho sự tình không rủ A đi chơi.
vẫn cặp đối thoại trên, nếu A và B ra khỏi quan hệ đồng chiếu thì hiện
tượng nói vòng không còn tồn tại nữa. Lúc đó, hai phát ngôn này sẽ trở thành
cặp thoại hỏi đáp theo nghĩa trực tiếp, tức trong các phát ngôn của A và B chỉ
chứa các điều này mà không chứa cái điều khác.
Trong hoạt động giao tiếp, một số kiểu nói vòng lâm thòi nếu mang những
đặc trưng văn hóa tiêu biểu cho thời đại sẽ có sự chuyển hóa để chuyển thành
các mã hình tượng đó là những trường họp sáng tạo thơ ca hay văn học nói
chung. Tuy nhiên cũng có những kiểu nói vòng mặc dù đã được định hình và
trở thành một thứ mã văn hóa giao tiếp, nhưng do sự phát triển của tư duy nó
dần không được dùng nữa và trở thành một hiện tượng có tính lịch sử.
1.1.5.2 Tính lâm thòi Ngoài những kiểu nói vòng được định hình trong
truyền thống ngôn ngữ dân tộc, trong hoạt động giao tiếp cũng thường xuất
hiên những kiểu nói vòng do cá nhân những người tham thoại sáng tạo ra. Kiểu
nói vòng này chỉ tồn tại một cách lâm thòi và phụ thuộc vào văn cảnh, nghĩa là
ừong văn cảnh khác kiểu nói vòng này không còn ý nghĩa như cũ nữa.
1.1.5.3. Tính ổn định và bền vững Trong mọi ngôn ngữ, nói vòng là một hiện
tượng được định hình theo thời gian, tồn tại dưới dạng các mã ngôn ngữ mang
tính biểu tượng. Các mã
này ăn sâu vào tiềm thức dân tộc trở thành các yếu tố văn hóa mang tính truyền
thống. Nó được ổn định qua thời gian và củng cố trong tư duy của cộng đồng


ngôn ngữ. Đó là các đơn vị như thành ngữ, ca dao, các hình tượng văn học
mang tính biểu trưng được hình thành bởi ý thức văn hóa dân tộc.
Ví dụ :
Thuyền về có nhớ bển chăng Ben thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
(Ca dao)
Người Việt Nam có câu “Nói vậy mà không phải vậy” chính là muốn nhấn

mạnh đến ý thức tỉnh táo của người nghe khi phải gặp các hiện tượng nói vòng.
Nói một cách khác nói vòng là một hiện tượng đa nghĩa, trong đó cái nghĩa
chính của thông báo bao giờ cũng nằm dưới bề mặt cấu trúc của phát ngôn, đòi
hỏi người nghe phải có sự liên tưởng thông qua vốn hiểu biết về ngôn ngữ, văn
hóa, thói quen tư duy dân tộc.
Kiểu nói vòng này do được sử dụng nhiều làn nên nó có tính ổn định và
bền vững cao nó được củng cố trong ý thức dân tộc trở thành thứ di sản văn
hóa đặc biệt. Đó là các thành ngữ, quán ngữ, ca dao. Khi chuyển sang các ngôn
ngữ khác, người ta phải căn cứ vào nội dung của cái điều khác để dịch chứ
không dựa vào cấu trúc bề mặt từ nội dung của cái điều này.
1.1.6.

Phân biệt nói vòng vói uyển ngữ, nhã ngữ
Uyển ngữ là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, nó có ý nghĩa là nói cho

tốt đẹp. Trong tiếng Việt tùy theo phạm vi nghiên cứu mà thuật ngữ này còn

được gọi bằng tên khác như nói giảm, nói tránh, khinh ngữ hay nhã ngữ.
Uyển ngữ được các nhà nghiên cứu định nghĩa như là một sự thay thế một
từ ngữ không được ưa thích nhằm giữ được thể diện, tránh sự mất thể diện của
người nói hoặc người nghe thông qua việc làm chạm tự ái của họ, hoặc giữ thể
diện cho một người, hay phe thứ ba nào đó, biểu thị một tình huống, con người
dưới ánh sáng dễ chịu, hơn là dưới ánh sáng mạnh mẽ của thực tại, hoặc dưới
sự định nghĩa trực tiếp, thô sơ ban đầu hay để che dấu một sự thật khó chịu,
một xúc phạm làm giảm nhẹ việc vi phạm khuôn phép.
Từ đó ta có thể khái quát một cách chung nhất uyển ngữ là những từ ngữ
được cấu tạo lại, biểu đạt lại một ý nghĩa đã có một cách tế nhị và đảm bảo
nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp.



Trong nghiên cứu phong cách học, uyển ngữ, nhã ngữ là một hiện tượng
được quan tâm từ rất sớm, uyển ngữ nhã ngữ cũng có nét giống nói vòng là ở
chỗ thông tin chính không được nói trực tiếp thẳng tuột mà được diễn đạt qua
một hình ảnh hay một phát ngôn khác.
Tuy nhiên xét về bản chất thì chúng lại có sự khác nhau, uyển ngữ hay
nhã ngữ là kiểu nói nhằm thể hiện thái độ tế nhị của người nói vói lý do lịch
sự, còn nói vòng lại là khái niệm rộng hơn rất nhiêu bao gồm cả uyển ngữ và
nhã ngữ. Nói vòng không chỉ diễn đạt sắc thái tế nhị mà có khi còn biểu thị sự
bực bội, phê phán, hoặc với các đích khác như đắn đo, thăm dò, củng cố lập
luận. Đây là những mục đích giao tiếp hết sức phong phú của lối nói vòng.
Đó chính là những hiện tượng tương đồng, khác biệt giữa nói vòng với
uyển ngữ, nhã ngữ.
1.2.

Vài nét về văn hóa giao tiếp của người Việt Nam

1.2.1

Các đặc trưng giao tiếp cơ bản của người Việt
Theo Trần Ngọc Thêm trong cơ sở văn hóa Việt Nam thì trong giao tiếp

của người Việt có 6 đặc trưng cơ bản:
Đặc trưng thứ nhất xét về thái độ của người Việt Nam đối vói giao tiếp có
thể thấy được đặc điểm của người Việt Nam thích giao tiếp nhưng lại rụt rè.
Người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc vào nhau và luôn coi trọng
mối quan hệ của các thành viên trong cộng đồng. Đó là nguyên tắc dẫn đến đặc
trưng cơ bản trong giao tiếp của người Việt Nam. Đây cũng là tiêu chuẩn dẫn
đến việc đánh giá con người. Nhưng khi tiếp xúc vói lạ thì ngưòi Việt Nam lại
ttở nên rụt rè. Hai tính cách trái ngược nhau trong cùng một bản chất nhưng
không mâu thuẫn nhau, chỉ cùng sự thể hiện sự linh hoạt ttong giao tiếp của

người Việt Nam.
Đặc trưng thứ 2 đó là lấy tình cảm làm nguyên tắc ửng xử.
Nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với đặc trưng trọng tình đã dẫn đến
ngưòi Việt lấy tình cảm lấy sự yêu ghét làm nguyên tắc ứng xử.
Đặc trưng thứ 3 ừong đặc trưng cơ bản của giao tiếp đó là đối tượng giao
tiếp ưa tìm hiểu quan sát đánh giá.


Người Việt Nam thích tìm hiểu về tuổi tác, gia đình, nghề nghiệp, trình độ
học vấn... của đối tượng giao tiếp. Đặc tính này chẳng qua cũng chính là sản
phẩm của tính cộng đồng làng xã mà ra.
Do tính cộng đồng người Việt thấy mình tự có trách nhiệm quan tâm với
người khác nhưng mối quan tâm hay thể hiện sự quan tâm đúng mực thì phải
biết rõ hoàn cảnh. Ngoài ra, do các mối quan hệ xã hội người ta cần tìm hiểu để
có cách ứng xử cho thỏa đáng. Biết tính cách biết người để lựa chọn đối tượng
giao tiếp cho phù họp.
Một đặc trưng nữa trong giao tiếp cơ bản của người Việt đó là chủ thể
giao tiếp trọng danh dự. Danh dự được người Việt gắn với năng lực giao tiếp
lời nói ra để lại dấu vết, thành tiếng tăm, để lưu truyền đến tai nhiều người, tạo
nên tai tiếng. Vì thế, người Việt Nam rất trọng danh dự của cá nhân, cũng như
danh dự gia đỉnh, danh dự đất nước.
Đặc trưng thứ 5 trong giao tiếp cơ bản của người Việt đó là cách thức giao
tiếp ưa tế nhị, ý tứ trong sự hòa thuận.
Để giao tiếp tế nhị khiến ngưòi Việt có thói “vòng vo tam quốc ” không đi
thẳng trực tiếp vào vấn đề như người Phương Tây. Chính lối giao tiếp ưa tế nhị
này mà người Việt rất đắn đo, cân nhắc trong ứng xử, và rồi cũng chính sự đắn
đo cân nhắc này mà ngưòi Việt trở nên thiếu quyết đoán trong công việc. Đe
tránh nhược điểm này, và không muốn để mất lòng ai thì người Việt đã thay thế
bằng nụ cười.
Đặc trưng cuối cùng trong các đặc trưng giao tiếp cơ bản của người Việt

đó là nghi thức lời nói, hệ thống cách xưng hô và cách nói lịch sử rất phong
phú. Hệ thống xưng hô thứ nhất có tính thân mật hóa trong tình cảm. Thứ hai
có tính xã hội hóa, cộng đồng hóa cao người Việt xưng hô theo nguyên tắc
xưng hô khiêm tốn, thậm chí cách nói của người Việt cũng rất phong phú
không chung chung như Phương Tây.
Các đặc trưng nêu trên là những đặc trưng cơ bản trong giao tiếp của
ngưòi Việt Nam phù họp với cách giao tiếp trọng tình cảm ưa lối nói nhẹ
nhàng, bóng bẩy của người Việt.


1.2.2.

Các đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam.


o

s





o

«

Trước hết nghệ thuật ngôn từ Viêt Nam có tính biểu trưng cao. Tính biểu
trưng thể hiện ở xu thế khái quát hóa, ước lệ hóa với những cấu trúc cân đối hài
hòa.

Xu thế ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng con
số biểu trưng. Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt
với mọi người, dẫn đến xu hướng trong sự cân đối hài hòa trong ngôn từ - một
biểu hiện khác của tính biểu trưng.
Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt. Theo nguyên
lý cấu trúc loại hình tiếng Việt là loại hình ngôn ngữ đơn kết xong nó chứa
đựng khối lượng không nhỏ các từ song kết. cho nên thực chất trong ngôn từ
lời nói Việt cấu trúc song kết lại là chủ đạo. Ví dụ: “Già kén kẹn hom ”, “Tai bay
vạ gió

Tiếng Việt rất phát triển hình thức câu đối là một sản phẩm văn chương
đặc biệt vừa công phu tỉ mỉ lại vừa cô đọng ngắn gọn .
Đặc điểm thứ hai của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam là rất giàu tính chất
biểu cảm - sản phẩm tất yếu của nền văn học ttọng tình cảm.
về mặt từ ngữ chất biểu cảm thể hiện ở chỗ: bên cạnh yếu tố gốc mang
sắc thái nghĩa trung hòa, thường có rất nhiều biến thể vói những sắc thái nghĩa
biểu cảm, như các từ ngữ chỉ màu sắc. Chúng ít sử dụng từ mang sắc trung
hòa, nhưng lại sử dụng các từ có sắc thái biểu cảm rõ nét. Ví dụ : béo ú, trắng
xóa, xanh lè...v.v

về mặt ngữ Pháp tiếng Việt sử dụng rất nhiều các hư từ có sắc thái biểu
cảm: à, ư, nhỉ, nhé.v.v.
Cấu trúc iểc hóa mang sắc thái đánh giá cũng góp phàn quan trọng trong
việc tăng cường hình thành các phương tiện biểu cảm cho tiếng việt.
Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam còn có đặc điểm thứ ba là: tỉnh động và tính
linh hoạt.

Tính động, tính linh hoạt, trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi
ngữ pháp biến hình của các ngôn ngữ châu Âu là một thủ pháp chặt chẽ tới



mức máy móc thì ngữ pháp tiếng Việt tổ chức chủ yếu theo lối dùng các từ hỏi
để biểu hiện các ý nghĩa quan hệ ngữ pháp khiến người sử dụng được quyền
linh hoạt một cách tối đa .
Ngữ pháp của các ngôn ngữ phương Tây là ngữ pháp hình thức còn ngữ
pháp Việt Nam là ngữ pháp ngữ nghĩa. Tính động, linh hoạt của ngôn từ Việt
Nam còn bộc lộ ở chỗ lòi nói của người Việt Nam thích dùng cấu trúc động từ
trong một câu có bao nhiêu hành động thì có bấy nhiêu động từ. Trong khi đó
phương Tây có xu hướng ngược lại thích dùng danh từ.
Tính linh hoạt năng động còn là nguyên nhân người Việt thích dùng cấu
trúc chủ động mà ít dùng cấu trúc bị động.
Như vậy có thể nói rằng trong giao tiếp của người Việt Nam có thiên
hướng nói đến những hành động tĩnh (tâm lý, tình cảm) dẫn đến nghệ thuật thơ
ca và phương pháp biểu trưng bằng hình thức động (cấu trúc động từ, ngữ pháp
ngữ nghĩa linh hoạt) trong khi đó người phương Tây nói riêng lại thiên về nói
nội dung động bằng hình thức tĩnh.

Đó chính là những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ trong giao
tiếp của người Việt, trong lối sống, cũng như văn hóa.
1.2.3.

Một vài nét về ca dao Việt Nam.
Làng quê Việt Nam ở đâu cũng vậy, ẩn chứa trong nó bao điều gần gũi

và thân thương. Mỗi một miền quê đều có những câu hò, điệu hát rất chung mà
lại rất riêng, mang âm hưởng của từng vùng, miền. Tất cả cùng hòa vào câu
thơ, giọng hát của những làn điệu, tạo thành dòng ca dao dân ca Việt Nam rất
đa dạng và phong phú.
Nghiên cứu về ca dao dân ca không chỉ cho thấy những nét đẹp văn hóa
của người Việt mà còn làm nổi bật lên tính thần lạc quan, yêu đời, yêu ngưòi

đầy tình cảm thiết tha. Ca dao dân ca là kết tinh thuần tuý của tinh thần dân
tộc, là nét đẹp trong văn hóa dân gian Việt Nam. Với cội nguồn lịch sử và chữ
viết rất phong phú đa dạng nên ca dao và dân ca có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Các công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian, cũng như các nhà khoa học có
liên quan, đã khẳng định những dấu tích của ca dao cách chúng ta khoảng trên


dưới 2.500 năm. Đặng Văn Lung, phát biểu: ‘Tái cả các dân tộc trên thế giới
suốt mấy nghìn năm chỗ nào cũng có dân ca và ca dao. Vì thế nói về ca dao dân ca
của một dân tộc hay ca dao dân ca nói chung là vấn đề rất lớn. Nó tồn tại rất lâu, từ
hàng ngàn năm trước và như các nhà khoa học nghiên cứu trước đây, các học giả đã
nói ca dao ra đời khi trong lòng mình có những điều muốn thể hiện ra, muốn nói lên.
Những điều đó được gọi là ca dao. "

Câu nói, làn điệu, giọng hát là những đòi hỏi bức thiết nảy sinh trong đời
sống xã hội, qua thời gian, những câu nói hay, những làn điệu hấp dẫn đã được
nhân dân sưu tập và gìn giữ. Cùng xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của đời sống
xã hội và trí tuệ của nhân dân đã đúc kết nên. Qua lời ca, câu hát, ca dao và dân
ca Việt Nam là những câu nói đúc kết những kinh nghiệm sống, những quan
niệm về nhân cách, nhân đức ở mỗi con người. Càng đi sâu vào tìm hiểu ca dao
dân ca, chúng ta sẽ thấy được những nét tài hoa, óc sáng tạo đầy tinh thần thẩm
mỹ. Tuy nhiên ở mỗi loại hình lại có những đặc điểm riêng biệt
Ca dao dân ca là loại hình văn nghệ truyền miệng, là một hình thức văn
hóa dân gian đã có từ rất lâu. Nó có thể là một câu nói triết lý bao hàm một nội
dung giáo dục của ai đó. Trải qua thời gian, mọi người thấy đúng và nghe theo,
thậm chí họ có thể thêm vào hoặc bớt đi để đúng với từng hoàn cảnh cụ thể. Vì
vậy, có thể nói ca dao dân ca là của quàn chúng nhân dân sáng tác nên và họ có
thể sáng tác trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong lễ hội, trong lao động sản xuất.
Chất trí tuệ, giàu tư tưởng tình cảm trong ca dao dân ca là những nguồn
nhựa sống bổ sung cho văn hóa dân gian thêm phong phú và đậm đà bản sắc.

Tuy cũng là câu nói, giọng điệu cùng với một cái nôi xuất phát như nhau
nhưng không phải câu ca dao nào cũng có thể trở thành dân ca và ngược lại, ở
mỗi thể loại lại có thêm những ưu thế bổ sung ứng dụng trong từng hoàn cảnh
của thực tế đời sống. Theo cách hiểu thông thường, ca dao là lời của các bài
dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy hoặc ngược lại là những câu
thơ có thể bẻ thành những làn điệu dân ca. Như vậy giữa ca dao và dân ca
không có ranh giói rõ ràng. Ca dao là những câu nói phổ thông trong dân gian.
Ca dao người Việt thường được cấu tạo bằng hai câu lục bát, một thể thơ rất


âm điệu tiếng Việt. Khi có nhiều câu kết thành một đoạn ngắn thì gọi là dân ca,
vì vậy ranh giới giữa ca dao và dân ca là một sợi chỉ rất mỏng manh. Ca dao là
lối văn truyền khẩu, trước tiên là do một người YÌ xúc cảm mà phát hiện ra, rồi
vì lời hay, ý đẹp mà lan truyền trong dân gian và truyền mãi từ đời này qua đời
khác. Tuy ca dao xuất phát trong giới bình dân nhưng nhiều câu rất nên thơ và
ý nghĩa đậm đà, dễ xúc cảm người nghe nên được nhiều người để tâm sưu tầm.
Chính vì khả năng dễ nói, dễ tiếp thu, ca dao đã đi vào đời sống của nhân
dân một cách rất tự nhiên và trong mọi hoàn cảnh.
Trong mỗi chúng ta ai cũng có một miền quê, quê hương là cánh đồng lúa
thơm ngát, luỹ tre xanh trải dài dọc bờ đê, là những hình ảnh thân thương nhất
đối với cuộc sống mỗi con người. Hai tiếng quê hương nghe gần gũi và thân
thương, đó là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi đã nuôi dưỡng ta trưởng thành. Qua ca
dao dân ca những hình ảnh của miền quê như ừở nên gàn gũi hơn, lung lỉnh
hơn nhờ những ca tò đày hình ảnh. Khi nói đến dân ca, chúng ta không thể
quên những lời ru con thiết tha trìu mến, qua tiếng ầu ơ mẹ ru con, những hình
ảnh của miền quê yêu dấu của biển rộng non cao, của gió Lào cát cháy, những
người mẹ năm tháng tảo tần một nắng hai sương nuôi dậy con khôn lớn.
Những lời hát ru của mẹ đã hòa đồng với tâm hồn trẻ thơ, vừa đằm thắm nhẹ
nhàng nhưng cũng không kém phần trầm tư sâu lắng. Trong câu hát của mẹ có
ánh ừăng soi rọi như đưa con vào giấc ngủ êm đềm, có áng mây trôi bồng bềnh

trên đỉnh núi, có dòng sông bên lở bên bồi, có mặt biển long lanh ánh bạc và
những con thuyền thấp thoáng ngoài khơi xa. Nghe lòi ru của mẹ, trẻ thơ như
được tiếp thêm nguồn dự trữ lớn lao về lòng yêu quê hương, đất nước, chắp
cánh cho tuổi thơ của con thêm vững bước và sáng ngời niềm tin.
Lấy nguồn cảm hứng từ thực tế cuộc sống, ca dao dân ca được sáng tạo
nên, đó là lời ăn, tiếng nói của ông cha ta tích lũy từ ngàn đời. Đó là những câu
nói đúc kết từ những kinh nghiệm sản xuất răn dậy con cháu, bao hàm những
nội dung mang ý nghĩa triết lý dạy bảo rất sâu sa. Đó là những câu hát được
truyền tải bằng âm thanh giọng điệu ngôn ngữ với nội dung nghệ thuật phong


phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Bởi vậy, ca dao dân ca là sản phẩm văn
hoá tinh thần và cần thiết đối với mỗi dân tộc, con người.
Từ thực tế cuộc sống những câu hát dân gian, những lối nói chân thành
chất phác nhưng cũng không kém phần triết lý sâu sắc, thực tế là những cái
hay, cái tinh tuý của dân tộc được kết tinh từ cuộc sống hàng ngày. Trong ứng
xử giao tiếp ông cha ta đã có vô vàn những câu nói đúc kết về những lối nói,
những hành vi ứng xử khéo léo, lịch sự và duyên dáng.
Mai Ngọc Chừ, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia phát biểu:
“Trước hết tôi xin nói về lời chào, người Việt Nam rất coi trọng lời chào.

Người ta thường nói: “Tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Trong ca dao thì tiếng
chào không chỉ nói lên phép lịch sự của con người Việt Nam mà tiếng chào còn
là cái cớ để những đôi trai gái làm quen với nhau, đó là những lời chào bắt
duyên trong văn học dân gian. ”
Ví dụ:
Gặp nhau ăn một miếng trầu Mai ra đường cái gặp nhau
ta chào Câu thơ, giọng hát với cái đích là phục yụ nhân sinh. Con ngưòi luôn có

hoài bão vươn tới cái hay, cái đẹp, cái thanh tao của cuộc sống là chân, thiện,

mỹ, cho nên ca dao dân ca không chỉ là những bài hát ngắn dài, vần, vè về câu
chữ, nhịp điệu trầm bổng du dương để quên nguôi cảnh buồn tẻ, trống trải mà
thực tế nội dung ý nghĩa còn mang tính nhân văn sâu sắc.
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ, kính cha Cho
tròn chữ hiểu mới là đạo con.
Bên cạnh ý nghĩa là công nuôi dưỡng, sinh thành như trời bể của cha mẹ,
câu ca dao này còn được hiểu rộng ra với những nét nghĩa rất phong phú.
Ca dao dân ca là sản phẩm được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân, nội
dung mang tính chất chung cũng lại rất riêng, gàn gũi với tập quán sinh hoạt
của con người. Ngay từ thủa lọt lòng, ca dao dân ca đã giành cho trẻ những bài
hát đơn sơ, mộc mạc nhưng du dương, ngọt ngào để đưa ừẻ vào giấc ngủ êm
đềm. Chuyển sang tuổi ấu thơ, các em lại được cất lên nhưng bài hát đồng dao


để vui chơi giải trí, luyện cho trẻ quen với tiếng nói, tiếp cận vói thiên nhiên,
tìm hiểu những vấn đề xã hội nảy sinh trong đời sống hàng ngày. Khi trưởng
thành, trai gái lại tụ họp nhau lại thi hát đố, hát giao duyên và các bài hát vui
chơi trong đời sống. Đó là những tập tục rất phong phú, làm nảy nở thêm tinh
thần lạc quan, yêu đời, yêu người thiết tha.
Với nội dung truyền tải rất đa dạng và phong phú đời sống xã hội cho nên
ở mỗi chủ đề, mỗi một lĩnh vực chúng ta có thể thấy vô vàn những câu nói, lối
nói rất mộc mạc, dễ hiểu. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã nhận xét rằng: Ca dao
Việt Nam bắt nguồn từ tinh thần lạc quan yêu đời, ham đấu tranh, vui vẻ, tế
nhị, có duyên nhưng cũng không kém phần dồi dào tình cảm, mạnh mẽ sức
lực, nảy nở tự do để đón ánh sáng trời hòa hợp với cỏ cây, hoa lá. Nó như một
nguồn nhựa sống để nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, chắp cánh cho thế hệ tương
lai những hoài bão lớn lao về cuộc sống, thiên nhiên và con người. Như vậy có
thể nói ca dao và dân ca Việt Nam là kho tàng văn hóa, tri thức dân gian, phản
ánh những phong tục, tạp quán, tâm tư nguyện vọng của con người Việt Nam,

tạo thành một hệ thống hình ảnh thiên nhiên, con người và lao động cùng hoà
quyện vào nhau, tạo dựng nên cách nghĩ, cách cảm về cuộc sống, thiên nhiên
và con người rất Việt Nam.
Tiểu kết chương 1:
Trong chương này chứng tôi đã trình bày một số vẫn đề lí thuyết làm cơ
sở cho đề tài đó là những vấn đề khái niệm về nghi thức nói vòng, quá trình
hình thành nghi thức nói vòng, đặc trưng văn hóa cách thức nói vòng, phân biệt
nói vòng với uyển ngữ, nhã ngữ, vài nét về văn hóa giao tiếp của người Việt
Nam.
CHƯƠNG 2: CÁC KIỂU NÓI VÒNG TRONG CA DAO VIỆT NAM.
2.1.

Kết quả thống kê
Đe tài đã khảo sát 978 bài ca dao, trong đó có 251 bài sử dụng nghi thức

nói vòng. Dựa vào mục đích giao tiếp chúng tôi phân loại nghi thức nói vòng
thành các kiểu nhỏ như sau:


Bảng thống kê số lượng ca dao sử dụng nghi thúc nói vòng với các muc
đích khác nhau.
STT

Tiêu chí

Tông sô

(%)

1


Nói vòng nhăm mục đích tỏ tình

61

24,3%

2

Nói vòng nhăm mục đích trách móc

55

21,9%

3

Nói vòng nhăm mục đích than thân

48

19.1 %

4

Nói vòng nhăm mục đích chê bai

39

15.6.%


5

Nói vòng nhăm mục đích khen ngợi

28

11.2%

20

7.9%

6

Nói vòng nhăm mục đích khác (từ chôi, từ
phủ định đến khẳng định...)

2.2.

Miêu tả nghi thức nói vòng trong ca dao Việt Nam.

2.2.1.

Nói vòng nhằm mục đích tỏ tình.
Ca dao Việt Nam có nhiều bài ca dao thể hiện tình yêu lứa đôi, tình cả ừai

gái, đó là những tiếng nói, tiếng hát mượt mà, nhuần nhị, được vun trồng từ
mảnh đất của người lao động gian lao vất vả, nhưng lãng mạn, thủy chung và
giàu tình nghĩa. Những chàng trai cô gái, tỏ tình với nhau bằng những bài ca

dao vừa ý nhị, vừa dạt dào tình cảm.
Những bài ca dao tỏ tình đầy ý tứ, với cách nói vòng đầy ẩn ý, trong
khuôn phép của xã hội xưa, và mang lại cho người nghe nhiều cung bậc cảm

xúc khác nhau, bài ca dao sau đây là một ví dụ:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá đan sàng nên chăng
Đan sàng thiếp cũng xỉn vâng Tre non đủ lá nên chăng hỡi chàng ?
Mặc dù khi hát đối đáp thường có nhiều người nhưng chàng trai vẫn
tưởng tượng ra khung cảnh chỉ có hai ngưòi. Vậy là anh đã chọn đêm trăng
thanh để ngỏ lời cùng cô gái. Quả thật, câu hỏi của chàng trai mang đầy ẩn ý

cũng như tình cảm của chàng trai dành cho cô gái. Ở đây cũng là lối giao
duyên mượn hình ảnh của những trái cây, cành lá thân quen của làng quê nông
thôn Việt Nam như tre để làm danh từ xưng hô. Điều đó thể hiện Yẻ đẹp mộc


mạc và thi vị của nhân dân ta hay chính sự mộc mạc trong tình yêu lứa đôi của
họ.
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ?.
Tình yêu gắn liền vói những hình ảnh thanh bình của đêm trăng thanh.
Trăng sáng, gió mát, khung cảnh êm đềm đầy thơ mộng của làng quê, thời gian
nghệ thuật đêm. Không gian nghệ thuật Trăng thanh gợi cho ta nhiều thơ mộng,
Đó là nơi tình yêu mang lại cho chàng trai và cô gái những cung bậc cảm xúc
riêng. Đêm trăng thanh rất đẹp, rất ma mị ấy như minh chứng cho tình cảm của
chàng trai. Chàng đã sử dụng nghi thức nói vòng đi từ gián tiếp đến trực tiếp,
mượn hình ảnh tre non đủ lá, đan sàng thực chất là để nói về chuyện tình cảm
của mình, chàng trai dùng những hình ảnh đó để ướm hỏi cô gái. Trước những
khó khăn và vất vả của cuộc sống thì cảnh đẹp của đêm ừăng thanh luôn là nơi
đôi lứa hò hẹn nhau.
Hình ảnh cây tre mang một vẻ đẹp về lòng trung kiên trong truyền thống

bất khuất của ông cha ta, trong đấu tranh, thế mà ở đây nó lại xuất hiện trong
tình yêu đôi lứa. Tre đi liền với Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ
đồng lúa chín (Thép Mới). Nhưng ở đây lại là tre non trong chính tình yêu của

đôi nam nữ. Hình ảnh tre non với câu hỏi:
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ?.
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ? là câu hỏi được thể hiện bằng hai hình

ảnh ẩn dụ Tre non đủ lá nói về vẻ đẹp ttẻ trung, xinh tươi của cô gái đang đối
diện tâm tình. Ẩn dụ thứ hai đan sàng nên chăng ? là sự ướm duyên, tỏ tình kín
đáo.
Chữ thanh bắt vần vói chữ anh, chữ nàng bắt vần với chữ sàng đã làm cho
nhạc điệu câu thơ nhẹ nhàng, êm ái, đọc lên nghe rất thú vị. Thiếu nữ lần đầu
nghe được lời tỏ tình ý nhị ấy sao mà chẳng thấy vui sướng.
Cách tỏ tình ý tứ tế nhị bằng lối nói vòng, vừa bóng bẩy, vừa biểu cảm YÌ
đó là ngôn ngữ của con tim, của tâm hồn mà không hề thô lỗ, sống sượng như
anh chàng thợ cày này:
Gặp đây anh nẳm cổ tay Anh hỏi câu này có lấy anh không ?


Cho dù có thân mật đến đâu nhưng cái cử chỉ đường đột nẳm cổ tay và hỏi
một câu sỗ sàng có lấy anh không thì thật vô duyên.
Bằng lối nói vòng, đầy ẩn ý, ta thấy được chàng trai trong cuộc là một
ngưòi phong nhã, lịch sự, tế nhị. Câu hỏi của chàng trai thì mặn mà đầy ẩn ý.
Còn câu trả lời của cô gái vừa thông minh sắc sảo, lại vừa có duyên. Một nửa
câu xác nhận và một nửa câu hỏi lại:
Đan sàng thiếp cũng xin vâng Tre non đủ lá non chăng hỡi chàng ?
Cô gái nhắc lại hai hình ảnh ẩn dụ đan sàng và tre non đủ lá có ngữ điệu
nhẹ nhàng, lễ phép, biểu lộ sự hài lòng, đồng ý, chấp nhận, lời tỏ tình của
chàng trai, vừa thể hiện sự dịu dàng của cô gái cùng tình cảm cô dành cho

chàng trai. Đây là lối đáp vừa kín đáo vừa tế nhị, nhưng không kém phần mãnh
liệt của cô gái trong tình yêu của mình.
Bài ca giao duyên trên có lời đẹp, hình đẹp, dạt dào chất phong tình. Một
phong cảnh tỏ tình tong nhã, bằng nghi thức nói vòng mà thể hiện được sự tế
nhị, duyên dáng xứng đôi hỏi tế nhị mà ttả lời cũng tế nhị nhưng vẫn thể hiện
rõ tình cảm cũng như ẩn ý mà chàng trai, cũng như cô gái thể hiện. Nghệ thuật
sử dụng ẩn dụ với bóng trăng thanh thơ mộng đã làm nổi bật trong tâm hồn trai
gái làng quê.
Trong ca dao, hiệu quả, mục đích của nghi thức nói vòng được khai thác
triệt để... đặc biệt là nghệ thuật ẩn dụ đặc sắc được sử dụng ttong bài ca dao.
Bằng những hình ảnh tre non đủ lá, đan sàng để gợi mở, tỏ tình, và để rồi cô gái
chấp nhận lòi tỏ tình của chàng ừai cũng đày ý tứ, tế nhị mà dịu dàng. Từ đó ta
có thể thấy rõ mục đích của nghi thức nói vòng trong ca dao Việt Nam.
Nói vòng được sử dụng rất nhiều trong các bài ca dao tỏ tình, đôi lứa.
Không chỉ có bài ca dao trên mà bài ca dao sau mục đích của nói vòng cũng
được thể hiện rất rõ, nhằm thể hiện ý tứ tỏ tình của chàng trai với cô gái một
cách đầy ẩn ý, trang nhã. Ví dụ như bài ca dao dưới đây :
Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng có lối ai vào hay chưa ?
Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào ?


×