Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

luận văn đặc điểm lâm sàng trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.08 KB, 100 trang )

Last saved by Dr Hanh

- -Created by 1Dr Hanh

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm ngày nay đang chiếm một tỷ lệ cao trong cơ cấu bệnh lý tâm
thần cũng như trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở cộng đồng. Theo Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO) tới năm 2020, trầm cảm là bệnh thường gặp xếp hàng
thứ hai sau bệnh lý tim mạch và sẽ trở thành gánh nặng bệnh tật và nguyên
nhân gây tử vong [47]. Trên lâm sàng, trầm cảm biểu hiện rất đa dạng và
phong phú bằng nhiều triệu chứng kết hợp, có trong rối loạn cảm xúc là chủ
yếu và ở các rối loạn tâm thần khác, trong đó trầm cảm trong rối loạn cảm xúc
lưỡng cực chiếm một tỷ lệ rất đáng kể.
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực (RLCXLC) thường gặp trong bệnh lý rối
loạn cảm xúc với những giai đoạn lặp đi lặp lại của hưng cảm và trầm cảm.
Karno và cộng sự (1987) nhận thấy ở Los Angeles, tỷ lệ RLCXLC là 1%
trong khi đó tỷ lệ của trầm cảm đơn cực là 6%. Năm 1994, Kessler và cộng sự
thấy tỷ lệ RLCXLC tại 48 bang ở Mỹ là 1,6%. Năm 1996, Weissman và cộng
sự đã tiến hành nghiên cứu cắt ngang ở cộng đồng (38000 người) cho thấy tỷ
lệ mắc trong đời của trầm cảm thay đổi theo từng nước từ 1,5% (Đài Loan)
đến 19% (Beirut), còn tỷ lệ mắc trong đời của RLCXLC từ 0,3% (Đài Loan)
đến 1,5% (New Zealand) [99]. Theo nghiên cứu mới nhất của Viện Sức khỏe
Tâm thần Quốc gia Mỹ có khoảng 5,7 triệu người (2,6% dân số từ tuổi 18 trở
lên) mắc RLCXLC [96]. Tại Viện Sức khỏe Tâm thần Việt Nam năm 2001 có
khoảng 8,7% số bệnh nhân điều trị được chẩn đoán là RLCXLC [16].
Bệnh cảnh của RLCXLC rất phong phú, đa dạng. Cơn đầu tiên của
RLCXLC thường là trầm cảm (khoảng 60%) [84]. RLCXLC có khuynh
hướng tái phát, thời kỳ thuyên giảm ngắn, người bệnh gặp nhiều khó khăn
trong học tập, lao động và chất lượng cuộc sống bị giảm sút sau mỗi giai đoạn



Last saved by Dr Hanh

- -Created by 2Dr Hanh

rối loạn cảm xúc tái phát, đặc biệt là sau pha trầm cảm. Trầm cảm trong
RLCXLC có nguy cơ tự sát cao (khoảng 11% ở Mỹ) và thúc đẩy tình trạng
lạm dụng rượu và ma túy. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh
nhân bị chẩn đoán nhầm là khá cao (hơn 60% là trầm cảm đơn cực) và thời
gian trung bình từ khi khám bệnh lần đầu tiên đến khi được chẩn đoán xác
định RLCXLC thường là trên 10 năm [54]. Điều đó đã ảnh hưởng đến quá
trình điều trị cũng như chất lượng cuộc sống của người bệnh. Như vậy, trầm
cảm trong RLCXLC đã trở thành vấn đề lớn ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng
đồng và việc nhận diện các biểu hiện lâm sàng của trầm cảm trong RLCXLC
có ý nghĩa thực hành to lớn. Hiện nay ở nước ta đã có nhiều nghiên cứu về rối
loạn trầm cảm nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào sâu về trầm cảm
trong RLCXLC. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài "Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực" nhằm hiểu biết rõ
hơn về trầm cảm trong RLCXLC, đặc biệt là ngay từ khi có các triệu chứng
báo hiệu sớm, cơn trầm cảm đầu tiên. Khi đó sẽ có những biện pháp chăm sóc
và điều trị thích hợp, hiệu quả nhằm giảm bớt những thiệt thòi cho người
bệnh, gia đình và xã hội.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là:
Mô tả đặc điểm lâm sàng trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực.


Last saved by Dr Hanh

- -Created by 3Dr Hanh

Chương 1

TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm RLCXLC và rối loạn trầm cảm (RLTC)
RLCXLC là rối loạn cảm xúc được đặc trưng bằng sự lặp đi lặp lại các
giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ xen kẽ với các giai đoạn trầm cảm
điển hình trong quá trình phát triển của bệnh, người bệnh có thể hồi phục
hoàn toàn giữa các giai đoạn bệnh [4].
Trầm cảm là một hội chứng bệnh lý của rối loạn cảm xúc được đặc
trưng bởi khí sắc trầm, mất quan tâm hay thích thú, giảm năng lượng dẫn đến
dễ mệt mỏi và giảm hoạt động. Phổ biến là bệnh nhân mệt mỏi rõ rệt chỉ sau
một sự cố gắng nhỏ và biểu hiện này tồn tại trong một khoảng thời gian kéo
dài ít nhất 2 tuần. Những biểu hiện này được coi là những triệu chứng đặc
trưng có ý nghĩa lâm sàng đặc biệt, và thường gặp ở bất kỳ mức độ nào của
một giai đoạn trầm cảm. Những triệu chứng phổ biến khác là: Giảm sút sự
tập trung và sự chú ý, giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin, ý tưởng bị tội và
không xứng đáng, nhìn vào tương lai ảm đạm và bi quan, ý tưởng và hành vi
tự hủy hoại hoặc tự sát, rối loạn giấc ngủ, ăn ít ngon miệng. Ngoài ra còn có
các triệu chứng cơ thể [10].
Giai đoạn hưng cảm
Hưng cảm nhẹ
Giai
đoạn
hỗn hợp

Khí sắc bình thường

Giai đoạn trầm cảm

Các giai đoạn khí sắc



Last saved by Dr Hanh

- -Created by 4Dr Hanh

1.2. Các quan niệm và phân loại
Bệnh loạn thần hưng trầm cảm được thừa nhận từ thời Hyppocrates,
những bệnh nhân được mô tả là “hưng cảm” và “sầu muộn”. Năm 1899, Emil
Kraepelin đã định nghĩa rối loạn hưng - trầm cảm và nhận thấy ở những bệnh
nhân này có khuynh hướng tái phát, tiên lượng tốt và không có chứng mất trí
như ở bệnh tâm thần phân liệt. Đến năm 1962, Leonhard và cộng sự đề xuất
phân loại rối loạn cảm xúc thành 2 thể: rối loạn cảm xúc đơn cực
(Monopolar) và rối loạn cảm xúc lưỡng cực (Bipolar) [63]. Các nghiên cứu
độc lập của Angst, Perris, Winokur (1966) đã phân biệt 2 thể đơn cực và lưỡng
cực có sự khác biệt về: yếu tố nguy cơ, bệnh căn, các đặc trưng sinh lý bệnh, các
đặc trưng về lâm sàng, sự khác biệt về điều trị và phòng tái phát [94].
Hiện nay có hai hệ thống chẩn đoán chủ yếu định rõ RLCXLC đó là:
Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD - 10) của Tổ chức Y tế Thế giới năm
1992 và Hướng dẫn Chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần của Hiệp
hội Tâm thần học Mỹ năm 1994 (DSM - IV). Hai hệ thống này dùng hầu hết
các tiêu chuẩn chẩn đoán tương tự như nhau [10], [46].
1.2.1. Theo phân loại của ICD – 10 (1992)
Triệu chứng của rối loạn cảm xúc lưỡng cực gần giống như “loạn thần
hưng trầm cảm”. Các giai đoạn hưng cảm và rối loạn trầm cảm thường xảy ra
sau các stress. Tuy nhiên stress không nhất thiết phải có để chẩn đoán. Rối
loạn hưng cảm xen kẽ rối loạn trầm cảm có thể tuần tự hoặc có vài pha rối
loạn hưng cảm mới có một pha rối loạn trầm cảm hoặc ngược lại. Giai đoạn
rối loạn hưng cảm thường bắt đầu đột ngột, kéo dài từ 2 tuần đến 5 tháng.
Giai đoạn rối loạn trầm cảm có khuynh hướng kéo dài hơn, thời gian trung
bình khoảng 6 tháng, hiếm khi kéo dài đến 1 năm [5], [13], [10]. Tần số các



Last saved by Dr Hanh

- -Created by 5Dr Hanh

giai đoạn bệnh với sự thuyên giảm rất đa dạng, nhưng thời gian thuyên giảm
có khuynh hướng ngày càng ngắn hơn.
Thể bệnh:
- F31.0

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn hưng cảm nhẹ.

+ Giai đoạn hiện nay phải có đầy đủ các tiêu chuẩn cho hưng cảm nhẹ
(F30.0).
+ Phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc khác (hưng cảm nhẹ,
hưng cảm, trầm cảm hoặc hỗn hợp) trước đây.
- F31.1 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn hưng cảm không có
triệu chứng loạn thần.
+ Hiện tại phải có đầy đủ tiêu chuẩn của hưng cảm không có các triệu
chứng loạn thần (F30.1).
+ Ít nhất có giai đoạn rối loạn cảm xúc khác (hưng cảm nhẹ, hưng cảm,
trầm cảm hoặc hỗn hợp) trong quá khứ.
- F31.2 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn hưng cảm có triệu
chứng loạn thần.
+ Giai đoạn hiện tại phải có đầy đủ các tiêu chuẩn của hưng cảm có các
triệu chứng loạn thần (F30.2).
+ Phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc khác (hưng cảm nhẹ,
hưng cảm, trầm cảm hoặc hỗn hợp) trong quá khứ.
- F31.3 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn trầm cảm nhẹ hoặc
vừa (không có triệu chứng cơ thể và có triệu chứng cơ thể).

+ Giai đoạn hiện tại phải có đầy đủ các tiêu chuẩn cho một giai đoạn
trầm cảm nhẹ hoặc vừa (F32; F32.1).


Last saved by Dr Hanh

- -Created by 6Dr Hanh

+ Phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc hưng cảm nhẹ, hưng
cảm hoặc hỗn hợp trong quá khứ.
- F31.4 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng không
có các triệu chứng loạn thần.
+ Giai đoạn hiện tại phải có đầy đủ các tiêu chuẩn của của một giai đoạn
trầm cảm nặng không có các triệu chứng loạn thần (F32.2).
+ Phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc hưng cảm nhẹ, hưng
cảm hoặc hỗn hợp trong thời gian trước đây.
- F31.5 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng có triệu
chứng loạn thần.
+ Giai đoạn hiện tại phải có đầy đủ các tiêu chuẩn cho một giai đoạn
trầm cảm nặng có các triệu chứng loạn thần (F32.3).
+ Phải có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc hưng cảm nhẹ, hưng
cảm hoặc hỗn hợp trong quá khứ.
- F31.6 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn hỗn hợp.
+ Hiện tại bệnh nhân có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc hưng
cảm, hưng cảm nhẹ hoặc hỗn hợp trong quá khứ.
+ Hiện tại biểu lộ hoặc pha trộn hoặc thay đổi nhanh chóng các triệu
chứng hưng cảm, hưng cảm nhẹ và trầm cảm.
+ Chỉ làm chẩn đoán này nếu cả hai nhóm triệu chứng đều nổi bật trong
phần lớn giai đoạn hiện tại của bệnh và nếu giai đoạn này kéo dài ít nhất 2 tuần.
- F31.7 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn thuyên giảm.

+ Bệnh nhân có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc hưng cảm, hưng
cảm nhẹ hoặc hỗn hợp trong quá khứ.


Last saved by Dr Hanh

- -Created by 7Dr Hanh

+ Thêm vào đó ít nhất một giai đoạn cảm xúc khác: Hưng cảm, trầm cảm
hoặc hỗn hợp nhưng hiện nay bệnh nhân không có một rối loạn cảm xúc nào
đáng kể và không có như vậy trong nhiều tháng.
- F31.8 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực khác.
Bao gồm: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực II.
Các giai đoạn hưng cảm tái phát.
- F31.9 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực không biệt định.
- F34.0 Khí sắc chu kỳ
1.2.2. Theo phân loại của DSM - IV (Mỹ, năm 1994)
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực bao gồm: RLCXLC I, RLCXLC II, khí sắc
chu kỳ và RLCXLC không biệt định khác.
- RLCXLC I: là rối loạn có đặc trưng với sự xuất hiện một hoặc nhiều
giai đoạn hưng cảm hoặc các giai đoạn pha trộn (hỗn hợp) và một hoặc nhiều
giai đoạn trầm cảm điển hình rõ rệt tương phản sâu sắc với các giai đoạn hưng
cảm, dẫn đến suy giảm trầm trọng các chức năng. Đây là loại RLCXLC nặng
nhất [46], [63].
- RLCXLC II: là rối loạn có đặc trưng bằng một hoặc nhiều giai đoạn
trầm cảm điển hình với ít nhất một giai đoạn hưng cảm nhẹ dẫn đến suy giảm
chủ yếu chức năng xã hội hay chức năng nghề nghiệp [46]. RLCXLC II
thường bị chẩn đoán nhầm là giai đoạn trầm cảm hoặc trầm cảm tái diễn vì đa
số bệnh nhân không nhớ đến các giai đoạn hưng cảm nhẹ nếu như không có
sự gợi ý từ bạn bè hoặc người thân. Vì vậy, trong khi thăm khám bệnh các

thông tin thu thập được từ người cung cấp thông tin đóng vai trò quan trọng
trong việc xác định chẩn đoán RLCXLC II [46], [63].


Last saved by Dr Hanh

- -Created by 8Dr Hanh

- Khí sắc chu kỳ: là một trạng thái khí sắc không ổn định kéo dài, bao
gồm nhiều thời kỳ rối loạn trầm cảm nhẹ và rối loạn hưng cảm nhẹ. Các trạng
thái khí sắc có thể thay đổi nhanh từ ngày này sang ngày khác. Khí sắc chu kỳ
hình thành bởi một rối loạn khí sắc dao động, mạn tính và áp dụng cho một số
giai đoạn của các triệu chứng hưng cảm nhẹ hoặc trầm cảm nhưng không đủ
về số lượng, độ nặng, độ dài để thỏa mãn các tiêu chuẩn cho một giai đoạn
hưng cảm hoặc một giai đoạn trầm cảm điển hình. Sự bất ổn này thường phát
triển sớm ở lứa tuổi thành niên và tiếp tục tiến trình mạn tính, mặc dù đôi lúc
khí sắc có thể bình thường và ổn định trong nhiều tháng liên tục. Bệnh nhân
thường cho rằng, các dao động khí sắc này không liên quan gì đến các sự
kiện đời sống. Chẩn đoán sẽ khó khăn nếu không có thời kỳ quan sát dài
hoặc không có những thông tin tốt về tác phong trước kia của bệnh nhân
[63], [76]. Khoảng 5- 15% những người bị RLCXLC sẽ tiến triển thành
chu kỳ nhanh [57], [63].
Trạng thái hỗn hợp có một tỷ lệ nhỏ những bệnh nhân dường như có
bước chuyển tiếp ở pha hưng cảm sang pha trầm cảm, các triệu chứng xuất
hiện cùng một lúc cả trầm cảm và hưng cảm. Ở những bệnh nhân khác, mỗi
cơn hưng cảm hoặc trầm cảm khác tiếp theo có sự biến đổi nhanh, liên tục.
Griesinger (1876) đã mô tả và Kotin; Goodwin (1972) đã nhấn mạnh lần nữa
về trạng thái này [52].
1.3. Trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực
1.3.1. Dịch tễ học

1.3.1.1. Tỷ lệ mắc chung
Rối loạn trầm cảm là một bệnh lý khá phổ biến. Theo J.Angst (1992),
L.Judd (1994) và một số tác giả khác, rối loạn trầm cảm chiếm tỷ lệ 4 - 6,5%
dân số [30]. Ở Pháp có khoảng 10% dân số mắc RLTC, tỷ lệ mắc bệnh chung


Last saved by Dr Hanh

- -Created by 9Dr Hanh

tại một thời điểm là 2- 3% dân số và ở nhiều nước là từ 3 - 5%. Nghiên cứu
của M.M. Weissman và của nhiều tác giả khác cho thấy tỷ lệ mắc trong đời
của rối loạn trầm cảm từ 1,5% - 19,0% dân số và tỷ lệ mắc hàng năm từ 0,8 5,8% [52], [95], [99].
Tỷ lệ RLCXLC chiếm khoảng 1% dân số [100]. Theo nghiên cứu của
Klerman và Weissman (1989); Kessler và cộng sự (1994) cho thấy tỷ lệ mắc
RLCXLC ngày càng gia tăng. Ở Mỹ, tỷ lệ rối loạn lưỡng cực là 1- 1,6% trong
suốt cuộc đời bao gồm tất cả các kiểu rối loạn khác nhau gặp ở những người
trưởng thành (khoảng 2,5 triệu người mắc). Trong đó, 0,8% RLCXLC I và
0,5% RLCXLC II. Trên thế giới, tỷ lệ mắc trong đời của RLCXLC khoảng
0,3- 1,5%, tỷ lệ mắc mới hàng năm là 0,009 - 0,015% đối với nam và 0,007 0,03% đối với nữ. RLCXLC I hoặc RLCXLC II với chu kỳ nhanh có tới 515% trong số những người bị RLCXLC. Một số nghiên cứu lại cho thấy tỷ lệ
mắc trong đời của tất cả các loại RLCXLC là 3 -12%. Nghiên cứu của Akiskal
(2000) cho thấy tỷ lệ của toàn bộ RLCXLC là 5 - 7% [17], [31], [47], [99].
Bảng 1.1. Tỷ lệ mắc trong đời của rối loạn cảm xúc lưỡng cực
Nghiên cứu

Năm

Nơi nghiên cứu

Tỷ lệ (%)


Regier et al.

1988

Mỹ

1,2

Kessler et al.

1994

Mỹ

1,6

Lewinsohn et al.

1995

Mỹ

5,7

Weissman et al

1996

16 nước


0,3 - 1,5

Szadoczky et al.

1998

Hungary

5,0

Angst

1998

Thụy Sỹ

8,3

Có khoảng 25- 50% trường hợp RLCXLC có ý tưởng tự sát và 11% dẫn
đến tự sát. Tự sát thành công chiếm tỷ lệ 10 - 15% tổng số bệnh nhân


Last saved by Dr Hanh

- -Created by10
Dr Hanh

RLCXLC I [50], [63]. Một số nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ RLCXLC II có
ý tưởng tự sát và tự sát thành công cao hơn so với RLCXLC I và RLTC. Đặc

biệt tự sát thường xảy ra ở giai đoạn trầm cảm điển hình do liên quan đến sự
thất bại trong học tập, công việc hay trong lĩnh vực hôn nhân [50], [62], [63].
1.3.1.2. Tuổi
Nhìn chung, tuổi khởi phát của RLCXLC thường sớm hơn RLTC điển
hình mặc dù các giai đoạn trầm cảm có thể xuất hiện ở bất kỳ lứa tuổi nào.
Hiện nay nhiều tác giả thấy khoảng 20% các bệnh nhân RLCXLC có các triệu
chứng khởi đầu ở thời kỳ giữa tuổi niên thiếu và tuổi trưởng thành. Tuy nhiên
tuổi khởi phát của RLCXLC biến thiên rất lớn, phạm vi tuổi khởi phát đối với
RLCXLC I và RLCXLC II từ tuổi vị thành niên (có thể sớm ở 5 - 6 tuổi) đến
50 tuổi (thậm chí còn già hơn ở một vài trường hợp), trung bình khoảng 21
tuổi. Phần lớn các trường hợp khởi phát ở lứa tuổi từ 15- 19 tuổi, tiếp đến là
lứa tuổi từ 20 - 24. Một số bệnh nhân được chẩn đoán là trầm cảm tái diễn mà
thực chất là RLCXLC và có cơn hưng cảm đầu tiên sau 50 tuổi [50], [63],
[99]. Goodwin và Jamison (1990) đánh giá tuổi trung bình RLCXLC giai
đoạn toàn phát khoảng 30 tuổi [52]. Tuổi khởi phát trung bình của trầm cảm
điển hình khoảng 40 tuổi, với 50% bệnh nhân có giai đoạn khởi phát từ 20 50 tuổi. Một số nghiên cứu dịch tễ học gần đây nhận thấy rằng tỷ lệ mắc bệnh
của trầm cảm điển hình tăng lên ở những người trước lứa tuổi 20, có thể liên
quan tới tình trạng lạm dụng/ nghiện rượu, ma túy [52], [63], [100].
1.3.1.3. Giới
Tỷ lệ mắc rối loạn trầm cảm điển hình ở nữ nhiều hơn so với nam (2/1).
Ngược lại, không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc RLCXLC giữa nam và nữ
(1/1). Theo Weissmann và cộng sự, RLCXLC I ở nam giới có tỷ lệ 0,7%, ở
nữ là 0,9%; RLCXLC II gặp ở nam giới 0,4%, ở nữ 0,5% [99]. Ở nam giới,


Last saved by Dr Hanh

- -Created by11
Dr Hanh


giai đoạn đầu tiên thường là hưng cảm, còn giai đoạn đầu tiên ở nữ giới
thường là trầm cảm điển hình. Ở nữ với RLCXLC I có nguy cơ cao kết hợp
với loạn thần trong giai đoạn sau đẻ. Khi các giai đoạn hưng cảm xảy ra ở nữ
giới thường là bệnh cảnh của giai đoạn hỗn hợp hưng cảm - trầm cảm và
thường nhiều hơn so với nam giới. Ở nữ cũng có một tỷ lệ cao hơn với dạng
chu kỳ nhanh, tới 4 cơn hoặc hơn nữa trong một năm [43], [62].
1.3.1.4. Tình trạng hôn nhân
Nhìn chung, trầm cảm điển hình thường gặp ở những người ít có mối
quan hệ cá nhân hoặc ở những người ly thân, ly hôn. RLCXLC I phổ biến hơn
ở những người ly hôn so với người có gia đình. Sự khác biệt này có thể phản
ánh sự khởi phát sớm của bệnh trước khi lập gia đình hoặc mối quan hệ bất
hòa của hôn nhân có thể là đặc trưng của RLCXLC [24], [63], [73].
1.3.1.5. Tình trạng kinh tế - xã hội
Không có sự liên quan giữa tình trạng kinh tế - xã hội và rối loạn trầm
cảm điển hình. Một số nghiên cứu nhận thấy tỷ lệ mắc RLCXLC I cao hơn ở
nhóm kinh tế xã hội cao nhưng có thể là do chẩn đoán chưa đúng trong thực
hành lâm sàng. RLTC phổ biến ở nông thôn hơn so với thành thị. RLCXLC
phổ biến hơn ở những người chưa tốt nghiệp các trường lớp so với những
người đã tốt nghiệp, một thực tế phản ánh sự liên quan với giai đoạn khởi
phát sớm của bệnh. Không có sự khác biệt giữa các chủng tộc, dân tộc về tỷ lệ
rối loạn khí sắc. Nghiên cứu của Weissmann và cộng sự (1991) cho thấy
RLCXLC I ở người da trắng có tỷ lệ mắc là 0,8%, người da đen là 1,0%, dân
tộc Bồ Đào Nha là 0,7%. RLCXLC II ở người da trắng có tỷ lệ mắc là 0,4%,
người da đen là 0,6% và dân tộc Bồ Đào Nha là 0,5% [97], [99].


Last saved by Dr Hanh

- -Created by12
Dr Hanh


1.3.2. Bệnh nguyên, bệnh sinh
Nói chung hiện nay bệnh nguyên, bệnh sinh của rối loạn cảm xúc lưỡng
cực vẫn chưa được sáng tỏ hoàn toàn. Có một số giả thuyết góp phần vào giải
thích căn nguyên của bệnh.
1.3.2.1. Giả thuyết về yếu tố di truyền
Nghiên cứu về gia đình: cho thấy nguy cơ cao ở những người cùng
huyết thống ở mức độ 1 (bố mẹ, con, anh chị em) và giảm đi ở những người
có quan hệ họ hàng với người bệnh (mức độ 2). Yếu tố di truyền có vai trò
quan trọng trong RLCXLC I hơn rối loạn trầm cảm. Khoảng 50% bệnh nhân
RLCXLC I có ít nhất một cha hoặc mẹ bị rối loạn khí sắc, thường là trầm cảm
nặng. Nếu một người cha hoặc mẹ mắc RLCXLC I sẽ có 25% con bị rối loạn
khí sắc. Nếu cả cha và mẹ đều mắc RLCXLC I thì con của họ có nguy cơ bị
rối loạn khí sắc là 50 - 75% [43], [63].
Nghiên cứu về các cặp sinh đôi: nhận thấy ở những trẻ sinh đôi cùng
trứng và những trẻ có bố, mẹ trong tiền sử đã bị RLCXLC có nguy cơ bị bệnh
cao. Trẻ sinh đôi cùng trứng mắc RLCXLC nhiều hơn trẻ sinh đôi khác trứng
[4], [46]. Price (1968) đã kết luận rằng tỷ lệ cùng mắc loạn thần hưng trầm
cảm là 68% đối với trẻ sinh đôi cùng trứng và 23% đối với trẻ sinh đôi khác
trứng. Một số nghiên cứu gần đây đưa ra một tỷ lệ khoảng 40% đối với trẻ
sinh đôi cùng trứng và dưới 10% đối với trẻ sinh đôi khác trứng [63]. Ở trẻ
sinh đôi cùng trứng tỷ lệ bị RLCXLC I là 33 - 90%, còn tỷ lệ bị RLTC là
50%. Ngược lại, trẻ sinh đôi khác trứng chỉ có 5 - 25% mắc RLCXLC I và 10
- 25% mắc RLTC [5], [7], [46].
Nghiên cứu về con nuôi: các nghiên cứu về con nuôi đã chứng minh vai
trò của di truyền trong RLCX. Những người con nuôi (bố mẹ nuôi hoàn toàn
bình thường) chịu ảnh hưởng rõ rệt từ bố mẹ sinh học (bố mẹ đẻ) của chúng.


Last saved by Dr Hanh


- -Created by13
Dr Hanh

Nếu bố mẹ đẻ bị RLCXLC thì nguy cơ bị RLCX ở những đứa con này là 2 - 3
lần, trong khi nguy cơ bị RLCX ở bố mẹ nuôi chỉ giống tỷ lệ bệnh của quần
thể chung [63].
Nghiên cứu về liên kết gen: Sự liên quan giữa các RLCX, đặc biệt là
RLCXLC I với các gen di truyền được nhận thấy ở các NST số 5, 11, 18 và
NST giới tính X. Với sự nghiên cứu về di truyền học ở những bệnh nhân
RLCXLC đang được tiến hành và hy vọng sẽ được thuận lợi bởi sự tiến bộ
gần đây trong công nghệ gen, một phần bởi bản đồ hệ gen con người sẽ làm
sáng tỏ bệnh nguyên và bệnh sinh của RLCXLC [63].
1.3.2.2. Giả thuyết về rối loạn các chất dẫn truyền thần kinh
Nhiều nghiên cứu gần đây về cơ chế bệnh sinh của RLCX cho thấy có
liên quan với hệ thống chất dẫn truyền thần kinh trong hệ thần kinh trung
ương. Các Amine sinh học như norepinephrin và serotonin là hai chất dẫn
truyền thần kinh liên quan nhất trong sinh lý bệnh của các RLCX. Việc tăng
hoặc giảm các Amine sinh học này có thể gây ra sự thay đổi về hành vi, cảm
xúc [14], [61], [62].
Giả thuyết Amine sinh học nhận thấy Reserpine là chất gây trầm cảm,
làm giảm các Amine sinh học (Cathecholamines) và Indoleamines trong khi
các thuốc chống trầm cảm (CTC) làm tăng các Amine sinh học. Tuy nhiên,
các nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi không giống nhau trong rối loạn điều hòa
chất dẫn truyền thần kinh. Người ta đã tìm thấy những bất thường trong
chuyển hóa Cathecholamine và Indoleamine (5-hydroxyindoleacetic acid
[5HIAA], Homovanillic acid [HVA], 3-methoxy-4-hydroxyphenylglycol
[MHPG] trong máu, nước tiểu, dịch não tủy ở những bệnh nhân rối loạn khí
sắc [62], [79], [97].



Last saved by Dr Hanh

- -Created by14
Dr Hanh

Norepinephrin: Sự tương quan được chỉ ra bởi các nghiên cứu sự điều
chỉnh của thụ cảm β - adrenergic và những đáp ứng lâm sàng của thuốc CTC
cho thấy vai trò trực tiếp của hệ thống noradrenergic trong trầm cảm. Trong
trầm cảm, mật độ thụ thể β - adrenergic giảm sút đáng kể so với người bình
thường. Bằng chứng khác cũng thấy có sự liên quan đến receptor trước
synape β2 - adrenergic trong trầm cảm, khi hoạt hoá thụ thể này sẽ làm giảm
bớt lượng norepinephrine được giải phóng. Receptor trước synape β2 adrenergic được xác định nằm trên các neuron thần kinh serotonergic và điều
hoà lượng serotonin. Hiệu quả lâm sàng các thuốc CTC tác dụng lên
noradrenergic như Sertraline làm tăng cường vai trò của norepinephrine trong
sinh lý bệnh các triệu chứng của trầm cảm [59], [63].
Serotonin: Người ta nhận thấy trong rối loạn trầm cảm, nồng độ
Serotonin tại khe synap thần kinh ở vỏ não giảm sút so với người bình thường
(có trường hợp chỉ còn bằng 30% so với người bình thường). Bên cạnh đó,
nồng độ các sản phẩm chuyển hóa của Serotonin trong máu, trong dịch não
tủy cũng giảm thấp. Giảm Serotonin có thể làm suy nhược cơ thể nặng thêm
và một số bệnh nhân có ý tưởng thôi thúc tự sát, có sự giảm tập trung các chất
chuyển hóa Serotonin ở dịch não tủy và giảm tập trung ở vị trí hấp thụ
Serotonin trên tiểu cầu. Tác dụng ức chế chọn lọc tái hấp thu Serotonin
(SSRIs) như Fluoxetine sẽ làm tăng nồng độ Serotonin ở khe synap và có tác
dụng trong điều trị trầm cảm. Hơn nữa SSRIs và các thuốc CTC khác giải
phóng Serotonin cũng có hiệu quả trong điều trị chống trầm cảm. Như vậy
Serotonin trở thành chất dẫn truyền thần kinh sinh học phổ biến nhất liên
quan đến sinh lý bệnh của trầm cảm [59], [63].
Dopamine: chất dẫn truyền thần kinh Dopamine không đóng vai trò lớn

trong trầm cảm như Norepinephrine và Serotonin. Nhiều bằng chứng cho thấy
hoạt tính của Dopamine giảm trong trầm cảm và tăng trong hưng cảm. Khám


Last saved by Dr Hanh

- -Created by15
Dr Hanh

phá các kiểu thụ thể Dopamine mới và tăng hiểu biết về sự điều tiết trước
synap và sau synap được phong phú hơn khi tiến hành nghiên cứu mối liên
quan giữa Dopamine và các rối loạn khí sắc. Các thuốc làm giảm độ tập trung
Dopamine như Reserpine (Serpasil) và các bệnh giảm dopamine như bệnh
Parkinson có sự liên quan với các triệu chứng trầm cảm. Ngược lại, các thuốc
làm tăng độ tập trung dopamine như Tyrosine, Amphetamine và Bupropion
(Wellbutrin), làm giảm các triệu chứng của trầm cảm. Hai học thuyết gần đây
về Dopamine và trầm cảm là thuyết dẫn truyền trung gian hệ viền có thể hoạt
động khác thường trong trầm cảm và thuyết thụ thể D 1 Dopamine có thể giảm
hoạt động trong trầm cảm [59], [63].
Các yếu tố hóa học thần kinh khác: Mặc dù các số liệu cho đến nay vẫn
chưa thuyết phục, acid amine dẫn truyền thần kinh (đặc biệt là γaminobutyric acid) và hoạt động các peptid thần kinh (vasopressin và các
opiate nội sinh) liên quan đến bệnh sinh của các rối loạn khí sắc. Các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra rằng hệ thống điều chỉnh thông tin thứ hai như adenylate
cyclase, phosphatidylinositol và calcium cũng có thể vừa là nguyên nhân vừa
là hậu quả. Các acid amin glutamate và glycine là chất kích thích dẫn truyền
thần kinh chủ yếu trong hệ thống thần kinh trung ương. Glutamate và glycine
tập trung ở vị trí liên kết với thụ thể N-methyl-D aspartate (NMDA) và khi
thừa quá có thể gây hậu quả nhiễm độc thần kinh. Hồi hải mã có sự tập trung
cao thụ thể NMDA, thêm vào đó là glutamate có sự liên quan đến tăng
cortisol máu làm ảnh hưởng khả năng nhận thức do stress mạn tính [62], [63].

1.3.2.3. Giả thuyết về những bất thường thần kinh nội tiết
Hoạt động của hệ limbic có vai trò trung gian liên quan đến các trạng
thái cảm xúc điều khiển giải phóng các hormone tuyến yên - một tuyến quan
trọng trong hệ thống nội tiết các hệ trục: "Dưới đồi - tuyến yên - tuyến giáp"


Last saved by Dr Hanh

- -Created by16
Dr Hanh

(HPT), "dưới đồi - tuyến yên - thượng thận" (HPA) và "dưới đồi - tuyến yên tuyến sinh dục" (HPGH). Hormone tăng trưởng (GH) khi bị rối loạn sẽ dẫn
đến thay đổi về nội tiết và có liên quan đến RLCX. Sự bài tiết GH tăng về
đêm và giảm trong ngày, GH giảm đáp ứng với Clonidine và Apomorphine
xảy ra ở các bệnh nhân trầm cảm. Sự tăng hoạt động của hệ trục HPA được
nhận thấy ở ít nhất 50% bệnh nhân trầm cảm: khi mất điều hòa hệ thống HPA
làm tăng cortisol trong máu dẫn tới làm giảm serotonin. Test giảm
Dexamethasone không đặc hiệu cho bệnh trầm cảm. Rối loạn hoạt động của
trục HPT cũng được nhận thấy ở bệnh nhân trầm cảm: TRH của vùng dưới
đồi kích thích tuyến yên giải phóng TSH - có vai trò điều hòa sản xuất
hormone tuyến giáp T3, T4. Khi TSH tăng cao dẫn tới rối loạn cảm xúc lưỡng
cực. Khoảng 4% bệnh nhân rối loạn cảm xúc có tăng nồng độ TSH, hơn nữa
có khoảng 25 - 70% bệnh nhân giảm đáp ứng TSH đối với TRH [13], [63].
Một số nghiên cứu nhận thấy rối loạn trầm cảm hay gặp ở phụ nữ, các
giai đoạn trầm cảm thường xuất hiện liên quan với các thời kỳ dậy thì, có thai,
sau sinh đẻ, chu kỳ kinh nguyệt [13].
1.3.2.4. Hình ảnh của não
Hiện nay nghiên cứu não trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính (CT.
Scanner) cho thấy ở bệnh nhân RLCXLC I (chủ yếu ở nam giới) có sự giãn
rộng các não thất, đặc biệt là các bệnh nhân trầm cảm có loạn thần thì hình

ảnh giãn não thất càng rõ ràng hơn. Nghiên cứu bằng chụp cộng hưởng từ
(MRI) cho thấy có hình ảnh teo nhân đuôi, thùy trán và có sự bất thường ở thể
trai so với nhóm chứng [63].
1.3.2.5. Các yếu tố tâm lý xã hội
Một số nghiên cứu nhận thấy người có nhân cách lo âu, phụ thuộc, cảm
xúc không ổn định, ám ảnh, phô trương hay bị trầm cảm. Ngược lại trầm cảm


Last saved by Dr Hanh

- -Created by17
Dr Hanh

cũng có thể phát sinh và ảnh hưởng tới bất kỳ loại nhân cách nào. Tuy nhiên,
bất kể nhân cách nào cũng có thể bị trầm cảm trong hoàn cảnh khó thích
ứng [63].
Các sang chấn tâm lý thường là nguyên nhân hoặc yếu tố khêu gợi trạng
thái trầm cảm nhẹ như trầm cảm phản ứng, cũng có thể stress là nguyên nhân
và là yếu tố làm nặng thêm các trường hợp trầm cảm nặng. Paykel (1978) và
Brown cùng cộng sự (1973) thấy nguy cơ phát bệnh trầm cảm tăng 6 lần
trong 6 tháng kể từ khi trải qua những biến cố bất lợi liên quan đến cuộc sống
của cá nhân và gia đình như: mất mát do chết chóc, đổ vỡ trong tình yêu hoặc
tổn thất lớn về kinh tế, mất việc, sự xúc phạm nặng nề, bệnh cơ thể nặng, mạn
tính [79]. Có khoảng 30 - 50% các bệnh nhân RLCXLC lạm dụng rượu và
lạm dụng chất, tỷ lệ này cao hơn ở các rối loạn tâm thần khác [70]. Tình trạng
hôn nhân tan vỡ, thất nghiệp kéo dài và tự sát là cũng phổ biến. Các báo cáo
từ nhiều quốc gia cho thấy có 8- 20% những người rối loạn cảm xúc nghiện
rượu kết thúc cuộc sống của họ bằng tự sát (Ritson 1977) [55]. Có khi có
những hành vi vi phạm pháp luật từ nhẹ như gây rối trật tự xã hội đến hành vi
giết người [54].

1.3.3. Đặc điểm lâm sàng của trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực
1.3.3.1. Biểu hiện sớm một giai đoạn trầm cảm [20], [55], [59]
Những dấu hiệu sớm của giai đoạn trầm cảm hoặc tái phát trầm cảm:
- Giảm khí sắc, giảm chú ý.
- Thay đổi giấc ngủ (thức giấc sớm hoặc ngủ nhiều).
- Giảm những sở thích vốn có của bản thân.
- Giảm quan hệ trong gia đình, xã hội.
- Giảm năng lượng


Last saved by Dr Hanh

- -Created by18
Dr Hanh

- Dễ cáu giận, dễ bị kích thích.
- Khó khăn trong việc tập trung, ghi nhớ hoặc đưa ra quyết định
Các nhà nghiên cứu cho rằng việc phát hiện những dấu hiệu sớm của
bệnh kết hợp với can thiệp kịp thời trong 1-2 tuần đầu, khi mức độ trầm trọng
của triệu chứng và mức độ giảm sút chức năng còn nhẹ sẽ làm tăng hiệu quả
điều trị với thời gian thuyên giảm nhanh hơn.
1.3.3.2. Biểu hiện lâm sàng thời kỳ toàn phát
* Theo mô tả kinh điển [13], [17]
Hội chứng trầm cảm điển hình là trạng thái biểu hiện quá trình ức chế
toàn bộ tâm thần (Nguyễn Việt - 1984), gồm có : cảm xúc bị ức chế, tư duy bị
ức chế và vận động bị ức chế.
- Cảm xúc bị ức chế : khí sắc giảm thấp, buồn rầu, ủ rũ, khóc lóc, mất
mọi quan tâm thích thú cũ, nhìn xung quanh thấy ảm đạm, bi quan về tương
lai. Bệnh nhân cảm thấy một nỗi buồn có nhiều sắc thái. Nỗi buồn có thể kèm
theo hiện tượng mất cảm giác tâm thần. Đôi khi kèm theo các hiện tượng giải

thể nhân cách, tri giác sai thực tại.
- Tư duy bị ức chế : suy nghĩ chậm chạp, liên tưởng khó khăn. Tự cho
mình là hèn kém, mất tin tưởng vào bản thân. Trường hợp nặng có hoang
tưởng bị tội hay tự buộc tội, dễ đưa đến ý tưởng và hành vi tự sát.
- Vận động bị ức chế : bệnh nhân ít hoạt động, ít nói, ăn uống kém,
thường nằm hay ngồi lâu ở một tư thế, mặt mày đau khổ, trầm ngâm suy nghĩ.
Trường hợp nặng có thể có hiện tượng bất động. Bệnh nhân có thể có cơn
xung động trầm cảm (kích động, la hét, lăn lộn,…).
Ngoài ra, bệnh nhân có thể có một số triệu chứng tâm thần khác : sự chú
ý trì trệ, tập trung vào nỗi đau khổ bên trong, hoặc có các rối loạn thần kinh


Last saved by Dr Hanh

- -Created by19
Dr Hanh

thực vật, rối loạn tiêu hóa (chán ăn, buồn nôn, táo bón, đi lỏng), rối loạn tim
mạch. Ở phụ nữ có thể mất kinh, rối loạn kinh nguyệt.
* Theo mô tả của ICD - 10
Giai đoạn trầm cảm được biểu hiện bởi các triệu chứng đặc trưng và phổ
biến sau [10]:
- 3 triệu chứng đặc trưng của trầm cảm:
+ Giảm khí sắc: bệnh nhân cảm thấy buồn vô cớ, chán nản, ảm đạm, thất
vọng, bơ vơ và bất hạnh, cảm thấy không có lối thoát. Đôi khi nét mặt bất
động, thờ ơ, vô cảm.
+ Mất mọi quan tâm và thích thú: là triệu chứng hầu như luôn xuất hiện.
Bệnh nhân thường phàn nàn về cảm giác ít thích thú, ít vui vẻ trong các hoạt
động sở thích cũ hay trầm trọng hơn là sự mất nhiệt tình, không hài lòng với
mọi thứ. Thường xa lánh, tách rời xã hội, ngại giao tiếp với mọi người xung

quanh.
+ Giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động: là một triệu
chứng đặc trưng. Biểu hiện phổ biến bằng mệt mỏi, yếu ớt, thiếu sinh lực, bất
lực. Bệnh nhân chậm chạp về ngôn ngữ, giao tiếp và vận động. Các công việc
hàng ngày trở nên khó khăn, có khi không hoàn thành được, thậm chí phải
bỏ hoàn toàn công việc. Một số bệnh nhân giảm năng lượng biểu hiện
bằng giảm hoặc mất dục năng. Ức chế nặng sẽ biểu hiện giống trạng thái
sững sờ.
- 7 triệu chứng phổ biến của trầm cảm:
+ Giảm sút sự tập trung và chú ý.
+ Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin.
+ Những ý tưởng bị tội, không xứng đáng.


Last saved by Dr Hanh

- -Created by20
Dr Hanh

+ Nhìn vào tương lai thấy ảm đạm, bi quan.
+ Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát.
+ Rối loạn giấc ngủ: ngủ nhiều hoặc ngủ ít, thức giấc lúc nửa đêm hoặc
dậy sớm.
+ Ăn ít ngon miệng.
- Các triệu chứng cơ thể (sinh học) của trầm cảm:
+ Mất quan tâm ham thích những hoạt động thường ngày.
+ Thiếu các phản ứng cảm xúc với những sự kiện và môi trường xung
quanh mà khi bình thường vẫn có những phản ứng cảm xúc.
+ Thức giấc sớm hơn ít nhất 2 giờ so với bình thường.
+ Trầm cảm nặng lên về buổi sáng.

+ Chậm chạp tâm lý vận động hoặc kích động, có thể sững sờ.
+ Giảm cảm giác ngon miệng.
+ Sút cân (thường ≥ 5% trọng lượng cơ thể so với tháng trước).
+ Giảm hoặc mất hưng phấn tình dục, rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ.
- Các triệu chứng loạn thần:
Trầm cảm nặng thường có hoang tưởng, ảo giác hoặc sững sờ. Hoang
tưởng, ảo giác có thể phù hợp với khí sắc (hoang tưởng bị tội, bị thiệt hại, bị
trừng phạt, nghi bệnh, nhìn thấy cảnh trừng phạt, ảo thanh kết tội hoặc nói
xấu, lăng nhục, chê bai bệnh nhân) hoặc không phù hợp với khí sắc ( hoang
tưởng bị theo dõi, bị hại).


Last saved by Dr Hanh

- -Created by21
Dr Hanh

Ngoài ra, bệnh nhân có thể có lo âu, lạm dụng rượu, ma tuý và có triệu
chứng cơ thể như đau đầu, đau bụng, táo bón… sẽ làm phức tạp quá trình
điều trị bệnh.
* Theo mô tả của DSM - IV (1994) [46]
Rối loạn trầm cảm điển hình, đặc trưng là sự có mặt của một hay nhiều
giai đoạn trầm cảm điển hình. Hội chứng trầm cảm là một hội chứng phức tạp
về khí sắc, tư duy, vận động và cơ thể:
- Khí sắc trầm: bệnh nhân cảm thấy buồn rầu, đau khổ, mất hy vọng,
giảm khí sắc. Bệnh nhân không tự xác định được bệnh và có nhiều rối loạn cơ
thể như đau, bỏng rát ở các vùng khác nhau trong cơ thể.
- Mất hứng thú và sở thích: mất hứng thú với mọi hoạt động hoặc vô
cảm với mọi sở thích trước khi bị bệnh. Bệnh nhân mất hứng thú với mọi khía
cạnh của cuộc sống như thành công trong nghề nghiệp, quan hệ với người

thân, đời sống tình dục, chăm sóc bản thân. Bệnh nhân bi quan, mất hy vọng,
mất ham muốn được sống, xuất hiện khuynh hướng xa lánh xã hội và giảm
khả năng thu nhận thông tin.
- Rối loạn sự chú ý: có sự giảm sút chú ý rõ rệt, khả năng tập trung chú
ý kém là triệu chứng người bệnh than phiền nhiều nhất.
- Rối loạn trí nhớ: giảm khả năng nhớ chính xác các thông tin, hiện
tượng này liên quan chặt chẽ với rối loạn sự chú ý. Bệnh nhân thường than
phiền giảm khả năng nhớ, các ký ức bị ảnh hưởng của khí sắc trầm cảm. Bệnh
nhân đặc biệt nhớ các sự kiện không được thích thú cho lắm và các thất bại trong
đời sống hàng ngày, trong khi đó các sự kiện khác lại được ghi nhớ rất kém.
- Rối loạn tri giác: xuất hiện ảo giác trong rối loạn trầm cảm nặng,
thường phù hợp với giảm khí sắc.


Last saved by Dr Hanh

- -Created by22
Dr Hanh

- Rối loạn tư duy: xuất hiện cả rối loạn hình thức tư duy và nội dung tư duy.
+ Nhịp tư duy chậm, bệnh nhân thường suy nghĩ chậm chạp, có cảm
giác ý nghĩ bị tắc nghẽn, không rõ ràng, khó có hệ thống và khó biểu hiện.
Lời nói chậm, thiếu tính tự động, chậm trả lời các câu hỏi, nội dung đơn điệu,
nghèo nàn.
+ Bệnh nhân khó hoặc không đưa ra được quyết định của mình và
không tự tin vào bản thân. Bệnh nhân nhìn tương lai một cách đầy bi quan,
không hy vọng, cho rằng mình có tội lỗi. Nội dung mang màu sắc của rối loạn
trầm cảm, xuất hiện sự sụp đổ, tự ti.
+ Ý nghĩ không tự tin vào bản thân mình, bệnh nhân cảm thấy mất khả
năng sống thoải mái, mất các hoạt động bình thường. Bệnh nhân cho rằng

cuộc sống là một chuỗi dài những thất bại của bản thân và chất lượng cuộc
sống giảm rõ rệt.
+ Có ý tưởng và hành vi tự sát, có ý nghĩ về cái chết, đi đến tự sát và tự
sát nhiều lần.
- Rối loạn tâm thần vận động: vận động chậm chạp như trả lời
chậm, nói chậm, nhịp tư duy chậm, có thể có trạng thái sững sờ hoặc
kích động trầm cảm.
- Rối loạn về ăn uống: bệnh nhân thường kém ăn nhưng một số lại
ăn nhiều.
- Mất ngủ hoặc ngủ nhiều: bệnh nhân khó ngủ lúc đầu nhưng thường là
thức giấc sớm, khó ngủ trở lại và cảm thấy không thoải mái khi thức dậy. Một
số trường hợp lại ngủ nhiều.


Last saved by Dr Hanh

- -Created by23
Dr Hanh

1.3.3.3. Một số nét khác biệt về lâm sàng giữa trầm cảm đơn cực (MD:
Monopolar Depression) và trầm cảm trong RLCXLC (BD: Bipolar
Depression)
- Tỷ lệ trầm cảm trong RLCXLC ít hơn so với trầm cảm đơn cực (1% so với 5
- 10%) [37].
- Tuổi khởi phát và giới: tuổi khởi phát của RLCXLC thường là 30, tỷ lệ giữa
hai giới nam và nữ là như nhau. Trong khi đó tuổi khởi phát của trầm cảm
đơn cực là 40, gặp ở nữ giới nhiều hơn 2 lần so với nam giới [63].
- Các yếu tố nguy cơ:

BD: 75 - 80% có yếu tố gia đình ( rối loạn tâm thần)

MD: 40 - 41% có yếu tố gia đình.

- Thời gian của giai đoạn bệnh: giai đoạn trầm cảm trong RLCXLC thường
ngắn hơn trầm cảm đơn cực [63].
- Khác biệt về triệu chứng học:
Các biểu hiện như mức độ nặng của trầm cảm, tính ổn định của trầm
cảm, mất ngủ đầu giấc, sút cân, các triệu chứng cơ thể, chậm chạp tâm thần
vận động, hoạt động ức chế có ở trầm cảm đơn cực nhiều hơn trầm cảm trong
rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Trong khi đó các biểu hiện như khí sắc dao động,
trầm cảm nặng về buổi sáng, có nét hưng cảm, tri giác sai thực tại, kích động,
hằn học xâm phạm, các triệu chứng loạn thần lại có nhiều hơn ở trầm cảm
trong RLCXLC (Katz & cs, Brockington, Abrams & Taylor, Beigel, Murphy,
Dunner và cs) [20], [39].
Theo Philip Michell, Gordn Parker, Ian Hickie, Kerry Jamieson (1992)
trong trầm cảm đơn cực thì thời gian cơn dài hơn, chậm chạp tâm thần vận
động nhiều hơn, ít kích động hơn RLCXLC [20].


Last saved by Dr Hanh

- -Created by24
Dr Hanh

Theo Philip Rutger, Gin S. Malhi (2001): Các nét không điển hình của
trầm cảm như ngủ nhiều, ăn nhiều, bồn chồn, thu rút, cách ly; các biểu hiện
loạn thần; các biểu hiện khác như lo âu, khó tập trung chú ý, cảm giác bối rối
biểu hiện ở trầm cảm trong RLCXLC nhiều hơn so với trầm cảm đơn cực [20].
Không có tính chất đặc trưng riêng của trầm cảm trong RLCXLC so
với trầm cảm đơn cực. Tuy nhiên có những triệu chứng phổ biến của trầm
cảm trong RLCXLC giống tiêu chuẩn trầm cảm không điển hình như: ngủ

nhiều, ăn nhiều, dị cảm, chậm chạp tâm thần vận động, triệu chứng loạn thần,
khí sắc dao động. Hơn nữa, bệnh nhân trầm cảm trong RLCXLC thường có
giai đoạn khởi phát sớm với giai đoạn trầm cảm, có nhiều giai đoạn trầm cảm
hơn, giai đoạn trầm cảm ngắn hơn và tỷ lệ tiền sử gia đình cao hơn. Trong khi
đó trầm cảm đơn cực với các triệu chứng phổ biến là mất ngủ đầu giấc hoặc
giảm nhu cầu ngủ, ăn không ngon miệng, sụt cân, vận động bình thường hoặc
tăng, nhiều triệu chứng cơ thể, khởi phát muộn, các giai đoạn kéo dài, ít có
tiền sử gia đình. Sự phân biệt này giúp cho chẩn đoán sớm và điều trị thích hợp
(Mitchell P. B.; Goodwin, G. M.;Johnson G. F.; Hirschfeld R. M. - 2008) [82].
Tỷ lệ tự sát ở RLCXLC cao hơn so với trầm cảm đơn cực (15 - 20% so
với 6%) [81].
1.3.4. Tiến triển, hậu quả
1.3.4.1. Tiến triển
* Giai đoạn bệnh: đa số bệnh nhân RLCXLC gồm cả 2 giai đoạn hưng
cảm và trầm cảm, có khoảng 10-20% trường hợp chỉ có các giai đoạn hưng
cảm, thường khởi phát đột ngột trong vài ngày đến hai tuần. Đôi khi bệnh
nhân chỉ có một cơn hưng cảm đơn độc và hồi phục hoàn toàn trong suốt cuộc
đời. RLCXLC thường khởi đầu bằng giai đoạn trầm cảm (nữ 75%, nam 67%)
và thường là tái diễn, phần lớn bệnh nhân có nhiều giai đoạn trầm cảm hơn


Last saved by Dr Hanh

- -Created by25
Dr Hanh

hưng cảm [31]. Nghiên cứu theo dõi trong 15 năm của Judd nhận thấy số tuần
mà RLCXLC I và RLCXLC II có cơn trầm cảm là 31% và 52%. Ngược lại,
hưng cảm nhẹ, hưng cảm và giai đoạn hỗn hợp chỉ chiếm 10% số tuần đối với
RLCXLC I và 1,6% đối với RLCXLC II. Cơn hưng cảm kéo dài từ 3 đến 5

tháng, trung bình khoảng 4 tháng. Các cơn trầm cảm kéo dài hơn, trung bình
kéo dài khoảng 6 tháng, hiếm có trường hợp kéo dài hơn 1 năm, ngoại trừ
người cao tuổi. Giai đoạn trầm cảm trong RLCXLC thường ngắn hơn giai
đoạn của rối loạn trầm cảm tái diễn. Trạng thái căng trương lực có thể gặp
trong RLCXLC ở cả hưng cảm hoặc trầm cảm [25], [62].
* Giai đoạn thuyên giảm: giữa các giai đoạn của bệnh, bệnh nhân không
có các triệu chứng, có thể làm việc bình thường. Thời gian của giai đoạn này
dài ngắn khác nhau tùy theo từng cá thể, quá trình điều trị và đáp ứng với điều
trị. Tần số xuất hiện các giai đoạn, mô hình thuyên giảm và tái phát trở lại có
sự thay đổi rất lớn, có thể rất nhiều năm mới tái phát hoặc chỉ sau một thời
gian ngắn. Thường là thời gian giữa các cơn ngày càng ngắn lại, nghĩa là cơn
trở nên thường xuyên hơn. Theo Kaplan & Sadock, độ dài của của thời kỳ
thuyên giảm đầu tiên giảm so với tuổi khởi phát, khởi phát muộn thì thời gian
thuyên giảm sẽ ngắn, thời gian thuyên giảm của cơn đầu tiên là 48 tháng, cơn
thứ hai là 31 tháng. Nghiên cứu của Ziss và cộng sự nhận thấy thời gian trung
bình giữa cơn thứ nhất và cơn thứ hai là 36 tháng, rồi giảm xuống còn 24
tháng, sau đó là 12 tháng. Nói chung, sau khoảng 5 cơn thời gian ổn định giữa
các cơn từ 6 - 9 tháng [5], [13], [94], [95].
1.3.4.2. Hậu quả
* Tự sát: trầm cảm trở thành yếu tố nguy cơ lớn của tự sát. Những cảm
giác chung dẫn đến cái chết ở những người trầm cảm là sự đau đớn thất vọng,
ý nghĩ tội lỗi, cảm thấy cuộc sống không còn giá trị, không có lối thoát. Sự


×