Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tư hiến phủ (vương triều triều tiên) trong sự đối sánh với ngự sử đài (vương triều hậu lê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.97 KB, 11 trang )

Nghiên cứu khoa học
T- hiến phủ (v-ơng triều triều tiên) trong sự đối sánh
với Ngự sử đài (v-ơng triều hậu lê)
phan ngọc huyền*

Túm tt: Trong h thng cỏc c quan thanh tra giỏm sỏt quan li thi phong kin, T hin
ph (vng triu Triu Tiờn) v Ng s i (vng triu Hu Lờ) cú nhiu im tng ng t
v trớ, quyn hn, chc trỏch, c cu t chc cho n c nhng úng gúp, hn ch trong quỏ
trỡnh hot ng ca nú vi t cỏch l mt c quan giỏm sỏt c lp trong b mỏy hnh chớnh
quc gia. Tuy nhiờn, do c thự ca mi nc khỏc nhau, hai c quan ny cng cú s khỏc bit
nht nh v s lng, tờn gi v phm trt ca cỏc chc quan. Bi vit ny l s kho cu
bc u v T hin ph ca vng triu Triu Tiờn t trong s i sỏnh vi Ng s i ca
vng triu Hu Lờ. Thụng qua vic so sỏnh v c cu t chc, chc nng, quyn hn v mt
s úng gúp, hn ch ca hai c quan ny, bi vit mong mun t c s cho nghiờn cu sõu
hn v h thng thanh tra giỏm sỏt quan li núi riờng v quan ch trong lch s trung i Vit
Hn núi chung, gúp phn y mnh hn na vic nghiờn cu v Hn Quc hc Vit Nam.
T khúa: T hin ph, Ng s i, Vng triu Triu Tiờn, Vng triu Hu Lờ, Thanh
tra giỏm sỏt
rong lch s trung i, t chc b
mỏy nh nc ca Vit Nam v
*
Hn Quc u gn vi mụ hỡnh quõn ch
chuyờn ch trung ng tp quyn. V quan
ch, hai quc gia cú nhiu im tng ng
song cng cú nhng nột c thự riờng, dự
cựng chu nh hng t mụ hỡnh quan ch
ca Trung Quc. T gúc nhỡn v h thng
thanh tra, giỏm sỏt quan li thi phong kin
ca Vit Nam v Hn Quc, bi vit ny
chn i tng kho cu l T hin ph
thuc giai on u ca vng triu Triu


Tiờn t trong s i sỏnh vi Ng s i
giai on u ca vng triu Hu Lờ (thi
Lờ S).
1. C cu t chc

T

Tờn gi T hin ph c t t thi
vng triu Cao Ly trờn c s tờn gi ban
u l T hin i. Theo ghi chộp trong Cao
Ly s, u thi Cao Ly cú t c quan T
hin i. T nm Cao Ly Thnh Tụng th 24
(995) n nm Cao Ly Trung Lit Vng
nguyờn niờn (1275), T hin i c i
tờn nhiu ln thnh Ng s i, Kim Ngụ i
hay Giỏm sỏt t. Nm 1298, vua Cao Ly cho
i Giỏm sỏt t thnh T hin ph1. õy l
ln u tiờn tờn gi T hin ph c t ra
di vng triu Cao Ly.
n thi kỡ tr vỡ ca vng triu Triu
Tiờn, c cu t chc ca T hin ph cú phn
quy c, hon thin hn. Nm Triu Tiờn Thỏi
T nguyờn niờn (1392), nh vua ch nh li

*

TS, Khoa Lch s - Trung tõm Nghiờn cu Chõu ,
Trng i hc S phm H Ni

Nghiên cứu đông bắc á, số 7(161) 7-2014


1

76 13, ã (Cao Ly s,
quyn 76, chớ th 13, Bỏch quan nht. T hin ph).

69


Nghiªn cøu khoa häc
chức ngạch của các quan văn võ. Theo đó,
đứng đầu Tư hiến phủ là Đại tư hiến (hàm
Tòng nhị phẩm), dưới đó là các chức Trung
thừa, Kiêm Trung thừa (hàm Tòng tam phẩm)
mỗi chức một người, thị sử (hàm Chánh tứ
phẩm, 2 người), Tạp đoan (hàm Chánh ngũ
phẩm, 2 người), Giám sát (hàm Chánh lục
phẩm, 20 người), Thư lại (Hàm thất phẩm, 6
người)2…
Những sự kiện trên cho thấy, Tư hiến phủ
có nguồn gốc từ Tư hiến đài và phải trải qua
nhiều lần đổi tên khác nhau như Ngự sử đài,
Kim ngô đài, Giám sát tư…, mới chính thức
có tên gọi là Tư hiến phủ từ cuối thế kỉ XIII
dưới vương triều Cao Ly và được hoàn thiện
hơn về tổ chức vào cuối thế kỉ XIV dưới
vương triều Triều Tiên.
Khác với việc thay đổi tên gọi nhiều lần
của cơ quan giám sát cao nhất dưới vương
triều Triều Tiên, Ngự sử đài dưới triều Hậu

Lê có tên gọi và tổ chức khá ổn định. Ngự sử
đài, với tư cách là một cơ quan độc lập trong
bộ máy nhà nước quân chủ Đại Việt, được
hình thành từ thời Trần. Đầu thời Lê Sơ (giai
đoạn đầu của triều Hậu Lê), tổ chức bộ máy
nhà nước và quan chế về cơ bản vẫn giống
như thời Trần – Hồ nên các chức quan Ngự
sử đài về cơ bản cũng được đặt như dưới
thời Trần. Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú viết: “Đời Lê Sơ, Thái Tổ
dựng nước, theo quan chế cũ của nhà Trần,
vẫn đặt Ngự sử đài có các chức Thị ngự sử,
Trung thừa, Phó Trung thừa, Giám sát ngự
sử, Chủ bạ”3.
“朝鲜李朝实录”, 太祖元年秋七月 (Triều Tiên Lý triều
thực lục Thái Tổ nguyên niên thu, thất nguyệt).
3
Phan Huy Chú (2008), Lịch triều hiến chương loại chí,
tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 556.
2

70

Sau cuộc cải cách hành chính của Lê
Thánh Tông, các chức quan thuộc Ngự sử
đài được chế đặt rõ ràng hơn về cả chức vụ,
phẩm trật và số lượng biên chế. Thông qua
việc sửa định quan chế, có thể hình dung cơ
cấu tổ chức của Ngự sử đài từ thời vua Lê
Thánh Tông trở đi như sau: Đứng đầu là Đô

ngự sử (hàm Chánh tam phẩm), dưới là Phó
Đô ngự sử (hàm Chánh tứ phẩm) và Thiêm
Đô ngự sử (hàm Chánh ngũ phẩm) mỗi chức
1 người. Giúp việc trong Ngự sử đài còn có
các chức Đề hình Giám sát ngự sử (hàm
Chánh thất phẩm, 1 người), Giám sát ngự sử
13 đạo (hàm Chánh thất phẩm, tổng cộng 26
người), Chiếu ma (hàm Tòng bát phẩm, 1
người) và Ngục thừa Sở án ngục Ngự sử đài
(hàm Chánh cửu phẩm, 1 người)4. Trải qua
thời gian, số lượng các chức quan có thay đổi
ít nhiều nhưng riêng tên gọi cơ quan thì được
giữ nguyên cho đến hết thời Hậu Lê (cuối thế
kỉ XVIII). Phải đến đầu thế kỉ XIX, khi
vương triều Nguyễn được xác lập, Ngự sử đài
mới được đổi tên thành Đô sát viện.
Nhìn vào cơ cấu tổ chức, không khó để
nhận thấy tên gọi, số lượng và phẩm trật của
các quan viên trong Tư hiến phủ (vương triều
Triều Tiên) và Ngự sử đài (vương triều Hậu
Lê) có sự khác nhau. Sự khác nhau này không
chỉ giữa Việt Nam và Hàn Quốc mà đặt trong
so sánh với Đô sát viện nhà Minh của Trung
Quốc cũng có nét khác biệt. Điều này thể hiện
rõ qua bảng so sánh dưới đây:

4

Theo Thiên Nam dư hạ tập (Tập X, Phần Quan chế), in
trong: Nguyễn Ngọc Nhuận (Chủ biên, 2006), Một số văn bản

điển chế pháp luật Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014


Nghiªn cøu khoa häc
Cơ quan

Chức danh

Tòng nhị phẩm
Tòng tam phẩm
Tòng tam phẩm
Chánh tứ phẩm
Chánh ngũ phẩm
Chánh lục phẩm
Thất phẩm
Chánh tam phẩm
Chánh tứ phẩm
Chánh ngũ phẩm
Chánh thất phẩm
Chánh thất phẩm
Tòng bát phẩm
Chánh cửu phẩm

Số lượng
biên chế
01
01

01
02
02
20
06
01
01
01
02
26
01
01

Chánh nhị phẩm
Chánh tam phẩm
Chánh tứ phẩm
Chánh lục phẩm
Chánh thất phẩm
Tòng cửu phẩm
Chánh bát phẩm
Chánh cửu phẩm
Tòng cửu phẩm
Chánh thất phẩm

02
02
02
01
01
02

02
01
01
110

Phẩm trật

Đại tư hiến
Trung thừa
Kiêm trung thừa
Tư hiến phủ
(vương triều Thị sử
Triều Tiên)
Tạp đoan
Giám sát
Thư lại
Đô ngự sử
Phó đô ngự sử
Thiêm đô ngự sử
Ngự sử đài
Đề hình Giám sát ngự sử
(Vương triều
Giám sát ngự sử 13 đạo
Hậu Lê)
Chiếu ma
Ngục thừa Sở án ngục Ngự sử
đài
Tả, hữu Đô ngự sử
Tả, hữu Phó đô ngự sử
Tả, hữu Thiêm đô ngự sử

Kinh lịch
Đô sát viện
Đô sự
(Vương triều
Tư vụ
nhà Minh)
Chiếu ma
Kiểm hiệu
Tư ngục tư
Thập tam đạo Giám sát ngự sử

Nguồn: Tổng hợp từ Thiên Nam dư hạ tập, Triều Tiên thực lục và Minh sử
Bảng thống kê trên cho thấy, ngoài sự
khác nhau về tên gọi các chức quan, phẩm
trật của trưởng quan và thuộc viên ở Tư hiến
phủ và Ngự sử đài có sự chênh lệch thường
là một bậc (Đại tư hiến hàm Tòng nhị phẩm
trong khi Đô ngự sử hàm Chánh tam phẩm.
Phẩm trật của cả hai chức quan đứng đầu
này nếu so với hàm Chánh nhị phẩm của
trưởng quan Đô sát viện đầu thời Minh thì
cũng thấp hơn từ 1 đến 2 bậc). Riêng về số
lượng biên chế thì cả hai cơ quan này về cơ
Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014

bản tương đương nhau (khoảng 30 người).
Con số này so với số lượng biên chế của Đô
sát viện nhà Minh thì thấp hơn nhiều vì nhà
Minh ngoài Đô sát viện ở kinh đô còn có Đô
sát viện ở Nam Kinh, nếu tính con số tương

đối thì tổng cộng cũng hơn 150 người cả
trưởng quan và thuộc viên5
5

蔡明伦, “明代言官群体研究”,华中师范大学 2007 博

士学位论文, 第 13 页 (Thái Minh Luân, Nghiên cứu
quần thể ngôn quan đời Minh, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư
phạm Hoa Trung, Trung Quốc).

71


Nghiên cứu khoa học
2. Quyn hn, chc trỏch
T hin ph (vng triu Triu Tiờn) v
Ng s i (vng triu Hu Lờ) tờn gi tuy
khỏc nhau song chc trỏch thỡ c bn ging
nhau. Quan viờn thuc hai c quan ny u
c gi chung l ngụn quan (ý ch chc
nng chớnh l chc quan gi li núi - tu
v hc).
T thi Cao Ly n vng triu Triu
Tiờn, chc trỏch ca quan li T hin ph
luụn c quy nh rừ rng: Nm vic bn
lun chớnh s thi cuc, ụn c v giỏm sỏt
trm quan, chnh n phong tc, lm rừ s
oan c, ngn chn nhng s tựy tin, ba
bói6. Trong Cao Ly s, chc trỏch ny cng
c nờu rừ: Gi vic bn lun chớnh s,

thi cuc, un nn v chnh n phong tc,
lm nhim v n hc v giỏm sỏt [quan li
tỏc gi chỳ]7.
Nhỡn vo chc nhim ca T hin ph,
khi so sỏnh vi Ng s i thi Lờ thỡ c bn
khụng khỏc gỡ nhau. Lch triu hin chng
loi chớ ó vit v quyn hn ca Ng s i
nh sau: n hc cỏc quan, núi bn v
chớnh s hin thi. Phm cỏc quan lm trỏi
phộp, chớnh s hin thi cú thiu sút, u
c xột hc trỡnh by, cựng l xột bn v
thnh tớch ca cỏc nha mụn lnh, Ph
doón, Trn th, Lu th, Tha ty v xột hi
cỏc v kin v ngi quyn quý kinh c hip,
v ngi cai qun h lm8.
ã 1613 (Kinh quc i
in, phn li in; bn khc in lu ti s kh Thỏi Bch
Sn nm 1613).
6

T nhng ghi chộp trong i Vit s kớ
ton th, i Vit s kớ tc biờn hay Triu
Tiờn thc lc, cú th hỡnh dung c th hn
nhng chc trỏch v quyn hn chớnh ca c
T hin ph v Ng s i nh sau:
2.1. T vn, gúp ý cho vua sa sang
chớnh lnh
Tn sut cỏc s kin cỏc quan viờn thuc
T hin ph dõng s lờn Quc vng Triu
Tiờn khuyờn can nh vua lm sao gi

sỏng o tr nc, gi nghiờm k cng triu
chớnh c Triu Tiờn thc lc chộp li rt
nhiu ln. Ngay khi Triu Tiờn Thỏi T Lý
Thnh Qu mi lờn ngụi (nm 1392), T
hin ph ó dõng s khuyờn nh vua chỳ ý
my im ct lừi trong o tr nc: Mt l
lp k cng, bc quõn vng tr quc khụng
ai khụng coi trng s an nguy ca xó tc m
li khụng lo lng n vic lp k cng... Hai
l thng pht nghiờm minh Thng pht
cụng bng, tt s sỏng t cụng o, thỡ ngi
ta khụng ai dỏm d ngh gỡ c9
Nm Triu Tiờn Thỏi Tụng nguyờn niờn
(1401), nh vua c sai s thn l Lụ Hón i
xem xột tỡnh hỡnh trong dõn gian xem cú mi
t gỡ thỡ tr b an i sc dõn. S thn tõu
rng, vic triu ỡnh ban hnh l thu cng
mi chớnh l mi t, gõy phin kh cho dõn,
d lm mt nim tin ca dõn vi triu ỡnh.
T hin ph vỡ vy ó dõng s khuyờn nh
vua phi khoan th sc dõn thu phc
nhõn tõm trong thiờn h, s vit: Mong
in h hóy chỳ tõm n li tõu by ca Lụ
Hón, h lnh xúa b quy nh v l thu cng

7

76 13, ã (Cao Ly s,
quyn 76, chớ th 13, Bỏch quan nht, T hin ph).
8

Phan Huy Chỳ (2008), Lch triu hin chng loi chớ,
Sd, tr. 585.

72

, (Triu Tiờn Lý triu
thc lc, Thỏi T nguyờn niờn thu, tht nguyt).
9

Nghiên cứu đông bắc á, số 7(161) 7-2014


Nghiªn cøu khoa häc
mới, giữ nguyên phép thu cống cũ để tăng
thêm chữ tín của Điện hạ với dân, và cũng để
dân có thêm chữ tín ở Điện hạ”10.
Những dẫn chứng trên chứng minh chức
trách rất quan trọng của Tư hiến phủ trong
việc đưa ra những góp ý giúp vua sửa sang
chính lệnh, kịp thời điều chỉnh những việc
làm chưa hợp lí trong quá trình cai trị đất
nước.
Chức trách này cũng được phát huy tương
tự đối với các quan viên thuộc Ngự sử đài
dưới triều Hậu Lê. Ngay từ thời Lê Thái Tổ,
nhà vua đã cho phép các quan viên thuộc
Ngự sử đài được phép tấu bày, góp ý nếu
“thấy trẫm có chính lệnh hà khắc, thuế má
nặng nề, hại cho lương dân, thưởng công
phạt tội không đúng, không theo phép

xưa…”11. Đến đời Lê Thái Tông, nhà vua
cũng chiếu dụ cho bá quan nếu thấy việc làm
của mình có gì lỗi lầm thì được phép “can
gián rõ ràng, giúp chỗ thiếu sót”12. Tháng 5
năm 1456, vua Lê Nhân Tông tiếp tục ban
chiếu răn dạy trăm quan phải cẩn thận làm
tròn chức vụ của mình, trong đó yêu cầu:
“Các quan ở Ngự sử đài thì nên giúp vua sửa
điều lỗi, chữa điều lầm, trừ bỏ điều ác, biểu
dương điều thiện…”13.
Thực tế cho thấy, các quan ở Ngự sử đài
triều Hậu Lê là những người đầu tiên giữ
trọng trách góp ý, khuyên can vua nếu thấy
10

“朝鲜李朝实录”, “太宗元年十二月” (Triều Tiên Lý
triều thực lục, Thái Tông nguyên niên, thập nhị nguyệt).
11
Ngô Sỹ Liên và các sử thần Hậu Lê (2004), Đại Việt sử
ký toàn thư, tập 2, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.100.
12
Ngô Sỹ Liên và các sử thần Hậu Lê (2004), Đại Việt sử
ký toàn thư, Sđd, tr.180.
13
Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử
thông giám cương mục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.
461.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014


bản thân nhà vua nói riêng và việc triều
chính nói chung có điều gì thiếu sót. Tháng
giêng năm 1435, nhận thấy vua Lê Thái
Tông có phần mải chơi, chưa chăm chỉ học
hành, phong thái thiết triều chưa nghiêm
chỉnh, các ngôn quan ở Ngự sử đài đã chỉ ra
6 điều không nên của nhà vua và khuyên vua
nên “lấy dung nghi nghiêm chỉnh của thiên tử
mà kính người đại thần, chọn người có công,
nghe lời can thẳng”14.
Những lời tâu của các quan thuộc Tư hiến
phủ (vương triều Triều Tiên) và Ngự sử đài
(vương triều Hậu Lê) có thể được vua nghe
theo, cũng có thể không nghe theo song đều
chứng tỏ tinh thần tận tâm phụng sự, dám
nói thẳng, giúp cho các bậc quân vương
nhận ra hạn chế của mình để tu thân, trị
quốc.
2.2. Chấn chỉnh phong hóa, pháp độ của
triều đình
Các quan lại ở cả Tư hiến phủ và Ngự sử
đài đều được sử chép là quan phong hiến
(chỉ người giữ gìn kỉ cương, phong hóa,
pháp độ của triều đình). Với chức trách ấy,
quan lại ở cả hai cơ quan này trước hết phải
là người sống liêm trực, gương mẫu, đảm
bảo cho trật tự, kỉ cương và phong tục trong
triều đình, ngoài dân gian được giữ nghiêm.
Các quan viên ở Tư hiến phủ dưới vương
triều Triều Tiên đã chú ý giám sát tất cả

những việc lớn nhỏ trong và ngoài triều đình,
với mong muốn uốn nắn, sửa chữa những
việc làm gây ảnh hưởng đến phong hóa,
pháp độ của quốc gia. Ví dụ, tháng 6 năm
Triều Tiên Thái Tổ thứ 3 (1394), thuộc quan
14

Ngô Sỹ Liên và các sử thần Hậu Lê (2004), Đại Việt sử
ký toàn thư, Sđd, tr.141.

73


Nghiªn cøu khoa häc
ở Tư hiến phủ là Lý Cần và các quan dâng
sớ khuyên rằng: “Ngày trước đã có lệnh cấm
rượu, hạn định vào năm lành. Nay mới trải
qua 23 ngày lại có lệnh bãi bỏ. Đương lúc
vương nghiệp mới gây dựng, nếu ban pháp
lệnh, không thể tùy tiện thay đổi. Nguyện từ
nay các sở nhà môn trong ngoài kinh tổ chức
công tư yên ẩm nghênh tiễn, phải theo lệnh
cấm từ trước.”15
Năm Triều Tiên Định Tông thứ 2 (1400),
Tư hiến phủ lại dâng sớ lên vua, nhấn mạnh
tầm quan trọng của pháp trị. Trên cơ sở đó,
các quan ở Tư hiến phủ khuyên nhà vua phải
thực hiện chế độ thưởng phạt công minh, giữ
nghiêm phép nước vì “thưởng phạt bất minh
thì kỉ cương không vững, mà phong tục cũng

không được thuần hậu vậy”16.
Những lời tâu trên của các quan viên ở Tư
hiến phủ cho thấy nỗ lực của họ trong việc
giúp vua giữ nghiêm kỉ cương triều chính,
giữ gìn phong tục tốt đẹp trong thiên hạ.
Dưới thời Hậu Lê, Ngử sử đài cũng nhiều
lần dâng sớ tư vấn cho vua các biện pháp giữ
gìn phong hóa, pháp độ của triều đình. Với
hàng ngũ quan lại các cấp, bất kì ai có biểu
hiện tỏ ý coi thường phép nước, làm bại hoại
quốc tục, gia phong, Ngự sử đài đều dâng sớ
hạch tội. Đại Việt sử kí toàn thư có chép lại
sự kiện tháng 12 năm 1434 đời vua Lê Thái
Tông như sau: Ngôn quan là Phan Thiên
Tước dâng sớ hặc tội Tiền tổng quản Lê Thụ
về các việc: đang có quốc tang mà lấy vợ,
“朝鲜李朝实录”, 太祖三年六月壬辰 (Triều Tiên Lý
triều thực lục, ngày Nhâm Thìn tháng sáu năm thứ ba đời
vua Thái Tổ).
15

“鲜李朝实录”, 定宗二年十二月 (Triều Tiên Lý triều
thực lục, Định Tông nhị niên thập nhị nguyệt).
16

74

làm nhà cửa to, sai người nhà ra cõi ngoài
mua bán riêng với người nước ngoài. Một ví
dụ khác: tháng Giêng năm 1449 thời vua Lê

Nhân Tông, quan Điện trung Thị ngự sử đã
hặc tâu Tham sự triều chính Lê Bí tập nghi
thức trái lễ, Thiếu bảo Lê Sao lấn vượt mất
thứ tự, Lễ bộ thượng thư Đào Công Soạn
không biết xét tâu lên, đều phải phạt tiền theo
các thứ bậc khác nhau17.
Các dẫn chứng này cho thấy chức trách
“giữ gìn pháp độ” của các quan lại thuộc
Ngự sử đài thời Hậu Lê đã được phát huy
cao độ. Đây là một yếu tố quan trọng góp
phần củng cố kỉ cương, pháp chế và phong
tục của triều đình trung ương thời Lê.
2.3. Giám sát, đàn hặc sai phạm của
quan lại
Giám sát, uốn nắn, phát hiện và tố cáo các
hành vi sai trái của quan lại được xem là chức
trách quan trọng hàng đầu của các quan thuộc
Tư hiến phủ hay Ngự sử đài. Thông thường
nói tới chức trách của họ, người ta hay nói tới
hai chữ “đàn hặc” (được hiểu là hạch tội
người khác). Chính chức trách này khiến cho
quyền hành của các quan viên thuộc Tư hiến
phủ hay Ngự sử đài rất lớn, dù phẩm trật của
họ có thể thấp hơn một số chức quan đại thần
trong triều đình.
Tư hiến phủ dưới vương triều Triều Tiên
đã làm khá tốt trọng trách này của mình,
nhất là trong giai đoạn đầu của vương triều.
Triều Tiên thực lục ghi lại hàng loạt sự kiện
các quan thuộc Tư hiến phủ dâng sớ hặc tội

những hành vi phạm pháp của quan lại các
nha môn.
17

Ngô Sỹ Liên và các sử thần Hậu Lê (2004), Đại Việt sử
ký toàn thư, Sđd,, tr. 138, 209.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014


Nghiên cứu khoa học
Vớ d, Triu Tiờn Thỏi T nguyờn niờn
(1392), mựa thu thỏng 7 ngy t T, T hin
ph ó dõng s hch ti Vng Khang
Thng i th sỏt tam o, nhng nhiu gõy
thúi t18
Cng thi Thỏi T, do cú hin tng quan
li i kinh lớ t ý thay i giỏ c ti vt t
tỳi nờn T hin ph ó kp thi dõng s hch
ti. Thỏng 8 nm Triu Tiờn Thỏi T nm
th 2 (1393), T hin ph li hch ti Trung
khu vin Phú s C Thnh Lóo cựng ngi
ng cp l Triu Bn i iu tra Liờu
ụng, t ý cho thay i giỏ nga tin v vi
on, nh vua bói chc ca Thnh Lóo19.
iu ỏng núi l cỏc quan T hin ph
u t ra ngay thng, cng trc trong vic
giỏm sỏt v hch ti quan li trong triu ỡnh,
ngay c khi ngi ú l i thn nm quyn
v cao trong triu ỡnh. Thỏng 2, nm Triu

Tiờn Thỏi Tụng nm th 2 (1400), Phỏn mụn
h Ph s Triu Tun phn lm Thng
tng, nhng khi quc gia nguy nan, li
cựng vi thõn ca mỡnh l Tam t Hu
bc x Quyn, Tin Trung khu vin Phú s
Trnh Trn úng ca khụng cú ng thỏi gỡ.
T hin ph ó dõng s hch ti, xin vua h
lnh tra xột ti danh, bói b chc tc ca
Triu Tun v ng bn rn nhng ngi
sau ny20. Mt s dn chng trờn chng t
cỏc quan ca T hin ph ó phỏt huy mnh
, (Triu Tiờn
Lý triu thc lc, Thỏi T nguyờn niờn thu, tht nguyt, t
T).
18

, (Triu Tiờn Lý
triu thc lc, Thỏi T nguyờn niờn, bỏt nguyt, t Du).

m vai trũ n hc ca mỡnh, khụng kiờng
s t thn v nhng nhõn vt cú quyn th
trong triu ỡnh.
Tng t nh T hin ph, mt trong
nhng chc trỏch quan trng hng u ca
Ng s i thi Hu Lờ ó c nờu rừ trong
sc d hiu nh quan ch ngy 26 thỏng 9
nm 1471 l chn chnh mi sai phm ca
bỏch quan, lm rừ mi n tỡnh ca bỏch
tớnh21.
Ng s i ó thc hin vic giỏm sỏt

hot ng ca quan li cỏc nha mụn, kp
thi phỏt hin cỏc hnh vi sai trỏi ca quan
li bỏo lờn nh vua. Thỏng 11 nm 1489
thi vua Lờ Thỏnh Tụng, triu ỡnh sai
hỡnh Giỏm sỏt ng s khỏm xột quan li
B Hỡnh, ngi no li bing gian tham,
tha hay hoón tự ti thỡ lm bn tõu lờn, theo
lut tr ti.
u thi Hu Lờ, tỡnh trng quan li lm
sai phỏp lut, lng quyn, kt bố ng khụng
phi l chuyn hi hu. Trong ú, tiờu biu
nht l trng hp ca t thn Lờ Sỏt. By
gi, Lờ Sỏt l quan i t , mi vic lm
u t rừ s lng quyn ca mỡnh. Hnh vi
ca Lờ Sỏt ó b thuc quan Ng s i l
inh Cnh An v Lờ Vnh Tớch hch ti rng:
Lờ Sỏt cú chiu mun chuyờn quyn, ti y
khú dung th c22. Li hc ca cỏc i
quan ó c vua phờ chun. Nm 1437, vua
Thỏi Tụng xung chiu bói b chc tc, sau
ú li bt Lờ Sỏt phi t t nh vi ti danh
cu kt bố ng, mu hi trung lng. Trong

19

, (Triu Tiờn Lý
triu thc lc, inh Tụng nh niờn, nh nguyt, t Hi).
20

Nghiên cứu đông bắc á, số 7(161) 7-2014


21

Thiờn Nam d h tp, tp IX, in trong: Mt s vn bn in
ch v phỏp lut Vit Nam, Sd, tr.367.
22
Ngụ S Liờn v cỏc s thn Hu Lờ (2004), i Vit s ký
ton th, Sd, tr.165 166.

75


Nghiªn cøu khoa häc
vụ án Lê Sát, các quan Ngự sử đài đã có công
không nhỏ trong việc dũng cảm đấu tranh với
thói lộng quyền, kéo bè kết đảng của các tể
thần nhằm lũng đoạn triều đình.
Bên cạnh đó, các quan Ngự sử đài thời
Hậu Lê cũng tích cực thu thập bằng chứng
và đưa ra ánh sáng nhiều hiện tượng quan lại
tham ô, lợi dụng chức quyền để tư lợi. Tháng
5 năm 1456 thời vua Lê Nhân Tông, quan
Ngự sử Trung thừa Phạm Du, Phó Trung
thừa Trình Văn Huy, Giám sát ngự sử là bọn
Trình Xác, Bùi Hựu hặc tâu quản lĩnh quân
nghĩa vụ vệ là Nguyễn Nghiên Thông trong
kỳ tập quân năm nay sai quân nhân làm việc
tư, còn thì về cho về nhà để lấy tiền cho
mình, xin trị tội để răn người khác23.
Việc phát giác và tố cáo kịp thời các hiện

tượng tham ô cụ thể như vậy cho thấy các
Đài quan thời này đã khá tích cực trong việc
phát huy vai trò của mình trong các cơ quan
thanh tra, giám sát quan lại thời Hậu Lê.
Bên cạnh một số chức trách quan trọng
nêu trên, Tư hiến phủ dưới vương triều Triều
Tiên và Ngự sử đài dưới vương triều Hậu Lê
còn có chức trách và các nhiệm vụ kiêm
nhiệm khác như tham gia khảo xét thành tích
của quan lại để làm cơ sở thăng giáng, công
đồng thẩm xét các vụ hình án quan trọng…
Trong khuôn khổ bài viết này, các nhiệm vụ
đó không đi sâu phân tích.
3. Đóng góp và hạn chế
3.1. Đóng góp
Tư hiến phủ, Ngự sử đài là bộ phận quan
trọng bậc nhất trong số các cơ quan có chức
năng thanh tra, giám sát quan lại để giữ gìn

trật tự, kỉ cương triều chính dưới vương triều
Triều Tiên và vương triều Hậu Lê.
Với trách nhiệm là chức quan “giữ lời
nói” (ngôn quan), các quan lại thuộc Tư hiến
phủ và Ngự sử đài đã hết lòng can gián và tư
vấn cho vua trong điều hành chính sự, bất
chấp cả nguy cơ bị cách chức hay xử tội vì
dám dâng lời nói thẳng. Nhờ hết lòng can
gián với vua mà ít nhiều, một số chính lệnh
chưa đúng của triều đình đã được thu lại,
bản thân nhà vua cũng nhờ đó mà tự thấy

cần phải sửa mình để trị thiên hạ. Chẳng hạn,
năm Triều Tiên Định Tông thứ 2 (1400), Tư
hiến phủ dâng sớ khuyên nhà vua 11 điều:
“Coi sóc việc hiếu đễ, thu nạp quan gián nghị,
lập triều đình kỉ cương, minh bạch chuyện
thưởng phạt, tiết kiệm tài dụng, cẩn trọng
việc săn bắn, tiến cử người trung trực, trừ bỏ
kẻ nịnh hót, ưa chuộng sự kiệm giản, chú
trọng việc thủ lệnh, không nhẹ lòng dễ dãi”24.
Lời khuyên trên đã được vua Định Tông
nghe theo. Chỉ qua dẫn chứng như vậy cũng
đáng để chúng ta suy ngẫm và đánh giá về
vai trò và mối quan hệ của các “phong hiến
quan” với vua dưới cả hai vương triều.
Trong bộ máy hành chính nhà nước, Tư
hiến phủ và Ngự sử đài được coi là hai cơ
quan đáng sợ đối với bọn quyền thần nghịch
đảng, tham quan ô lại (dù trên thực tế phẩm
trật của họ không phải quá cao)… Sự giám
sát, kịp thời phát hiện và báo cáo với triều
đình những hành vi sai trái, gây tổn hại đến
phong hóa, pháp độ của triều đình từ Tư hiến
phủ và Ngự sử đài đã phần nào giúp cho kỷ

23

24

Ngô Sỹ Liên và các sử thần Hậu Lê (2004), Đại Việt sử ký
toàn thư, Sđd, tr.232.


76

“鲜李朝实录”, 定宗二年十一月 (Triều Tiên Lý triều
thực lục, Đinh Tông nhị niên thập nhất nguyệt).

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014


Nghiªn cøu khoa häc
cương triều chính của hai vương triều được
duy trì ổn định. Không ít người trong số các
thuộc quan ở Tư hiến phủ và Ngự sử đài đã
được sử cũ ghi lại như là những tấm gương
sáng về sự chính trực, ngay thẳng, không e nể
quyền thế, thậm chí còn chấp nhận đánh đổi
cả con đường hoạn lộ cũng như sinh mạng
của bản thân để làm tròn chức trách của
mình.
Triều Tiên thực lục chép lại câu chuyện về
quan Đại tư hiến Lý Thư - người đứng đầu
Tư hiến phủ thời Triều Tiên Thái Tổ cầm
quyền. Lý Thư vốn là người “khẳng khái, có
khí tiết, luôn dùng lời nói thẳng. Mỗi khi được
triệu nhập đối chất, hoàn toàn không dùng lời
nịnh bợ” 25.
Tương tự, Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép
sự kiện tháng 11 năm 1437, vua Lê Thái Tông
cho Trần Hiển giữ chức Thị ngự sử vì “Hiển
không nể người quyền thế, có thể làm chức

phong hiến [tức chức quan Ngự sử - tác giả
chú] được”26
Với việc làm hết chức trách của mình,
đúng như lời Ngự sử Trung thừa Phạm Du
từng tâu với vua Lê Nhân Tông: “Bọn chúng
tôi lạm dự chức ngôn quan, không thể kiêng
sợ người quyền thế, cũng không im lặng
không nói, đúng như lời bệ hạ đã dạy”27, các
quan lại ở Tư hiến phủ và Ngự sử đài của hai
vương triều đã góp phần không nhỏ trong
việc phát huy vai trò của cơ quan thanh tra,
giám sát trong việc từng bước xây dựng và
“朝鲜李朝实录”, 太祖三年十月丙子 (Triều Tiên Lý
triều thực lục, Thái Tổ tam niên thập nguyệt, Bính Tý).
26
Ngô Sỹ Liên và các sử thần Hậu Lê (2004), Đại Việt sử ký
toàn thư, Sđd, tr.173.
27
Ngô Sỹ Liên và các sử thần Hậu Lê (2004), Đại Việt sử
ký toàn thư, Sđd, tr.227.
25

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014

phát triển thể chế quân chủ tập quyền.
3.2. Hạn chế
Bên cạnh những “ngôn quan” cương trực,
luôn đấu tranh cho lẽ phải để bảo vệ kỉ
cương, pháp độ của triều đình thì cả Tư hiến
phủ (vương triều Triều Tiên) và Ngự sử đài

(vương triều Hậu Lê) vẫn còn những viên
quan chưa làm hết chức trách của mình.
Trong thành phần nhân sự của Tư hiến
phủ, có người mẫn cán, cũng có kẻ tắc trách,
bị các cơ quan khác phản ánh, hạch tội
ngược trở lại vì tội tắc trách trong công việc.
Năm Định Tông thứ 2 (1399): “Môn hạ phủ
hạch tội Tư hiến Tạp đoan là Mẫn Công Sinh.
Trước có việc Trương Tư Tĩnh giết người
thiếp của Nam Cung Thứ, con của người bị
hại mới kêu oan lên Hiến phủ. Công Sinh lấy
cớ nhân chứng chưa đủ, không thụ lí nên bị
Lang Xá [tên gọi khác của Tư gián viện– tác
giả chú] hạch tội”28. Ngoài thái độ tắc trách,
quan liêu trong công việc, một số viên quan
thuộc Tư hiến phủ tuy giữ trọng trách là
người giữ nghiêm phép nước, nhưng bản
thân lại có những hành vi không chuẩn mực,
gây ảnh hưởng xấu đến kỉ cương, phong hóa
của triều đình. Năm Triều Tiên Thái Tông
nguyên niên (1401), quan Đại tư hiến Lý
Nguyên phạm tội đêm muộn mới về nhà, bị
Tuần quan hộ quân bắt giải rồi mới tha cho.
Các quan ở Tư gián viện biết chuyện đã
dâng sớ hạch tội: “Đại tư hiến Lý Nguyên là
người đứng đầu cơ quan giữ cương kỉ, mọi
việc xuất nhập động tĩnh, không thể cẩu thả”.
Sau vụ việc này, Lý Nguyên đã bị bãi chức
“朝鲜李朝实录”, 定宗元年九月辛未 (Triều Tiên Lý
triều thực lục, Đinh Tông nguyên niên, cửu nguyệt, Tân

Mùi).
28

77


Nghiªn cøu khoa häc
Đại tư hiến29.
Ngự sử đài đầu thời Hậu Lê cũng có
những trường hợp tương tự. Ngoài số đông
các quan viên liêm khiết, cương trực, dám
nghĩ, dám nói vẫn còn một bộ phận thiểu số
những thuộc quan thiếu trách nhiệm trong
công việc, không giữ được phẩm chất đáng
có của “ngôn quan”. Chẳng hạn, Đại Việt sử
ký toàn thư có chép về sự kiện năm 1448 đời
vua Lê Nhân Tông, biên giới phía đông có tin
đồn rằng nước Minh sai sứ sang hội khám địa
giới. Triều đình sai người đi dò xét hư thực,
các quan lại nhân dịp ấy đua nhau nói dối vua
để trục lợi tiền của, Ngự sử đài quan là bọn
Hà Lật biết rõ nhưng lại “vào hùa với nhau,
không tâu hặc lên”30.
Bên cạnh hiện tượng quan ngự sử Hà Lật
“tát nước theo mưa” còn có một số viên
quan khác tỏ ra e sợ quyền uy, không dám
đấu tranh với những điều sai trái của bọn
quyền thần. Thời Lê Nhân Tông, Thái úy Lê
Thụ nhân việc con trai mình kết hôn cùng
Vệ quốc trưởng công chúa đã nhận hối lộ

bừa bãi, Ngự sử quan là Đồng Hanh Phát
trước còn đem việc ấy tâu lên, nhưng sau
thấy Lê Thụ vẫn chứng nào tật ấy thì lại
“không đề cập đến việc đó nữa, rồi lại đem đồ
lễ đến nhà Lê Thụ và nói xin lỗi!”31. Trường
hợp khác cũng xảy ra vào thời Lê Nhân
Tông: Con trai Đại đô đốc Lê Khuyển là Lê
Quán Chi ban đêm họp nhau đánh giết người
ở giữa kinh đô. Vụ việc bị phát giác, Quán
“朝鲜李朝实录”, 太宗元年九月 (Triều Tiên Lý triều
thực lục, Thái Tông nguyên niên, cửu nguyệt).
30
Ngô Sỹ Liên và các sử thần Hậu Lê (2004), Đại Việt sử
ký toàn thư, Sđd, tr.194, 201.
31
Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử
thông giám cương mục, Sđd, tr. 451.

Chi cùng hơn 10 người khác là nội quan và
con trai của những người có chức trách bị hạ
ngục. Khi án sắp xử xong thì Thái hậu can
thiệp, hạ lệnh tha cho Quán Chi và chỉ thu
tiền đền mạng. Trước hiện tượng đó, “các
quan trong Ngự sử đài là bọn Lê Lâm không
dám nói”32.
Ngoài ra, sử nhà Lê còn cho biết thêm một
số quan lại khác thuộc Ngử sử đài phạm tội cố
ý làm trái pháp luật như: Giám sát ngự sử
Quản Công Thiêm (phạm tội dung túng kẻ đưa
hối lộ), Đô ngự sử Trần Xác (phạm tội bảo cử

người bậy)33... Những hiện tượng kể trên phần
nào đã làm mất đi hình ảnh và phẩm chất ngay
thẳng, liêm khiết, chí công vô tư vốn có của
Ngự sử đài thời Lê.
Đương nhiên, những những hiện tượng
tiêu cực của một số quan lại thuộc Tư hiến
phủ và Ngự sử đài kể trên không khiến
chúng ta dễ dàng phủ nhận một cách sạch
trơn những đóng góp và cống hiến của đại đa
số các quan lại thuộc hai cơ quan đối với sự
phát triển chung của hai vương triều.
*
*
*
Cùng giữ chức năng là cơ quan tư vấn cho
hoàng đế, giám sát và đàn hặc quan lại, Tư
hiến phủ (vương triều Triều Tiên) và Ngự sử
đài (vương triều Hậu Lê) có nhiều đặc điểm
chung về cơ cấu tổ chức, chức trách, nhiệm
vụ và cả đóng góp, hạn chế. Tuy nhiên, hai
cơ quan này cũng có những điểm khác nhau
về biên chế tổ chức, về phẩm trật quan lại và

29

78

32

Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử

thông giám cương mụ Sđd, tr. 457.
33
Ngô Sỹ Liên và các sử thần Hậu Lê (2004), Đại Việt sử
ký toàn thư, Sđd, tr.276, 290.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014


Nghiên cứu khoa học
s phõn cụng phõn nhim khi t trong mi
quan h vi cỏc c quan khỏc. S khỏc bit
v tờn gi cỏc chc quan v c quan trc
thuc T hin ph v Ng s i cho phộp
ngh rng, cựng l nh hng t mụ hỡnh
quan ch Trung Quc nhng vng triu
Triu Tiờn ch yu nh hng t t chc
quan ch ca nh ng v nh Tng trong
khi vng triu Hu Lờ, t sau ci cỏch ca
Lờ Thỏnh Tụng li nh hng ch yu t t
chc quan ch ca nh Minh. iu ny gi
cho chỳng ta ngh rng, nu t cp ụi T
hin ph v T giỏn vin ca vng triu
Triu Tiờn trong s i sỏnh vi Ng s i
v Lc khoa thi Hu Lờ thỡ s tng ng
v khỏc bit gia h thng thanh tra, giỏm
sỏt ca hai vng triu ny cũn th hin rừ
rt v cú chiu sõu hn. Mong mun ca bi
vit ny l gúp phn t c s cho nhng
nghiờn cu chuyờn sõu hn nh th./.


i Vit s ký ton th (bn dch), tp 2, Nxb
Vn húa thụng tin, H Ni.
6. Thỏi Minh Luõn (2007), Nghiờn cu qun
th ngụn quan thi Minh, Lun ỏn Tin s Lch s,
i hc S phm Hoa Trung, Trung Quc (
, 2007
).
7Nguyn Ngc Nhun (Ch biờn, 2006), Mt
s vn bn in ch phỏp lut Vit Nam, Tp 1,
Nxb Khoa hc xó hi, H Ni.
8. Quc s quỏn triu Nguyn (1998), Khõm
nh Vit s thụng giỏm cng mc (bn dch),
Nxb Khoa hc xó hi, H Ni.
9. Triu Tiờn Lý triu thc lc, phn Thỏi T
thc lc, nh Tụng thc lc, Thỏi Tụng
thc lc (, ,
, ).

TI LIU THAM KHO
1. Cao Ly s, quyn 76, chớ th 30, phn
Bỏch quan, T hin ph76
13, ã .
2. Phan Huy Chỳ (2008), Lch triu hin
chng loi chớ (bn dch), tp 1, Nxb Giỏo dc,
H Ni.
3. Phan Ngc Huyn (2011), i quan thi
Lờ s, Tp chớ Nghiờn cu Lch s, s 11 (32 44).
4. Kinh quc i in, phn Li in, bn khc
in lu ti S kh Thỏi Bch Sn nm Vn Lch
th 41 (1613) (ã 1613

).
5. Ngụ S Liờn v cỏc s thn Hu Lờ (2004),

Nghiên cứu đông bắc á, số 7(161) 7-2014

79



×