Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Bài Giảng Sinh Lý Học ĐH Y Dược Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.72 MB, 162 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
BỘ MÔN SINH LÝ

BÀI GIẢNG SINH LÝ HỌC
(Sau đại học)

/>
Cần Thơ – 2014


MỤC LỤC

Sinh lý màng bào tương tế bào ...................................................................... 1
Sinh lý cầm máu .......................................................................................... 25
Sinh lý niêm mạc đường hô hấp .................................................................. 48
Sinh lý tiết niệu ............................................................................................ 64
Sinh lý chuyển hóa xương ........................................................................... 79
Sinh lý đường huyết................................................................................... 100
Sinh lý lipid máu và chuyển hóa lipid máu ............................................... 119
Sinh lý synap ............................................................................................. 138


SINH LÝ MÀNG BÀO TƯƠNG TẾ BÀO
Con người là một sinh vật đa bào mà mỗi tế bào vừa là đơn vị cấu tạo vừa là
đơn vị chức năng của cơ thể. Tế bào là một đơn vị sống bởi vì nó tự chuyển hóa, tự
sinh sản, tự thích nghi, tự điều hòa và từ chúng các mô sống, cơ quan sống và cơ thể
sống được hình thành, duy trì và phát triển. Trong tế bào, màng đóng vai trò chủ yếu vì
nó chiếm khoảng 80% khối lượng tế bào. Màng tế bào bao gồm: màng bào tương
(màng bề mặt tế bào) và màng các bào quan (màng lưới nội nguyên sinh, màng ty thể,
màng Golgi, màng nhân...).
1. CẤU TRÚC-CHỨC NĂNG CỦA MÀNG BÀO TƯƠNG TẾ BÀO


Màng bào tương tế bào mỏng, đàn hồi, dày 7,5 - 10 nm, được cấu tạo bởi các
thành phần chính là lipid, protein và glucid mà chủ yếu là lipid và protein.
Dịch ngoại bào

Dịch nội bào

Hình 1. Cấu trúc màng bào tương tế bào
1.1. Thành phần lipid của màng
Thành phần lipid gồm chủ yếu là phospholipid và cholesterol.
1.1.1. Phospholipid
- Cấu hình: các phân tử phospholipid tạo thành lớp lipid kép (phospholipid bilayer)
mỏng, mềm mại, có thể uốn khúc, trượt đi trượt lại và dễ biến dạng. Phospholipid
là một chất phân cực chúng có một đầu kỵ nước là gốc acid béo và một đầu ưa
nước là gốc phosphat. Nền móng tạo nên màng sinh học là tính chất kỵ nước của
gốc acid béo khiến chúng bị dịch ngoại bào và dịch nội bào đẩy quay vào trong,
gặp nhau, hấp dẫn nhau và nằm ở trung tâm của màng. Đầu ưa nước nằm ở hai
phía của màng, tiếp xúc với dịch nội bào và dịch ngoại bào. Mỗi nửa của lớp
phospholipid kép tạo nên một tấm lá (leaflet).
1


- Chức năng: lớp phospholipid kép là đơn vị cấu trúc cơ bản của màng sinh học,
các thành phần khác sẽ khảm vào trong đó tạo thành cấu trúc ngăn cách tế bào
với môi trường xung quanh. Bên cạnh đó lớp phospholipid cũng tham gia vận
chuyển các chất qua màng bằng khoảng kẽ giữa các phân tử phospholipid hoặc
bằng cơ chế hòa màng.
1.1.2. Cholesterol
- Cấu hình: cholesterol phần nhiều ở dạng este hóa, liên kết lỏng lẻo với màng. Nó
cũng có hai đầu, một đầu ưa nước là gốc hydroxyl hướng ra ngoài và một đầu là
kỵ nước là nhân steroid vùi vào trong lớp phospholipid kép.

- Chức năng: quyết định tính lỏng của màng.
1.2. Thành phần protein của màng
Các phân tử protein được khảm vào trong lớp phospholipid kép. Dựa vào liên
kết trong cấu trúc màng, protein được chia làm hai loại: protein xuyên màng (intergral
membrane protein) và protein ngoại vi (peripheral membrane protein).
1.2.1. Protein xuyên màng
- Cấu hình: protein này nằm xuyên qua màng, thò 2 đầu ra ngoài và được khảm
vào trong lớp phospholipid kép bằng ba cách liên kết: liên kết ion với những
nhóm có cực của lipid, liên kết kỵ nước với khoảng giữa chứa đựng chuỗi acyl
của lipid màng và những liên kết đặc biệt với những cấu trúc nhất định của lipid
màng (như những vùng chứa cholesterol hoặc các phức hợp glycolipid).
- Chức năng: protein xuyên màng chủ yếu là các protein vận chuyển (gồm protein
kênh, protein mang có tính chất enzym và protein mang không có tính chất
enzym), protein kháng nguyên và các protein nhận diện.
1.2.2. Protein ngoại vi
- Cấu hình: protein này bám vào một bên màng, thường là mặt trong. Chúng
thường được nối với màng hoặc gián tiếp bởi ảnh hưởng qua lại với protein
xuyên màng hoặc trực tiếp bởi tác dụng với những nhóm phân cực của lipid.
- Chức năng: protein ngoại vi là các protein enzym, ngoài ra cũng có thể là các cấu
trúc sợi và ống siêu vi nằm dưới màng tạo bộ khung cho màng và thực hiện chức
năng co rút.

2


1.3. Thành phần glucid của màng
- Cấu hình: các phân tử glucid mà thành phần hóa học chính là oligosaccharid kết
hợp với bề mặt ngoài tế bào của protein màng tạo thành glycoprotein hoặc lipid
màng tạo thành glycolipid. Ngoài ra còn có các hợp chất glucid gọi là
proteoglycan gồm các phân tử glucid bám xung quanh một cái lõi nhỏ protein.

Như vậy, các phân tử glucid đã tạo thành một lớp áo lỏng lẻo, lắc lư, phủ bên
ngoài của màng bào tương tế bào, được gọi là glycocalyx.
- Chức năng: lớp áo glycocalyx có 4 chức năng chính là đẩy các phân tử tích điện
âm do tính tích điện âm, làm các tế bào dính vào nhau do áo glucid tế bào này
bám vào áo glucid tế bào khác, hoạt động như những receptor của hormon và
tham gia vào các phản ứng miễn dịch .
2. HOẠT ĐỘNG CHỨC NĂNG CỦA MÀNG BÀO TƯƠNG TẾ BÀO
Màng bào tương tế bào thực hiện nhiều hoạt động chức năng quan trọng như
phân cách tế bào với môi trường xung quanh, vận chuyển các chất qua màng tế bào,
kết dính tế bào và tương tác tế bào.
2.1. Phân cách tế bào với môi trường xung quanh
Màng bào tương tế bào phân cách các thành phần bên trong tế bào với môi
trường xung quanh do đó tạo cho tế bào thành một tổ chức sống độc lập tương đối với
môi trường xung quanh. Các thành phần trong tế bào gồm có:
- Các bào quan của tế bào: nhân, ty thể, mạng lưới nội bào tương, ribosom,
lysosom, bộ golgi...
- Dịch trong tế bào còn gọi là dịch nội bào: dịch nội bào chứa protein và một lượng
lớn ion K+, Mg++, phosphat, sulfat so với dịch ngoại bào chứa chủ yếu các chất
dinh dưỡng cho tế bào như oxy, glucose, acid amin, acid béo và một lượng lớn
ion Na+, Cl-, HCO3-.
2.2. Vận chuyển các chất qua màng tế bào
Tuy tế bào là một tổ chức sống độc lập nhưng nó vẫn có mối liên hệ với môi
trường xung quanh thông qua hoạt động vận chuyển các chất qua màng bào tương tế
bào. Có hai chiều vận chuyển: từ ngoài vào và từ trong ra khỏi tế bào. Có hai cách
thức vận chuyển: vận chuyển qua các phân tử cấu tạo lên màng bào tương tế bào và
vận chuyển bằng một đoạn màng bào tương tế bào.
3


2.2.1. Vận chuyển qua các phân tử cấu tạo lên màng bào tương tế bào

Đây là quá trình vận chuyển có chọn lọc các chất và phụ thuộc vào đặc tính của
các phân tử cấu tạo lên màng bào tương tế bào.
2.2.1.1. Vận chuyển qua lớp lipid kép
- Hình thức vận chuyển: vận chuyển thụ động theo lối khuếch tán đơn giản qua
khoảng kẽ giữa các phân tử của lớp lipid kép.
- Chất được vận chuyển: các chất hòa tan trong lipid như O2, CO2, nitơ, acid béo,
vitamin tan trong dầu A, D, E, K, rượu ... Mặc dù nước không hòa tan trong lipid
nhưng một phần nước vẫn có thể khuếch tán qua lớp lipid kép vì kích thước của
chúng nhỏ nhưng động năng của chúng lại rất lớn nên chúng có thể xuyên qua
lớp lipid kép như những “viên đạn” (bullets).
- Tính chất của lớp lipid kép: các ion không thể thấm qua lớp lipid kép cho dù kích
thước của chúng rất nhỏ bởi vì: các ion mang điện làm cho rất nhiều phân tử
nước gắn xung quanh (hiện tượng hydrat hóa) nên kích thước thực của chúng bị
tăng lên rất nhiều, mặt khác điện tích của các ion phản ứng với điện tích của lớp
lipid kép khiến chúng không đi qua được.
- Tốc độ khuếch tán: tốc độ khuếch tán phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có khả
năng hòa tan của chất khuếch tán trong lipid. Tốc độ khuếch tán của CO2 gấp 20
lần O2.
2.2.1.2. Vận chuyển qua các protein xuyên màng
* Vận chuyển qua các protein kênh:
- Hình thức vận chuyển: vận chuyển thụ động theo lối khuếch tán đơn giản qua
kênh protein.
- Chất được vận chuyển: nước và các chất hòa tan trong nước.
- Tính chất của kênh:
 Tính chọn lọc chất khuếch tán do đặc điểm về đường kính, hình dạng và điện
tích của kênh.
 Tính chất đóng mở bằng cổng, sự đóng mở các kênh được kiểm soát bằng một
trong hai cách: đóng mở do điện thế, đóng mở do ligand.
- Tốc độ khuếch tán: tốc độ khuếch tán phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có số
lượng kênh trên một đơn vị diện tích màng.

- Ví dụ: 3 loại kênh quan trọng
4


 Kênh Na+: kích thước 0,3x0,5nm, mặt trong tích điện âm mạnh. Cổng kênh
nằm ở mặt ngoài màng bào tương tế bào, cổng đóng khi bên trong tế bào tích
điện âm rất mạnh và mở ra đột ngột khi bên trong tế bào mất điện tích âm đó
cho phép ion Na+ đi từ ngoài vào trong tế bào.
 Kênh K+: kích thước 0,3x0,3nm, mặt trong không tích điện âm. Cổng kênh
nằm ở mặt trong màng bào tương tế bào, cổng mở khi bên trong tế bào trở
thành điện tích dương cho phép ion K+ đi từ trong ra ngoài tế bào.
 Kênh Ca++: thời gian hoạt hóa của kênh này rất chậm, chậm hơn kênh Na+ từ
10-20 lần vì vậy kênh Ca++ được gọi là kênh chậm trong khi kênh Na+ là kênh
nhanh. Kênh này cho phép Ca++ và Na+ đi từ ngoài vào trong tế bào.
* Vận chuyển qua các protein mang không có tính chất enzym:
- Hình thức vận chuyển: vận chuyển thụ động theo lối khuếch tán được tăng cường
qua các protein mang không có tính chất enzym.
- Chất được vận chuyển: chất hữu cơ có kích thước lớn như glucose, acid amin.
- Tính chất của protein mang: chất được vận chuyển gắn vào protein mang làm cho
protein mang thay đổi cấu hình và mở ra ở phía bên kia của màng. Do lực liên
kết giữa chất được vận chuyển và protein mang yếu nên chuyển động nhiệt của
chất được vận chuyển sẽ tách nó ra khỏi protein mang và giải phóng vào phía đối
diện.
Chất được vận chuyển

Điểm
gắn
Chất mang
thay đổi cấu
hình


Phóng
Hình 2. Cơ chế khuếch thích
tán dược tăng cường
- Tốc độ khuếch tán: tốc độ khuếch tán phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có số
lượng protein mang trên một đơn vị diện tích màng do đó tốc độ khuếch tán có
giá trị tối đa (sự bảo hòa của vận chuyển).
- Ví dụ: glucose được hấp thu vào tế bào bằng cơ chế khuếch tán được tăng cường,
insulin làm tăng tốc độ khuếch tán lên 10-20 lần do làm tăng số lượng các protein
mang.
5


* Vận chuyển qua các protein mang có tính chất enzym
- Hình thức vận chuyển: vận chuyển chủ động theo lối sơ cấp qua các protein
mang có tính chất enzym (bơm).
- Chất được vận chuyển: các ion như Na+, K+, Ca++, H+, Cl-.
- Tính chất của protein mang: protein mang vừa đóng vai trò là chất chuyên chở để
chất được vận chuyển gắn vào vừa đóng vai trò là một enzym thủy phân ATP để
lấy năng lượng. Năng lượng đó sẽ làm thay đổi cấu hình của protein mang giúp
chúng bơm các chất được vận chuyển qua màng.
- Tốc độ vận chuyển: vận chuyển tích cực cũng bị bảo hòa giống như khuếch tán
dược tăng cường. Khi nồng độ chất được vận chuyển thấp, tốc độ vận chuyển
tăng tỷ lệ thuận với sự tăng nồng độ. Ở nồng độ cao, sự vận chuyển đạt mức tối
đa (Vmax). Sự bảo hòa là do: tốc độ các phản ứng hóa học lúc gắn hoặc lúc giải
phóng chất được vận chuyển khỏi chất mang và thời gian cần cho sự thay đổi
hình dạng của protein mang.
- Ví dụ:
 Bơm Na+-K+-ATPase: hiện diện ở tất cả tế bào trong cơ thể, gồm hai protein
hình cầu, trong đó protein lớn có 3 vị trí receptor gắn với Na+ ở phía trong tế

bào và 2 vị trí receptor gắn với K+ ở phía ngoài tế bào. Phần phía trong bơm
gần receptor của Na+ có men ATPase hoạt động. Khi bơm hoạt động sẽ bơm 2
K+ từ ngoài vào trong tế bào và 3 Na+ từ trong ra ngoài.

Hình 3. Hoạt động của bơm Na+-K+-ATPase
 Bơm Ca++: hiện diện ở hầu hết tế bào trong cơ thể, khi bơm hoạt động sẽ bơm
Ca++ từ trong ra ngoài tế bào duy trì nồng độ Ca++ thấp trong tế bào.
* Vận chuyển phối hợp qua các protein mang có và không có tính chất enzym
- Hình thức vận chuyển: vận chuyển chủ động theo lối thứ cấp qua sự phối hợp của
các protein mang.
- Chất được vận chuyển: các chất hữu cơ như glucose, acid amin và các ion.
6


- Tính chất của sự phối hợp các protein mang: protein mang thứ nhất có tính chất
enzym hoạt động theo cơ chế vận chuyển chủ động sơ cấp tạo ra một bậc thang
nồng độ của ion. Năng lượng được giải phóng từ bậc thang nồng độ ion cho phép
protein mang thứ hai không có tính chất enzym vận chuyển ion theo bậc thang
nồng độ và chất cùng vận chuyển khác ngược bậc thang nồng độ.
- Tốc độ vận chuyển: tương tự vận chuyển chủ động sơ cấp.
- Ví dụ:
 Đồng vận chuyển thuận (co-transport) với Na+ của glucose và acid amin ở tế
bào biểu mô ống tiêu hóa và ống thận để hấp thu các chất này vào máu.

Hình 4. Cơ chế đồng vận chuyển thuận Na+ - Glucose
 Đồng vận chuyển nghịch (counter-transport) với Na+ của K+ hoặc H+ ở tế bào
biểu mô ống lượn xa và ống góp để tái hấp thu Na+ và bài tiết K+ hoặc H+ trao
đổi.
2.2.2. Vận chuyển bằng một đoạn màng bào tương tế bào
2.2.2.1. Hiện tượng nhập bào (endocytosis)

* Thực bào (phagocytosis):
- Bản chất: là hiện tượng tế bào nuốt vi khuẩn, mô chết, bụi... Chỉ một số tế bào có
khả năng này đó là các đại thực bào ở mô và và các bạch cầu.
- Cách thức thực bào: màng bào tương tế bào kết dính với chất được thực bào. Phía
trong màng bào tương tế bào sát với những chỗ kết dính này là một mạng lưới
các sợi protein có cấu tạo bởi các sợi actin và myosin. Các sợi này sẽ co rút với
năng lượng từ ATP làm cho màng bào tương lõm vào trong và dần dần hình
thành túi thực bào tách khỏi màng bào tương đi vào bên trong tế bào. Phần màng
bào tương còn lại kết hợp lại với nhau bằng cơ chế hòa màng.

7


* Ẩm bào (pinocytosis):
- Bản chất: là hiện tượng tế bào nuốt các dịch lỏng và các chất tan có kích thước
nhỏ... Ẩm bào xảy ra liên tục ở màng hầu hết các tế bào trong cơ thể.
- Cách thức ẩm bào: các chất được ẩm bào đến tiếp xúc với màng bào tương tế bào
và hiện tượng ẩm bào diễn ra tương tự cơ chế thực bào.

Hình 5. Cơ chế ẩm bào
2.2.2.2. Hiện tượng xuất bào (exocytosis):
- Bản chất: là hiện tượng tế bào bài tiết các chất được tổng hợp trong tế bào như
hormon, chất truyền đạt thần kinh hoặc các chất cặn bã (residual body) sau quá
trình tiêu hóa ra khỏi tế bào
- Cách thức xuất bào: các chất bài tiết được đóng gói trong các túi và được vận
chuyển đến màng bào tương tế bào nhờ năng lượng ATP. Tại đây, bằng cơ chế
hòa màng các túi này mở thông ra bên ngoài giải phóng các chất bài tiết và trở
thành một phần của màng bào tương tế bào.
2.3. Kết dính tế bào
Màng bào tương tế bào với hệ thống các phân tử kết dính trong lớp áo

glycocalyx cho phép kết dính tế bào với tế bào hoặc tế bào với các đại phân tử
collagen, fibrinogen, heparin... Với sự kết dính này các tế bào được cố định, đây là cơ
sở để xây dựng nên các mô, các cơ quan và cơ thể toàn vẹn. Không chỉ có ý nghĩa hình
thái, sự kết dính này còn giúp các tế bào trao đổi với nhau về vật chất cũng như các tín
hiệu trong quá trình sống và hơn thế nữa nó còn có thể đóng vai trò quan trọng trong
quá trình biệt hóa và phát triển tế bào. Sự kết dính được thực hiện theo các cơ chế: tác
dụng tương hỗ giữa các nhóm chức hóa học, cầu nối trung gian của các ion hóa trị 2+,

8


lực tĩnh điện giữa hai tế bào. Có một số mô hình kết dính đã được nghiên cứu như kết
dính kiểu enzym-cơ chất, kiểu protome bổ xung và bởi fibronectin.
2.3.1. Kết dính kiểu enzym-cơ chất
Lớp áo glycocalyx bao phủ bên ngoài màng bào tương tế bào làm cho lớp áo
của tế bào này xen lẫn và kết dính vào lớp áo của tế bào kia. Nhiều phân tử kết dính
đặc hiệu đã được phát hiện đặc biệt là các glycoprotein với các gốc ose (hydratcarbon)
của tế bào này kết dính với enzym glycosyl – transferase của tế bào kia. Sự kết dính
này là kiểu kết dính enzym-cơ chất đặc hiệu và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện môi
trường như pH, nhiệt độ, nồng độ ion... Lý thuyết về sự kết dính này cho phép giải
thích sự bền vững trong gắn kết giữa các tế bào vì đó là liên kết đồng hóa trị. Di căn
trong bệnh ung thư do các tế bào ung thư có sự khóa các enzym bề mặt và xuất hiện sự
kết dính xảy ra trên cùng một tế bào chứ không phải tế bào này với tế bào kia.
Hydratcarbon

Glucosyl transferase

Hydratcarbon

Glucosyl transferase

Tế bào bình thường

Tế bào ung thư

Hình 6. Kết dính tế bào theo kiểu hydratcarbon với glycosyl – transferase
* Ví dụ điển hình: kết dính bởi fibronectin
- Bản chất: fibronectin là một phân tử glycoprotein, trong lượng phân tử 200.000250.000. Thành phần cấu tạo gồm 2 phần: phần protein với nhiều acid amin như
tyrosin, lysin, glutamin và nhất là prolin, nghèo cystein; phần hydratcarbon có
chứa các gốc ose tận là galactose, D-mannosamin, acid sialic và fructose. Hai
phần liên kết với nhau bằng liên kết N-glucosid. Fibronectin tồn tại ở dạng 2
chuỗi và dạng 4 chuỗi, nối với nhau bằng cầu disulfua.
- Chức năng: fibronectin tác dụng thông qua enzym glucosyl transferase làm tập
hợp các tế bào, kết dính chúng với nhau, ngăn trở sự biến hình của tế bào bằng
cách sắp thẳng hàng các tế bào trong quá trình phân chia và phát triển, đồng thời
9


tham gia vào sự biệt hóa tế bào, làm tăng sự di động của tế bào, góp phần liên kết
tế bào với các đại phân tử như collagen, fibrogen, heparin...
- Bệnh lý: trong nuôi cấy tế bào, nếu dùng protease phá hủy các phân tử
fibronectin trên bề mặt tế bào thì các tế bào nuôi cấy phát triển theo hướng ác
tính nghĩa là sinh sản và phân chia hỗn loạn thành nhiều lớp và tạo nên khối u,
nhưng khi cho thêm fibronectin vào môi trường nuôi cấy thì sự phát triển tế bào
trở lại bình thường. Người ta đã định lượng fibronectin của màng bề mặt tế bào
của tổ chức ung thư và thấy rằng hàm lượng fibronectin bị giảm nhiều hoặc mất
hẳn.
2.3.2. Kết dính kiểu protome bổ xung
Trên màng bề mặt tế bào có một số protome (tức là các chuỗi polypeptid) và
các protome này bổ xung cho nhau để làm thành một kết cấu toàn diện hoàn chỉnh khi
các tế bào kết dính với nhau. Kiểu liên kết này tương tự như sự liên kết của chuỗi  và

chuỗi  trong phân tử hemoglobin hoặc sự liên kết của các protome trong phân tử
enzym polyme.
2.4. Tương tác tế bào
Tương tác tế bào là sự phản ứng giữa các thành phần của màng bào tương tế
bào mà chủ yếu là các protein với các phân tử chất bên ngoài một cách đặc hiệu. Với
tương tác này tế bào sẽ thực hiện các hoạt động chức năng của nó. Các mô hình tương
tác chủ yếu là tương tác kiểu kháng nguyên-kháng thể, kiểu enzym-cơ chất và kiểu tín
hiệu hóa học-receptor.
2.4.1. Tương tác kiểu kháng nguyên-kháng thể
Tương tác kiểu kháng nguyên-kháng thể là cơ sở để tế bào thực hiện các chức
năng miễn dịch. Màng bào tương tế bào vừa có các nhóm kháng nguyên, vừa có thể có
kháng thể bám dính.
2.4.1.1. Các kháng nguyên trên bề mặt tế bào
Các phân tử protein có tính chất sinh kháng thể hay nói cách khác chúng có tính
kháng nguyên. Màng bào tương tế bào được cấu trúc bởi nhiều phân tử protein cho
nên chúng tạo thành các kháng nguyên bề mặt của tế bào. Có nhiều loại kháng nguyên
bề mặt đã được biết đến như kháng nguyên bề mặt hồng cầu (kháng nguyên nhóm
máu), kháng nguyên đặc hiệu đơn dòng tế bào máu và tế bào miễn dịch (CD), các
kháng nguyên hòa hợp tổ chức (HLA).
10


- Kháng nguyên bề mặt hồng cầu: hiện nay có khoảng 300 kháng nguyên bề mặt
hồng cầu đã được biết đến, hầu hết các kháng nguyên này thuộc 1 trong 29 hệ
nhóm máu. Các kháng nguyên màng hồng cầu là các đại phân tử cắm vào lớp
phospholipid của màng hồng cầu. Hầu hết các kháng nguyên nhóm máu này là
những glycoprotein, với tính đặc hiệu được xác định đầu tiên bởi chuỗi
oligosaccharid (ví dụ nhóm ABO) hay bởi chuỗi acid amin (như nhóm MN, Kell,
Duffy, Kidd, Diego). Các kháng nguyên Rh là những protein không glycosyl hóa,
mặc dù sự hiện diện của các glycoprotein phối hợp cần thiết cho sự biểu hiện của

chúng.
- Kháng nguyên đặc hiệu đơn dòng tế bào máu và tế bào miễn dịch-CD (cluster of
differentiation antigen: kháng nguyên biệt hóa) hay còn gọi là dấu ấn bề mặt tế
bào (surface markers of cells): các kháng nguyên này mang tính cá thể, đa dạng
và có hàng trăm loại được chia thành 5 typ.
- Phức hợp hòa hợp mô chính ở người (MHC: major histocompatibility complex),
thường gọi là kháng nguyên bạch cầu người (HLA: human leucocyte antigen):
những phân tử này có vai trò quan trọng trong trình diện kháng nguyên và đáp
ứng miễn dịch.
2.4.1.2. Các kháng thể bám dính trên bề mặt tế bào
Phần Fc của các phân tử Ig thuộc một số lớp và dưới lớp có khả năng gắn với
một số tế bào khác như:
- Phân tử IgE, IgG1, IgG3, IgG4: có khả năng gắn lên bề mặt tế bào mast và bạch
cầu ái kiềm thông qua những receptor của chúng với phần Fc. Khi Fab của những
Ig này kết hợp với kháng nguyên sẽ hoạt hóa các tế bào làm phóng thích ra các
hóa chất trung gian như serotonin, histamin...
- Phân tử IgG và IgM: cũng có khả năng gắn lên bề mặt các đại thực bào và bạch
cầu trung tính thông qua những receptor của chúng với phần Fc. Nếu kháng
nguyên là vi khuẩn hay đơn bào đã phủ bởi IgG và IgM thì chúng dễ bị các tế
bào thực bào bắt và nuốt.
2.4.2. Tương tác kiểu enzym-cơ chất
Hiện nay người ta đã biết trên 30 enzym liên kết màng trong đó có những
enzym là thành phần thường xuyên của màng bào tương tế bào hoặc với nồng độ hằng
định như Mg++-ATPase hoặc với nồng độ thay đổi như Na+-K+-ATPase; phosphatase
11


kiềm, nucleotidase và phosphodiesterase... Phần lớn các enzym này có bản chất hóa
học là glycoprotein, vị trí để liên kết với cơ chất là phần huydratcarbon được hướng
trực tiếp ra phía gian bào bên ngoài.

- Các cyclase màng: như adenylcyclase và guanylcyclase. Những enzym này có ở
tất cả các tế bào có nhân, bản chất hóa học là lipoprotein khu trú sâu trong màng
bào tương, gắn chặt vào lớp lipid. Hoạt động của các cyclase liên quan đến nồng
độ của một số hormon và các yếu tố đặc biệt khác, ví dụ: adenylcyclase được
hoạt hóa bởi ACTH, PTH, vasopressin, glucagon, catecholamin và bị ức chế bởi
insulin, prostaglandin.
adenylcyclase
AMPc + PiPi

ATP
Guanylcyclase
GTP

GMPc + PiPi

AMPc và GMPc tham gia vào quá trình điều hòa nội tế bào thông qua việc điều
chỉnh hoạt động của các hệ thống ezym phụ thuộc proteinkinase của tế bào.
- ATPase: màng bề mặt tế bào là nơi khu trú của các loại ATPase khác nhau bao
gồm ATPase được hoạt hóa bởi Na+, K+, Mg++, Ca++. Bản chất hóa học của
chúng là glycoprotein. Các phospholipid màng là những yếu tố cần thiết cho hoạt
động xúc tác của những enzym này: phosphatidyl inositol cần cho Ca++-ATPase;
phosphatidyl cholin, phosphatidyl serin và cholesterol cần thiết cho Na+-K+ATPase. Vai trò của các ATPase của màng bào tương tế bào là vận chuyển các
ion Ca++, Mg++, Na+, K+ qua màng tế bào và thông qua đó góp phần vận chuyển
glucose, các acid amin và một số chất khác qua màng tế bào.
2.4.3. Tương tác kiểu tín hiệu hóa học-receptor
Trên màng bào tương tế bào có rất nhiều receptor nhưng chủ yếu là các receptor
nhận diện hormon. Hormon tác dụng lên tế bào với nồng độ rất thấp, nhờ có receptor
mà hiệu quả tác dụng của nó sẽ được phóng đại lên. Receptor của hormon có thể nằm
trên bề mặt màng bào tương tế bào hoặc nằm trong tế bào (trong bào tương hoặc trong
nhân).

- Về cấu trúc: mỗi receptor có ít nhất hai nhóm là nhóm điều hòa và nhóm hiệu
ứng. Nhóm điều hòa làm nhiệm vụ nhận biết và liên kết với tín hiệu hóa học
(hormon), nhóm hiệu ứng có tác dụng gây ra hiệu quả đầu tiên trên tế bào.
12


- Về bản chất: receptor là những phân tử protein, chúng có thể đóng vai trò là
những enzym, protein vận chuyển...
- Về sự tương tác: các receptor tiếp nhận các tín hiệu hóa học với tính đặc hiệu cao
do sự tương ứng trong cấu trúc đặc thù của receptor với phân tử đặc hiệu. Ngoài
tính đặc hiệu ra các tín hiệu này còn gắn với receptor bằng một ái lực cao, nhờ đó
chỉ có chính phân tử tín hiệu mới có thể duy trì sự gắn kết với receptor. Tính chất
này đặc biệt quan trọng đối với các receptor của hormon vì hormon thường chỉ
có mặt trong máu với nồng độ rất thấp và lẫn lộn với các phân tử khác.
3. MÀNG BÀO TƯƠNG TRONG HOẠT ĐỘNG TRAO ĐỔI THÔNG TIN
GIỮA CÁC TẾ BÀO
Màng bào tương tham gia vào nhiều hoạt động chức năng của tế bào như
chuyển hóa năng lượng, sinh sản và biệt hóa, thực bào, tổng hợp và bài tiết các chất,
điện thế màng... Một trong những hoạt động chức năng quan trọng nhất là sự trao đổi
thông tin giữa các tế bào.
Trong cơ thể động vật đa bào, sự phối hợp giữa các tế bào trong cùng một mô
để hoàn thành một chức năng hoặc giữa các tế bào trong các loại mô khác nhau để
hoàn thành nhiều chức năng khác nhau được thực hiện thông qua các hệ thống thông
tin giữa các tế bào. Sự thông tin có thể được thực hiện thông qua các mối liên kết hở
(gap junction) giữa các tế bào nằm sát nhau hoặc qua các tín hiệu hóa học (chemical
signal) giữa các tế bào xa nhau.
3.1. Trao đổi thông tin giữa các tế bào sát nhau
Giữa các tế bào kế nhau trong mô động vật như các tế bào biểu mô, thần kinh,
cơ trơn, cơ tim thường có các cấu trúc được gọi là các liên kết hở giúp các tế bào trao
đổi thông tin với nhau.


Hình Liên kết hở giữa hai tế bào sát nhau
13


- Cấu trúc: liên kết hở được cấu tạo gồm 6 phân tử protein gọi là connexin ở mỗi
bên màng bào tương tạo thành 1 kênh ở giữa hình lục giác gọi là connexon. Kênh
có đường kính khoảng 1,5nm nối thông giữa hai tế bào.
- Hoạt động: kênh cho phép các phân tử nhỏ hòa tan trong nước có trọng lượng
phân tử nhỏ hơn 1.000 đi trực tiếp từ bào tương tế bào này tới tế bào khác sát
cạnh nó. Do chỉ di chuyển trên một đoạn đường ngắn và không bị ảnh hưởng của
các tác nhân bên ngoài nên cách tác động này diễn ra nhanh chóng và hiệu quả.
- Ý nghĩa: kiểu tác động này cho phép các tế bào cạnh nhau có thể nhanh chóng
chia sẻ các sản phẩm chuyển hóa. Ngoài ra các liên kết hở còn cho phép thực
hiện việc truyền các tín hiệu điện giữa các tế bào qua dòng chảy của các ion một
cách nhanh chóng. Điều này đặc biệt có vai trò quan trọng ở:
 Các tế bào thần kinh cho phép xung động đi nhanh hơn nhiều so với sự dẫn
truyền qua synap.
 Các tế bào cơ tim giúp chúng co lại cùng một lúc, đảm bảo cho việc bơm máu
diễn ra một cách hiệu quả.
3.2. Trao đổi thông tin giữa các tế bào xa nhau
Cách thức truyền tin được thực hiện theo phương thức các tín hiệu hóa học dưới
dạng các phân tử đặc hiệu giải phóng ra từ một tế bào sẽ tác động lên một tế bào khác
ở xa gọi là tế bào đích. 3 thành tố chính tham gia vào hoạt động này là: các tín hiệu
ngoại bào hay còn gọi là chất truyền tin thứ nhất, các receptor ở tế bào đích và các tín
hiệu nội bào hay còn gọi là chất truyền tin thứ hai. Các tín hiệu ngoại bào sẽ di chuyển
từ tế bào sản xuất ra nó đến tác động trên các receptor của tế bào đích, các receptor sau
khi tiếp xúc với tín hiệu ngoại bào sẽ làm xuất hiện các tín hiệu nội bào, qua đó dẫn
đến sự hình thành các đáp ứng sinh lý trên tế bào đích.
3.2.1. Các tín hiệu ngoại bào

Có nhiều loại tín hiệu ngoại bào khác nhau được tế bào sử dụng để tác động lên
các tế bào đích. Trừ một trường hợp ngoại lệ là các prostaglandin, còn lại hầu hết các
tín hiệu hóa học đều được tổng hợp từ các tế bào đặc hiệu và tồn trữ ở đó cho đến khi
được giải phóng dưới tác động của các tác nhân kích thích. Phân loại các tín hiệu
ngoại bào:
- Phân loại theo tính tan:
14


 Các tín hiệu hóa học tan trong nước: như các hormon peptid, catecholamin,
các chất truyền đạt thần kinh. Đặc điểm của loại tín hiệu này là nhanh chóng
bị phân hủy sau khi được giải phóng, đôi khi chúng chỉ tồn tại vài giây hoặc
vài mili giây như đối với các chất truyền đạt thần kinh. Loại tín hiệu này rất
hiệu quả trong việc tạo ra các đáp ứng nhanh nhưng chỉ cần thiết trong một
thời gian ngắn.
 Các tín hiệu hóa học tan trong lipid: như các hormon steroid, hormon T3-T4.
Đặc điểm của loại tín hiệu này là chúng có khả năng tồn tại lâu hơn trong máu,
từ vài giờ đến vài ngày như đối với các hormon T3-T4 của tuyến giáp. Loại tín
hệu này phục vụ cho việc tạo ra các đáp ứng chậm hơn nhưng kéo dài hơn.
- Phân loại theo cách tác động lên tế bào đích: các chất trung gian hóa học tại chỗ,
các chất truyền đạt thần kinh và các hormon.
3.2.1.1. Các chất trung gian hóa học tại chỗ (local chemical mediator)
- Tính chất: hầu hết tế bào trong cơ thể đều có khả năng tiết ra loại tín hiệu này.
Chúng còn được gọi là các hormon địa phương bởi vì chúng thường được tiết
vào dịch kẽ và chỉ tác động trên các tế bào bên cạnh do chúng bị phá hủy rất
nhanh sau khi giải phóng hoặc do được gắn ngay với các receptor có mặt ở các tế
bào lân cận sau khi được giải phóng.
- Các loại: histamin và các prostaglandin là những ví dụ điển hình cho loại tín hiệu
hóa học tại chỗ này.
 Histamin: được hình thành từ acid amin histidin và dự trữ trong các dưỡng bào

(mast cell) có mặt trong các mô liên kết. Histamin được giải phóng dưới tác
động của các phản ứng dị ứng, nhiễm trùng hoặc khi tổ chức bị tổn thương, tác
động chính của nó là gây ra giãn mạch, tăng tính thâm thành mạch.
 Các prostaglandin: được tổng hợp bởi hầu hết các loại mô từ acid béo, nó có
chứa 20 nguyên tử carbon như arachidonic acid và được giải phóng một cách
liên tục. Chúng có các tác dụng trái ngược nhau trên các loại mô khác nhau
hoặc trên cùng một loại mô, ở cơ trơn chẳng hạn, tùy thuộc vào loại
prostaglandin mà có thể gây ra hiện tượng co hoặc giãn cơ.
3.2.1.2. Các chất truyền đạt thần kinh (neurotransmitter)
- Tính chất: đây là các tín hiệu hóa học do các tế bào thần kinh sản xuất, được gọi
là các chất truyền đạt thần kinh. Các tế bào thần kinh sử dụng tín hiệu này để dẫn
15


truyền xung động qua synap thần kinh. Sau khi tác động, chất truyền đạt thần
kinh bị loại bỏ bằng 1 trong 3 cách: phân hủy bởi enzym, tái nhập trở lại cúc tận
cùng hoặc khuếch tán ra nô xung quanh.
- Phân loại: toàn hệ thần kinh có khoảng 40 chất truyền đạt và được chia nhóm có
phân tử nhỏ như glycin, acetylcholin và nhóm có phân tử lớn như neruopeptid.
3.2.1.3. Các hormon
- Tính chất: hormon hay hormon chung (general hormon) là một chất trung gian
hóa học được bài tiết bởi các tế bào chuyên biệt nằm trong các tuyến nội tiết,
được chuyên chở trong máu đến các tế bào đích và có tác dụng sinh học trên các
tế bào này. Do phải di chuyển đi xa như vậy nên tín hiệu thuộc loại này được
truyền đi chậm hơn nhiều so với các chất truyền đạt thần kinh.
- Phân loại: các hormon được chia thành 3 loại theo bản chất hóa học.
 Hormon steroid: là các hormon có nhân steroid, tan trong lipid không tan trong
nước. Gồm: hormon vỏ thượng thận (aldosteron, cortisol), sinh dục
(testosteron, estrogen, progesteron), vitamin D3.
 Hormon acid amin: là các dẫn xuất của acid amin tyrosin. Gồm: hormon tuyến

giáp (T3, T4) tan trong lipid, hormon tủy thượng thận (catecholamin) tan trong
nước.
 Hormon peptid: là các hormon có liên kết peptid, nếu có hai chuỗi thì hai
chuỗi liên kết nhau bởi cầu nối disulfur (-S-S-). Một số hormon có thêm gốc
carbohydrat tạo thành glycoprotein. Các hormon này tan trong nước không tan
trong lipid. Gồm hormon của hypothalamus (GHRH, GHIH, TRH, CRH,
GnRH, PIH), tuyến yên (GH, TSH, ACTH, FSH, LH, prolactin, ADH,
oxytocin), tuyến giáp (calcitonin), tuyến cận giáp (PTH), tuyến tụy (insulin,
glucagon).
3.2.2. Receptor
Receptor là những phân tử protein có mặt ở tế bào đích, đóng vai trò tiếp nhận
các tín hiệu hóa học ngoại bào với tính đặc hiệu và ái lực cao, qua đó sẽ khởi phát các
hoạt động chức năng nhất định của tế bào.
3.2.2.1. Vị trí của receptor
Receptor có thể nằm ở một trong ba vị trí: trên màng bào tương tế bào, trong
bào tương tế bào và trong nhân tế bào.
16


* Receptor trên màng bào tương:
- Tính chất: các receptor trên màng bào tương tế bào là những protein xuyên màng,
chiếm chưa đến 1% khối lượng protein có mặt trên màng nên rất khó xác định,
phân lập và nghiên cứu. Các receptor này đóng vai trò như một biến năng
(transducer), chuyển một tín hiệu ngoại bào sau khi gắn vào receptor thành một
tín hiệu nội bào để qua đó làm thay đổi hoạt động của tế bào đích, nhờ vậy
hormon khi gắn với receptor trên màng sẽ gây ra sự đáp ứng trong tế bào mà
không cần đi vào bên trong tế bào.
- Tiếp nhận các hormon: receptor này tiếp nhận các hormon tan trong nước, đó là
các hormon polypepetid và catecholamin tác động theo cơ chế chất truyền tin thứ
hai.

* Receptor trong bào tương tế bào
- Tính chất: các receptor trong bào tương tế bào là những protein có vai trò tiếp
nhận các hormon tạo thành phức hợp hormon-receptor, sau đó phức hợp này sẽ
đi vào trong nhân để gắn vào các vị trí tiếp nhận đặc hiệu trên DNA và điều
chỉnh hoạt động sao mã của các gen.
- Tiếp nhận các hormon: receptor này tiếp nhận các hormon tan trong lipid, đó là
các hormon steroid tác động theo cơ chế hoạt hóa gen tế bào.
* Receptor trong nhân tế bào
- Tính chất: các receptor trong nhân tế bào là những protein có vai trò tiếp nhận
các hormon tạo thành phức hợp hormon-receptor, phức hợp này gắn vào các vị
trí tiếp nhận đặc hiệu trên DNA và điều chỉnh hoạt động sao mã của các gen.
- Tiếp nhận các hormon: receptor này tiếp nhận các hormon tan trong lipid, đó là
các hormon T3-T4 tác động theo cơ chế hoạt hóa gen tế bào.
3.2.2.2. Ligand
- Khái niệm: bất cứ một phân tử tín hiệu nào có khả năng gắn vào receptor với độ
đặc hiệu cao đều được gọi là ligand.
 Nếu phân tử sau khi gắn với receptor dẫn đến một đáp ứng sinh lý của tế bào
thì được gọi là agonist.
 Nếu phân tử sau khi gắn với receptor mà không gây ra một đáp ứng nào cả sẽ
được gọi là antagonist, chúng làm cản trở tác động của agonist bằng cách
chiếm lấy receptor của nó.
17


- Tương quan giữa receptor và agonist:
 Trên màng bào tương, một số receptor có số lượng lớn hơn so với nhu cầu
thực sự, hiện tượng này được gọi là sự thặng dư receptor. Đây là hiện tượng
cần hiện tượng cần thiết để giúp tăng độ nhậy cảm của tế bào đối với các
agonist có nồng độ thấp, càng nhiều receptor bao nhiêu sẽ càng giúp cho các tế
bào đích có nhiều cơ may gặp được các phân tử agonist bấy nhiêu.

 Cơ chế điều chỉnh số lượng receptor ở các tế bào đích chưa được biết rõ, có lẽ
có liên quan đến sự bất hoạt của các receptor hoặc các thay đổi trong việc tổng
hợp và giáng hóa của các protein receptor. Một số receptor có số lượng liên
quan đến số lượng của các phân tử agonist tương ứng trong máu: giảm số
lượng receptor khi số lượng agonist giảm và qua đó làm giảm đáp ứng của tế
bào đích với agonist hoặc ngược lại tăng số lượng receptor khi agonist giảm
nhờ đó giúp tế bào duy trì được sự đáp ứng bình thường trước sự sụt giảm
agonist.
 Trong một số trường hợp, sự đáp ứng của tế bào đối với một agonist tỷ lệ
thuận với số receptor gắn với agonist. Ở một số trường hợp khác, sự đáp ứng
của tế bào chỉ xảy ra sau khi đã có một tỷ lệ nhất định receptor gắn với
agonist, tỷ lệ này được gọi là ngưỡng đáp ứng. Sự đáp ứng tối đa của tế bào
trong một số trường hợp sẽ xảy ra trước khi 100% số receptor gắn với agonist.
 Đối với các receptor trên màng bào tương, sự gắn kết agonist và receptor có
thể kích thích quá trình đưa phức hợp này vào bên trong tế bào qua hiện tượng
nhập bào.
- Vai trò của antagonist trong điều trị: catecholamin là một ví dụ, đây là hormon
tác động trên tim làm tăng nhịp đập của tim và tăng lượng máu bơm, tác động
quá mức của catecholamin có thể gây ra tăng huyết áp và làm xuất hiện cơn đau
thắt ngực. Bằng cách sử dụng propranolol, một antagonist của catecholamin sẽ
làm đình chỉ các tác dụng này của catecholamin.
3.2.3. Các tín hiệu nội bào
Tín hiệu ngoại bào khi gắn vào receptor nằm trên màng bào tương tế bào sẽ làm
cấu hình của receptor thay đổi, sự thay đổi này dẫn đến xuất hiện một phân tử tín hiệu
bên trong tế bào, được gọi là tín hiệu nội bào (intracellular). Quá trình này được xem
là cơ sở khởi đầu của hiện tượng khuếch đại tín hiệu vì sẽ có nhiều tín hiệu nội bào
18


được hình thành từ một phân tử tín hiệu ngoại bào. Các tín hiệu nội bào sau đó sẽ tạo

ra một loạt phản ứng bên trong tế bào dẫn đến xuất hiện các đáp ứng sinh lý đặc trưng.
Có 3 loại tín hiệu nội bào phổ biến: AMPc, Ca++-protein, inositol triphosphat và
diacylglycerol.
3.2.3.1. Các cơ chế hình thành tín hiệu nội bào
* AMPc (cyclic 3',5'-Adenosine Monophosphate) hoặc GMPc (cyclic 3',5'-Guanosine
Monophosphate)
ATP  5'-AMP

(+)

Tín hiệu ngoại bào-Receptor  Adenyl cyclase  

Phosphodiesterase

AMPc
 (+)
Protein kinase A
 Phosphoryl hóa
Phospho + Protein  Phosphoprotein

Đáp ứng sinh lý
Ví dụ: AMPc trong tế bào tuyến giáp  chuyển hóa T3-T4.
AMPc trong tế bào vỏ thượng thận  bài tiết corticosteroid.
AMPc trong tế bào ống thận  tăng tái hấp thu nước.
* Ca++-protein
Tín hiệu ngoại bào-Receptor  Mở cổng kênh Ca++

Ca++ vào tế bào

protein có ái lực với Ca++


Ca++-protein

Hoạt hóa enzym

Đáp ứng sinh lý

19


- Dòng chảy Ca++ vào bào tương tế bào: khi một tín hiệu ngoại bào đến gắn vào
receptor gây ra sự thay đổi trong cấu hình receptor và dẫn đến mở kênh Ca++ trên
màng, có 2 khả năng xảy ra:
 Khả năng thứ nhất: tạo nên một dòng chảy thoáng qua của ion Ca++ vào bên
trong tế bào cơ hay thần kinh làm thay đổi điện thế giữa trong và ngoại tế bào,
sự thay đổi này có thể khởi phát một điện thế hoạt động lan tỏa nhanh chóng
khắp màng của tế bào đích. Phần lớn các chất truyền đạt thần kinh hoạt động
theo cách này.
 Khả năng thứ hai: tạo nên dòng chảy thật sự của ion Ca++ vào bên trong tế bào
làm tăng nồng độ của ion đó tới một ngưỡng mà nó có thể tác động như một
tín hiệu thứ hai để kích thích sự đáp ứng của tế bào.
- Các protein có ái lực với ion Ca++: có hai loại
 Loại thứ nhất là các protein không có hoạt tính enzym: sau khi gắn với ion
Ca++ chúng thay đổi cấu hình và phức hợp Ca++-protein trở thành chất truyền
tin thứ hai. Ví dụ điển hình cho loại protein này là troponin C, thấy ở trong tế
bào cơ vân và cơ tim và calmodulin thấy ở hầu hết các loại tế bào. Troponin C
khi gắn với Ca++ sẽ khiến cho phân tử tropomyosin dịch khỏi điểm hoạt động
của sợi actin, khi đó đầu myosin có cơ hội kết hợp với actin gây nên sự co cơ.
Calmodulin có 4 vị trí gắn Ca++, khi có từ 3 vị trí trở lên được gắn với Ca++ thì
phức hợp này sẽ có hoạt tính, chúng hoạt hóa enzym kinase phụ thuộc

calmodulin (calmodulin-dependent kinase) và enzym này sẽ phosphoryl hóa
các protein đặc hiệu để qua đó làm thay đổi hoạt động sinh lý của tế bào. Phức
hợp Ca++-calmodulin linh hoạt hơn so với AMPc vì ngoài khả năng làm thay
đổi hoạt động sinh lý của tế bào phức hợp này còn có thể tác động trực tiếp
trên các enzym như adenyl cyclase và phosphodiestase là những enzym tạo ra
và phá vỡ AMPc, tạo nên mối tương quan giữa AMPc và ion Ca++ nội bào.
 Loại thứ hai là các protein enzym gắn ion Ca++ một cách trực tiếp: một ví dụ
điển hình cho loại này là enzym C-kinase. Enzym C-kinase của bào tương
không chịu ảnh hưởng của ion Ca++, tuy nhiên khi có mặt diacylglycerol, nó sẽ
gắn với màng bào tương tại đây nó được hoạt hóa bởi các phospholipid và trở
nên dễ bị kích thích bở ion Ca++. Khi nồng độ ion Ca++ của bào tương gia tăng,
20


enzym C-kinase sẽ phosphoryl hóa các protein đặc hiệu dẫn đến các đáp ứng
sinh lý của tế bào.
* Inositol triphosphat và diacylglycerol:

(+)

Phosphatidyl inositol 4,5-Diphosphate

Tín hiệu ngoại bào-Receptor  Phospholipase C 

Inositol Triphosphat

Diacylglycerol

(Khuếch tán vào bào tương)


(Ở tại màng tế bào)

(+)
Ty thể

MLNBT
Ca++

Protein kinase C

Protein 

Phosphoryl hóa

Ca++-Protein

Phosphoprotein





Đáp ứng sinh lý

Đáp ứng sinh lý

+ PIP2 (Phosphatidyl inositol 4,5-Diphosphate) là một phần phospholipid của
màng bào tương tế bào bị tách ra thành IP3 (inositol triphosphat) và
diacylglycerol dưới tác động của phospholipase C. Nói chung tác dụng của
DAG và IP3 có tính chất hợp lực.

+ Phần lipid của diacylglycerol là acid arachidonic - một tiền chất của
prostaglandin và các hormon địa phương khác gây ra những tác động tại chỗ.
+ Hormon tác động theo cơ chế này thường là những hormon địa phương nhất là
những yếu tố được phóng thích từ các phản ứng miễn dịch và dị ứng của mô.
Một số hormon khác cũng tác dụng qua trung gian thông tin nội bào là DAG
và IP3 như TRH, GnRH, TSH, agiotensin II.

21


3.2.3.2. Sự thay đổi nồng độ của các tín hiệu nội bào
- Sự thay đổi nồng độ các tín hiệu nội bào chủ yếu phụ thuộc vào tốc độ tổng hợp
hoặc dòng chảy của chúng vào trong tế bào:
 Sự gia tăng tốc độ tổng hợp hoặc dòng chảy sẽ nhanh chóng làm gia tăng nồng
độ tín hiệu trong bào tương, cho phép tế bào đích đáp ứng nhanh chóng với tín
hiệu ngoại bào.
 Khi không có tín hiệu ngoại bào, tín hiệu nội bào sẽ nhanh chóng bị phân hủy
hoặc được chuyển khỏi bào tương và nồng độ của nó sẽ giảm tới mức mà tế
bào ngừng đáp ứng.
- Kiểm soát nồng độ của AMPc trong bào tương:
 Bình thường nồng độ AMPc chỉ ở mức 1 M, nhưng sau khi một hormon gắn
với một receptor trên màng và kích thích enzym adenylcyclase thì lập tức
nồng độ AMPc có thể tăng lên đến 5 lần chỉ trong vòng vài giây và dẫn đến sự
đáp ứng của tế bào.
 Ngược lại AMPc sẽ bị giáng hóa nhanh chóng thành adenosin 5’monophosphat dưới tác dụng của enzym phosphodiesterase và làm ngừng tác
dụng của AMPc.
- Cơ chế kiểm soát nồng độ của ion Ca++ trong bào tương:
 Bình thường nồng độ Ca++ trong bào tương tế bào là 0,1M. Khi một hormon
gắn với một receptor trên màng làm mở kênh Ca++, Ca++ sẽ nhanh chóng
khuếch tán từ ngoài vào trong tế bào. Dòng chảy này còn được hỗ trợ thêm bởi

gradient điện tích ở hai bên màng và sự giải phóng ion Ca++ ra khỏi các kho dự
trữ trong tế bào như lưới nội sinh chất dưới tác dụng của inositol triphosphat.
Như vậy nồng độ Ca++ trong tế bào sẽ tăng từ 0,1M lên tới 1-10M.
 Sau khi tác dụng, ion này nhanh chóng được chuyển ra khỏi bào tương tế bào
với sự phối hợp của nhiều cơ chế: một phần ion Ca++ được bơm ra khỏi tế bào
hoặc vào ty thể, mạng nội bào tương ngược với chiều gradient điện-hóa thông
qua bơm Ca++-ATPase với năng lượng được cung cấp trực tiếp từ ATP; một
phần Ca++ sẽ đi ra khỏi tế bào qua con đường đồng vận chuyển nghịch với

22


Na+; một phần Ca++ tự do sẽ được gắn với các phân tử khác trong bào tương.
Như vậy, Ca++ tự do trong bào tương sẽ giảm xuống.
4. MỘT SỐ BỆNH LÝ PHÂN TỬ CỦA MÀNG BÀO TƯƠNG TẾ BÀO
Nhiều bệnh lý có liên quan chặt chẽ đến chức phận của màng bào tương tế bào,
đặc biệt là sự nhầm lẫn trong truyền đạt các tín hiệu qua màng bào tương tế bào ở múc
độ phân tử.
4.1. Bệnh của receptor acetylcholin
- Bệnh nhược cơ: cơ thể hình thành tự kháng thể kháng receptor acetylcholin ở cơ
vân. Hậu quả là các receptor không nhận diện được các xung động thần kinh, các
kênh ion ở màng tế bào cơ không mở, tế bào cơ không chuyển được sang trạng
thái kích thích. Đây là một bệnh tự miễn.
- Bệnh Huntington: một trong những nguyên nhân gây nên bệnh là giảm số lượng
receptor acetylcholin ở hệ thần kinh trung ương dẫn đến sự dẫn truyền thần kinh
không bình thường làm bệnh nhân có biểu hiện múa giật không tự chủ và có rối
loạn tâm thần.
4.2. Bệnh của receptor TSH
- Bệnh Grave: cơ thể hình thành tự kháng thể có cấu trúc giống TSH đến kích
thích các receptor TSH của tuyến giáp gây cường giáp. Đây là một bệnh tự miễn.

- Chứng lồi mắt trong bệnh Grave: nguyên nhân gây bệnh là do các tế bào phía sau
ổ mắt cũng có các receptor TSH giống tế bào nang giáp. Bình thường các
receptor này hoạt động rất yếu nên còn gọi là receptor TSH yên lặng, trong bệnh
Grave, khi tự kháng thể tăng cao làm các tế bào phía sau ổ mắt phát triển mạnh
và xuất hiện lồi mắt.
4.3. Bệnh của các receptor độc tố vi khuẩn
- Bệnh tả: vi khuẩn tả xâm nhập vào cơ thể và sản xuất ra độc tố có cấu tạo gồm
hai chuỗi polypeptid, trong đó có một chuỗi liên kết với receptor trên bề mặt tế
bào thành ruột và một chuỗi liên kết với enzym adenylcyclase nằm dưới các
receptor màng. Hậu quả là lượng AMPc tăng lên dẫn đến sự tăng cường vận
chuyển HCO3- và Na+, K+ qua màng ruột, kéo theo 20-30 lít nước vào lòng ruột
gây tiêu chảy nặng. Trong điều trị có thể dùng một số ose thích hợp để chiếm chỗ
receptor loại trừ các ngoại độc tố này.
23


×