Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.71 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi giành độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia tố tụng hình sự,
nhân trong xã hội, đặc biệt là đối với những đối tượng chịu ảnh hưởng trực
tiếp của pháp luật tố tụng hình sự là bị can, bị cáo, các hoạt động tố tụng
hình sự như bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử…của các cơ quan tiến
hành tố tụng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân. Để góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
pháp luật quy định cho họ có quyền tự bảo chữa hoặc nhờ người bào chữa.
Những quy định về quyền bào chữa đã hình thành một chế định pháp lý về
người bào chữa và địa vị pháp lý người bào chữa. Trong tố tụng hình sự, địa
vị pháp lý của người bào chữa rất quan trọng, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đến hiệu quả của công việc
bào chữa. Việc người bào chữa tham gia vào các giai đoạn của tố tụng hình
sự đã ít nhiều làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
tìm ra sự thật khách quan của vụ án, góp phần khắc phục tình trạng oan, sai
đem lại một nền tư pháp công bằng, dân chủ, văn minh, ở đó quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân ngày càng được bảo vệ tốt hơn. Để các bạn hiểu
rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, em đã nghiên cứu vấn đề
“ địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự”. bài viết chắc sẽ
không tránh khỏi những sai lầm, mong được thầy cô và các bạn góp ý để bài
viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
1
I/ Khái Quát Chung.
1.1) Khái Niệm.
Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng
nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.


1.2) Phân loại.
Theo quy định tại khoản 1 điều 56 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
người bào chữa có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp
luật và tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật.
Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp
- Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo : là cha
cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần
- Bào chữa viên nhân dân : có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử để bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Khi tham gia tố tụng
với tư các là người bào chữa, luật sư, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo,
bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định
chung cho người bào chữa.
2
II/ Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Cùng với quá trình phát triển của đất nước, đảng ta đã xác định mở
rộng dân chủ và đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống là cần thiết.
BLTTHS năm 1988 trong quá trình thi hành gần 15 năm qua, đã được sửa
đổi bổ sung ba lần ( 6/1990, 12/1992 và 6/2000). Hiện nay, thực hiên chủ
trương cải cách tư pháp trong đó những vấn đề liên quan đến người bào chữa
và địa vị pháp lý của người bào chữa đã được các nghị quyết của Đảng, đặc
biệt là nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 2/1/2002 của bộ chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Đảng ta đã xác định
: Phải cụ thể hóa các quy định của hiến pháp năm 1992 về người bào chữa
và thể chế hóa các chủ trương đó thành những luật định cụ thể, sửa đổi một
cách cơ bản, toàn diện Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự hiện hành nhằm nâng cao

chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Bộ Luật TTHS năm 2003 đã
được quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 4 thông qua
ngày 26/11/2003 có hiệu lực từ ngày 1/7/2004 thay thế BLTTHS năm 1988.
Bộ Luật TTHS 2003 quy định rõ ràng, đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng
trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Dưới đây là phần trình bày về địa
vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và trong đó sẽ có những
so sánh, những điểm mới hơn so với BLTTHS năm 1988 để người đọc hiểu
rõ hơn.
2.1) Quyền của người bào chữa
So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 có nhiều sửa đổi,
bổ sung về quyền của người bào chữa thể hiện trước hết ở quy định về thời
điểm tham gia tố tụng của người bào chữa: Trong trường hợp khẩn cấp; bắt
người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố
tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Việc này giúp cho người bào chữa được
3
tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, sẽ thuận lợi cho người bào chữa trong việc
thu thập chứng cứ gỡ tội và những tình tiết giảm nhẹ cho bị can, để có thể
bào chữa cho bị can ở gian đoạn sau của quá trình TTHS
Tại khoản 2, điểm a, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) : người bào chữa
được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can
và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt
trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng
có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà
mình bào chữa; Việc quy định như vậy sẽ giúp người bào chữa có cái nhìn
tổng quát về vụ án, kiểm tra giúp thân chủ của mình xem trong văn bản lời
khai có chỗ nào sơ hở, thiếu chặt chẽ hoặc bất lợi cho bị can mà sau này cơ
quan điều tra có thể sử dụng để buộc tội… để yêu cầu thân chủ khai lại giải
thích lại hoặc đính chính lại những đoạn trong biên bản đó tránh tình trạng
sau này khi đã có chữ ký xác nhận rồi thì đó đã được coi là chứng cứ. Quy

định như vậy, là mở rộng sự tham gia của người bào chữa vào trong các hoạt
động điều tra , điều này không những thể hiện tính dân chủ công khai trong
hoạt động điều tra mà còn giúp cho cơ quan điều tra và cụ thể là điều tra
viên nâng cao trình độ của mình. Vì thế khi điều tra viên hỏi cung hoặc lấy
lời khai của bị can, bị cáo mà có luật sư bào chữa ( người am hiểu pháp
luật ) ngồi bên cạnh thì những câu hỏi, cách hỏi và cách viết biên bản cũng
phải cẩn thận cho đúng pháp luật hơn.
Tại khoản 2, điểm b, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) có quy định:
người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian địa
điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Quy định quyền này tạo
điều kiện để người bào chữa có thể chủ động sắp xếp thời gian để thực hiện
quyền có mặt trong các hoạt động điều tra mà mình khi thấy cần thiết.
4
Tại khoản 2, điểm c, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) quy định : người
bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch theo quy định của bộ luật này. Người bào chữa nếu có
căn cứ chứng minh việc những người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có
thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà
mình bào chữa.
Tiếp đó là những quy định về quyền thu nhập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân
thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật
công tác. Muốn bào chữa tốt được cho thân chủ của mình người bào chữa
không thể chỉ dựa vào chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập được;
Vì vậy, người bào chữa phải có quyền tự mình đi thu nhập tài liệu, đồ vật,
đây cũng có thể coi là quyền để phục vụ cho các quyền khác của người bào
chữa như quyền gặp bị can, bị cáo, quyền có mặt khi hỏi cung bị can , bị
cáo. Sau khi gặp và có mặt trong khi hỏi cung, người bào chữa có thể biết
thêm những tình tiết mới hoặc bị can , bị cáo yêu cầu người bào chữa tìm

giúp những nhân chứng, vật chứng ( tài liệu, đồ vật ) mà có thể cung cấp
những tình tiết có lợi cho bị can, bị cáo.
Trong quá trình tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, khi thấy cần thiết người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu ( khoản 2, điểm đ, điều 58 ) theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập
thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết
và có lợi cho người được bào chữa. cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng
quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa
5
Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo
đang bị tạm giam ( khoản 2, điểm e, điều 58, BLTTHS năm 2003 ). Người
bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết vụ án, các đặc điểm
nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được bào
chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu nhập được những tình tiết gỡ
tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi,
người bào chữa giải thích những vấn đề về pháp luật và cũng có thể tác động
đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn
để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và
sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa.
( khoản 2, điểm g, điều 58 ) Quy định này đã loại bỏ được quy định chỉ
mang tính hình thức, có thể hiểu theo hai nghĩa trước đây của BLTTHS năm
1988 “ có quyền đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc
điều tra” ( điều 26 BLTTHS năm 1988 ). Theo cách quy đinh của BLTTHS
năm 1988, thì mỗi cơ quan tiến hành tố tụng lại có thể hiểu khác nhau: ở giai
đoạn xét xử, một số toàn án không cho người bào chữa photocopy tài liệu có
trong hồ sơ vì lấy lý do BLTTHS năm 1988 chỉ cho phép đọc và ghi chép hồ
sơ chứ không cho sao chụp tài liệu, nhưng cũng có một số tòa án khác cho

phép sao chụp ( chủ yếu là do người bào chữa phải có quan hệ tốt với tòa án
nên mới được linh động như vậy). Những tồn tại này, đã được BLTTHS
năm 2003 sửa đổi, bổ sung hợp lý hơn rất nhiều và làm cho việc nghiên cứu
hồ sơ của người bào chữa được thực tế hơn; phù hợp với thông lệ của pháp
luật TTHS trên thế giới; bảo đảm tối đa quyền nghiên cứu tiếp cận hồ sơ của
người bào chữa đó là quyền được sao chụp những tài liệu hồ sơ liên quan
đến việc bào chữa; qua đó giúp người bào chữa được thuận lợi hơn trong
6

×