Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Khoá luận tốt nghiệp biện pháp tu từ so sánh trong thơ lưu quang vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.37 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH
TRONG THƠ LƯU QUANG


KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Ngôn ngữ

NGUYỄN THỊ THƯ ƠNG

HÀ NỘI, 2015


BIỆN PHÁP
TU TỪ SO SÁNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

TRONG THƠ LƯU QUANG vũ
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ

Ngưòi hưóng dẫn khoa học TS. Đỗ Thị
Thu Hưong

HÀ NỘI, 2015



LỜI CẲM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của
các thầy cô giáo trong tổ ngôn ngữ, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô, đặc biệt là tới cô giáo
TS. Đỗ Thị Thu Hương - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để tôi hoàn
thành khóa luận này.

Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Thương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận “BIỆN

PHÁP TU TỪ SO SÁNH TRONG THƠ

LƯU

QUANG VŨ” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có tham khảo ý kiến của những
người đi trước, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo TS. Đỗ Thị Thu Hương.
Khóa luận này không trùng với bất kì công trình, tài liệu nghiên cứu nào đã được
công bố trước đó. Neu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Thương



MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHỤ LỤC


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

MỞ ĐÀU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.

Văn chương là nghệ thuật ngôn từ, điều đó quả thực là đúng đắn.

Tác phấm văn học là bức tranh phản ánh cuộc sống nhưng không phải
là sự sao chép cuộc sống một cách nô lệ, nó được tạo nên bởi những gì
tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Thông qua tác phẩm văn học,
người nghệ sĩ muốn bộc lộ tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của mình
trước cuộc đời, trước thế giới vạn vật.
Sức mạnh của tác phẩm văn chương chính là ở việc vận dụng ngôn ngữ
một cách điêu luyện, tài hoa của mỗi nhà văn, nhà thơ. Tuy nhiên, trong thực tế,
lóp vỏ ngôn ngữ thì hữu hạn mà tình cảm, cảm xúc thì vô hạn. Đe giải quyết mâu
thuẫn ấy, người nghệ sĩ ngôn từ luôn biết cách tìm đến và khai thác năng lực biểu
cảm đặc biệt của các phương tiện và biện pháp tu từ đế biểu hiện tối ưu ý tưởng
nghệ thuật của mình. Trong nhiều phương tiện và biện pháp tu tù' tiếng Việt thì

so sánh được coi là biện pháp tu từ được sử dụng rộng rãi và có giá trị nghệ thuật
to lớn. Chính vì vậy, việc tìm hiểu biện pháp tu từ so sánh là một hướng tiếp cận
đúng để chúng ta thấy cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học và tài năng của
người nghệ sĩ dưới cái nhìn từ góc độ ngôn ngữ nghệ thuật.
Trong văn chương, biện pháp tu từ so sánh được người nghệ
sĩ sử dụng với tần số cao để biểu hiện những cảm xúc,
những suy nghĩ, đánh giá của mình trước sự vật, sự việc
thể hiện trong tác phẩm. Từ đó giúp người đọc hiểu rõ hơn
về bản chất, đặc điểm của sự vật, sự việc, nhận thức một
cách sâu sắc và biểu cảm về đối tượng chưa biết. Vì vậy,
việc đi sâu tìm hiểu về biện pháp nghệ thuật này trong
thơ là một nhiệm vụ cần thiết đối với những người dạy và
học Ngữ văn nói chung.


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

1.2.

Phần lớn mọi người biết đến Lưu Quang Vũ với tư cách là một nhà

viết kịch tài hoa, nối tiếng với các vở như: HỒN TRƯƠNG BA
THỊT,

TÔI

VÀ CHỦNG TA,


ÔNG

KHÔNG PHẢI BỐ TÔI...

DA HÀNG

. Song ít ai biết

rằng thơ mới chính là địa hạt, là miền sâu thắm, là đời sống của Lưu
Quang Vũ. Có thể nói rằng đọc thơ Lưu Quang Vũ có cảm giác ông
viết kịch để sống với mọi người và làm thơ đế sống với riêng mình,
chính mình. Hay như nhà thơ Vũ Quần Phương, người thơ cùng thế hệ
với Lưu Quang Vũ: “THƠ MỚI ỈÀ

NƠI ANH KỈ THÁC NHIỀU NHẤT VÀ TÔI

TIN NHIỀU BÀI THƠ CỦA ANH SẼ THẮNG ĐƯỢC THỜI GIAN

”. Thậm chí

Bằng Việt còn cho rằng: “DÙ NHIỀU NGƯỜI NHẬN ĐỊNH KỊCH CỦA LƯU
QUANG VŨ VƯỢT XA HƠN THƠ ANH ẤY NHƯNG TÔI VÂN TIN
KỊCH CỦA

RẰNG TRONG

LIM QUANG VŨ ĐẦY CHẤT THƠ”.

So sánh là biện pháp tu từ không chỉ được sử dụng phổ biến trong văn học
Việt Nam - văn học dân gian mà trong thơ hiện đại, biện pháp so sánh lại được

vận dụng với nhiều sắc diện mới. Lưu Quang Vũ - một nhà thơ luôn muốn cảm
nhận cuộc sống trong cái tường tận của không gian, của thời gian và của mỗi sự
việc thường nhật. Có thể nói, so sánh là một biện pháp nghệ thuật đặc sắc và chủ
đạo trong thơ Lưu Quang Vũ khiến cho thơ Lưu Quang Vũ giàu tính tạo hình.
Xuất phát từ hai lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “BIỆN
SẢNH TRONG THƠ

PHÁP TU TỪ SO

LƯU QUANG VŨ ” chọn đề tài này, chúng tôi nhằm tự trang bị

và rèn luyện cho mình năng lực nghiên cứu khoa học, kĩ năng tư duy và phân tích
vấn đề, góp phần vào công việc học tập và giảng dạy sau này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1.

Nghiên cún so sánh tu từ từ góc độ phong cách

h ọ c Ở lĩnh vực ngôn ngữ, đặc biệt là lĩnh vực phong cách học xem
xét về biện pháp tu tù’ so sánh phải kể đến tác giả sau:

8


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

Tác giả Đinh Trọng Lạc trong giáo trình “ Phong cách học tiếng Việt” đã
dành những trang viết, dành cả một chuyên mục về biện pháp so sánh tu từ. Tác

giả viết: Trong văn chương, so sánh là phương thức tạo hình phương thức gợi
cảm. Nói đến văn chương là nói đến so sảnh... A-Phơrăngxơ một lẩn định nghĩa
“ Hình tượng là gì? Chính là sự so sánh... ” Gô-lủp “Hầu như bất cứ sự biếu
đạt hình ảnh nào cũng có thế chuyến thành hình thức so sảnh Một so sảnh đẹp là
so sảnh phát hiện. Phát hiện những gì người thường không nhìn ra; không nhận
thấy”. Không phải ngâu nhiên mà Chế Lan Viên khen thơ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh “ Một vị chủ tịch nước mà có được một so sảnh: Tiếng suối trong như
tiếng hát xa [3; 192]
Các so sánh phong cách học thường nhắc đến ý kiến của Paolơ: “SỨC
MẠNH CỦA SO SÁNH LÀ NHẬN THỨC CÒN SỨC MẠNH CỦA ẤN DỤ ỈÀ BIẾU CẢM”

[dẫn

theo 3; 193]. Nếu nói so sánh nói chung thì điều ấy có lý. Nhưng không phải mọi
so sánh đều cụ thể, đều lấy một hình ảnh cụ thể hơn để miêu tả một hình ảnh
chưa được cụ thể.
Chẳng hạn:
-

Vui như mở cờ trong bụng

-

Xanh như chàm đổ
Các thành ngữ trên có vẻ là cụ thể.
Hoặc:

-

Trong như tiếng hạc bay qua

(Nguyễn Du)

-

Tiếng hát trong như suối Ngọc Tuyền
Êm như gió thoảng cung tiên
(Thế Lữ)

9


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

Nào ai đã một lần thấy hạc bay qua, “SUỐI NGỌC TUYỀN ”, “CUNG TIÊN ”...
để mà nói cụ thể. Ở đây chỉ là sự gợi cảm và hứng thú được một lần bay bổng
trong tưởng tượng. Ây vậy mà vẻ đẹp chiếm lĩnh tâm hồn ta làm cho hình tượng
thêm đẹp, ta có cảm giác thêm cụ thế mà thôi. Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ
của sự liên hội và so sánh nghệ thuật là đôi cánh giúp ta bay vào thế giới của cái
đẹp, của tưởng tượng hơn là đến ngưỡng của logic học.
Tác giả còn viết “7zra được một điều so sánh đâu có phải dê dàng, vì đó
là tâm hồn, tài năng nghệ thuật” [3; 193].
Như vậy điều tác giả muốn nói là tìm hiếu hiệu quả của biện pháp tu từ so
sánh không phải là việc đơn giản mà phải công phu. Vì vậy vấn đề này luôn hấp
dẫn các nhà nghiên cứu. Các giáo trình phong cách học cho ta thấy được khái
niệm, các cách phân loại, cơ chế của phép so sánh tu từ, từ đó, người viết lấy làm
cơ sở để đi vào nghiên cứu phép so sánh trong thơ Lưu Quang Vũ.
Trong cuốn “99 Phương tiện và phương pháp tu từ tiếng Việt” tác giả
Đinh Trọng Lạc còn phát hiện ra “trong lời nói nghệ thuật, so sánh tu từ đã biếu

hiện đầy đủ những khả năng tạo hình - diên cảm của nó. Nhà văn luôn cố gắng
phát hiện ra những điều mà người ta không chủ ỳ đến hoặc không cảm thấy ” [4]
Theo Võ Bình, Lê Anh Hiền, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa: Phương thức

so sánh là một hình thức biểu hiện đơn giản nhất của lời nói hình ảnh. về mặt
hình thức, so sánh khác với tất các cách chuyển nghĩa, ở chỗ bao giờ cũng gồm
có hai đối tượng lập thành hai vế, các đối tượng này có thể là sự vật, tính chất hay
hành động. Hai đối tượng được gắn với nhau để tạo nên một hình thức so sánh.
[146, 1]
Như vậy, so sánh là biện pháp tu từ được sử dụng phố biến, đem lại giá trị
nghệ thuật cao.

1
0


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

2.2. Nghiên cửu so sánh tu từ trong thơ Lưu Quang Vũ
Trên thi đàn Việt Nam, Lưu Quang Vũ xuất hiện với một phong cách thơ
riêng biệt, độc đáo đôn hậu, hiền hòa và thiết tha tình nghĩa. Chính vì thế, thơ ông
dễ đi vào lòng người, gây được cảm tình cho độc giả. Với Lưu Quang Vũ, thơ
luôn là một phần của tâm hồn, của cuộc đời, của lẽ sống, của tình yêu. Tuy nhiên,
so với kịch, thơ Lưu Quang Vũ lại chịu sự thách thức và sàng lọc kĩ lưỡng của
thời gian. Trong khoảng thời gian dài, độc giả dường như dã quên thơ Lưu Quang
Vũ bởi sự ra đời rầm rộ hơn 50 vở kịch của ông. Và phải đến khi Lưu Quang Vũ
qua đời thì các giá trị thơ của ông mới lại tiếp tục được đánh giá và khẳng định.
Nhiều bài nghiên cứu, phê bình cũng đã đi sâu vào tìm hiểu các phương

diện thể hiện trong thơ Lưu Quang Vũ. Một số yếu tố được các nhà phê bình rất
chú ý đó là những biểu tượng của thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ người ta
thường nhắc đến biểu tượng gió, hoa, lửa..., yếu tố thứ hai về cách thức biểu hiện
trong thơ Lưu Quang Vũ được nói đến khá tập trung là giọng điệu, thể thơ, ngôn
ngữ. Hoài Thanh nhận ra thơ Lưu Quang Vũ thường “NGỌT

NGÀO, HIỀN HẬU



Quần Phương lại nhận thấy ở anh “MỘT GIỌNG THƠ RẤT ĐẮM ĐUỐI
Chúng tôi nhận thấy các bài viết, các ý kiến trên mới chỉ đi sâu vào việc
tìm hiểu nội dung thơ Lưu Quang Vũ còn ở phương diện nghệ thuật, việc tìm
hiểu các biện pháp tu từ trong thơ Lưu Quang Vũ dường như còn bỏ ngỏ chưa
được khai thác một cách cụ thế.
Tiếp thu kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, đồng thời thấy rằng
so sánh tu từ trong thơ Lưu Quang Vũ là một đề tài hấp dẫn thuộc phạm vi
nghiên cứu phong cách học chưa được khai thác và nghiên cứu một cách cụ thể,
vì vậy chúng tôi lựa chọn đề tài khóa luận “ BIỆN
THƠ

PHÁP TU TỪ SO SÁNH TRONG

LUĨÍ QUANG VŨ” với hy vọng sẽ đưa ra những kết quả thống kê phân loại,

nhận xét bước đầu về mức độ sử dụng và hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ

1
1



'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

so sánh trong các tác phẩm của Lưu Quang Vũ. Đồng thời, góp phần vào việc tìm
hiểu và làm sáng tỏ những đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với tiến trình thơ
hiện đại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu biện pháp tu từ so sánh trong thơ Lưu Quang Vũ, đề tài nhằm
khắng định những hiệu quả nghệ thuật to lớn mà biện pháp tu từ so sánh mang lại
cho thơ ông, qua đó góp phần khẳng định tài năng thơ ca của Lưu Quang Vũ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tống hợp các vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài
- Khảo sát, thống kê và phân loại ngữ liệu
- Miêu tả, phân tích nghệ thuật của biện pháp so sánh từ góc độ tu từ
5. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp nghệ thuật so sánh tu từ trong thơ Lưu Quang Vũ
6. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát tập thơ “ơ/ớ VÀ TÌNH YÊU THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI”, Nxb Hội
Nhà Văn, năm 2014.
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại biện pháp tu từ: người viết đã
khảo sát các trường hợp sử dụng biện pháp tu tư so sánh thông qua việc đọc 129
bài thơ của Lưu Quang Vũ.
Từ những kết quả đã có được, căn cứ vào những tiêu chí phân loại, người
viết đã phân chia số liệu thống kê thành các nhóm cụ thể:
Phương pháp phân tích: Vận dụng phương pháp phân tích phong cách học

đế phân tích hiệu quả sử dụng biện pháp so sánh tu từ.

1
2


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

Phương pháp tổng hợp: Từ những ví dụ đã phân tích nhận xét, người viết
đã tống hợp và đưa ra những kết luận khái quát nhất, chung nhất về biện pháp tu
từ so sánh trong thơ Lưu Quang Vũ.
8. Đóng góp của khóa luận
8.1.

Khoa học

Đe tài tiếp tục khắng định giá trị nghệ thuật của biện pháp tu từ so sánh
trong thơ, từ đó góp phần khẳng định tài năng thơ ca của Lưu Quang Vũ.
8.2.

Thực tiễn

Các kết quả nghiên cứu của bài viết có thể được vận dụng trong hoạt động
dạy học học phần PHONG CÁCH HỌC cũng như dạy học văn chương.
9. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận này
gồm có hai chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận

Chương 2: Phân tích các mô hình so sánh trong thơ Lưu
Quang Vũ

1
3


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

NỘI DƯNG CHƯƠNG 1: CO SỞ LÍ LUẬN
1.1.

Biện pháp tu từ so sánh

1.1.1. Khái nỉệm
Khi nói đến các biện pháp tu từ trong tác phẩm văn chương chính là chúng ta
nói tới hiệu quả của các biện pháp ấy đối với nội dung tư tưởng của tác phẩm. So sánh
là biện pháp tu từ tiêu biểu có giá trị tạo hình và gợi cảm. Vậy so sánh là gì?
TỪ

ĐIỂN THUẬT NGỮ VẪN HỌC

(2006) định nghĩa: “So sánh (comparison) là

phương thức biểu đạt ngôn từ một cách hình tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện
tượng có những dấu hiệu tương đồng nhằm làm nối bật đặc điếm, thuộc tính của hiện
tượng này qua đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng kia” [6; 282]
Tác giả Đinh Trọng Lạc trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt” định nghĩa

như sau: “So sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự
vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ
thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc, người nghe” [3; 189]
Ngoài ra so sánh tu từ còn được định nghĩa: “So sánh là sự đối chiếu hai đối
tượng cùng có một dấu hiệu chung nào đấy nhằm biểu hiện một cách hình tượng của
một trong hai đối tượng đó” [145, 1]
Đe phục vụ cho mục đích nghiên cứu, trong trường hợp này chúng tôi chọn
định nghĩa của tác giả Đinh Trọng Lạc.
1.1.2. Cấu tạo của biện pháp so sánh tu từ
So sánh thực chất là sự đối chiếu giữa một hình ảnh này hoặc
hình ảnh kia hay một vài hình ảnh khác không giống nhau về
phạm trù nhưng dựa vào liên tưởng mà người ta có thể tìm ra
những nét tương đồng nào đó về mặt
nhận thức hoặc tâm lý. Một phép so sánh đúng đắn nhất bao giờ cũng phải thỏa
mãn hai điều kiện sau đây:
- Đối tượng đưa ra so sánh là khác loại.
- Giữa hai đối tượng phải có nét tương đồng đế so sánh.


Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

So sánh bao giờ cũng phải dựa vào hai đối tượng khác phạm trù nhau tạo thành
hai vế: vế A và vế в. Giữa hai vế bao giờ cũng có từ làm công cụ so sánh.
Mô hình cấu tạo chung: А X в (x là tù’ so sánh)
Theo tác giả Đinh Trọng Lạc trong “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng
Việt” thì mô hình cấu tạo so sánh hoàn chỉnh bao gồm 4 yếu tố:
-


Yeu tố 1 : Yeu tố được hoặc bị so sánh tùy theo so sánh là tích cực hay tiêu
cực.
-Yeu tố 2: Yeu tố chỉ tính chất của sự vật hay trạng thái của hành động có vai

trò nêu rõ ràng biện pháp so sánh.
- Yếu tố 3: Yếu tố thể hiện quan hệ so sánh.
- Yeu tố 4: Yeu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh.
Nhưng trên thực tế, nhiều mô hình chung А X в không có đầy đủ cả 4 yếu tố
trên, chính vì vậy mà biện pháp so sánh được chia ra làm : So sánh tu tù’ nổi và so
sánh tu từ chìm.
+ So sánh tu từ nổi:
Nét tương đồng, cơ sở của sự so sánh được thể hiện ra bằng những từ ngữ cụ
thể mà người đọc và người nghe dễ nhận thấy.
Ví dụ:
Các chóp mái đều lượn rập rờn như các nếp sóng bạc đầu.
(Nguyễn Tuân)
+ So sánh tu từ chìm:
Nét tương đồng, cơ sở của sự so sánh không được thể hiện ra bằng những từ
ngữ cụ thế mà người đọc và người nghe tụ’ liên hội đế tìm ra.
So sánh tu từ chìm tạo điều kiện cho sự liên tưởng rộng rãi hơn so với so sánh
tu từ nối, nó tác động đến sự tưởng tượng của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn để tìm tòi
và phát hiện được nét giống nhau giữa các đối tượng của hai vế.
Ví dụ:


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

Gái thương chồng, đương đông buốỉ chợ...

(Ca dao)
1.1.3. Phân loại
Theo Đinh Trọng Lạc trong “99

PHƯƠNG TIỆN VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ TIẾNG

VIỆT

”, căn cứ vào từ ngữ dùng làm yếu tố thể hiện quan hệ so sánh, có thể chia ra các hình
thức so sánh sau đây:
+ Yếu tố thứ 3 là từ “như” (tựa như, chừng như...)
+ Yếu tố thứ 3 là từ hô ứng (bao nhiêu.. .bấy nhiêu)
+ Yếu tố thứ 3 là từ “là”
Nếu thay từ “là” bằng từ “như” thì nội dung cơ

bản khôngthay đốichỉ

thay đổi về sắc thái ý nghĩa từ sắc thái khẳng định chuyển sang

sắc thái giả

định.
Theo giáo trình “PHONG

CÁCH HỌC TIẾNG

VIỆT” do Đinh Trọng Lạc chủ biên,

so sánh tu từ được phân chia theo các hình thức sau:
+ Hình thức đầy đủ gồm cả 4 yếu tố của phép so sánh tu từ.

+ Đảo ngược trật tự so sánh.
+ Bớt cơ sở, thuộc tính so sánh. Thông thường, khi bớt cơ sở so sánh thì được thuyết
minh miêu tả ở phần được so sánh.
+ Bót tù’ so sánh.
+ Thêm “bao nhiêu”, “bấy nhiêu”.


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

+ Dùng từ “là” làm từ so sánh. Đây là loại so sánh ẳn dụ, gọi như vậy là vì “là” có
chức năng liên hệ so sánh ngầm mà không phải “là” trong kiểu câu tường giải khái
niệm.
Sách giáo khoa Ngữ văn 6, chương trình cơ bản phân chia so sánh thành hai loại:
+ A như B (so sánh ngang bằng)
+ A không như (hơn, kém, không bằng) B (so sánh không ngang bằng)
Trên cơ sở phân loại của các tác giả đi trước, chúng tôi tiến hành phân loại so
sánh tu từ thành các loại sau đây:
- So sánh ngang bằng gồm các kiểu sau:
+ A như B
+ A như B i , Bn + A cũng
như B + A tựa B + A l à B
+ A l à B i , B 2 , . . B n + A B (Từ
so sánh bị triệt tiêu)
+ Như BA
+ A bao nhiêu B bấy nhiêu
- So sánh không ngang bằng gồm các kiểu sau:
+ A thua B + A
hơn B

Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi: “Bằng con
đường so sánh, nhà văn có thế phát hiện ra rất nhiều đặc
điểm, thuộc tính của một đối tượng, hiện tượng. Do đó, so
sánh là biện pháp nghệ thuật quan trọng, góp phần tạo cho
người đọc những ấn tượng thẩm mĩ hết sức phong phú.” [6]
1.1.4. Hiệu quả của các biện pháp tu từ so sánh
Biện pháp tu từ so sánh là một hình thức biếu hiện đơn giản nhất của lời nói
hình ảnh. Gô-lúp khẳng định: “HẦU
CHUYẾN THÀNH HÌNH THỨC SO SÁNH”

NHƯ BẤT KÌ SỰ BIẾU ĐẠT NÀO CŨNG CÓ THẾ

[3, 192]

Pao-lơ đã tổng kết: “Sức mạnh của so sánh là nhận thức” (theo Đinh Trọng Lạc)


Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Một cách khái quát, biện pháp tu từ so sánh giúp chúng ta có thế hiếu một cách
sâu sắc và toàn diện về sự vật, sự việc. So sánh tu từ làm tăng thêm tính gợi hình ảnh
và tính biểu cảm cho câu văn câu thơ. Đồng thời, so sánh cũng là một biện pháp để
giúp chúng ta bày tỏ lòng yêu ghét, khen chê, thái độ khắng định hoặc phủ định đối
với sự vật.
Do chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm cùng với sự cấu tạo đơn giản
cho nên so sánh được dùng nhiều trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày,
phong cách ngôn ngữ chính luận, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
1.2. Vài nét về nhà thơ Lưu Quang Vũ

1.2.1. Cuộc đòi
1.2.1.1. Gia đình và quê hương
Lưu Quang Vũ sinh ngày 17/4/1948 tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú
Thọ nhưng quê gốc ở thành phố Đà Nang, tỉnh Quảng Nam. Ông là con trai nhà viết
kịch Lun Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh. Có thể nói, gia đình và quê hương chính
là cái nôi nuôi dưỡng tài năng Lưu Quang Vũ nảy nở và phát triển.
Cha ông - nhà viết kịch Lưu Quang Thuận đồng thời cũng là một nhà thơ tài
hoa. Chính ông là một tính cách thơ đằm thắm, dạt dào và mặn mà như biển Đà Nang
quê ông. Lưu Quang Vũ mang nợ thơ từ trong huyết thống. Ngay thuở mới lên năm,
lên sáu nhà thơ Lưu Quang Thuận đã sớm phát hiện ra tâm hồn đa cảm, tài hoa nơi
đứa con trai đầu lòng của mình, và ông “đã tin chắc rằng sau này lớn lên con trai của
mình sẽ trở thành thi sĩ”. (Lưu Quang Vũ - Thơ và đời)”. Còn mẹ ông là một người
phụ nữ tần tảo, đảm đang, giàu lòng yêu thương và đức hy sinh. Bà đã đế lại trong tâm
trí Lưu Quang Vũ những hình ảnh ngọt ngào của tuổi thơ “mải chơi trốn học”, “những
tối mẹ ngồi khâu lại áo”. Đó là những kỉ niệm một thời không thể quên đã in dấu trong
các sáng tác của Lưu Quang Vũ sau này.
Hình thành nên diện mạo và phong cách thơ Lưu Quang Vũ còn bởi vùng trung
du Bắc Bộ - thôn Chu Hưng “ấm những ngày gian khổ khó quên nhau”. Chính ở nơi


Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

đây, Lưu Quang Vũ được sinh ra trong mối tình nồng thắm của cha mẹ và sự yêu
thương, bao bọc của làng xóm. Vì thế cái tên “Chu Hưng” đi vào trong thơ Lưu Quang
Vũ một cách rất giản dị tự nhiên không chỉ như một địa danh, một nơi chôn nhau cắt
rốn mà còn như nguồn cội sáng tạo đời thơ Lưu Quang Vũ.
1.2.1.2. Bản thân
Tuổi thơ Lưu Quang Vũ sống cùng cha mẹ tại Phú Thọ. Khi hòa bình lặp lại

(1954) gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội.
Từ 1965 đến 1970, Lưu Quang Vũ nhập ngũ, phục vụ trong quân chủng phòng
không không quân. Đây là thời kì thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ
Từ 1970 đến 1978, ông xuất ngũ và làm đủ thứ nghề để mưu sinh, làm ở xưởng
cao su Đường sắt, làm họp đồng cho nhà xuất bản Giải Phóng, chấm công cho một đội
cầu đường, vẽ pa - nô, áp phích...
Từ 1978 đến 1988, Lưu Quang Vũ làm biên tập viên Tạp chí sân khấu, băt đầu
sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay “SỐNG

MÃI TUỐỈ

17” (được trao tặng Huy

chương Vàng Hội diễn viên sân khấu năm 1980).
Lưu Quang Vũ kết hôn hai lần. Lần thứ nhất với diễn viên điện ảnh Tố Uyên
năm 1969. Hai người li dị năm 1972. Ông kết hôn lần hai với nữ sĩ Xuân Quỳnh năm
1973.
Giữa lúc tài năng đang độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô
trên quốc lộ 5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con
trai Lưu Quỳnh Thơ (29/8/1988).
Cuộc sống của Lưu Quang Vũ tuy ngắn ngủi nhưng ông đã sống và làm việc
hết mình, đã có những đóng góp không nhỏ cho đời sống văn học dân tộc ở nhiều thể
loại: thơ, văn xuôi, kịch... Thơ Lưu Quang Vũ không chỉ bay bổng, tài hoa mà còn
giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ
giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc
sống của ông.


Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Năm 2000, Lun Quang Vũ được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học
nghệ thuật.
1.2.2. Sự nghiệp
Thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của Lưu Quang Vũ đã sớm bộc lộ từ
nhỏ.
Năm 13 tuổi, cậu bé Vũ đã giành được giải thưởng của thành phố về cả văn và
họa.
Năm 17 tuổi, Lưu Quang Vũ nhập ngũ, được biên chế về biên
chủng phòng không không quân. Đây là giai đoạn có nhiều thay
đổi trong cuộc đời anh. Anh sáng tác rất nhiều thơ. Chùm thơ
đầu tay: “Gửi tới các anh, Lá bưởi lá chanh, Đêm hành quân”
được in trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Và đặc biệt, bằng sự
xuất hiện trên văn đàn với phần thơ “Hương cây” in chung với
Bằng Việt trong tập thơ “Hương cây - Вер lửa” khi anh tròn
20 tuổi thì Lưu Quang Vũ nhanh chóng được biết đến với tư
cách là một nhà thơ trẻ tài năng đầy triển vọng.


ЭСкба luận tôi H tjfa iêp rt)ại hoe

Qtạ uụ ễn Çjh i Çîh on ụ.

Lưu Quang Vũ đã sống trong lòng bạn đọc yêu thơ bằng những câu thơ, bài thơ
“không thế thay thế”. Độc giả như tìm thấy một cảm xúc rất riêng tư, một cá tính rất
độc đáo qua các tập thơ:
1. HƯƠNG CẤY - ВЕР LỬA - Tập thơ (In chung), Nxb Văn học, 1968.
2. MÂY TRẮNG CỦA ĐỜI TÔI - Tập thơ, Nxb Tác phẩm mới, 1989.
3. BẦY ONG TRONG ĐÊM SÂU - Tập thơ, Nxb Tác phấm mới, 1993.

Ngoài ra, Lưu Quang Vũ có 12 tập thơ đã được đặt tên, có những tập đã hoàn
chỉnh: CUỐN SÁCH XẾP LẦM TRANG, CỎ TÓC TIÊN.. và những tập thơ còn dang dở.
Phần lớn các bài thơ của anh sau này đã được tập họp trong cuốn “LƯU QUANG


THƠ VÀ ĐỜI”,

QUANG VŨ - DI

Nxb Văn hóa - Thông tin, 1997. Và mới đây nhất là cuốn “LƯU

CẢO, THƠ VÀ NHẬT KỈ”,

Nxb Lao động, 2008; đặc biệt là tuyển thơ

“GIÓ VÀ TÌNH YÊU THỐI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI”, Nxb Hội nhà văn, 2014. Với thơ, anh đã
có được giọng điệu riêng, ổn định một bản sắc thơ nhất quán. Đọc thơ Lưu Quang Vũ,
chúng ta mới hiếu hết vì sao người ta lại nói: Với thơ, anh đã được sống cho riêng
mình. Đó là tấm lòng của một thi nhân nhiều trắc trở. Neu như thơ và kịch đã ghi tên
Lưu Quang Vũ trong lòng bạn đọc bao thế hệ thì khi nhắc đến anh chúng ta cũng
không thể không nhắc đến nhũng sáng tác truyện ngắn giàu chất thơ và kịch. Truyện
ngắn được xem là nhịp cầu nối liền hành trình nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Đã từng làm thơ, làm báo, lại có duyên với văn xuôi, Lưu Quang Vũ đã chuấn
bị một vốn liếng văn học và nghề nghiệp nhất định trước khi bước vào lĩnh vực sân
khấu. Ngay từ vở kịch đầu tay “SỐNG MÃI TUỔI 17” đã đem lại vinh quang cho anh khi
anh được trao tặng huân chương vàng tại hội diễn sân khấu toàn quốc năm 1980. Đó là
một sự động viên, tạo niềm tin cho anh, để anh miệt mài sáng tạo cho đến trước khi
mất (1988). Hơn 50 vở kịch đã ra đời làm thay đổi hẳn diện mạo của nền sân khấu
nước nhà: từ tư duy của người diễn, người xem cho đến người phê bình. Giờ đây nhắc
đến anh có lẽ không ai quên được: “Lời nói dối cuối cùng, Hồn Trương Ba da hàng

thịt, Nàng Sita, Tôi và chủng ta, Lời thề thứ 9,...

2
1


ЭСкба luận tôi H tjfa iêp rt)ại hoe

Qtạ uụ ễn Çjh i Çîh on ụ.

Trong những năm tháng ngắn ngủi của cuộc đời, Lưu Quang Vũ đã kịp để lại
cho đời nhiều tác phẩm có dấu ấn, là một trong số những kịch gia lớn nhất của Việt
Nam thế kỉ XX. Tuy vậy, trước hết anh vẫn là một nhà thơ. Bởi với thơ, anh đã được
sống cho riêng mình. Sinh thời niềm say mê lớn nhất của anh là: vẽ tranh, viết nhật kí
và làm thơ. Thơ có thế không mang lại cho anh những thành công rực rỡ, huy hoàng
như kịch nhưng “THƠ
THƠ

VỚI

CHÍNH LÀ NƠI ẤN NÁU CUỐI CHÓT CỦA CHÀNG THỈ SĨ BUỒN NÀY.

LIM QUANG VŨ

CHÀNG VỚI ĐỜI SỐNG”.

LÀ TẤT CẢ SỰ HÀM ƠN VÀ TRANG TRẢI RIÊNG CỦA TÂM HỒN

(Nguyễn Thị Minh Thái). Thơ Lưu Quang Vũ vì thế mang


nhiều tính chất tự thuật, nó giống như những dòng nhật kí chia sẻ với anh những khi
anh đau khố, vui sướng và hạnh phúc trong cuộc đời.
1.2.3. Phong cách thơ Lưu Quang Vũ
Cùng với các nhà thơ trẻ, Lưu Quang Vũ đã có nhiều đóng góp trong việc hiện
đại hóa thơ ca dân tộc. Lưu Quang Vũ làm thơ khá dễ dàng, cũng có thể so sánh giống
như cách người ta nhận xét về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn khi viết về các ca khúc “DE
DÀNG NHƯ LẤY MỘT MÓN ĐỒ TỪ TRONG TỦI ẢO RA

”. Cộng với một thế giới tâm hồn và

bản năng sáng tạo rõ nét...
Lun Quang Vũ như một cá tính thơ mạnh mẽ, một phong cách thơ sắc nét trong
thơ ca kháng chiến chống Mĩ cũng như thơ ca Việt Nam thế kỉ XX.
Trước hết, phong cách thơ Lưu Quang Vũ thể hiện qua cái tôi trữ tình đắm
đuối. Đắm đuối là bản sắc thơ riêng biệt của Lưu Quang Vũ. Trong mọi ngọn nguồn
cảm xúc, vui, buồn, khổ đau, thất vọng,... lúc nào Lưu Quang Vũ cũng đắm đuối.
Chính sự đắm đuối mang tính bản năng này đã chi phối đến những sáng tác của Lưu
Quang Vũ, từ đề tài cho đến phương thức thể hiện.
Đặc biệt trong mảng thơ tình, sự đắm đuối ấy của Lưu Quang Vũ càng được thể hiện
rõ hơn bao giờ hết.
Phong cách thơ Lưu Quang Vũ còn được thể hiện cụ thể qua những đề tài mà
nhà thơ chọn lựa, qua những mảng nội dung hiện thực mà nhà thơ phản ánh. Từ hiện

2
2


ЭСкба luận tôi H tjfa iêp rt)ại hoe

Qtạ uụ ễn Çjh i Çîh on ụ.


thực chiến tranh đến những vấn đề bức thiết của đời sống, từ số phận của từng cá nhân
đến số phận, vận mệnh của cả dân tộc, từ những trăn trở mang tính cá nhân đến những
vấn đề mang tính đồng loại và nhân loại... Nhưng tất cả đều được nhìn qua một thế
giới quan đầy khác biệt với các nhà thơ cùng thế hệ bấy giờ. Đó là một cái nhìn thực
tế, trần trụi, đau xót, nhưng tràn đầy yêu thương, đầy hy vọng, và luôn kiếm tìm, luôn
luôn tranh đấu.
Thơ Lưu Quang Vũ thực sự là một thứ thơ làm người ta yêu nhiều hơn làm
người ta phục. Điều đó có nghĩa rằng, nó đem lại niềm cảm xúc lớn. Trong chừng gần
30 năm Lưu Quang Vũ đến với thơ ca, ông đã đế lại một khối lượng thơ không nhỏ, và
rất nhiều bài thơ trong đó, đã tìm được chỗ đứng sâu rộng trong lòng bạn đọc và
chứng minh được độ bền của nó với thời gian. Chính vì thế, bên cạnh một Lưu Quang
Vũ của sân khấu, người ta vẫn cần phải nhắc đến một Lưu Quang Vũ nhà thơ, với
những cống hiến không hề ít ỏi của ông.
T i ễ u k ế t : Trên đây, chúng tôi trình bày các vấn đề lí thuyết
về biện pháp tu từ so sánh dưới góc độ ngôn ngữ học và vài
nét về nhà thơ Lưu Quang Vũ. Qua đó, rút ra những đóng góp
nhất định của biện pháp so sánh tu từ trong văn học nói
chung và tác dụng của biện pháp so sánh tu từ trong thơ Lưu
Quang Vũ nói riêng.

2
3


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe

Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH CÁC MÔ HÌNH so SÁNH TRONG

THƠ LƯU QUANG vũ
2.1.

Kết quả khảo sát thống kê
Qua việc thống kê 129 bài thơ trong tập thơ GIÓ VÀ TÌNH YÊU THỔI TRÊN

ĐẤT NƯỚC TÔI,

chúng tôi nhận thấy có 111 bài thơ Lưu Quang Vũ sử dụng biện

pháp tu từ so sánh, trong đó có 296 phép so sánh, cụ thế như sau:
Loại

Mô hình so
sánh ngang
băng

Mô hình so
sánh không

STT

Mô hình



lân

Tỉ lệ


xuất hiện

(%)

(phiếu)
192

64,86

1.

A như B

2.

AlàB

40

13,51

3.

A như Bi, Bn

34

11,49

4.


A là Bi, B2, . . B n

14

4,73

5.

Như BA

6

2,03

6.

A - B (từ so sánh bị triệt tiêu)

4

1,35

1.

A thua B

5

1,69


2.

A hơn B

1

0,34

296

100%

ngang bằng
*7

rw-1 Ạ
Tông

Trong đó, A là vế so sánh, B là vế được so sánh, “như, là, hơn, thua,.. là
tù’ so sánh.
2.2.
Nhận xét kết quả thống kê
Qua thống kê 129 ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy trong các bài
thơ mật độ xuất hiện của phép so sánh tu từ trong tập thơ
GIỎ VÀ TÌNH YÊU THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI của Lưu Quang Vũ là khá cao.
Điều này thể hiện rằng, nhà thơ sử


'Khóa luận tết Hiịhìèp rt)ại hoe


Qtạuụễn Cĩliỉ ^Jlĩ tintỊ

dụng nhiều biện pháp so sánh tu từ trong việc diễn đạt lời thơ, ý thơ để bày tỏ quan
điếm của mình.
Các mô hình so sánh được Lưu Quang Vũ sử dụng đa dạng, phong phú, có mặt
ở hầu hết các mô hình so sánh. Trong đó, mô hình so sánh ngang bằng được sử dụng
nhiều nhất, chiếm 290/296 phiếu tương ứng với 97,97%. Đây là kiểu so sánh dễ sử
dụng, mang lại hiệu quả cao. Kiểu so sánh này có thế chia thành các loại nhỏ theo mô
hình riêng. Mô hình A n h ư B chiếm đa số với 192 phiếu tương ứng với 64,86%. Các
mô hình còn lại có tỉ lệ % không quá chênh lệch nhau, tuy nhiên tỉ lệ này không cao.
Mô hình so sánh không ngang bằng cũng xuất hiện, tuy nhiên chỉ với số lượng ít ỏi
với 6/296 phiếu tương ứng 2,03%.
Trong thơ Lun Quang Vũ, các phép so sánh được sử dụng như một phương tiện
tạo hình, có khi lại được sử dụng như một phương tiện biếu hiện, hoặc kết họp cả biểu
hiện lẫn tạo hình. Chính vì thế, chuẩn mực so sánh trong thơ Lưu Quang Vũ rất đa
dạng, có nhiều kiếu so sánh hết sức bất ngờ, độc đáo.
2.3.

Phân tích hiệu quả nghệ thuật của các mô hình so sánh trong thơ

Lưu Quang Vũ
Trên cơ sở kết quả thống kê được, chúng tôi tiến hành phân tích hiệu quả của
biện pháp tu từ so sánh trong các tác phẩm tiêu biểu, độc đáo của Lưu Quang Vũ trong
tập thơ: GIÓ VÀ TÌNH YÊU THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI.
2.3.1. So sánh ngang bằng
2.3.1.1. Mô hình A như B
Mô hình “ A n h ư B ” là mô hình được Lưu Quang Vũ s ử dụng với tần số
cao nhất, thống kê được 192/296 phiếu, chiếm tỉ lệ 64,86%. Ở mô hình này, vế A
được so sánh với vế B thông qua từ so sánh “như”. Giữa hai vế A B luôn có sự tương

đồng nhất định, đối tượng ở hai vế được đem ra so sánh phải giống nhau ở một nét nào
đó làm cơ sở. Sự vật được nêu ở vế B dùng để đối chiếu nhờ đó ta có thể hiểu được vế
A. Sự vật được đem ra so sánh ở vế B được tác giả cân nhắc, lựa chọn rất kĩ càng để

2
5


×