Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Khảo sát lỗi viết câu trong bài viết của học sinh trường THCS GIAI XUÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.13 KB, 23 trang )

Khảo sát lỗi viết câu trong bài làm văn của học sinh trường THCS GIAI
XUÂN"
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
2 Lịch sử vấn đề
3. Mục đíc nghiêhn cứu
4.Phạm vi nghiên cứu
5.Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
1. Vai trò của các bài viết văn trong trườngTHCS.
2. Những yêu cầu của một bài văn đúng và hay:
2.1 Trước khi làm bài học sinh phải xác định được phần tìm hiểu đề:
2.2 Lập dàn ý:
2.3 Chuyển ý trong văn văn tự sự:
2.4 Hành văn trong văn văn tự sự
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng viết văn của học sinh hiện nay:
2. Các lỗi thường gặp trong viết văn của học sinh
2.1. Lỗi chính tả:
2.1.1. Lỗi viết hoa.
2.1.1.1 Viết hoa sai quy định chính tả :
2.1.1.2 Viết hoa tùy tiện :
2.1.2Lỗi viết tắt :
2.1.2.1Viết tắt sai quy định chính tả :
2.1.2.2 Viết tắt tùy tiện:
2.1.3. Lỗi dùng số và chữ biểu thị số:
2.1.3.1. Lẫn lộn hai loại số:
2.1.3.2 Lẫn lộn số và chữ biểu thị số:
2.1.4 Lỗi chính tả âm vị :


2.1.4.1 Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính:
2.1.4.2 Lỗi chính tả âm vị đoạn tính :
2.1.4.2.1Ghi sai phụ âm đầu :
2.1.4.2.2 Ghi sai âm đệm :
2.1.4.2.3 Ghi sai âm chính :
2.1.4.2.4 Ghi sai âm cuối / bán âm cuối :
2.2.Lỗi diễn đạt:
1


2.2.1. Lỗi dùng từ:
2.2.1.1 Lỗi dùng từ sai sắc thái iểu cảm,phong cách:
2.2.1.2 Lỗi về nghĩa của từ:
2.2.1.3 Lỗi lặp từ:
2.2.1.4. Lỗi lôgic
2.2.2. Lỗi viết câu:
2.2.2.1 Nhầm trạng ngữ và chủ ngữ:
2.2.2.2 Lẫn lộn giữa vị ngữ và thành phần phụ chú ngữ:
2.2.2.3Câu lan man dài dòng:
2.2.3 Lỗi dựng đoạn:
2.2.4 Lỗi bố cục bài văn:
2.3Lỗi sai kiến thức:
3. KẾT QUẢ KHẢO SÁT
4.Nguyên nhân:
CHƯƠNGIII. NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC LỖI VIẾT VĂN
CHO HỌC SINH:
1. Cần bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu thích văn chương, thích môn
Văn
2. Rèn chính tả và chữ viết cho học sinh:
3. Rèn kĩ năng dùng từ cho học sinh:

4. Rèn cách viết câu cho học sinh:
5. Rèn cách viết đoạn văn:
6. Rèn bố cục một bài văn:
7. Giáo viên phải giao bài thường xuyên cho học sinh
8. Học sinh cũng có thể học
C. KẾT LUẬN
Khảo sát lỗi viết câu trong bài làm văn của học sinh trường THCS GIAI
XUÂN
I. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết,câu là đơn vị dùng để giao tiếp giữa người
với người trong xã hội. Vì vậy, khi nói (hoặc viết), người nói (hoặc người
viết) không thể tự do tùy tiện muốn tạo câu thế nào cũng được. Muốn diễn
đạt đúng ý và muốn người khác hiểu đúng ý của mình, người nói (người
viết) phải biết lựa chọn, biết tạo câu sao cho đúng những quy tắc mà mọi
người trong cùng một cộng đồng ngôn ngữ chấp nhận và sử dụng. Có đặt
được câu đúng, câu hay hoạt động giao tiếp mới đạt được hiệu quả.
Chính vì lẽ đó,khi dạy học môn tiếng Việt ở trường phổ thông người
ta đã rất chú trọng dạy phần ngữ pháp - câu cho học sinh. Câu tiếng Việt
được đưa vào chương trình dạy học môn tiếng Việt ở cả tiểu học, trung học
2


cơ sở lẫn bậc phổ thông trung học. Câu (tiếng Việt) được chú trọng như
vậy là do hiệu quả sử dụng của nó trong giao tiếp. Ý thức được điều này,
các thầy cô giáo giảng dạy ngữ văn ở phổ thông đã cố gắng cung cấp
những kiến thức về câu và rèn luyện kỹ năng đặt câu đúng, đặt câu hay cho
học sinh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc dạy và học
về câu tiếng Việt ở nhà phổ thông vẫn còn nhiều hạn chế.
Như trên đã trình bày, học sinh trường chúng tôi cũng vậy,
khi sử dụng tiếng Việt thường hay mắc lỗi. Đó là lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi

ngữ pháp v.v . Trong các loại lỗi đó, chúng tôi tìm hiểu riêng lỗi về câu
trong các bài làm văn của học sinh .Với mong muốn góp một phần nhỏ vào
việc chuẩn hóa ngôn ngữ cho học sinh nói chung, học sinh Trung học cơ sở
Giai Xuân nói riêng, nên tôi chọn đề tài: " Khảo sát lỗi viết câu trong bài
làm văn của học sinh trường THCS GIAI XUÂN”
2 Lịch sử vấn đề
Ở bậc THCS việc viết các bài văn có vai trò rất quan trọng. Các bài
viết văn không chỉ đánh giá học sinh về mặt điểm số mà còn rèn luyện tính
kiên nhẫn, cách nói năng, bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh.Nhưng hiện nay,
nhiều học sinh lơ là trong việc rèn luyện kĩ năng làm văn dẫn đến chất lượng
bài làm văn của học sinh ngày càng bị giảm sút. Tình trạng phổ biến là học
sinh yếu kĩ năng làm văn. Hầu hết học sinh mắc lỗi trong việc viết văn từ
một đoạn văn ngắn cho đến một bài luận dài với rất nhiều kiểu lỗi.
Giáo viên giảng dạy Ngữ văn trong trường THPT đã có cố gắng trong
việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh nhưng kết quả vẫn chưa được như
mong đợi
Chính vì những lẽ trên, việc giúp học sinh THCS biết phát hiện lỗi,
hiểu nguyên nhân mắc lỗi, biết cách chữa và tránh được lỗi về câu là một
việc quan trọng và cần thiết. Việc làm này giúp cho học sinh "dần dần có ý
thức, có trình độ, có thói quen nói và viết đúng tiếng Việt" (Phạm Văn Đồng
- Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt). Từ đó năng lực ngôn ngữ của học
sinh ngày càng hoàn thiện và nâng cao.
3.Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này chỉ xin dừng ở việc chỉ ra các lỗi về kĩ năng chủ yếu mà
học sinh mắc phải và đề cập một số biện pháp khắc phục những lỗi đó.
Người viết cũng hi vọng, đồng nghiệp và học sinh sẽ có thêm tư liệu
về các lỗi kĩ năng làm văn của học sinh.
4.Phạm vi nghiên cứu:
Học sinh trường THCS Giai Xuân.
Những bài làm văn của học sinh Khối 8 trường THCS Giai Xuân.

5. Phương pháp nghiên cứu:

3


Khi nghiên cứu đề tài này, trước tiên đọc bài làm văn của học
sinh, khảo sát, thống kê, tổng hợp
Kĩ năng làm văn của học sinh rất phong phú và đa dạng. Nhưng đề tài
chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những lỗi viết văn mà học sinh mắc phải
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
3. Vai trò của các bài viết văn trong trường THCS.
Văn chương vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, là lĩnh vực để con người
hóa thân và thăng hoa. Vì thế nó vô cùng tinh vi và phức tạp. Môn Ngữ văn
trong nhà trường là môn khoa học nhân văn. Tuy vẫn mang tính phức tạp
của đối tượng nghiên cứu xong là một môn học thì nó phải đòi hỏi những
chuẩn mực khoa học để đánh giá các hoạt động giảng dạy, học tập của giáo
viên và học sinh. Việc đọc hiểu văn bản là những thao tác đầu tiên của hình
thức tập dượt nghiên cứu văn học. Nghiên cứu văn học là để hiểu văn học,
đối tượng cụ thể là tác phẩm văn học. “Cơ sở và xuất phát điểm của khoa
học văn học là sự đối thoại với các văn bản văn học thông qua hoạt động đọc
và hiểu chúng”. Đây cũng là vấn đề được tác giả Trần Đình Sử quan tâm,
theo đuổi khá lâu. Trong tạp chí Nhà văn, số 6-2002, GS. cho rằng: “Về tác
phẩm văn học, nhất thiết phải có khái niệm tác phẩm văn học xây dựng trên
cơ sở khái niệm văn bản mà lí luận văn học hiện hành còn thiếu. Ở đó văn
bản chỉ được coi như cái vỏ ngôn ngữ bên ngoài. Tác phẩm văn học phải
được cắt nghĩa theo lí thuyết tiếp nhận hiện đại”. Như vậy, tư tưởng trở về
với văn bản là một luận điểm khoa học khá nhất quán trong phương pháp
dạy và học văn của GS. Trần Đình Sử. Cùng với các bộ môn khác góp phần
hình thành nhân cách học sinh, môn văn trong trường phổ thông có tầm quan

trọng đặc biệt, tác động trực tiếp đến phẩm chất, tư tưởng tình cảm học sinh.
Một bài thơ hay, một trích đoạn đặc sắc khắc họa sinh động hình tượng nhân
vật, vào và đứng được trong tâm hồn học sinh sẽ trở thành thành lũy, là ngọn
hải đăng hướng đạo hành vi, thái độ sống các em.
Dạy văn là một hoạt động thuộc phạm trù nghệ thuật, khám phá và
chuyển tải cái hay, cái đẹp từ tác phẩm đến học sinh. Mỗi tác phẩm, tùy thể
loại, được tuyển chọn trong chương trình sách giáo khoa đều toát lên vẻ đẹp
riêng.Tác phẩm văn học mang đặc trưng riêng của cấu trúc tác phẩm nghệ
thuật ngôn từ. Đó là một chỉnh thể bao gồm các thành tố nhà văn – văn bản người đọc tương tác với nhau. Nội dung thẩm mĩ của tác phẩm văn học gắn
liền với tầm đón nhận của người đọc. Tiếp nhận văn học tức là đọc hiểu để
biến văn bản thành một thế giới hình tượng sinh động và nắm bắt được ý
nghĩa của nó.

4


Cùng với quá trình đọc hiểu văn bản, trong trường phổ thông, học
sinh còn phải viết các bài làm văn theo quy định. Việc viết bài của học sinh
không chỉ kiểm tra xem các em lĩnh hội kiến thức, khả năng cảm nhận văn
chương mà còn rèn khả năng ngôn ngữ, cách diễn đạt. Thông qua các bài
làm văn khả năng vận dụng và diễn đạt ngôn ngữ của các em được cải thiện
rất nhiều. Như vậy, trong trường phổ thông các bài làm văn giữ vị trí hết sức
quan trọng.
2. Những yêu cầu của một bài văn đúng và hay:
2.1 Trước khi làm bài học sinh phải xác định được phần tìm hiểu đề:
Xác định trọng tâm nội dung của đề.
Xác định các thao tác lập luận: liên kết
Xác định phạm vi tư liệu
2.2 Lập dàn ý:
Việc lập dàn ý giúp người viết bao quát được vấn đề, đảm bảo được

tính hệ thống của lập luận, tính cân đối của bài viết, xác định được mức độ
trình bày mỗi ý, từ đó phân bố thời gian hợp lí. Lập dàn ý tốt, viết sẽ dễ
dàng hơn, nhanh hơn, hay hơn nhờ biết lựa chọn đúng cách diễn đạt, cách
trình bày bài viết.
Dàn ý gồm cấu trúc 3 phần:
a. Mở bài: Có vai trò quan trọng đối với một bài văn. Mở bài đúng và
hay sẽ khai thông được mạch văn. Ở phần mở bài người viết cần giới thiệu
khái quát chủ đề, sẽ làm sáng tỏ trong bài viết. Để có được mở bài hay, cần
nêu trọng tâm và phạm vi vấn đề sẽ bàn bạc một cách ngắn gọn, viết tự
nhiên, khúc chiết và mới mẻ.
b. Thân bài: Có nhiệm vụ làm sáng tỏ chủ đề mà mở bài đã nêu. Thân
bài gồm nhiều đoạn. Giữa các đoạn có câu hoặc từ chuyển tiếp.
c. Kết bài: Là phần kết thúc bài viết.Vì vậy, nó tổng kết, thâu tóm lại
chủ đề đã đặt ra ở mở bài và giải quyết ở thân bài. Một kết bài hay không chỉ
làm nhiệm vụ “gói lại” mà còn phải khơi gợi suy nghĩ trong người đọc.
2.3 Chuyển ý trong văn nghị luận:
a. Nhiệm vụ:
Đảm bảo bài văn có sự liên tục, chuyển ý phát triển tự nhiên.
Xác định mối quan hệ chặt chẽ giữa các ý tạo nên bài văn.
b. Cách chuyển ý:
Cách 1: Chuyển ý bằng cách dùng các kết từ
Cách 2: Chuyển ý bằng câu.
Nên chuyển ý linh hoạt để tạo sự hấp dẫn cho bài viết.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:

5


1.Thực trạng viết văn của học sinh hiện nay:
Hiện nay, tình trạng học sinh các cấp viết sai lỗi chính tả, dùng sai từ,

ngữ pháp đang lên đến mức báo động. Thực trạng này không chỉ xảy ra ở
học sinh các cấp dưới mà thậm chí ngay cả sinh viên bậc đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp cũng mắc phải. Có những sinh viên học xong đại
học, cao đẳng rồi nhưng vẫn không phân biệt được khi nào thì viết “L” hay
“N”; “S” hay “X”; “R” hay “D” nên mỗi khi viết hoặc đánh máy văn bản
thường nhầm lẫn một cách trầm trọng. Có những cử nhân không phân biệt
được lúc nào thì dùng từ “ điểm yếu”, lúc nào dùng “ yếu điểm”…
Vậy do đâu mà có tình trạng trên? Trước hết là do chính bản thân học
sinh các cấp lười học, lười đọc sách báo, thiếu ý thức rèn luyện ngôn ngữ
tiếng Việt nên kiến thức và khả năng vận dụng ngôn từ của các em còn yếu
kém, mắc nhiều lỗi về chữ và nghĩa của câu.
Có không ít học sinh khi kiểm tra đã quá ỷ lại vào sách hướng dẫn, sách
học tốt mà chép y nguyên đáp án, lời giải vào bài kiểm tra nên không phát
huy được tính tích cực của mình, dành thời gian để sửa lỗi chính tả, ngữ
pháp cho học sinh, lúc chấm bài chỉ phê rất chung chung như: Bài viết sơ
sài, câu văn lủng củng,… nên khi học sinh xem bài thì không hề biết mình
mắc những lỗi gì cụ thể.
Bên cạnh đó, nhiều thầy cô giáo dạy các bộ môn toán, lý, hóa, sinh,… lại
không bao giờ quan tâm sửa lỗi chính tả, ngữ pháp cho học sinh vì cho rằng
đây là trách nhiệm của giáo viên dạy bộ môn văn.
2. Các lỗi thường gặp trong viết văn của học sinh trườngTHCS Giai
Xuân:
2.1. Lỗi chính tả:
Cũng giống như rất nhiều học sinh trên cả nước, học sinh
trườngTHCS Giai Xuân cũng viết sai chính tả rất nhiều. Cụ thể các em mắc
những lối sau:
a. Lỗi viết hoa.
Lỗi viết hoa là một trong những loại lỗi chính tả xuất hiện rất nhiều
trong bài viết của học sinh. Lỗi viết hoa bao gồm hai kiểu lỗi nhỏ : viết hoa
sai quy định chính tả và viết hoa tùy tiện.

Viết hoa sai quy định chính tả :
Viết hoa sai quy định chính tả là viết hoa hay không viết hoa theo
đúng quy định chính tả về viết hoa. Chẳng hạn như học sinh không viết hoa
chữ cái mở đầu bài viết, đoạn văn, không viết hoa sau dấu chấm (.),dấu
chấm hỏi (?), dấu chấm than (!), dấu chấm lửng hết câu (...), hay vi phạm
các quy định về cách viết hoa các loại tên riêng.
6


Ví dụ : Trong bài viết TLV số1( Lớp8)em Dương văn Huy viết:
“… Cái mùa thu ở quê tôi thật đặc biệt - mùa thu Miền
trung – không se lạnh như ở Mền bắc hay quá nóng nực như
ở Miền nam. Nó dịu ngọt và nhẹ nhàng. Quả đúng là thời
điểm khiến cho người ta dễ nhớ. Phải chăng đây chính là lí do để
mùa thu là mùa tựu trường. …”
Lẽ ra, theo quy định chính tả, học sinh phải viết :
“…Cái mùa thu ở quê tôi thật đặc biệt - mùa thu miền
Trung – không se lạnh như ở miền Bắc hay quá nóng nực như
ở miền Nam. Nó dịu ngọt và nhẹ nhàng. Quả đúng là thời
điểm khiến cho người ta dễ nhớ. Phải chăng đây chính là lí do để
mùa thu là mùa tựu trường?...”
Viết hoa tùy tiện :
Viết hoa tùy tiện là viết hoa những đơn vị từ vựng bình thường, không
nằm trong quy định chính tả về viết hoa.
Ví dụ: Trong bài viết TLV số1( Lớp8)em Lê văn Tàiviết:
“… Hôm nay Mẹ sẽ là người đưa tôi đến trường. Vùng quê tôi không phải
ở Thành thị, cũng chẳng phải một nơi nào giàu có, đó là một vùng quê mang
đầy nét thôn Quê và sự Dân dã…”
Lỗi viết hoa là loại lỗi chính tả thông thường, dễ tránh, dễ khắc phục,
nhưng học sinh THCS vẫn mắc phải và điều đó được thể hiện rõ Học sinh

khối 8.Ðiều đó có nguyên nhân của nó, xét về mặt khách quan lẫn chủ quan.
d. Lỗi chính tả âm vị :
Lỗi chính tả âm vị là hiện tượng vi phạm diện mạo ngữ âm của từ thể
hiện trên chữ viết. Nói đơn giản hơn, đó là hiện tượng chữ viết ghi sai từ.
Dựa vào cấu trúc của âm tiết tiếng Việt, có thể chia lỗi chính tả âm vị
thành hai kiểu nhỏ: lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính và lỗi chính tả âm vị
đoạn tính.
Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính:
Âm vị siêu đoạn tính là loại âm vị không được định vị trên tuyến thời
gian khi phát âm, mà được thể hiện lồng vào các âm vị đoạn tính. Trong âm
tiết tiếng Việt, thanh điệu là âm vị siêu đoạn tính. Lỗi chính tả âm vị siêu
đoạn tính là hiện tượng chữ viết ghi sai thanh điệu của âm tiết.
Tiếng Việt có tất cả sáu thanh điệu, được ghi bằng năm dấu thanh: sắc,
hỏi, ngã, nặng, huyền và thanh không dấu. Hiện tượng ghi sai thanh điệu chỉ
xảy ra ở hai thanh hỏi, ngã. Trong bài viết của học sinh Khối8 mà người viết
đã khảo sát, kiểu lỗi sai này xuất hiện khá nhiều. Hầu như bài nào cũng có
lỗi hỏi, ngã. Thậm chí, chép đề cũng sai hỏi, ngã. Dưới đây là những từ sai
7


hỏi, ngã của học sinh :
“…Ấy là cái ngày mà tôi sẻ không bao giờ quên. Đó là một buỗi sáng
cuối thu êm đềm, bầu trời cao trong xanh có ánh nắng vàng tươi…”
Theo quy định chính tả, học sinh phải viết :
“…Ấy là cái ngày mà tôi sẽ không bao giờ quên. Đó là một buổi sang cuối
thu êm đềm, bầu trời cao trong xanh có ánh nắng vàng tươi…”
Lỗi chính tả âm vị đoạn tính :
Âm vị đoạn tính là các âm vị được phân bố nối tiếp nhau trên tuyến
thời gian khi phát âm. Trong âm tiết tiếng Việt, âm vị đoạn tính gồm có phụ
âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối / bán âm cuối. Lỗi chính tả âm vị

đoạn tính là hiện tượng chữ viết ghi sai các âm vị vừa nêu. Cụ thể là :
Ghi sai phụ âm đầu :
Hiện tượng ghi sai phụ âm đầu trong bài viết của học sinh thường thể
hiện ở sự lẫn lộn các chữ cái hay các tổ hợp chữ cái ghi phụ âm đầu sau đây
- ch / tr , s / x :
“…Tôi lờ mờ nhận ra như vậy vì thấy nó khang chang và to lớn hơn bất cứ
cái nhà nào mà tôi từng gặp. Mẹ soa đầu tôi…”
Học sinh phải viết đúng là:
“…Tôi lờ mờ nhận ra như vậy vì thấy nó khang trang và to lớn hơn bất cứ
cái nhà nào mà tôi từng gặp. Mẹ xoa đầu tôi…”
- gi / d , g (gh) / r :
“…Sáng ấy, lần đầu tiên tiếng trống trường giội vào lòng tôi – tiếng trống
gộn gàng, dục dã, nao nức khiến tim tôi cũng muốn nhảy nhót và lòng tôi
hồi hộp muốn khóc lên…”
Viết đúng là:
“…Sáng ấy, lần đầu tiên tiếng trống trường dội vào lòng tôi – tiếng trống rộn
ràng, giục giã, nao nức khiến tim tôi cũng muốn nhảy nhót và lòng tôi hồi
hộp muốn khóc lên…”
- h /q : huênh quang, quang vắng , quyển quặc, quyền bí, quà quyện,
quyên náo...
“…Sung huanh đó là hàng trăm các bạn học sinh khác cùng với biết bao
tâm trạng, xuy nghỉ. Bạn thì níu chân mẹ, người thì mếu máo. Chợt có tiếng
khóc òa sau lưng tôi, tôi liền chạy lại úp mặt vào mẹ và cũng nghẹn ngào
khó tả…”
Viết đúng là:
“…Xung quanh đó là hàng trăm các bạn học sinh khác cùng với biết bao
tâm trạng, suy nghĩ. Bạn thì níu chân mẹ, người thì mếu máo. Chợt có tiếng

8



khóc òa sau lưng tôi, tôi liền chạy lại úp mặt vào mẹ và cũng nghẹn ngào
khó tả…”
Ghi sai âm đệm :
Trong âm tiết tiếng Việt, âm đệm /-u-/ phân bố sau phụ âm đầu, được
ghi bằng hai chữ cái u và o, tùy trường hợp. Trong bài viết của học sinh,
hiện tượng ghi sai âm đệm thường có biểu hiện thiếu chữ cái ghi âm đệm.
Ví dụ : lẩn quẩn, lạn đả, lanh quanh, lay hoay, lằng ngoằng, lắt chắt,
ngó ngáy, ngọ ngậy v.v...
Ghi sai âm chính :
Trong bài viết của học sinh, hiện tượng ghi sai âm chính thường có
hai biểu hiện chính :
Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn, cụ thể là
giữa :
- ă / â : câm phẫn, che lắp, tái lặp, trùng lập, tối tâm, xăm lăng, hâm
hở, đầm thấm, e ắp, hắp tắp v.v....
- o / ô/ ơ : bốc lột, tận góc, mưa mốc, chốp bu, chốp lấy, hồi hợp, đớp
chát, họp nhất, bộp tai v.v...
Ví dụ:
“…Tâm hồn tôi bấy giờ nặng trĩu nhưng rồi lại nhẹ nhàng như những cánh
hoa tươi rực rỡ trong nắng mai cùng làn gió nhè nhẹ thổi qua, xoa dịu đi cái
hồi hợp của tâm trạng…”
Học sinh phải viết đúng là:
“…Tâm hồn tôi bấy giờ nặng trĩu nhưng rồi lại nhẹ nhàng như những cánh
hoa tươi rực rỡ trong nắng mai cùng làn gió nhè nhẹ thổi qua, xoa dịu đi cái
hồi hộp của tâm trạng…”
Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn với các chữ cái
ghi nguyên âm đôi, nhất là giữa : - ê / i / iê : điều đặn, điu đứng, điểu cáng,
kiềm kẹp, chiệu đựng, hiêu quạnh, nâng niêu, tìm ẩn, thất thiểu v.v...
- u / uô : tuổi thân, muổi lòng, đen đuổi, theo đui, hất huổi, xuôi khiến,

xui tay v.v...
- ư / ươ : chưởi mắng, cữi cổ, tức tửi, rác rửi, sửi ấm v.v...
Ví dụ: “… Quả thực tâm trạng tôi mỗi lúc thay đổi. Bây giờ tôi không
còn cảm thấy quá sợ nữa nhưng không hiểu sao chân tôi cứ diếu lại. Dù vậy
nhưng tôi vẫn cố nhảy theo những bước chân của mẹ. Đi được một đoạn thì
ngôi trường đã hiện rõ trước mắt. Trước mặt tôi là một cái cổng trường to
lớn với những chữ viết luằng nhuằng khó hiểu…”
Viết đúng là:
“… Quả thực tâm trạng tôi mỗi lúc thay đổi. Bây giờ tôi không còn cảm thấy
quá sợ nữa nhưng không hiểu sao chân tôi cứ díu lại. Dù vậy nhưng tôi vẫn
9


cố nhảy theo những bước chân của mẹ. Đi được một đoạn thì ngôi trường đã
hiện rõ trước mắt. Trước mặt tôi là một cái cổng trường to lớn với những
chữ viết lằng nhằng khó hiểu…”
Ghi sai âm cuối / bán âm cuối :
Hiện tượng ghi sai âm cuối trong bài viết của học sinh thường có hai
biểu hiện chính :
Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi phụ âm cuối, cụ thể là lẫn lộn
giữa :
- c /t : biền biệc, buộc miệng, chất phát, heo húc, lẩn lúc, lũ lược, mất
mác, man mát, mua chuột, phó mặt, phúc chốc, tấc bậc, tiếc hạnh v.v...
- n / ng : dun túng, hiên ngan, hoang hỉ, lãng mạng, làm lụn, phản
phất, rung sợ, rung rẩy, sản khoái, tang hoang, vung trồng, vụn về ...
Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi bán âm cuối, cụ thể là giữa :
- o /u : báo vật, cao có, lao lách, láo lỉnh, mếu máu, trao chuốt, trao
dồi v.v....
- i /y : ái nái, đai nghiến, đài đọa, lai động, mai mắn, mỉa may, phơi
bài, tai chân, sai mê, van lại ...

Ví dụ: “…Chúng tôi hác rất say sưa, hác hào hùng, thuộc rất nhanh vì cô
giáo bảo để sau này mỗi lần chào cờ chúng tôi sẽ hác dưới cờ chứ không
đứng im như hôm nai. Tôi chẳn rõ mình ngồi trong lớp học từ khi nào, tôi
ngướt nhìn ra ngoài cửa sổ và tìm hình dánthân thương của mẹ tôi trong
lớp người chen chúc cố gắn dặng dò con cái cẩn thận trước khi ra cổng
trường. Mẹ cũng nhẹ nhàn nói với tôi…”
Viết đúng là:
“…Chúng tôi hát rất say sưa, hát hào hùng, thuộc rất nhanh vì cô giáo bảo
để sau này mỗi lần chào cờ chúng tôi sẽ hát dưới cờ chứ không đứng im như
hôm nay. Tôi chẳng rõ mình ngồi trong lớp học từ khi nào, tôi ngước nhìn ra
ngoài cửa sổ và tìm hình dáng thân thương của mẹ tôi trong lớp người chen
chúc cố gắng dặn dò con cái cẩn thận trước khi ra cổng trường. Mẹ cũng
nhẹ nhàng nói với tôi…”
Giữa bốn kiểu lỗi chính tả âm vị đoạn tính, trong bài viết của học sinh,
hiện tượng ghi sai âm cuối xuất hiện nhiều hơn. Kế đến là ghi sai âm chính
và ghi sai phụ âm đầu. Lỗi ghi sai âm đệm xuất hiện ít nhất.
2.2.Lỗi diễn đạt:
a. Lỗi dùng từ:
Lỗi dùng từ sai phong cách: Thông thường hoàn cảnh giao tiếp được
chia làm hai loại chính: hoàn cảnh giao tiếp theo nghi thức và hoàn cảnh
giao tiếp không theo nghi thức. Hoàn cảnh giao tíêp theo nghi thức đòi hỏi
ngôn ngữ được gọt giũa. Nhưng nhiều khi học sinh trong bài viết của mình
thường sử dụng khẩu ngữ:
10


Ví dụ: “… Hồi lên bốn, lên năm, tôi theo cha nhiều hơn theo
mẹ. Bởi lẽ mẹ đi mầm ăn xa, sáu giờ đã rời nhà và tối mịt mới về, không thể
chăm sóc tôi hằng ngày được, ông bà nội già yếu, cha tôi không dám phiền,
nên hầu như mọi việc lớn nhỏ trong nhà, cha đều mầm cả…"

Đúng ra học sinh phải viết:
“… Hồi lên bốn, lên năm, tôi theo cha nhiều hơn theo mẹ. Bởi lẽ mẹ đi làm
xa, sáu giờ đã rời nhà và tối mịt mới về, không thể chăm sóc tôi hằng ngày
được, ông bà nội già yếu, cha tôi không dám phiền, nên hầu như mọi việc
lớn nhỏ trong nhà, cha đều làm cả…"
Lỗi về nghĩa của từ: Mỗi từ được dùng phải đúng nghĩa. Nhiều học sinh
dùng từ sai nghĩa:
Trong bài văn tả về mẹ, một học sinh viết:
Mẹ em vất vả lang thang, lảng vảng ở chợ để bán hàng nuôi hai chị
em ăn học.
Trong trường hợp này, học sinh đã sai khi dùng từ “ lang thang’, “ lảng
vảng”.
Lỗi lặp từ: Trong một câu văn học sinh có thể dùng một từ đến hai ba
lần:
Ví dụ: “…Tôi xem cha tôi là trụ cột của gia đình tôi cả về vật chất lẫn
tinh thần. Tôi nghĩ cha tôi là gương sáng mẫu mực của các anh em tôi.
Chúng tôi luôn yêu quý và tự hào về người cha đáng kính của tôi...”
Viết đúng là:
“…Cha là trụ cột của gia đình tôi cả về vật chất lẫn tinh thần. Cha là gương
sáng mẫu mực của các con. Chúng tôi luôn yêu quý và tự hào về người cha
đáng kính...”
b. Lỗi viết câu:
Khi viết văn đòi hỏi học sinh phải viết đúng ngữ pháp. Nhưng một thực
tế đáng buồn hiện nay là học sinh viết sai câu rất nhiều. Học sinh thường
mắc những lỗi căn bản sau:
Nhầm trạng ngữ và chủ ngữ:
Trong bài làm văn kể về người thân một học sinh viết:
“…Bất kể nắng mưa, ngày nào cũng bên nhau như vậy. Chuyện vui
buồn ở lớp, đều kể cha nghe. Một hôm, mua cho tôi mấy quyển vở tập viết.
Buổi tối, tranh thủ rèn chữ cho tôi. Rồi cầm tay tôi, hướng dẫn từng nét

cong, nét thẳng…”
Trong câu văn trên, học sinh đã nhầm trạng ngữ là chủ ngữ. Chữa
đúng là:
“…Bất kể nắng mưa, ngày nào cha con tôi cũng bên nhau như vậy.
Chuyện vui buồn ở lớp, tôi đều kể cha nghe. Một hôm, cha mua cho tôi mấy

11


quyển vở tập viết. Buổi tối, cha tranh thủ rèn chữ cho tôi. Cha cầm tay tôi,
hướng dẫn từng nét cong, nét thẳng…”
Lẫn lộn giữa vị ngữ và thành phần phụ chú ngữ:
Cũng trong bài làm văn phân tích bài thơ Tự tình, một học sinh viết:
“Hồ Xuân Hương nhà thơ nữ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời
trung đại.”
Đúng phải là:
“Hồ Xuân Hương là nhà thơ nữ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời
trung đại.”
Câu lan man dài dòng:
Khi đề cập về nhà văn Nguyễn Tuân một học sinh viết:
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn đặc sắc
nhất với trình độ đỉnh cao nổi bật cho phong cách thơ Nguyễn Tuân tài hoa
uyên bác.
Chưa nói đến lỗi sai về kiến thức khi học sinh đó viết “ phong cách
thơ Nguyễn Tuân” thì câu này sửa đúng là:
“Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn đặc sắc
với trình độ bậc thầy. Nổi bật trong phong cách của ông là sự tài hoa, uyên
bác.”
c.Lỗi dựng đoạn:


Một số học sinh lớp 11A4 trường THPT số 1 Bảo Yên hiện nay không
có kĩ năng dựng đoạn. Các em viết nhưng không biết bố cục một đoạn văn
như thế nào và phải triển khai đoạn văn ra sao.
Khi viết về cảnh kết thúc truyện Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn
Tuân, một học sinh viết một đoạn văn như sau:
“Vai trò của cảnh kết thúc truyện ngắn này đã thể hiện dù ở nơi lao tù
tối tăm ta vẫn thấy được nhân cách cao đẹp của viên quan coi ngục đối với
tử tù Huấn Cao là một trong những phạm của xã hội. Nhưng viên quản ngục
vẫn kính trọng Huấn Cao bởi tài năng của người này đã làm viên quản ngục
không còn sợ chết mà tới vái người tù một vái để xin chữ của ông về treo
trên nhà dù bị Huấn Cao coi thường. Và viết điều đó là sẽ liên lựa đến mình
nếu bọn thực dân biết thì sẽ bị giết. Nhưng viên quản ngục cũng không thể
làm trái mệnh lệnh và phải thi hành.”

12


Ở đoạn văn trên, người viết chưa biết cách dựng đoạn văn. Các câu văn
còn lan man dài dòng, không tập trung vào chủ đề chính
Khi viết về khổ hai trong bài Đây thôn Vĩ Giạ, một học sinh đã xây dựng
đoạn văn như sau:
“Mở đầu đoạn thơ, Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật lặp từ gió và từ
mây. Gió và mây là hai thứ mà theo người ta cảm nhận là có ở trong không
gian. Gió mây lúc nào cũng song hành, gắn kết với nhau. Nhưng trong thơ
Hàn Mặc Tử, gió mây lại gợi sự chia xa, ngăn cách, gió thì đi lối gió mây
theo đường mây.Câu thơ gợi sự chia cách, li xa bởi dấu phẩy ở giữa gió và
mây, gió và mây không còn có điểm gặp nhau. Câu thơ ở dòng thứ hai gợi
nỗi buồn man mác. Từ buồn hiện thực của nó đã rất buồn, ở đây tác giả sử
dụng buồn thiu, hoa bắp vì thế mà cũng bị lay.
Hai đoạn văn trên điển hình cho những lỗi mà học sinh mắc phải từ dùng

từ đến viết câu, dựng đoạn.
d. Lỗi bố cục bài văn:
Điều đáng buồn là còn một bộ phận học sinh không biết xác định, xây
dựng bố cục một bài văn. Điều này tập trung nhiều hơn ở học sinh khối lớp
10. Tuy nhiên, học sinh lớp 11 cũng có những em không biết phải viết một
bài văn như thế nào. Hạn chế này được thể hiện rất rõ khi các em làm bài thi
học kì. Lớp 11A4 có một em học sinh lập dàn ý thay cho bài viết văn, có ba
em bài viết không đủ bố cục ba phần trong bài thi học kì I.
2.3. Lỗi sai kiến thức:
Trong bài thi học kì I năm học 2011- 2012 có học sinh viết:
“Vũ Trọng Phụng là nhà văn nổi tiếng của văn học trung đại Việt
Nam.”
Đúng phải là “ văn học hiện đại trước 1945”.
Khi viết về viên quản ngục trong Chữ người tử tù, một học sinh viết:
13


“…Và viết điều đó là sẽ liên lựa đến mình nếu bọn thực dân biết thì
sẽ bị giết”
Từ thực tiễn viết bài của học sinh, người viết bài đã tiến hành khảo
sát:
Kết quả khảo sát lần thứ nhất:
Kết quả này được thống kê dựa trên bài viết số 1 của học sinh lớp
11A4.
Sĩ số lớp thời điểm này là 33 học sinh, trong đó có 24 học sinh người
dân tộc thiểu số:
Lối học sinh mắc phải
Số học sinh mắc lối
Lỗi viết hoa
Viết hoa sai quy định 32/33 96/136

Lỗi chính tả

Lỗi viết tắt

chính tả
Viết hoa tuỳ tiện
20/33 76/136
Viết tắt sai quy định 32/33
92/136
chính tả
Viết tắt tuỳ tiện

Lỗi dùng số và

30/33
28/33

89/136
18/136

chữ biểu thị số
Lỗi chính tả âm Lỗi chính tả âm vị siêu 22/33 20/136
vị

Lỗi
đạt

diễn

đoạn tính

Lỗi chính tả âm vị đoạn 30/33 `18/136

Lỗi dùng từ

tính
Lỗi dùng từ sai phong 20/33 20/136

Lỗi viết câu

cách
Lỗi về nghĩa của từ
15/33
Lỗi lặp từ
18/33
Nhầm trạng ngữ và chủ 20/33

56/136
87/136
26/135

ngữ
Lẫn lộn giữa vị ngữ và 22/33
thành phần phụ chú
Câu lan man dài dòng
14

22/136
24/33



97/136
21/3368/136
3/3329/136

Lỗi dựng đoạn
Lỗi bố cục bài
văn
Lỗi sai kiến

2/33

thức
THỐNG KÊ: Lỗi dùng từ sai văn cảnh của học sinh Lớp 5 - 128 bài.
ĐỀ BÀI: Tả lại hình dáng và tính tình của người bạn mà em quý mến.
Loại lỗi
So sánh
sai

Kết hợp
sai

Sai nghĩa

Vừa sai
nghĩa vừa
sai kết hợp
Dùng cụm
từ cố định
sai


Số lỗi từ loại
Số lượng
Tỉ lệ%

Minh hoạ
- Da của bạn mịn màng như tấm vải
lụa.
- Đôi mắt bạn long lanh như hai giọt
sương.

34

- Vầng trán cao trông thật là oai hùng.
- Hình dáng của bạn rất thông minh.
- Nước da của bạn trắng phau.
51
- Bạn Trang là một người xinh xắn và
êm dịu.
- Hàm răng bạn ấy chói chang thấp
thoáng giữa vành môi.
- Bộ tóc của Hoa đen lay láy.
- Vóc dáng ngay thẳng làm cho thân
hình bạn càng cứng cáp.
- Khi bạn An cười để lộ hai khóm
đồng tiền.
- Làn da của bạn rất mong manh.
- Giọng nói của Toàn vui tính lắm.
- Tình bạn giữa Lan và em như nguồn
với nước.
- Nga rất chịu thương chịu khó trong

học tập.

15

53

19,3

29

30,1

25

14,2

13

7,4

4/136


TỔNG CỘNG

176 lỗi

3. Nguyên nhân:
Theo suy nghĩ và kinh nghiệm của một nhà giáo, tôi xin mạnh dạn nêu
lên những nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất, ảnh hưởng Internet. Ngày nay đông đảo học sinh sử dụng
Internet, ngoài số ít biết khai thác, tận dụng để học tập thì phần lớn chỉ để
chơi game và chat chít. Khi “chát” các em hầu hết sử dụng tiếng Việt không
dấu và dùng cách diễn đạt rất ngắn gọn bằng những từ ngữ chỉ quen dùng
với giới trẻ, và theo quan niệm của họ như thế mới được cho là…sành điệu.
Ngôn ngữ phản ánh tư duy. Việc thường xuyên sử dụng ngôn ngữ bất
thường, cụt ngủn như thế sẽ góp phần làm “cùn” đi tính thẩm mỹ và tinh tế
vốn có của ngôn ngữ truyền thống, còn gây khó khăn cho việc rèn luyện tư
duy sâu sắc.
Thứ hai, ảnh hưởng của phim ảnh. Ngày nay truyền hình, phim ảnh
phát triển đến chóng mặt. Có nhiều kênh chiếu những phim hấp dẫn với mật
độ dày đặc khiến cho thanh thiếu niên ngoài giờ đến trường chỉ “mê mẩn”
với phim ảnh. Việc xem phim nhiều khiến các em lười đọc sách. Nếu có đọc
thì đó cũng chỉ là các truyện tình yêu rẻ tiển, những truyện tranh hình nhiều
mà chữ ít. Có rất nhiều em đọc và bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ trong các câu
truyện đó.
Thứ ba, ảnh hưởng của âm nhạc “thị trường”. Ngày nay có một
bộ phận khá đông giới trẻ mê nhạc “thị trường” với những ca từ giai điệu mà
khi hát lên như… đọc, như nói. Lời lẽ rất cộc cằn và thô thiển. Những ngôn
từ đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển ngôn ngữ của học sinh.

16


Thứ tư, những năm học gần đây việc áp dụng hình thức thi trắc nghiệm
với việc lựa chọn các phương án hoặc A, hoặc B, hoặc C, hoặc D cũng góp
phần làm “cùn” tư duy cũng như cách diễn đạt của học sinh.
Thứ năm, ngày nay rất ít giáo viên dạy cho học sinh kỹ năng làm một
bài viết hoàn chỉnh. Ngoài một số ít giáo viên dạy Văn khi chấm bài có sửa
lỗi cho học sinh về chính tả, câu cú, diễn đạt, còn đa số giáo viên không sửa

lỗi cho học sinh khiến cho các em không biết mình mắc lỗi gì để khắc phục,
để lần sau sẽ tiến bộ. Thực tế có những bài văn học sinh viết dài ba trang
giấy mà không có dấu chấm, dấu phẩy nhưng giáo viên vẫn cho 5 điểm. Còn
giáo viên dạy Sử, Địa, Giáo dục Công dân thì hầu như không bao giờ yêu
cầu học sinh viết bài phải có bố cục, cứ có ý là có điểm dù học sinh trình bày
theo kiểu…gạch đầu dòng.
Thứ sáu là việc trên thị trường tràn ngập các bài văn mẫu. Học sinh
không cần phải học, suy nghĩ mà cứ thuộc bài văn mẫu làm bài.
Nguyên nhân cốt lõi nhất vẫn là do thầy và trò học văn để đối phó với
thi cử. Từ những năm học cấp I, cấp II, học sinh đã học thuộc lòng bài văn
mẫu, hiếm có giáo viên nào có “con mắt xanh”, cho HS điểm cao vì bài viết
“sáng tạo”. Lên đến cấp III, áp lực thi tốt nghiệp lớp 12 càng đè nặng. Từ
đầu năm học, các em đã được phát đề cương môn Văn để học thuộc lòng
như cháo, để chỉ cần viết đủ ý cũng đạt điểm trung bình.
Một nguyên nhân quan trọng nữa là ý thức học văn của học sinh chưa
tốt. Nhiều em lười học môn văn, khi viết bài thì không đầu tư thời gian. Các
em viết theo kiểu chống đối. Cá biệt có em cho bài về nhà cũng không làm.
Khi viết thì kệ, chính tả muốn sai thế nào cũng được. Viết bài không cần
chấm câu, không chú ý dùng từ. phần lớn học sinh thiếu kiên nhẫn luyện
viết. Các em không coi trọng “chữ viết” bằng “chữ số”. Các môn tự nhiên

17


vẫn hấp dẫn các em hơn bởi “viết ít điểm nhiều” (lời của học sinh) và có
nhiều cơ hội lựa chọn ngành nghề thi vào đại học, cao đẳng.
Đối với học sinh lớp 11A4 trường THPT số 1 Bảo Yên còn một
nguyên nhân nữa là các em học sinh dân tộc thiểu số phát âm không chuẩn;
phát âm như thế nào thì viết như thế nên sai rất nhiều.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC LỖI VIẾT VĂN CHO HỌC

SINH:
Việc rèn kĩ năng cho học sinh là một vấn đề nan giải đã làm đau đầu
nhiều thầy cô giáo và cán bộ quản lí giáo dục. Đã có rất nhiều Hội thảo
được tổ chức đề nhằm nâng cao trình độ làm văn của học sinh. Sau đây
người viết bài này xin đưa ra một số kinh nghiệm mà mình đã áp dụng:
1. Cần bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu thích văn chương, thích
môn Văn. Có yêu thích thì các em mới học: Để học sinh yêu thích môn
mình dạy, mỗi giáo viên có những cách riêng: một trong những cách được
nhiều giáo viên áp dụng là quan tâm đến học sinh; đặc biệt chú ý đến những
học sinh yếu nhưng cũng không nên tạo áp lực nhiều quá khiến các em sợ.
Khen thưởng kịp thời khi học sinh học yếu có cố gắng. Khen thưởng bằng
nhiều hình thức: cho quà, cho điểm khuyến khích… Còn có giáo viên hướng
các em tới thế giới mà các tác phẩm văn chương đã tạo ra. Học sinh thường
rất thích thú khi giáo viên kể truyện hoặc bình những câu văn, câu thơ hay.
Đặc biệt, giáo viên phải hết sức nhiệt tình truyền đạt cho các em cái hay cái
đẹp của văn chương.
2. Rèn chính tả và chữ viết cho học sinh:
Nhiều học sinh nói như thế nào thì viết như vậy. Giáo viên cần chú ý
rèn cách phát âm cho học sinh khi các em nói chưa chuẩn. Ở lớp 11A4

18


trường THPT số 1 Bảo Yên, giáo viên Văn tập trung vào uốn nắn học sinh
mắc những lỗi về phát âm như:
Chưa chuẩn “n” và “ l”, “ x” và “s” “ ch” và Tr”
Học sinh ngọng dấu ngã, nói “ gỗ” thành “ gố” “ mỡ” thành “ mớ”…
Có thể đưa ra các từ, các câu có dấu ngã để học sinh luyện.
Chưa chuẩn âm cuối như “ đêm khuya” thành “ đêm khuê”, “ thuyền”
thành “ thuền”…

Giáo viên rèn cho học sinh các phân biệt phụ âm đầu, các âm đệm,
âm chính, âm cuối.
Luyện phát âm:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm
cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ
quốc ngữ là chữ ghi âm - âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy.
Ghi nhớ mẹo chính tả, giải nghĩa từ.
Giáo viên phải đặc biệt chú ý rèn chữ cho học sinh. Yêu cầu những em
chữ xấu, viết ẩu phải có vở tập viết. Giáo viên thường xuyên giao bài và
kiểm tra. Khen thưởng kịp thời những em có tiến bộ.
3. Rèn kĩ năng dùng từ cho học sinh:
Đây là một kĩ năng khó đòi hỏi người dạy và người học phải kiên trì.
Giáo viên sửa cách dùng từ cho học sinh khi ở trên lớp trả lời bài và sửa
trong bài làm văn của học sinh. Khi chấm bài làm văn của các em, giáo viên
đánh dấu những lỗi dùng từ. Sau đó yêu cầu học sinh sửa lại trong vở sửa
lỗi. Có thể đưa ra những tình huống để học sinh tìm từ phù hợp. Các em
cũng có thể học cách dùng từ của những bạn học tốt.
4. Rèn cách viết câu cho học sinh:
Đây là công việc của cả thầy và gia đình. Học sinh ngày nay chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ xã hội. Các em thường nói những câu cụt ý, thiếu chủ
19


ngữ hay vị ngữ. Và điều này cũng được thể hiện trong các bài văn. Giáo viên
phải kiên trì uốn nắn cho học sinh khi các em trả lời bài và sửa trên bài kiểm
tra, sau đó yêu cầu các em viết lại. Khi chấm bài, giáo viên cần chỉ ra những
lối viết câu mà học sinh mắc phải và yêu cầu học sinh sửa. Giáo viên có thể
yêu cầu học sinh viết câu theo suy nghĩ ra giấy, sau đó sửa lại.
5. Rèn cách viết đoạn văn:
Giáo viên thường xuyên ra các bài tập nhỏ viết một đoạn văn về một

vấn đề nhỏ nào đó. Sau đó chấm và cho điểm. Việc này cần làm thường
xuyên.
6. Rèn bố cục một bài văn:
Sau khi đã cung cấp kiến thức về bố cục bài văn cho học sinh, giáo
viên cần kiểm tra thường xuyên và yêu cầu các em thực hành. Đối với học
sinh khối 10, giáo viên trường THPT số 1 Bảo Yên yêu cầu các em phải viết
đúng: mở bài, các ý phần thân bài và kết bài. Còn học sinh lớp 11A4, giáo
viên yêu cầu khi viết bài các em cần triển khai đủ ba phần. Khi viết đặc biệt
giáo viên để ý cách mở bài, việc triển khai ý phần thân bài và phần kết bài.
7. Giáo viên phải giao bài thường xuyên cho học sinh và yêu cầu
các em viết bài nhiều. Khi học sinh viết xong, giáo viên cần chấm kĩ và sửa
lỗi, chỉ ra những điểm đã được và chưa được yêu cầu học sinh phát huy và
khắc phục, tránh viết nhận xét chung chung. Giáo viên cần dành thời gian
và tâm huyết cho việc này.
8. Học sinh cũng có thể học cách dùng từ, viết câu, dựng đoạn của các
nhà văn mà các em được học.
Sau khi tiến hành rất nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bài
làm của học sinh lớp 11A4, người viết đã tiến hành khảo sát lần hai.
Kết quả khảo sát lần thứ hai:

20


Kết quả này được thống kê dựa trên bài viết số 5 của học sinh lớp
11A4.
Sĩ số lớp thời điểm này là 33 học sinh, trong đó có 24 học sinh người
dân tộc thiểu số:
Lỗi học sinh mắc phải
Số học sinh mắc lỗi
Lỗi viết hoa

Viết hoa sai quy định 20/33
Lỗi chính tả

Lỗi viết tắt

chính tả
Viết hoa tuỳ tiện
16/33
Viết tắt sai quy định 25/33
chính tả
Viết tắt tuỳ tiện

Lỗi dùng số và

26/33
22/33

chữ biểu thị số
Lỗi chính tả âm Lối chính tả âm vị siêu 18/33 ( học sinh mắc
vị

đoạn tính

lỗi này chủ yếu là
người dân tộc thiểu

số)
Lỗi chính tả âm vị đoạn 24/33

Lỗi


Lỗi dùng từ

tính
Lỗi dùng từ sai phong 16/33

Lỗi viết câu

cách
Lỗi về nghĩa của từ
10/33
Lỗi lặp từ
15/33
Nhầm trạng ngữ và chủ 17/33

diễn

ngữ
Lẫn lộn giữa vị ngữ và 20/33

đạt

thành phần phụ chú
Câu lan man dài dòng
Lỗi dựng đoạn
Lỗi bố cục bài

21/33
17/33
0/33


văn
Lỗi sai kiến

1/33
21


thức
Nhận xét:
Sau khi áp dụng các biện pháp nhằm khắc phục và giảm những lỗi mà
học sinh mắc phải trong quá trình làm văn, người thực hiện nhận ra:
Thứ nhất, số lượng học sinh mắc lỗi có giảm so với lần khảo sát thứ nhất.
Thứ hai, đối với những học sinh còn mắc lỗi thì số lượng lỗi mà các em
mắc phải trong một bài làm văn có giảm. Ví dụ: Em Nguyễn Ngọc Cảnh:
trong bài văn số 1 em mắc 34 lỗi viết hoa tuỳ tiện thì đến bài số 5 số lượng
lỗi đó đã giảm xuống còn 16.
Em Nguyễn Minh Quyền chữ viết thường thiếu nét dẫn đến sai chính tả,
sau một thời gian thực hiện việc chép chính tả và sửa lỗi chính các bài viết
của mình, số lỗi trong bài của em đã giảm.
Như vậy qua kết quả khảo sát hai lần, ta có thể nhận ra những biện pháp
mà người thực hiện đề tài này áp dụng phần nào đã có tác động trong việc
nâng cao chất lượng viết bài của học sinh lớp 11A4.

22


C. KẾT LUẬN
Rèn kĩ năng làm văn cho học sinh là một vấn đề hết sức gian nan và
phức tạp. Việc học sinh lớp 11A4 có tiến bộ trong làm văn đó mới chỉ là

những thành công bước đầu. Công việc này đòi hỏi người thầy và học trò
phải kiên trì trong thời gian dài và mất nhiều công sức. Học sinh và giáo
viên cũng cần phải hợp tác tích cực. Chú trọng kĩ năng làm văn khả năng
diễn đạt của học sinh sẽ được cải thiện sẽ giúp học sinh tự tin hơn trong cuộc
sống
Trên đây là một số kinh nghiệm làm văn mà tôi và các đồng nghiệp
trường THPT số 1 Bảo Yên đã từng áp dụng và thu được những kết quả
đáng khích lệ. Đỗi chỗ còn nhiều thiếu sót. Mong được mọi người quan tâm
và đóng góp ý kiến.
Xin chân
thành cảm ơn
PHẦN KẾT LUẬN
Trên đây em đã trình bày những hiểu biết của em về vấn đề: “Một số
lỗi sai thường gặp của học sinh tiểu học khi sử dụng tiếng mẹ đẻ và đưa ra
biện pháp khắc phục”.
Trong khuôn khổ bài tập này em chỉ có thể nêu ra được một số dạng
lỗi phổ biến mà học sinh tiểu học thường mắc và cách chữa cho mỗi lỗi sai
ấy. Hy vọng khi nắm được rõ các lỗi sai thường gặp của học sinh thì giáo
viên tiểu học sẽ tìm ra được những biện pháp phù hợp giúp các em học tốt
môn Tiếng Việt, từ đó giúp các em sử dụng tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt một
cách thành thạo hơn.
Đây là lần đầu tiên em nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này nên không
tránh khỏi bỡ ngỡ và nhiều thiếu sót. Vì vậy em mong nhận được sự chỉ bảo
và góp ý quý báu của thầy cô để có thể hoàn thiện hơn bài tìm hiểu.

23




×