Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Soạn bài: Viết bài tập làm văn số 7 - Văn nghị luận (Lớp 8)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.84 KB, 6 trang )

VIẾT BÀI TẬP LÀM VĂN SỐ 7 – VĂN NGHỊ LUẬN
(làm tại lớp)
I. ĐỀ BÀI THAM KHẢO
Đề 1: Tuổi trẻ là tương lai của đất nước.
Đề 2: Văn học và tình thương.
Đề 3: Hãy nó không với các tệ nạn.
II. GỢI Ý DÀN BÀI
Đề 1:
a) Mở bài.
Dẫn dắt vào đề bằng lời dạy của Bác Hồ. Nêu vai trò của tuổi trẻ với
tương lai đất nước.
b) Thân bài.
- Tại sao nói “Tuổi trẻ là tương lai đất nước”?
+ Tuổi trẻ bao giờ cũng dồi dào sức khoẻ, có đủ nhiệt tình để cống
hiến cho quê hương, đất nước.
+ Tuổi trẻ không bao giờ thiếu ước mơ và sự sáng tạo.
+ Có nhiệt huyết, sự táo bạo và sẵn sàng dấn thân để đến những nơi
khó khăn và làm những việc khó.
- Tuổi trẻ nước ta trong quá khứ đã cống hiến cho đất nước như thế
nào? (kể về một số tấm gương mà em biết, như: Trạng Hiền, Lê Văn
Tám, Nguyễn Văn Trỗi, Lê Bá Khánh Trình,…).
- Tuổi trẻ hôm nay cần làm gì để cống hiến cho đất nước?
+ Ra sức học tập.
+ Tham gia tích cực các hoạt động xã hội.
+ Thi đua lập thành tích trong mọi lĩnh vực của đời sống.
+ Chủ động tiếp nhận và gánh vác dần những công việc của thế hệ
trước.


- Tuổi trẻ cũng cần khắc phục nhược điểm không có lợi cho bản thân
và tương lai của đất nước (sự bồng bột, thói ỷ lại, thó ăn chơi sa đoạ,


…).


c) Kết bài.
Tuổi trẻ phải ước mơ, phải khát khao cống hiến. Có như vậy, cuộc
sống mới dồi dào ý nghĩa.
Đề 2:
a) Mở bài.
Mối quan hệ giữa văn học và tình thương trong lịch sử văn học.
b) Thân bài.
- Tại sao văn học luôn gắn bó với tình thương?
+ Vì văn học là tâm hồn dân tộc.
+ Một trong những vẻ đẹp nhất của tâm hồn dân tộc ấy là tình thương
yêu nhân loại.
- Văn học gắn bó với tình thương như thế nào?
+ Văn học nói lên nỗi đau khổ của mọi kiếp người.
+ Văn học nói lên sự cảm thông đối với nỗi đau của họ và gợi tình
thương yêu trong mỗi tâm hồn người đọc.
+ Văn học bồi dưỡng, làm đẹp tâm hồn con người.
c) Kết bài.
Tình yêu thương đã trở thành một phẩm chất và là thước đo cao quý
của văn học. Nó cứu vớt, dìu dắt, nâng niu con người trong hiện tại và
trên đường đến tương lai.
Đề 3:
a) Mở bài.
- Những tệ nạ xã hội nào hiện đang rình rập và làm hại tới giới trẻ và
tương lai của đất nước?
- Thái độ của giới trẻ ra sao?
b) Thân bài.
- Tuổi trẻ hiện nay thường mắc vào các loại tệ nạn như thế nào?

- Tác hại của các tệ nạn đối với mỗi cá nhân và xã hội?
+ Thiệt hại về vật chất.
+ Làm tan vỡ hạnh phúc gia đình.
+ Bản thân mỗi cá nhân mất sức sản xuất.
+ Trở thành nỗi lo của xã hội.
+ Làm gia tăng các loại tệ nạn khác.


- Nhận thức của giới trẻ với các tệ nạn ra sao?
+ Còn mơ hồ.
+ Coi thường, thờ ơ, sống buông thả,…
- Cần phải nhận thức vấn đề này ra sao?


+ Đây là một trong những con đường nhanh nhất làm phá tan mọi điều
tốt đẹp nhất của mỗi con người.
+ Cần nhận thức đúng đắn, đồng thời góp ý, chỉ bảo mọi người cùng
nhau “Nói không với các tệ nạn xã hội”.
c) Kết bài.
Khẳng định sự nguy hiểm của các tệ nạn. Đồng thời khẳng định quyết
tâm tiêu trừ nó.
Tham khảo một số bài viết:
1. Luận về nguyên lý văn chương
Phàm việc gì cũng có nguyên lý. Nguyên lý tức là cái lẽ căn nguyên của
việc ấy. Văn chương cũng vậy. Đặt nên câu thơ câu hát, viết ra bài
luận, bài văn, thì gọi là văn chương. Song thử xem căn nguyên của văn
chương ấy, bởi lẽ gì mà có, vì ở đâu mà sinh ra thì gọi là nguyên lý văn
chương.
Cha mẹ dạy con, giảng giải đều hơn lẽ thiệt, rạch ròi kẽ tóc chân tơ.
Hai người tự tình biệt ly với nhau, ấm lạnh ngọt bùi, kể hết nỗi này kể

sang nỗi khác. Người đàn bà lỡ bước, thở dài than vắn, phàn nàn
những số phận hẩm hưu. Đứa mục đồng đi chăn trâu, nhân khi thích chí
nghêu ngao vài tiếng giữa đồng, đó toàn là cái mầm của văn chương
cả. Nói cho cùng thì một tiếng cười một tiếng khóc của đứa trẻ thơ,
cũng là cái gốc văn chương.
Người ta có tính tình, có tư tưởng, có ngôn ngữ văn tự, thì tự nhiên phải
có văn chương. Tính tình người ta cảm xúc với ngoại vật, sinh ra khi
mừng, khi giận, khi vui, khi buồn, khi xót xa, khi ham muốn. Các mối
tình ấy chứa ở trong bụng, tất phải phát tiết ra nhời nói: đó tức là
nguyên lý văn chương.
Tư tưởng cái suy nghĩ tự trong óc biết phân biệt lẽ phải lẽ trái, biết
phán đoán điều dở điều hay, biết suy xét đến những lý cao xa, mắt
không trông thấy tai không nghe tiếng. Những điều nghĩ ra được lại
muốn tỏ cho người khác biết, đó cũng là nguyên lý văn chương.
Có tính tình, có tư tưởng, mà nếu không có ngôn ngữ văn tự thì cũng
không thành văn chương được. Xem như giống súc vật có cảm giác, có
tri thức, mà không có văn chương là bởi vì không có ngôn ngữ văn tự.
Vậy ta phải nhờ có ngôn ngữ văn tự mới đạt được tính tình tư tưởng của
ta, thì ngôn ngữ văn tự cũng là cái nguyên lý của văn chương.
Nói rút lại thì sở dĩ có văn chương, một là bởi ở tính tình, hai là bởi ở tư
tưởng, ba là bởi ở ngôn ngữ văn tự, đó là ba cái căn nguyên trước nhất.


Có ba cái căn nguyên ấy, rồi những sự quan cảm ở bề ngoài đưa đến
mới thành ra văn chương vậy.
Quan cảm bề ngoài, thì lại do ở cảnh tượng của tạo hoá, do ở công việc
của cuộc đời và ở cảnh ngộ của một mình.
Cảnh tượng của tạo hoá hiển hiện ra trước mắt ta, nghìn hình muôn
trạng, làm cho ta phải nhìn phải ngắm, phải nghĩ ngợi ngẩn ngơ. Ta cứ
theo cái cảnh tượng ấy mà tả ra thì gọi là văn chương tả cảnh.

Công việc của cuộc đời, xảy qua đến mắt ta, chạm đến tai ta, việc gần
việc xa, việc nhớn việc nhỏ, có việc ta ghét, có việc ta ưa, làm cho ta
phải khen phải chê, phải cười phải khóc. Ta cứ theo công việc đó mà
ghi chép lại thì gọi là văn chương tự sự hay là nghị luận.
Cảnh ngộ của một mình, khi gặp được cảnh sung sướng, khi gặp phải
cảnh chua cay. Ta nhân cái cảnh ngộ đó, ta muốn giãi tỏ cái tình của ta
thì gọi văn chương tự tình hay là thuật hoài.
Văn chương tuy nhiều, nhưng đại ý thì bất ngoại ba điều ấy.
Cứ như vậy thì văn chương cũng là một cái lẽ tự nhiên, phải có của trời
phú bẩm cho người ta. Song người ta tuy có sẵn cái phú bẩm ấy, nhưng
phi có tài cũng không tả được, mà có tài phi có học thì văn chương
cũng không sao hay được.
Văn chương khác nhau với nhời nói thường. Nhời nói thường thì gặp
đâu nói đấy, miễn là nói cho xuôi nhời, cho người ta hiểu được ý mình
thôi. Chớ văn chương thì phải nói cho có ý nhị, có văn hoa, phải xếp đặt
cho ra nhời óng chuốt, ý tứ đầu đuôi phải quán xuyến với nhau, mới
thành được văn chương.
Người làm văn chương, cũng như một tay hoạ công. Hoạ công có khéo
tay thì mới vẽ đúng được hình tượng, văn chương có tài tình mới tả
đúng được tinh thần.
Người có văn chương, lại như cây có hoa. Cây có bồi dưỡng được
nhiều khí lực thì nở ra hoa mới được phổng pháp. Người có hàm súc
được nhiều kiến thức tư tưởng thì tả ra văn mới được dồi dào.
Bởi các lẽ ấy mà tài văn chương là tài hiếm có, mà khoa văn chương là
khoa tối cao vậy.
Phan Kế Bính
2. Suy nghĩ về việc học
Học để làm gì? Câu hỏi ấy nghe ra thật là tầm thường cũ rích, tưởng
như không ai để ý đến; nhưng cứ như những câu trả lời của các nhà
học giả xưa nay thì có một câu vắn tắt mà có thể bao quát được toàn



thể và công dụng sự học là:
Học để làm người
Theo câu nói ấy, có kẻ lại cãi rằng: Vậy thì không học không làm
người được sao? Kìa như ông Hán Cao Tổ không học mà làm một
ông vua anh hùng; ông Hoắc Quang không học mà làm được công
nghiệp lớn. Bên Âu Tây, nhiều nhà đại chính trị đại sáng tạo, hoặc
trọn đời ở trong các mỏ, các công xưởng mà làm được công việc to đó
thì sao? Còn ở trên đời biết bao nhiêu người vào trường nọ, đậu bằng
kia, đào mãi trong trăm ngàn bộ sách, miệng nói ra rành là chuyện
văn hào đông tây, mà xét đến phẩm cách tính chất, có điều mất cả tư
cách làm người nữa. Thế thì câu nói "học để làm người" không phải
là không đúng sao?
Phải, chỉ nói trông không là "học", thì có hơi không rõ ràng mà lẫn lộn
như trên, nên trước phải hiểu cái "học làm người" này không phải như
người mình thường gọi là "đi học". Theo lối thông thường người mình
thì có ôm sách tới trường, có thầy dạy, có thi có đỗ, mới gọi là học.
Nhưng cái học làm người này thì khác hẳn thế. Sao vậy? Cái học làm
người này, nói về học khoá cần thiết thì người thông thường ai cũng có
thể theo sức lực cùng bản năng của mình mà làm hết phận sự; mà nói
đến chỗ cao diệu thì dầu thánh hiền hào kiệt cũng không ai dám tự
phụ, rằng đã làm được hoàn toàn cực điểm. Bởi vì, đã là "người" thì ai
cũng là người, mà nói đến sự làm người thì rất là mênh mông mà
không có hạn lượng. Trăm năm ngắn ngủi, trẻ, lớn, già, chết không cái
gì mới lạ. Song kẻ thì thánh hiền hào kiệt, kẻ thì ngu tiện dung phàm;
người thì có công với nhân loại, muôn đời ai cũng hinh hương, người
lại hại giống hại nòi, trăm miệng cũng đều thoá mạ. Không những thế
mà thôi, làm một người về thời đại cổ, và làm một người ở thời đại nay
khác nhau; làm người ở nước giàu mạnh với làm người ở nước hèn

yếu khác nhau, suy ra đối với nước nhà mình và đối với thế giới nhân
loại chung, nên làm người thế nào. Cảnh địa của người trăm chiều
không đồng nhau thì cái cách làm người cho xứng đáng thích hợp
cũng không phải cùng một cách. Những chuyện mấy bậc vĩ nhân đông
tây xưa nay, biết bao nhiêu điều đủ làm gương cho người sau học theo
mà người nào có chân tướng người nấy, mỗi người dạy cho người sau
một việc; bắt chước được một việc thì dầu ai đọc thuộc trăm nghìn
quyển sách cũng chẳng hơn chi.
Cái trường học để "làm người" đó tức là cái cõi đời ta ở vậy. Bao


nhiêu sự khốn khó ở đời, bao nhiêu sự kinh nghiệm người trước để lại
đều là những bài dạy cho ta. "Làm người" ở đời đã khó như trên đã
nói thì "học làm người" chắc không phải chuyện dễ.
Trong cái trường học mông mênh kia, trắng vàng chen lộn, sự lành sự
ác, điều dở điều hay không thiếu thứ gì; nên ai đã đem thân tòng học ở
cái trường ấy thì cần phải có cặp mắt biết quan sát và cái não biết
phán đoán để lựa những chuyện đáng làm theo, cùng những chuyện
đáng chữa cãi.
Cái mục đích chân chính của sự học là thế đó. Học như thế mới mong
bổ ích cho đời, làm được một phần việc trong xã hội. Trái lại, nếu mới
cặp sách đến trường mà trong não đã mơ tưởng đến chức kia hàm nọ,
thấy người ta xuống ngựa lên xe, mà cũng ao ước cho được cửa cao
nhà rộng, thì cái bả hư vinh, cái mồi phú quý ấy chắc không sao nhắc
ta lên cái địa vị làm một người chân chính ở đời được. Vậy ai muốn
khỏi cái tiếng hư sinh thì cần phải "học để làm người"; mà học để làm
người không phải nhất định có cắp sách đến trường và thi đỗ bằng này
bằng nọ, nhưng chính là noi gương kim cổ mà học theo, làm cho hết
nghĩa vụ một người đối với nhân quần xã hội vậy (Báo Tiếng dân, số
282, ngày 17-5-1930).




×