Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.24 KB, 40 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 2012 - 2015
Hệ đào tạo: chính quy

HO N THIỆN HỆ THỐNG PH P LUẬT
P ỨNG
U
C U Â DỰNG NH NƢ C PH P QU ỀN
H I
CHỦ NGH A VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
ThS. Huỳnh Thị Sinh Hiền
Bộ môn: Luật Hành chính

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Hoàng Thanh Trúc
MSSV: S120095
Lớp: DT1263B1

Cần Thơ, tháng 11 năm 2014

1


NHẬN ÉT CỦA GIẢNG VI N HƢ NG DẪN
………………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………/.
Cần Thơ, ngày tháng
năm 2014


NHẬN ÉT CỦA GIẢNG VI N PHẢN BIỆN
………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
2


…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………/.
Cần Thơ, ngày tháng
năm 2014

3


MỤC LỤC
Trang
PH N MỞ
U ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................................ 1
3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................................. 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................................... 2
5. Bố cụ đề tài .......................................................................................................................... 2
Chƣơng 1 KH I QU T CHUNG VỀ HỆ THỐNG PH P LUẬT V NH NƢ C
PH P QU ỀN
H I CHỦ NGH A VIỆT NAM ........................................................... 3
1.1. Khái quát chung về hệ thống pháp luật ........................................................................ 3
1.1.1. Khái niệm về hệ thống pháp luật .............................................................................. 3
1.1.2. Cấu thành của hệ thống pháp luật ............................................................................ 4
1.1.2.1. Quy phạm pháp luật ......................................................................................... 4
1.1.2.2. Chế định pháp luật ........................................................................................... 4
1.1.2.3. Ngành luật ........................................................................................................ 5
1.1.3. Các tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật ....................... 5
1.1.3.1. Tính toàn diện .................................................................................................. 5
1.1.3.2. Tính phù hợp .................................................................................................... 6
1.1.3.3. Tính khả thi ...................................................................................................... 6

1.1.3.4. Tính thống nhất ................................................................................................ 7
1.1.3.5. Tính ổn định và minh bạch............................................................................... 7
1.1.3.6. Trình độ kỹ thuật lập pháp ............................................................................... 8
1.2. Cơ sở lý luận về nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ............................................ 8
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của Nhà nƣớc pháp quyền .................................................. 8
1.2.1.1. Khái niệm Nhà nƣớc pháp quyền ..................................................................... 8
1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền ..................................................... 9
1.2.2. Khái niệm và đặc trƣng cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ......................................................................................................................................... 11
1.2.2.1. Khái niệm về Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam .................. 11
1.2.2.2. Những đặc trƣng cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ......................................................................................................................................... 12

4


1.3. Mối quan hệ giữa hệ thống pháp luật và nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ................................................................................................................................ 13
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG – KIẾN NGHỊ HO N THIỆN HỆ THỐNG PH P LUẬT
P ỨNG
U C U Â DỰNG NH NƢ C PH P QU ỀN
H I CHỦ
NGH A VIỆT NAM .............................................................................................................. 16
2.1. Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay .................................................... 16
2.1.1. Thực trạng về tính toàn diện của hệ thống pháp luật .............................................. 16
2.1.2. Thực trạng về tính khả thi của hệ thống pháp luật .................................................. 19
2.1.3. Thực trạng về tính thống nhất của hệ thống pháp luật ............................................ 21
2.1.4. Thực trạng về tính ổn định của hệ thống pháp luật ................................................. 23
2.1.5. Thực trạng về tính minh bạch và trình độ kỹ thuật lập pháp .................................. 25
2.2. Kiến nghị ......................................................................................................................... 28

2.2.1. Đổi mới quan điểm pháp lý trong xây dựng pháp luật để có một hệ thống pháp
luật của nhà nƣớc pháp quyền ................................................................................................. 28
2.2.2. Thay đổi quan niệm về quy mô các đạo luật để đảm bảo tính phù hợp của hệ
thống pháp luật ........................................................................................................................ 28
2.2.3. Xây dựng cơ chế bảo vệ phản biện của nhân dân để đảm tính khả thi của hệ
thống pháp luật ........................................................................................................................ 28
2.2.4. Xây dựng cơ chế bảo hiến để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật ..... 29
2.2.5. Thừa nhận án lệ đảm bảo tính khách quan phù hợp hệ thống pháp luật ................. 30
2.2.6. Tăng cƣờng áp dụng tập quán pháp để đảm bảo tính toàn diện khả thi của hệ
thống pháp luật ........................................................................................................................ 30
PH N KẾT LUẬN ................................................................................................................ 32

5


PH N MỞ

U

1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một tất yếu đối với Việt Nam, đây là
sự nghiệp lâu dài của toàn Đảng, toàn dân. Công cuộc xây dựng này còn rất nhiều vấn đề
cần phải giải quyết cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn. Đây là vấn đề không thể giải
quyết trong một sớm một chiều mà phải là một quá trình lâu dài nhiều khó khăn. Xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay phải gắn với việc xây dựng một
“xã hội dân chủ” và một nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, nhìn nhận vị trí
tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội. Hoàn thiện pháp luật là một trong
những yêu cầu xây dựng nhà nƣớc pháp quyền của Việt Nam.
Nhìn chung, hệ thống pháp luật nƣớc ta vẫn chƣa hoàn thiện, còn nhiều bất cập nhƣ:
chƣa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống ảnh hƣởng lớn đến

công cuộc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền. Chính vì vậy, hoàn thiện hệ thống pháp luật là
một vấn đề có ý nghĩa quan trọng góp phần xây dựng thành công nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Từ những vấn đề nêu trên tôi đã chọn đề tài “ Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để nghiên cứu cho luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua việc phân tích thực trạng về tính toàn diện, tính khả thi, tính thống nhất, tính
ổn định, tính minh bạch và trình độ kỹ thuật lập pháp của hệ thống pháp luật để thấy đƣợc
những hạn chế, bất cập đang tồn tại của thực trạng này. Qua đó, đƣa ra những kiến nghị để
góp phần hoàn thiện thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
XHCN Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian nghiên cứu hạn chế nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận của
Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam và khái quát chung về hệ thống pháp luật, các tiêu
chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Đánh giá thực trạng và đƣa ra kiến
nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
XHCN Việt Nam.
6


4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phƣơng pháp luận là quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam. Ngoài ra còn sử dụng
phƣơng pháp tổng hợp, phân tích tài liệu từ các nguồn nhƣ sách, báo, tạp chí và các trang
web tham khảo cũng nhƣ những bài báo cáo về hệ thống pháp luật, thực tiễn áp dụng,…
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của đề tài
gồm 2 chƣơng
Chƣơng 1: Khái quát chung về hệ thống pháp luật và Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam.
Chƣơng 2: Thực trạng – Kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

7


CHƢƠNG 1
KH I QU T CHUNG VỀ HỆ THỐNG PH P LUẬT V NH NƢ C
PH P QU ỀN
H I CHỦ NGH A VIỆT NAM

1.1. KH I QU T CHUNG VỀ HỆ THỐNG PH P LUẬT
1.1.1. Khái niệm về hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật là “tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ nội tại thống
nhất với nhau, đƣợc phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và đƣợc thể hiện
trong các văn bản do Nhà nƣớc ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất
định”1.
Theo khái niệm trên thì hệ thống pháp luật là một khái niệm chung gồm 2 mặt trong
một chỉnh thể thống nhất.
Thứ nhất, tổng thể các quy phạm pháp luật là hệ thống cấu trúc (bên trong) của pháp
luật, có mối quan hệ nội tại thống nhất với nhau. Hệ thống cấu trúc có ba thành tố: quy phạm
pháp luật là thành tố nhỏ nhất; nhiều quy phạm pháp luật có cùng tính chất, đặc điểm hình
thành nên chế định pháp luật; tập hợp các chế định pháp luật có liên quan và gần gũi với
nhau tạo nên ngành luật.
Thứ hai, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, đƣợc coi là hệ thống nguồn của
pháp luật, là hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật hay hình thức tồn tại của pháp luật.
Ta biết rằng, hệ thống pháp luật bao gồm nhiều quy phạm pháp luật kể cả thành văn
(văn bản quy phạm pháp luật) và không thành văn (tập quán pháp, tiền lệ pháp). Tuy nhiên,
quan điểm về nguồn luật của chúng ta hiện nay mới chỉ công nhận các văn bản pháp luật là

nguồn luật nên hệ thống các văn bản pháp luật hay nguồn luật cũng chính là hệ thống pháp
luật thực định.
Vì vậy, khái niệm hệ thống pháp luật nêu trên đƣợc nhìn nhận ở khía cạnh của một hệ
thống pháp luật thành văn (chỉ chứa đựng những quy phạm pháp luật thành văn). Hay có thể
nói, hệ thống pháp luật theo định nghĩa này gần nhƣ đồng nghĩa với hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật của quốc gia.

1

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, 2009, tr 401

8


1.1.2. Cấu thành của hệ thống pháp luật
Hệ thống là khái niệm đƣợc dùng để chỉ những chỉnh thể có cấu trúc thống nhất, đƣợc
tạo thành từ các thành tố có mối liên hệ chặt chẽ, có sự tác động qua lại với nhau và đƣợc tập
hợp theo những trình tự nhất định. Và hệ thống pháp luật đƣợc cấu thành từ 3 thành tố cơ
bản sau: ngành luật có tính chất loại, chế định pháp luật có tính chất nhóm, quy phạm pháp
luật có tính chất tế bào .
1.1.2.1. Quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung đƣợc Nhà nƣớc đặt ra hoặc thừa nhận
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và đƣợc Nhà nƣớc đảm bảo thực hiện kể cả bằng biện
pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc.
Về nguyên tắc thì quy phạm pháp luật đƣợc cấu thành từ 3 bộ phận là giả định, quy
định và chế tài.
Giả định là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên trong hoàn cảnh, điều kiện,
tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống và chủ thể nào rơi vào tình huống đó, điều kiện đó
cần phải xử sự theo yêu cầu của bộ phận quy định.
Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật, thông thƣờng quy định nêu lên cách xử

sự mà chủ thể đƣợc nêu ở phần giả định phải thực hiện, bộ phận quy định này chứa đựng ý
chí hoặc mệnh lệnh của Nhà nƣớc, yêu cầu của nhà làm luật đối với chủ thể đƣợc nêu ở giả
định, yêu cầu này có thể đƣợc thực hiện dƣới dạng cấm, cho phép và bắt buộc, để tìm bộ
phận quy định ta phải trả lời câu hỏi phải làm gì, không đƣợc làm g gì và gợi ý làm nhƣ thế
nào? Bộ phận quy định thực hiện chức năng điều chỉnh của pháp luật
Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên biện pháp xử lý cho chủ thể đƣợc
nêu ở giả định khi chủ thể này không tuân theo yêu cầu của bộ phận quy định.
1.1.2.2. Chế định pháp luật
Là tập hợp các quy phạm pháp luật dùng để điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội
tƣơng ứng thuộc cùng một đối tƣợng điều chỉnh trong một ngành luật.
Việc xác định đúng tính chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội từ đó đề ra những
quy phạm pháp luật tƣơng ứng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng góp phần thiết lập hệ thống
quy phạm pháp luật phù hợp với đời sống xã hội.
9


Mỗi một ngành luật có nhiều chế định pháp luật, chẳng hạn nhƣ ngành luật dân sự có
các chế định: chế định thừa kế, hợp đồng dân sự.
1.1.2.3. Ngành luật
Là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh một hoặc những loại quan hệ xã hội có
cùng tính chất hoặc trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
Ngƣời ta phân biệt ngành luật này hay ngành luật khác bởi đối tƣợng điều chỉnh và
phƣơng pháp điều chỉnh. Đối tƣợng điều chỉnh là các quan hệ xã hội có cùng tính chất hoặc
cùng diễn ra trong lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội. Còn phƣơng pháp điều chỉnh là
cách thức mà nhà nƣớc sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội trên.
Trong đó, đối tƣợng điều chỉnh là quan trọng nhất vì mỗi ngành luật điều chỉnh một
lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định. Trong khi đó một phƣơng pháp điều chỉnh có thể đƣợc sử
dụng trong nhiều ngành luật.
Ví dụ: Ngành luật hành chính có đối tƣợng điều chỉnh là quan hệ chấp hành, điều hành
và phƣơng pháp điều chỉnh là mệnh lệnh – phục tùng, ngành luật dân sự có đối tƣợng điều

chỉnh là quan hệ tài sản, nhân thân và phƣơng pháp điều chỉnh là bình đẳng, thỏa thuận.
1.1.3. Các tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật
Để xác định mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật đến đâu ngƣời ta thƣờng để
ra những tiêu chí cụ thể để đánh giá. Việc đánh giá qua các tiêu chí sẽ giúp nhận diện đƣợc
những mặt tích cực cũng nhƣ hạn chế của một hệ thống pháp luật để từ đó có giải pháp cụ
thể để xây dựng đƣợc một hệ thống pháp luật ngày một hoàn thiện và chất lƣợng hơn.
Có nhiều tiêu chí đƣợc đƣa ra song có thể đánh giá thông qua các tiêu chí cơ bản sau:
tính toàn diện, tính phù hợp, tính thống nhất, tính khả thi, tính ổn định, minh bạch và trình
độ kỹ thuật lập pháp
1.1.3.1. Tính toàn diện
Đây là tiêu chuẩn đầu tiên xác định mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Một hệ
thống pháp luật toàn diện phải có đủ các ngành luật để điều chỉnh các lĩnh vực nhất định
trong đời sống mà xã hội đang có nhu cầu cần đƣợc điều chỉnh. Tính toàn diện của hệ thống
pháp luật còn thể hiện ở các quy phạm pháp luật đƣợc đặt ra phải có khả năng bao trùm toàn
bộ đời sống xã hội, để các mối quan hệ trong xã hội có nhu cầu đƣợc điều chỉnh đều có pháp
luật điều chỉnh. Tính toàn diện của pháp luật đòi hỏi phải có đủ các chế định pháp luật thể
hiện thống nhất trong từng ngành luật tƣơng ứng đảm bảo pháp luật không có lỗ hỏng, đồng
10


thời trong từng chế định này phải có đầy đủ các quy phạm pháp luật cần thiết tránh tạo mảng
trống của pháp luật. Khi luật đƣợc ban hành cần phải chú trọng cả luật nội dung lẫn luật hình
thức để đảm bảo có sự thống nhất về trình tự và thủ tục trong giải quyết một vấn đề liên
quan phát sinh.
1.1.3.2. Tính phù hợp
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện ở nội dung của hệ thống pháp luật luôn
có sự tƣơng ứng với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Pháp luật phải phản
ánh những nhu cầu cơ bản, điển hình của đời sống kinh tế - xã hội đƣợc thể hiện thông qua ý
chí của Nhà nƣớc và nhà làm luật. Pháp luật phải phù hợp với cách cƣ xử của xã hội trong
những thời điểm nhất định, sự phù hợp của các quy định pháp luật là điều kiện vô cùng quan

trọng bảo đảm cho tính khả thi và hiệu quả áp dụng. Pháp luật phù hợp với các quy luật của
kinh tế - xã hội không chỉ giúp pháp luật dễ dàng đƣợc áp dụng mà còn thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế - xã hội.
Sự phù hợp còn thể hiện ở chỗ pháp luật phải đƣợc thể chế hóa từ đƣờng lối, chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc ta trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, mở cửa, hội nhập quốc tế. Để pháp luật có thể bảo đảm cho xã hội
phát triển ổn định thì đòi hỏi nội dung của pháp luật phải quy định sao cho phù hợp với
phong tục và tập quán của xã hội, phải tƣơng quan giữa các loại lợi ích, tránh xung đột, đảm
bảo sự hài hoà đối với các tầng lớp khác nhau trong xã hội, phải phù hợp với đạo đức, với
thuần phong mỹ tục và trình độ phát triển kinh tế xã hội.
1.1.3.3. Tính khả thi
Một hệ thống pháp luật có chất lƣợng thì phải bảo đảm đƣợc tính khả thi, nghĩa là các
quy định pháp luật phải có khả năng thực hiện đƣợc trong điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội
hiện tại, các quy định đƣợc ban hành phải phù hợp với trình độ phát triển của đất nƣớc trong
một giai đoạn phát triển nhất định. Nếu các quy định pháp luật đƣợc ban hành tƣơng thích
với các điều kiện phát triển của đất nƣớc thì sẽ ảnh hƣởng đến chất lƣợng của pháp luật.
Trong những trƣờng hợp đó, pháp luật sẽ không có khả năng thực hiện hoặc nếu đƣợc thực
hiện thì sẽ không triệt để, không nghiêm minh, không phát huy hết vai trò thƣợng tôn của
pháp luật trong đời sống xã hội.
Tính khả thi của hệ thống pháp luật còn thể hiện ở việc các quy định pháp luật phải
đƣợc ban hành đúng lúc, kịp thời đáp ứng những nhu cầu mà cuộc sống đang đặt ra, đồng
11


thời phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Khi ban hành pháp
luật phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nƣớc, đồng thời phải tính
đến các điều kiện khác nhƣ tổ chức bộ máy nhà nƣớc, trình độ của đội ngũ cán bộ, công
chức khi áp dụng, dƣ luận xã hội trong việc tiếp nhận quy định hoặc văn bản pháp luật đó
(ủng hộ hay không ủng hộ), trình độ văn hoá và kiến thức pháp lý của nhân dân... Pháp luật

có chất lƣợng phải là pháp luật đƣa ra đƣợc phƣơng án tốt nhất với phƣơng pháp điều chỉnh
pháp luật phù hợp nhất để thông qua đó có thể đạt đƣợc mục đích mong muốn trong những
điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại.
1.1.3.4. Tính thống nhất
Sự thống nhất của hệ thống pháp luật là điều kiện cần thiết bảo đảm cho tính thống nhất
về mục đích của pháp luật và sự triệt để trong việc thực hiện pháp luật. Tính thống nhất của
hệ thống pháp luật đƣợc thể hiện trong cả hệ thống cũng nhƣ trong từng bộ phận hợp thành
của hệ thống pháp luật ở các cấp độ khác nhau, nghĩa là giữa các ngành luật trong hệ thống
pháp luật; giữa các chế định pháp luật trong cùng một ngành luật; giữa các quy phạm pháp
luật trong một chế định pháp luật cũng phải thống nhất. Không có các hiện tƣợng trùng lặp,
chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau của các quy phạm pháp luật trong mỗi bộ phận và trong các
bộ phận khác nhau của hệ thống pháp luật. Điều này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật
đƣợc ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hoà về nội dung mà còn phải bảo đảm
tính thứ bậc của mỗi văn bản về giá trị pháp lý của chúng.
1.1.3.5. Tính ổn định và tính minh bạch
Tính ổn định là một trong những “tiêu chí cơ bản để đánh giá khả năng đáp ứng nhu
cầu thực tiễn cũng nhƣ tính “dự liệu” của nhà lập pháp trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Nếu pháp luật phù hợp thực tế đời sống xã hội thì tính hiệu lực về thời gian sẽ lâu còn ngƣợc
lại hiệu lực về thời gian sẽ ngắn”2. Thay đổi pháp luật thƣờng xuyên sẽ làm đổi lộn các quan
hệ xã hội dẫn đến nhiều bất ổn “pháp luật thay đổi thƣờng xuyên thì tệ hơn là không có pháp
luật”3. Tuy nhiên, khi xã hội phát triển thì nhiều quan hệ xã hội mới cũng phát sinh vì vậy
việc thay đổi bổ sung bắt buộc phải diễn ra là đều cần thiết khi mà quy phạm pháp luật đó
không còn phù hợp nữa. Bên cạnh tính ổn định thì tính minh bạch cũng là một đòi hỏi rất
quan trọng. Có nhiều quan điểm cho rằng tính minh bạch của pháp luật thể hiện ở việc pháp
luật đƣợc công bố, đƣợc phổ biến rộng rãi trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng, “tính
minh bạch của pháp luật còn thể hiện ở sự xác minh, tính hệ thống và nhất quán. Một hệ
2
3

Phan Trung Hiền, Lý luận về Nhà nước và pháp luật, Quyển 2, Nxb.Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr74

Nguyên văn Ngạn ngữ Anh: “The law that changes every day is worse than no law at all”.

12


thống pháp luật cồng kềnh, khó tiếp cận, khó hiểu, khó vận dụng và chứa đựng những mâu
thuẫn nội tại không thể coi là một hệ thống pháp luật minh bạch và không thể trở thành nền
tảng để xây dựng nhà nƣớc pháp quyền”4.
1.1.3.6. Trình độ kỹ thuật lập pháp
Đó là tổng thể những phƣơng pháp, phƣơng tiện đƣợc sử dụng trong quá trình soạn
thảo và hệ thống hoá pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật có đƣợc đầy đủ các khả năng để
điều chỉnh hiệu quả các quan hệ xã hội. Khi xây dựng pháp luật phải đƣa ra những nguyên
tắc, những trình tự tối ƣu để tiến hành có hiệu quả, những quy định, những văn bản pháp luật
đƣợc tạo ra từ trình tự này phải phù hợp với các quy định đã có, xác định tính chính xác, tính
khoa học trong cơ cấu của hệ thống pháp luật phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội,
ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng,
dễ hiểu và một nghĩa. Đối với những thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung đều
đƣợc giải thích trong văn bản.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải thƣờng xuyên sử dụng các phƣơng
tiện, các cách tiếp cận, các kỹ thuật pháp lý, các quy tắc pháp lý tiên tiến khoa học nhất đã
đạt đƣợc của nhân loại trong lĩnh vực điều chỉnh pháp luật. Để có chất lƣợng các văn bản
pháp luật phải đƣợc xây dựng đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục luật định, có tên gọi
phù hợp với nội dung thể hiện, hình thức rõ ràng, dễ thực hiện.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NH NƢ C PH P QU ỀN

H I CHỦ NGH A

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của Nhà nước pháp quyền
1.2.1.1 Khái niệm Nhà nước pháp quyền
Nhà nƣớc pháp quyền là một trong những thành tựu của loài ngƣời trong việc tổ chức

và vận hành xã hội. Những ý tƣởng về Nhà nƣớc pháp quyền đã có từ lâu trong lịch sử nhân
loại và đƣợc nghiên cứu từ nhiều phƣơng diện khác nhau từ sử học, xã hội học, luật học,..
“Nhà nƣớc pháp quyền là trật tự xã hội mà ở đó Nhà nƣớc thực thi quyền lực của mình dựa
trên nền tảng pháp luật đƣợc ban hành theo thủ tục hiến định nhằm đảm bảo các quyền tự do
dân chủ của nhân dân và công lý”5.

4

Hà Hùng Cƣờng, Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, nuoc va phap luat/ hoan-thien-he-thong-phap-luat-111ap-ung-yeucau-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xhcn [ ngày truy cập 27/5/2014]
5
Bùi Nguyên Khánh, Xây dựng Nhà nước pháp quyền để phát huy quyền lực nhà nước, Tài liệu Hội thảo khoa học toàn
quốc tại Trƣờng Đại học Sài Gòn, ngày 24/11/2011.

13


Theo khái niệm này cho thấy Nhà nƣớc pháp quyền là trạng thái Nhà nƣớc chịu sự
kiểm soát và chế ngự của pháp luật trong mọi hoạt động của mình.
Nhà nƣớc pháp quyền không phải là một Nhà nƣớc cụ thể càng không thể là một kiểu
Nhà nƣớc. Nhà nƣớc pháp quyền là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển
dân chủ, một cách thức tổ chức Nhà nƣớc và xã hội trên nền tảng dân chủ. Mặc dù đây
không phải là một kiểu nhà nƣớc theo hình thái kinh tế xã hội nhƣng nhà nƣớc này cũng sẽ
không thể xuất hiện trong một nhà nƣớc phi dân chủ. Nhà nƣớc pháp quyền không những
đƣợc xây dựng ở chế độ tƣ bản mà còn đƣợc xây dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nhà nƣớc pháp quyền là một hiện tƣợng chính trị pháp lý phức tạp đƣợc hiểu theo
nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta cũng có thể hiểu một cách đơn giản rằng đó là một
nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật và Nhà nƣớc hoạt động theo pháp luật.
Trong bài viết của Chủ tịch nƣớc Trần Đức Lƣơng đăng trên Tạp chí Cộng sản cũng
nêu lên nhận định “Nhà nƣớc pháp quyền không phải là một kiểu Nhà nƣớc trong hình thái

kinh tế xã hội, Nhà nƣớc pháp quyền nói một cách khái quát là hệ thống các tƣ tƣởng, quan
điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức hoạt động của Bộ máy nhà nƣớc và trong đời
sống xã hội. Nhà nƣớc pháp quyền là Nhà nƣớc quản lý xã hội theo pháp luật”6.
Theo GS – TSKH Đào Trí Úc thì “khi nói đến Nhà nƣớc pháp quyền là nói đến phƣơng
thức tổ chức quyền lực nhà nƣớc. Ở đó pháp luật là cơ sở tốt nhất cho việc quản lý nhà
nƣớc”.
Từ nhiều cách nhìn nhận về Nhà nƣớc pháp quyền có thể quy chung lại “Nhà nước
pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật. Trong đó, mọi chủ thể kể cả
Nhà nước đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật”.
1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền


Nhà nƣớc pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ

Dân chủ vừa là bản chất của Nhà nƣớc pháp quyền, vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ
nhà nƣớc. Mục tiêu của nhà nƣớc pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm
bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
thông qua dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.

6

Trần Đức Lƣơng, Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân, Tạp chí Cộng sản, số 1/2002.

14


 Nhà nƣớc pháp quyền đƣợc tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nƣớc và hoạt động của xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ

chức và hoạt động của Bộ máy nhà nƣớc. Tuy không phải mọi chế độ lập hiến, mọi hệ thống
pháp luật đều có thể xây dựng nhà nƣớc pháp quyền mà chỉ có hiến pháp và hệ thống pháp
luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nƣớc và xã
hội.
 Nhà nƣớc pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con ngƣời trong mọi
lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội
Quyền con ngƣời là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nƣớc. Mọi hoạt
động của nhà nƣớc đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con ngƣời, tạo mọi
điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng quy định của pháp luật. Mô
hình quan hệ giữa nhà nƣớc và cá nhân đƣợc xác định theo nguyên tắc: đối với cơ quan nhà
nƣớc chỉ đƣợc làm những gì luật cho phép; với công dân thì đƣợc làm tất cả trừ những gì
pháp luật cấm.
 Quyền lực nhà nƣớc trong Nhà nƣớc pháp quyền đƣợc tổ chức và thực hiện theo
nguyên tắc dân chủ; phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực
Tính chất và cách thức phân công, kiểm soát quyền lực nhà nƣớc rất đa dạng, tùy thuộc
vào chính thể nhà nƣớc ở các nƣớc khác nhau, nhƣng đều có điểm chung là quyền lực nhà
nƣớc không thể tập trung vào một ngƣời, vào một cơ quan, mà phải đƣợc phân công giữa
các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tƣ
pháp. Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải đƣợc kiểm soát chặt chẽ với các cơ
chế kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nƣớc và bên ngoài bộ máy nhà
nƣớc.
 Nhà nƣớc pháp quyền gắn với cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật phù hợp
Nền tảng của nhà nƣớc pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân chủ,
công bằng. Vì vậy, cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu cầu một điều kiện
cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật luôn đƣợc tôn trọng, đề cao và tuân thủ
nghiêm minh. Hình thức và phƣơng thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật của mọi quốc gia rất
đa dạng và khác nhau, nhƣng mục tiêu cuối cùng đều là bảo đảm địa vị tối cao của Hiến
pháp và pháp luật, loại bỏ những hành vi trái với tinh thần chung của Hiến pháp. Đồng thời
15



với cơ chế bảo vệ hiến pháp thì Nhà nƣớc pháp quyền phải xây dựng và thực thi một chế độ
tƣ pháp thật sự dân chủ trong sạch và minh bạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi
lĩnh vực hoạt động của Nhà nƣớc và xã hội.
 Trong Nhà nƣớc pháp quyền, quyền lực nhà nƣớc luôn đƣợc giới hạn trong mối
quan hệ giữa Nhà nƣớc với kinh tế và Nhà nƣớc với xã hội
Trong mối quan hệ giữa nhà nƣớc và kinh tế, vị trí vai trò chức năng và nhiệm vụ của
nhà nƣớc đƣợc xác định bởi tính chất, trình độ của mô hình nền kinh tế thị trƣờng, theo
hƣớng nhà nƣớc tôn trọng và phát huy các quy luật khách quan của thị trƣờng, thông qua thị
trƣờng để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc phục và hạn chế những mặt tiêu cực
của thị trƣờng. Đối với mối quan hệ với xã hội, nhà nƣớc thông qua pháp luật để quản lý xã
hội, tôn trọng và đề cao vai trò, vị trí và quyền tự chủ của các tổ chức xã hội và các cộng
đồng xã hội.
Mối quan hệ giữ nhà nƣớc với kinh tế, xã hội là mối quan hệ tƣơng tác, quy định và chi
phối lẫn nhau. Nhà nƣớc không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nƣớc pháp quyền gắn liền
với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật.
1.2.2 Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
1.2.2.1. Khái niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Điều 2 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 “Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nƣớc
thuộc về nhân dân…Quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công, phối hợp kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp”.
Đối với nƣớc ta xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa là xây dựng phƣơng
thức tổ chức nền chính trị xã hội chủ nghĩa và Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa, không ngừng duy
trì bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân của Nhà nƣớc, phát huy tính dân chủ xã hội
chủ nghĩa sâu sắc, xây dựng một xã hội thật sự công bằng, dân chủ và văn minh, một nhà
nƣớc thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý xã hội và điều hành
đất nƣớc .


16


1.2.2.2. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bên cạnh những đặc điểm cơ bản của một Nhà nƣớc pháp quyền thì Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có những đặc trƣng riêng phù hợp với thể chế chính
trị và nguyên tắc hoạt động của mình. Đó là:
 Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc
thực hiện quyền lực nhà nước
Trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam, quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện ba quyền: lập
pháp, hành pháp và tƣ pháp.
Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp quyền lực
Nhà nƣớc và của cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa trung ƣơng và địa
phƣơng. Sự phân công, phân cấp đó phải dựa trên cơ sở khuyến khích và nâng cao tính chủ
động của chính quyền địa phƣơng, kết hợp chặt chẽ với quản lý ngành và quản lý lãnh thổ,
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong các tổ chức thực hiện quyền lực chính trị và quyền lực nhà nƣớc theo hƣớng xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền thì dù ở chế độ xã hội nào việc xác lập và sử dụng các hình thức
và cơ chế giám sát luôn đƣợc đặt ra một cách tất yếu bởi vì Nhà nƣớc pháp quyền về thực
chất là để công khai hóa quyền lực, chống lạm dụng quyền lực.
Trên thực tế, các hình thức kiểm tra, giám sát của nhân dân đa dạng và linh hoạt hơn
nhiều so với những hình thức kiểm tra giám sát của Nhà nƣớc. Tùy thuộc vào điều kiện hoàn
cảnh mỗi quốc gia, mà các hình thức kiểm tra, giám sát của nhân dân sẽ đƣợc tổ chức phù hợ
 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo
Đây đƣợc xem là đặc trƣng của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, “đặc trƣng

này đƣợc tạo nên bởi thực tiễn cách mạng giành chính quyền của các nƣớc xã hội chủ nghĩa.
Cho dù cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hay cách mạng xã hội chủ nghĩa thì đều
do đảng cộng sản lãnh đạo nhằm thủ tiêu chế độ cũ – chế độ ngƣời bóc lột ngƣời, thiết lập
một chế độ mới – chế độ nhân dân lao động làm chủ nhà nƣớc, làm chủ xã hội và làm chủ
17


bản thân mình. Nhà nƣớc ra đời trong cuộc cách mạng đó là nhà nƣớc của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản”7.
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất yếu lịch sử và tất yếu
khách quan:
+ Đối với dân tộc Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà
nƣớc, đối với xã hội không chỉ là tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan mà còn là ở chỗ sự lãnh
đạo đó còn có cơ sở đạo lý sâu sắc và cơ sở pháp lý vững vàng.
+ Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội
và đời sống nhà nƣớc không những không trái (mâu thuẫn) với bản chất nhà nƣớc pháp
quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nƣớc ta. Trong ý nghĩa ấy, nhà
nƣớc pháp quyền dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tƣ tƣởng và kim chỉ nam hành động là một
đặc trƣng cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta.
Đối với Nhà nƣớc, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết định phƣơng
hƣớng chính trị của Nhà nƣớc, bảo đảm cho Nhà nƣớc ta thực sự là tổ chức thực hiện quyền
lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để thực hiện thành công công cuộc đổi
mới đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Nhà nƣớc triển khai tổ chức thực hiện các
nghị quyết, chủ trƣơng của Đảng bằng các hoạt động quản lý nhà nƣớc, tổ chức tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
1.3 MỐI QUAN HỆ GIỮA HỆ THỐNG PH P LUẬT V

QU ỀN

NH

NƢ C PH P

H I CHỦ NGH A VIỆT NAM

Pháp luật và Nhà nƣớc là hai bộ phận của kiến trúc thƣợng tầng, luôn có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Cả hai hiện tƣợng này đều chung nguồn gốc ra đời và phát triển. Trong
mối quan hệ này, Nhà nƣớc là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhƣng quyền lực
đó chỉ có thể đƣợc thực hiện và có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật; trong khi đó, pháp luật
là hệ thống những quy tắc xử sự do Nhà nƣớc ban hành và luôn phản ánh quan điểm, đƣờng
lối chính trị của lực lƣợng nắm quyền lực nhà nƣớc, bảo đảm cho quyền lực đó đƣợc thực
hiện trong xã hội. Với ý nghĩa đó, nhà nƣớc không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu
7

Nguyễn Văn Động, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, NXb. Giáo dục Việt Nam, 2012, tr 156

18


thiếu pháp luật; ngƣợc lại, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở
sức mạnh của quyền lực nhà nƣớc. Vì thế, không thể nói pháp luật đứng trên nhà nƣớc hay
nhà nƣớc đứng trên pháp luật. Chính vì vậy, khi xem xét các vấn đề nhà nƣớc và pháp luật,
phải đặt chúng trong mối quan hệ qua lại với nhau. Mặt khác khi nghiên cứu mối quan hệ
này cũng cần nhận thức rõ rằng; pháp luật mặc dù do nhà nƣớc ban hành nhƣng khi đã đƣợc
công bố thì nó trở thành một hiện tƣợng có sức mạnh công khai bắt buộc đối với mọi chủ
thể, trong đó có cả nhà nƣớc. Nhà nƣớc nói chung và mọi cơ quan nói riêng đều phải tôn
trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Đồng thời, nhà nƣớc cũng không thể chủ quan

duy ý chí khi xây dựng và ban bố luật, mà phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của các điều
kiện kinh tế - xã hội. Bởi lẽ, đó cũng chính là nội dung và yêu cầu khách quan mà pháp luật
cần phản ánh và bảo vệ.
Nhà nƣớc pháp quyền là nhà nƣớc mà việc quản lý đất nƣớc và xã hội bằng pháp luật;
Chính vì thế, mà công tác xây dựng hệ thống pháp luật theo hƣớng hoàn thiện, đồng bộ,
thống nhất là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, lâu dài của cả hệ thống chính trị đặt dƣới sự
lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền chính là xây dựng nhà nƣớc dân chủ muốn cho quyền
dân chủ của nhân dân thực sự tồn tại không phải chỉ nêu lên về mặt hình thức mà pháp luật
liên quan phải quy định cụ thể, đảm bảo sao cho nhân dân có thể vận dụng để phát huy
quyền lợi chính đáng của mình góp phần hoàn thiện một tiêu chí quan trọng trong xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền.
Đi kèm với yếu tố nhân quyền và dân chủ thì cơ chế bảo hiến cũng là một nội dung
quan trọng trong Nhà nƣớc pháp quyền. Trong Nhà nƣớc pháp quyền thì Hiến pháp có vai
trò rất lớn, hiến pháp tồn tại với tƣ cách là đạo luật cơ bản của Nhà nƣớc cơ hiệu lực pháp lý
cao nhất, thể hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất ý chí và sự lựa chọn chính trị của
nhân dân. Hiến pháp bao hàm trong đó những quy tắc cơ bản của một xã hội dân chủ chứ
không phải là một tập hợp các đạo luật thƣờng xuyên thay đổi. Tất cả các đạo luật khác đều
phải dựa trên cơ sở Hiến pháp và trong khuôn khổ của pháp luật. Hiến pháp là cơ sở và là
điều kiện quan trọng nhất để đảm bảo sự ổn định xã hội và sự an toàn của nhân dân, gắn liền
với nền dân chủ, quyền tự do và dân chủ của nhân dân. Vì Hiến pháp có vị trí đặt biệt quan
trọng nên nhu cầu thành lập cơ chế bảo hiến là thật sự cần thiết và hoàn toàn hợp lý. Trong
Nhà nƣớc pháp quyền thì Hiến pháp và pháp luật phải đƣợc tôn trọng, sự tôn trọng này còn
thể hiện sự tôn trọng đối với ý chí phổ biến và đầy đủ nhất của nhân dân. Bảo vệ Hiến pháp
là bảo vệ chủ quyền Nhà nƣớc, bảo vệ ý chí và quyền lợi chính đáng của nhân dân. Chính vì
19


thế, việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hoàn hảo cho việc phát hiện và đáng giá những
hoạt động trái với Hiến pháp và pháp luật là cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực

nhà nƣớc ở nƣớc ta hiện nay mà đặt biệt là trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền thì tôn trọng và đề cao
vai trò của pháp luật là tiêu chí tiêu biểu, là dấu hiệu đặt trƣng của mô hình Nhà nƣớc pháp
quyền. Đối với nƣớc ta hiện nay thì các quan hệ xã hội cơ bản cần phải đƣợc pháp luật điều
chỉnh, pháp luật giữ vị trí chi phối trong toàn xã hội, trong hoạt động thực hiện quyền lực
Nhà nƣớc và trong hành vi xử sự của công dân.
Từ những nội dung nêu trên đã đặt ra yêu cầu tất yếu phải có một hệ thống pháp luật
cần và đủ là cơ sở tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật xã hội. Pháp luật trong Nhà nƣớc
pháp quyền là pháp luật mang tính khách quan của các quy định pháp luật chứ không phải
nói đến nhu cầu đề ra pháp luật, áp dụng pháp luật một cách chung chung. Mà pháp luật
trong nhà nƣớc pháp quyền phải phản ánh đƣờng lối, chính sách chủ trƣơng của Đảng và nhà
nƣớc, lợi ích của nhân dân. Pháp luật phải thể chế hóa nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức
tồn tại của các tổ chức xã hội và thiết chế nhà nƣớc. Pháp luật phải phù hợp với hiện thực
khách quan với tiến bộ của xã hội. Pháp luật là một công cụ quan trọng để quản lý nhà nƣớc,
pháp luật giúp mở rộng nhân quyền và pháp luật là cơ sở để phát huy dân chủ của nhân dân
chính vì thế mà pháp luật cần phải đƣợc hoàn thiện.

20


CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG – KIẾN NGHỊ HO N THIỆN HỆ THỐNG PH P
LUẬT
P ỨNG
U C U Â DỰNG NH NƢ C PH P QU ỀN
H I CHỦ NGH A VIỆT NAM

2.1. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PH P LUẬT VIỆT NAM HIỆN NA
2.1.1. Thực trạng về tính toàn diện của hệ thống pháp luật
Xét ở góc độ chung thì hệ thống pháp luật nƣớc ta khá toàn diện. Bởi hầu hết các quan

hệ xã hội cơ bản đã có luật điều chỉnh. Chúng ta có thể thấy đƣợc điều này khi nhìn vào các
ngành luật của hệ thống pháp luật nƣớc ta khi các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội đã
đƣợc luật bao phủ. Có thể nêu các ngành luật hiện nay của nƣớc ta nhƣ ngành luật Hiến
pháp, dân sự, hành chính, tài chính, hình sự,…Tính toàn diện của pháp luật nƣớc ta còn thể
hiện thông qua nhiều quan hệ xã hội mới đã có luật để điều chỉnh đảm bảo tính kịp thời nhất
quán trong quản lý xã hội. Có thể nêu ra một số luật điển hình nhƣ Luật giao dịch điện tử
năm 2005, Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể ngƣời và hiến, lấy xác năm 2006,..đây là
những luật điều chỉnh các vấn đề rất mới của xã hội. Nếu nhƣ Luật giao dịch điển tử năm
2005 đƣợc xem là bƣớc đột phá của quy định pháp luật đối với lĩnh vực công nghệ, khi trình
độ công nghệ đang ngày càng phát triển tại Việt Nam, hầu hết các lĩnh vực kinh đang dần
chuyển sang hình thức giao dịch điện tử. Chính vì vậy, việc ban hành luật này có ý nghĩa
thiết thực trong việc điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh trong các ngành nghề có sử dụng
hình thức giao dịch này. Trong khi đó, Luật về hiến mô, hiến xác đƣợc xem là một bƣớc tiến
mới đối với lĩnh vực y học, mà còn thể hiện khả năng nhận diện cũng nhƣ tính dự liệu của
pháp luật bởi tính thiết thực của các quy định này đối với thực tiễn. Luật ra đời đã giúp nâng
cao hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy và chữa bệnh đối với ngành y cũng
nhƣ ý nghĩa nhân đạo mà luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể ngƣời và hiến, lấy xác đem
lại cho ngƣời bệnh. Với việc nhiều đạo luật mới đƣợc ban hành cho thấy pháp luật đang
ngày càng đầy đủ hơn góp phần làm cho hệ thống pháp luật thật sự toàn diện.
Tuy nhiên, xét ở cấp độ cụ thể thì tính toàn diện này vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập.
Một số mảng của từng ngành luật vẫn chƣa ban hành kịp văn bản pháp luật để điều chỉnh
hoặc không đƣợc ban hành. Điển hình có thể nhắc đến ở đây chính Luật biểu tình, luật trƣng
cầu dân ý. Quy định về quyền biểu tình đã hiện diện từ rất lâu trong Hiến pháp nƣớc ta (Hiến
21


pháp năm 1946) nhƣng đến thời điểm hiện tại hiến định này vẫn chƣa đƣợc cụ thể hóa bằng
luật. Theo nhƣ phát biểu của Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp Hà Hùng Cƣờng thì “biểu tình là quyền
cơ bản của người dân đã được quy định trong Hiến pháp và cái quyền hiến định ấy không
thể treo mãi được. Và biểu tình là quyền con người, quyền công dân thì nếu có bị hạn chế

phải được thể hiện bằng luật chứ không thể bằng Nghị định của Chính phủ”. Nhiều lần đƣợc
nêu ra rồi lại tạm hoãn dẫn đến nhiều bức xúc trong xã hội. Biểu tình không phải là một
hành vi xấu nhƣng nếu biểu tình không đúng sẽ gây ra nhiều bất ổn cho xã hội mà nhất là
tình hình an ninh trật tự hơn nữa nó còn có thể tác động nhiều mặt đến đời sống xã hội. Thực
tế cho thấy rằng vì không có Luật biểu tình nên xảy ra tình trạng biểu tình tự phát và gây ra
những cuộc bạo loạn đáng tiếc nhƣ các vụ biểu tình ở khu công nghiệp tỉnh Bình Dƣơng và
Vũng Áng vừa qua. Chính vì không có Luật quy định dẫn đến bọn xấu lợi dụng, kích động
ngƣời dân bạo loạn, gây ra tình trạng khó kiểm soát cho cơ quan quản lý.
Cũng giống nhƣ Luật biểu tình, Luật trƣng cầu dân ý đã đƣợc quy định từ khi nƣớc ta
có Hiến pháp đầu tiên “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có quan
hệ đến vận mệnh quốc gia”8 và “Những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra
nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba số nghị viên đồng ý”9. Quy định này tiếp tục đƣợc
quy định trong các Hiến pháp 1959, việc trƣng cầu ý dân đƣợc qui định trong Điều 53 do Ủy
ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định, Hiến pháp 1980 qui định trong Điều 100 do Hội đồng
Nhà nƣớc quyết định, Hiến pháp 1992 qui định trong Điều 53 và Điều 84 do Quốc hội quyết
định, Hiến pháp 2013 quy định tại điều 29 và điều 120. Mặc dù hiến định đã rất lâu nhƣng
chƣa luật hóa, chƣa đƣa qui định này của Hiến pháp vào thực tiễn của đời sống chính trị
pháp lý dẫn đến hiện tƣợng pháp lý thiếu toàn diện làm cho hệ thống pháp luật nƣớc ta khó
hoàn thiện. Chúng ta biết rằng “trưng cầu ý dân là sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của đa số
nhân dân…. không ai phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân bằng chính bản thân nhân
dân”. Vì vậy mà dân chủ trực tiếp luôn có ƣu thế hơn so với dân chủ đại diện. Nhƣng hiện
tại lại cho kết quả ngƣợc lại khi mà Luật trƣng cầu dân ý chƣa đƣợc ban hành thì việc thực
hiện quyền lực trực tiếp của nhân dân ta hiện nay sẽ hạn chế hay dân chủ trực tiếp hạn chế
hơn so với dân chủ đại diện. Chính điều này đã góp phần giải thích vì sao nên ban hành Luật
trƣng cầu dân ý càng sớm càng tốt vì khi đó chúng ta sẽ thực hiên đƣợc nguyên tắc những gì
hiến định phải đƣợc cụ thể hóa bằng luật. Hơn nữa, nhân dân có thể sử dụng quy định của
luật này để phát huy quyền lực Nhà nƣớc của mình đối với những vấn đề cần có sự phúc
quyết của dân. Có nhƣ vậy mới thể hiện đƣợc rằng tất cả các chủ trƣơng, chính sách của
8
9


Điều 21 Hiến pháp 1946
Điều 32 Hiến pháp 1946

22


Đảng và Nhà nƣớc ta đều có định hƣớng chung là xuất phát từ nhân dân, phát huy trí tuệ của
nhân dân và nhất là phải hợp lòng dân. Vẫn biết rằng, hiệu quả việc thực hiện dân chủ trực
tiếp nói chung và trƣng cầu ý dân nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau song ta
thấy rằng mọi việc đều phải nhìn dƣới nhiều góc độ khác nhau. Bởi không phải cuộc trƣng
cầu dân ý nào cũng đạt đƣợc kết quả tối ƣu nhƣng đều quan trọng nhất là kết quả các cuộc
trƣng cầu dân ý là phản ánh ý chí của nhân dân. Tuy nhiên không phải vấn đề gì cũng đem
ra trƣng cầu dân ý mà chỉ những vấn đề quan trọng ảnh hƣởng lớn đến đất nƣớc mới đem ra
cho nhân dân phúc quyết. Đối với nƣớc ta hiện nay chỉ nên quy định quyền phúc quyết của
nhân dân trong quá trình lập hiến, Hiến pháp nhất thiết phải đƣợc thông qua bằng hình thức
trƣng cầu dân ý. Kết quả trƣng cầu dân ý buộc tất cả cơ quan nhà nƣớc và công dân phải
thực hiện theo vì trƣng cầu dân ý là hình thức thực hiện quyền lực nhân dân, là biều hiện cao
nhất chủ quyền nhân dân đúng theo hiến pháp hiện hành đã quy định “tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân”10 đây là một trong những tiêu chí quan trọng của Nhà nƣớc pháp
quyền.
Hiến pháp mới sửa đổi vẫn chƣa quy định thiết chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách để
kiểm tra, xử lý những trƣờng hợp vi hiến trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tƣ
pháp nhƣ văn kiện của Đảng đã đề ra trƣớc đó, mà chỉ nhấn mạnh rằng tại điều 119 Hiến
pháp năm 2013 “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể nhân dân có trách
nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”.“Cơ chế bảo vệ
Hiến pháp do luật quy định”. Đây là cơ sở hiến định để nghiên cứu hình thành cơ chế bảo vệ
Hiến pháp chuyên trách do luật quy định. Trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu để sớm
thiết lập một chế định để bảo hiến, để góp phần xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ,

toàn diện hơn trong Nhà nƣớc pháp quyền.
Việc thiếu Luật biểu tình và Luật trƣng cầu dân ý cũng là một cản trở trong xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền của nƣớc ta. Bởi chúng ta biết rằng, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền
không thể tách rời với yêu cầu tiếp tục phát triển và tăng cƣờng dân chủ. Tuy nhiên, Luật
biểu tình và Luật trƣng cầu dân ý là một trong những hình thức biểu hiện quyền dân chủ trực
tiếp của công dân, thiếu luật tức là thiếu cơ chế phát huy tính dân chủ. Ở Việt Nam hiện nay,
yêu cầu phải có những đổi mới trong các hình thức dân chủ theo hƣớng phát huy dân chủ
trực tiếp. Luật trƣng cầu dân ý là phƣơng thức biểu hiện quyền dân chủ trực tiếp thiết thực
và hữu hiệu của nhân dân. Chính vì những lý do trên cần sớm ban hành Luật biểu tình và
10

Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013

23


Luật trƣng cầu dân ý, vì ngoài việc giúp cho hệ thống pháp luật ngày càng đầy đủ và toàn
diện mà còn góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
2.1.2. Thực trạng về tính khả thi của hệ thống pháp luật
Chúng ta biết rằng công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một công việc
không hề đơn giản mà phải nói là vô cùng phức tạp và khó khăn. Chính vì ban hành một văn
bản quy phạm pháp luật đã khó thì việc ban hành đƣợc một quy phạm pháp luật phù hợp với
thực tế lại càng khó khăn hơn nữa. Nhƣng thực tế xã hội lại đang cần chính những văn bản
quy phạm pháp luật khả thi, phù hợp với thực tế của cuộc sống chứ không phải những văn
bản chỉ mang tính chất chung chung, hình thức. Yêu cầu này hoàn toàn hợp lý bởi chỉ những
văn bản quy phạm pháp luật khả thi mới đảm bảo cho những điều kiện vững chắc của cuộc
sống con ngƣời ngày càng gia tăng giá trị đích thực.
Tính không khả thi của hệ thống pháp luật hiện hành thể hiện ở những loại văn bản quy
phạm pháp luật chứa đựng những quy định không có tính khả thi, một số văn bản quy phạm

pháp luật vừa mới ban hành xong thì phát hiện ra thiếu tính khả thi, vấp phải nhiều phản ứng
từ dƣ luận xã hội. Có nêu ra đây một số trƣờng hợp để cho thấy rằng pháp luật nƣớc ta vẫn
còn thiếu khả thi, chƣa phù hợp với cuộc sống. Vào thời điểm năm 2012 khi quy định xử
phạt đối với xe chính chủ của Nghị định 71/2012/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thông đƣờng bộ đƣợc ban hành. Nghị định này lập tức nhận phải sự
phản ứng lớn từ dƣ luận bởi quy định khó thực hiện gây khó khăn phiền hà cho ngƣời dân
với lý do làm sao sang tên đổi chủ đối khi phƣơng tiện đã đƣợc mua cách đây nhiều năm giờ
chủ phƣơng tiện không biết ở đâu. Đây rõ ràng là quy định bất khả thi, mặc dù để đảm bảo
thực hiện đƣợc quy định này, nhiều văn bản hƣớng dẫn đã đƣợc ban hành để giải quyết
những vƣớng mắc trong quá trình thực thi của ngƣời dân cũng nhƣ cơ quan quản lý. Vấn đề
sẽ còn đƣợc nói đến nhiều hơn nữa khi mà Nghị định 171/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt có hiệu lực (thay thế Nghị định
71/2012/NĐ-CP và Nghị định 34/2010/NĐ-CP) vẫn còn giữ quy định phạt lỗi không sang
tên đổi chủ phƣơng tiện. Tuy nhiên, quy định này không có hiệu lực ngay mà dời lại đến
năm 2015 đối với ôtô còn xe máy thì đến năm 2017. Không biết rồi phản ứng của ngƣời dân
sẽ ra sao khi nghị định này đƣợc thực thi vào năm 2015 tới đây.
Tính không khả thi còn thể hiện rõ rệt khi một quy định vừa mới đƣợc ban hành chƣa
có hiệu lực thi hành đã phải tạm ngƣng nhƣ Thông tƣ số 33/2012/TT-BNNPTNT ngày 20-72012 của Bộ trƣởng Bộ NN&PTNT quy định điều kiện vệ sinh, bảo đảm an toàn thực phẩm
24


đối với các cơ sở kinh doanh thịt và phụ phẩm động vật ở dạng tƣơi sống và Thông tƣ số
34/2012/TT-BNNPTNT ngày 20-7-2012 của Bộ trƣởng Bộ NN&PTNT quy định điều kiện
vệ sinh, bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở thu gom, bảo quản và kinh doanh trứng
gia cầm ở dạng tƣơi sống dùng làm thực phẩm. Theo thông tƣ quy định “thịt và phụ phẩm
bảo quản ở nhiệt độ thường chỉ được bày bán trong vòng 8 giờ kể từ khi giết mổ” 11 quy
định không thực tế bởi làm sao có thể kiểm tra đƣợc thực phẩm này đã đƣợc giết mổ trong
thời gian nào, quy định vừa ban hành đã vấp phải những phản đối từ các hộ tiểu thƣơng.
Trong những năm gần đây nền kinh tế nƣớc ta đang ngày càng phát triển và đi cùng với
sự phát triển này là những hệ luỵ không mong muốn cũng xuất hiện ngày càng nhiều một

trong những hệ lụy đó là vấn nạn ô nhiệm môi trƣờng đang diễn ra ngày càng phức tạp ảnh
hƣởng vô cùng lớn đến xã hội đến cuộc sống của ngƣời dân. Nhiều con sông chết xuất hiện
bên cạnh những khu công nghiệp lớn làm cho hàng ngàn sinh vật trên các con sông này bị
tác động nghiêm trọng vì nguồn nƣớc bị ô nhiễm. Mặc dù vậy, hiện nay vẫn chƣa thấy một
sự việc nào bị đƣa ra xét xử hình sự về ô nhiễm môi trƣờng. Pháp luật nƣớc ta chỉ quy định
xử lý hính sự với chủ thể là cá nhân trong khi đối với pháp nhân thì vẫn chƣa quy định.
Nhiều quy định chỉ dựa vào mức độ nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để ra mức
phạt nhƣng vẫn chƣa có cơ chế rõ ràng để xác định thế nào là nghiêm trọng và thế nào là đặc
biệt nghiêm trọng. Điều đó cho chúng ta thấy đƣợc rằng những quy định này không thể áp
dụng để xử lý, những quy định này không thể đi vào cuộc sống càng biểu hiện tính không
khả thi của quy định này rất cao. Liên quan đến vấn đề môi trƣờng Chính phủ đã ban hành
Nghị định 113/2010/NĐ-CP về xác định mức độ thiệt hại đối với môi trƣờng những trên
thực tế không ít cơ quan ở địa phƣơng vẫn không hề hay biết đến sự tồn tại của quy định này
hay nếu có biết cũng không biết phải triển khai các quy định này ra sao. Một quy định của
pháp luật đƣợc ban hành phải xác định đƣợc rằng vấn đề đƣợc điều chỉnh có cần thiết hay
không, quy định đó tác động thế nào đến xã hội, phải nhận thức rõ rằng pháp luật đƣợc ban
hành với mục đích quản lý xã hội chứ không phải ban hành để có. Gần đây Thông tƣ của Bộ
giáo dục đào tạo quy định việc cộng điểm cho Bà mẹ Việt Nam anh hùng khi thi đại học.
Quy định trong thông tƣ đã cho thấy nhiều điểm không phù hợp cũng nhƣ thiếu khả thi khi
áp dụng bởi trên thực tế chƣa có trƣờng hợp nào thuộc đối tƣợng điều chỉnh tham gia thi đại
học, hơn nữa với độ tuổi tham gia thi đại học và độ tuổi của các mẹ Việt Nam anh hùng hoạt

11

khoản 2 Điều 5 Thông tƣ 33/2012/TT-BNNPTNT quy định điều kiện vệ sinh, bảo đảm an toàn thực phẩm đối với các
cơ sở kinh doanh thịt và phụ phẩm động vật ở dạng tƣơi sống dùng làm thực phẩm

25



×