Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

tổng hợp tình huống bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.25 KB, 37 trang )

Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và hướng hoàn
thiện
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định được quy định tại Chương
XXI Bộ luật Dân sự năm 2005 với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức bị xâm hại và phòng ngừa, răn đe những hành vi gây thiệt hại trong
trường hợp các bên không xác lập hợp đồng.
I. Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Được quy định tại Điều 604 Bộ luật Dân sự, cụ thể:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm
danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc của chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải
bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường
cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được
xây dựng trên nguyên tắc người gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường. Khi
một người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự gây thiệt hại
tới tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản … của cá nhân hoặc
pháp nhân thì phải có trách nhiệm bồi thường. Có hai trường hợp là cố ý gây thiệt
hại và vô ý gây thiệt hại:
- Cố ý gây thiệt hại là một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong
muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Ví dụ: Một người thực hiện hành vi giết
người với lỗi cố ý. Trong trường hợp này, người thực hiện hành vi giết người đã
nhận thức được hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho tính mạng của người khác
nhưng vẫn thực hiện.
- Còn vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi
của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước hành vi
của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc
có thể ngăn chặn được.Ví dụ: Một người uống rượu khi tham gia giao thông (lái xe ô


tô) gây tai nạn để lại thương tích cho người khác. Trong trường hợp này, người
1


tham gia giao thông có thể biết trước hành vi uống rượu có khả năng gây ta tai nạn
nhưng tự tin sẽ không gây ra tai nạn làm thiệt hại lợi ích của người khác.
Như vậy, lỗi là điều kiện đầu tiên phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 thì trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố
sau:
- Phải có thiệt hại xảy ra gồm: Thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất
tinh thần;
- Phải có hành vi trái pháp luật: là những xử sự cụ thể của con người được
thể hiện thông qua hành động trái với các quy định của pháp luật;
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp
luật. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại
hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại;
- Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
Trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi mà pháp luật quy định vẫn
phải bồi thường là trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự gây thiệt hại thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải có trách nhiệm bồi thường.
Với quy định này pháp luật đã dự liệu các trường hợp gây ra thiệt hại dù không có
lỗi vẫn phải bồi thường nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
bị thiệt hại.
2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại hại
Điều 605 Bộ luật Dân sự quy định ba nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng:
- Thứ nhất: “Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên
có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật

hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ
trường hợp pháp luật có quy đinh khác”.
Bồi thường “toàn bộ” và “kịp thời” là nguyên tắc được thể hiện đầu tiên
trong các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nguyên tắc này đảm bảo
người có hành vi gây thiệt hại phải bồi thường tương xứng với toàn bộ thiệt hại đã
gây ra và bồi thường kịp thời, càng nhanh càng tốt để khắc phục hậu quả. Pháp luật
2


khuyến khích các bên đương sự tự thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi
thường, phương thức bồi thường. Tuy nhiên sự thỏa thuận không trái pháp luật và
đạo đức xã hội.
- Thứ hai: “Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do
lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của
mình”.
Đây là nguyên tắc thể hiện tính nhân văn của pháp luật Việt Nam. Tuy
nhiên, để giảm mức bồi thường thiệt hại thì người gây ra thiệt hại phải thỏa mãn đủ
hai điều kiện là có lỗi vô ý và thiệt hại gây ra quá lớn so với khả năng kinh tế của
mình.
- Thứ ba: “Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị
thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan Nhà nước
cơ thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường”.
Với nguyên tắc trên thì người gây thiệt hại hoặc người bị thiệt hại có thể
yêu cầu thay đổi mức bồi thường khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực
tế. Cụ thể là trong trường hợp mức bồi thường quá thấp gây bất lợi cho người bị
thiệt hại để khắc phục hậu quả gây ra hoặc mức bồi thường quá cao làm ành hưởng
lợi ích của người gây ra thiệt hại.
Nguyên tắc trên đã dự liệu các quy định của pháp luật không thay đổi kịp
theo sự thay đổi của thực tế. Bởi pháp luật mang tính ổn định, tuy không bất biến
nhưng cũng không thể thay đổi từng giờ, từng ngày như sự phát triển của kinh tế, xã

hội.
3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân.
Xác định năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân là một vấn đề quan
trọng trong xác định đúng trách nhiệm bồi thường của người gây ra thiệt hại. Căn
cứ vào độ tuổi, tình trạng tài sản, và khả năng bồi thường thiệt hại của cá nhân, Điều
606 Bộ luật Dân sự quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
cá nhân như sau:
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi đầy đủ phải tự bồi
thường;
- Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha,
3


mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi
thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi
thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật Dân sự.
- Người từ 15 tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải
bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có
người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để
bồi thường; nếu người được giám hội không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi
thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ
chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản
của mình để bồi thường.
Việc quy định người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà
còn cha mẹ thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã dựa trên nguyên tắc quy
định rằng các chủ thể này phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi. Bởi người dưới
mười lăm tuổi thì trình độ nhận thức và khả năng điều khiển hành vi còn nhiều hạn
chế nên cha, mẹ phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do con mình đã

gây ra trừ trường hợp tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con có tài sản
riêng thì lấy tài sản riêng đó để bồi thường phần còn thiếu.
4. Xác định thiệt hại
Tại Mục 2 Chương XXI Bộ luật Dân sự quy định có các loại thiệt hại sau:
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm: Thông thường, khi tài sản bị xâm
phạm, việc xác định thiệt hại thường dễ dàng hơn bởi vì sự thiệt hại về tài sản thì
luôn luôn được định giá một cách cụ thể, hơn nữa thiệt hại về tài sản phần lớn là sự
mất mát, hư hỏng, hoặc tài sản bị hủy hoại nên thường có số liệu cụ thể.
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm: Khi xác định thiệt hại do sức khỏe bị
xâm phạm, Tòa án phải dựa vào các chứng từ do đương sự cung cấp để quyết định
mức bồi thường. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên
có những khoản chi phí không thể có hóa đơn như: khoản chi phí thuê xe máy đưa
người đi cấp cứu thường không có hóa đơn, chứng từ nên khi xác định Hội đồng xét
xử thường chỉ dựa vào thực tế chi phí của người bị thiệt hại để xác định.
4


- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm: Bao gồm chi phí hợp lý cho việc cứu
chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; Chi phí hợp lý cho việc
mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng và tiền bù đắp tổn thất tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa
kế thứ nhất của người bị thiệt hại.
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm: Chi phí
hợp lý để hạn chế khắc phục thiệt hại và thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
Tùy từng trường hợp ngoài việc buộc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính
công khai, Tòa án quyết định người gây thiệt hại do hành vi xúc phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho
người bị xâm phạm nhưng không vượt quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước
quy định.
II. Bất cập và hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng.
1. Nguyên tắc bồi thường
Các nguyên tắc về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về cơ bản đã tương
đối đầy đủ. Tuy nhiên quy định về giảm mức bồi thường tại Khoản 2 Điều 605:
“Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình” và Nghị quyết số
03/2006/NQ – HĐTP ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn rất chung chung, chưa cụ thể hóa số tiền
được giảm là bao nhiêu, điều này có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật mỗi nơi một
khác, không có sự thống nhất. Do đó, cần hoàn thiện nguyên tắc bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng bằng cách quy định số tiền được giảm bồi thường tối đa là bao
nhiêu?
2. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại
Điều 607 BLDS 2005 quy định: “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường
thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân,
chủ thể khác bị xâm phạm.”
Quy định thời hiệu khởi kiện là hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm không quá dài cũng không
quá ngắn đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm hại. Tuy
5


nhiên, quy định về thời hiệu khởi kiện như trên sẽ không đảm bảo nguyên tắc bồi
thường “toàn bộ và kịp thời” trong một số trường hợp đặc biệt khi hậu quả của
hành vi xâm phạm không phải hai năm mới biểu hiện hết ra được. Ví dụ: Công ty
sản xuất bột ngọt VEDDAN xả thải ra môi trường từ những năm 1994 – 1995 gây
hậu quả ô nhiễm nặng nề cho nguồn nước, nguồn đất... nhưng phải đến hơn mười
năm sau (năm 2006) Bộ Tài nguyên môi trường mới phát hiện ra những hậu quả
nặng nề do công ty gây ra. Như vậy, thời điểm gây thiệt hại xảy ra trong khoảng thời
gian cụ thể nhưng những biểu hiện của thiệt hại phải rất lâu sau mới được phát

hiện.
Để khắc phục những bất cập về thời hiệu khởi kiện để yêu cầu về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần bổ sung thêm những trường hợp đặc thù mà
thời hiệu khởi kiện có thể kéo dài hơn theo từng trường hợp cụ thể. Do đó, Điều 607
nên bổ sung như sau:
“Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm trừ
trường hợp pháp luật quy định khác.”
3. Thời hạn hưởng bồi thường do tính mạng, sức khỏe bị xâm hại
Theo quy định tại Điều 612 BLDS, thời hạn hưởng bồi thường do tính
mạng, sức khỏe bị xâm phạm được xác định:
1. Trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động
thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết.
2. Trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này
có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau
đây:
a) Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết
và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám
tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham
gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân;
b) Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng
tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.
Tuy nhiên, căn cứ vào những quy định tại các Điều 609, Điều 612 BLDS và
căn cứ vào tiểu mục 1 của Mục II trong Nghị quyết số 03/2006/NQ- HĐTP ngày 8
6


tháng 7 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì còn nhiều
vấn đề cần được bàn luận, đề nhằm mục đích hoàn thiện hơn nữa những quy định
của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói

chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng nói riêng.
- Thứ nhất, pháp luật còn chưa dự liệu trong trường hợp người bị gây thiệt
hại về sức khỏe mất hoàn toàn khả năng lao động có nghĩa vụ nuôi dưỡng nuôi con
chưa thành niên hoặc cha mẹ già yếu thì quyền và lợi ích của những người này sẽ
được giải quyết như thế nào?
- Thứ hai, quy định về thời hạn hưởng bồi thường cho người mất hoàn toàn
khả năng lao động và tiền trợ cấp “cho đến khi chết” theo Khoản 2 Điều 612 còn
chưa có tính khả thi. Quy định như trên là chưa tính đến khả năng thực tế của người
gây thiệt hại.
Để hoàn thiện các quy định của pháp luật về thời hạn hưởng bồi thường
thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm hại cần bổ sung trách nhiệm bồi thường đối
với những người mà người mất hoàn toàn khả năng lao động có trách nhiệm nuôi
dưỡng và thời hạn hưởng bồi thường nên giới hạn một khoảng thời gian nhất định.
Như vậy mới đảm bảo tính khả thi của pháp luật và cũng đảm bảo được khả năng
bồi thường của người gây thiệt hại.
4. Xác định thiệt hại
- Thứ nhất là xác định tổn thất về tinh thần thường không có cơ sở, các tòa
án thường dựa vào thực tế sự việc để quyết định nên thường mỗi tòa đưa ra một
hướng giải quyết khác nhau. Tổn thất tinh thần là khái niệm trìu tượng vì vậy cần
đưa ra cơ sở để xác định mức tổn thất tinh thần trong từng trường hợp cụ thể.
- Thứ hai: Việc xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm còn bất cập.
Theo quy định của BLDS 2005 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP thì khoản chi phí
mai táng phí được liệt kê cụ thể và Tòa án khi xét xử có thể dựa vào đó để xác định.
Tuy nhiên, nếu dựa vào các chi phí cụ thể do thân nhân bị hại đưa ra như tiền mua
áo quan, hoa lễ, khăn xô, ... thì cũng cần phải thấy rằng giá cả của các loại đồ tang lễ
này trên thị trường sẽ khác nhau. Do vậy, cần phải xác định cụ thể mức tổi thiểu và
mức tối đa của các khoản tiền này.
- Thứ ba là việc xác định khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người
bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng không có căn cứ cụ thể nên khi áp dụng pháp luật
7



có sự không thống nhất. Thông thường, để đưa ra mức cấp dưỡng này, Tòa án
thường dựa vào hoàn cảnh kinh tế gia đình cũng như mức thu nhập bình quân để
quyết định. Một số trường hợp, khi xét xử Hội đồng xét xử lại dựa vào mức lương tối
thiểu để xác định mức cấp dưỡng, có trường hợp thì lại xác định mức cụ thể. Để
pháp luật được áp dụng thống nhất cần cụ thể hóa khoản tiền cấp dưỡng hoặc đưa
ra các căn cứ để xác định khoản tiền bồi thường này./.

8


BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ
CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN:
Nguyễn Tất Viễn - Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật
Phạm Thị Hòa - Phó Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật
BIÊN SOẠN:
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật
Câu 1: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
được pháp luật quy định như thế nào?
Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật
dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có điều kiện sau:
- Có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.
+ Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi
phí cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất,
bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ.
+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để
ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân

phẩm, uy tín bị xâm hại.
+ Thiệt hại do bị tổn thất về tinh thần. Bộ luật Dân sự quy định: Toà án có thể buộc
người xâm hại "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị
thiệt hại, người thân thích gần gũi của nạn nhân".
Những quy định này chỉ định hướng nhưng chưa có tính định lượng trong việc bồi
thường thiệt hại. Bởi vậy, Toà án là người phải xác định trong trường hợp nào được bồi
thường, bồi thường bao nhiêu, bồi thường cho ai...
Ví dụ: Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi
phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai
thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại vật chất của người bị thiệt hại.
- Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền
tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của
9


chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào "xâm phạm" đến các quyền đó.
Bởi vậy, Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm
phạm. Việc "xâm phạm" mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự,
hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư...
- Có lỗi của người gây thiệt hại.
Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi
là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay
vô ý.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng
để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây
ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có

khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn
được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu trách nhiệm khi
họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những
người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ không có lỗi
trong việc thực hiện các hành vi đó.
Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu
do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc
thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì không phải bồi thường.
- Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái
pháp luật là nguyên tắc của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 609 Bộ luật
Dân sự dưới dạng: "Người nào... xâm phạm... mà gây thiệt hại... thì phải bồi thường" . Ở
đây chúng ta có thể thấy hành vi đó.
Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt
hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích, đánh
giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới
10


có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của
người gây thiệt hại.
Câu 2: Bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự được giải quyết trên
những nguyên tắc nào?
Trả lời:
Điều 605 Bộ luật Dân sự quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại như sau:
- Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về
mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công
việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy

định khác.
- Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc
người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
thay đổi mức bồi thường.
Câu 3: Năng lực bồi thường thiệt hại được pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:
Người gây ra thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan
nhà nước... Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người khác có "khả năng" bồi thường
và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể
không do chính họ thực hiện. Bộ luật Dân sự quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cá nhân (Điều 606 Bộ luật Dân sự) mà không quy định về năng lực
bồi thường của các chủ thể khác. Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia
vào quan hệ dân sự, Bộ luật Dân sự quy định năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả
năng bồi thường của cá nhân cụ thể như sau:
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi đầy đủ phải tự bồi thường;
- Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha,
mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà
con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần
còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 Bộ luật dân sự.

11


Người từ 15 tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng
tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần
còn thiếu bằng tài sản của mình;
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có
người giám hộ thì người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được

giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hội không có tài sản hoặc không đủ tài sản
để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám
hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của
mình để bồi thường.
Câu 4. A làm nghề lái xe ôm. Một hôm, A cho B là người hàng xóm mượn xe
để về quê, từ quê lên, do uống rược say nên B đã lao xe vào gốc cây bên đường khiến
xe bị hư hỏng rất nặng. Xe hỏng khiến A không thể chở khách được, thu nhập của A
bị giảm sút. Vậy khi A có yêu cầu thì B có phải bồi thường thiệt hại cho A không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 608 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì trong trường hợp tài sản bị
xâm phạm thì thiệt hại được bồi thường bao gồm:
- Tài sản bị mất;
- Tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng;
- Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản;
- Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
Như vậy, đối chiếu theo quy định trên thì B phải bồi thường thiệt hại cho A vì B
mượn tài sản của A, gây hư hỏng làm ảnh hưởng đến việc khai thác lợi ích từ tài sản đó của
A, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của gia đình A. Mức bồi thường thiệt hại do hai bên thoả
thuận trên cơ sở chi phí sửa chữa chiếc xe.
Câu 5: Người gây thiệt hại cho người khác về sức khoẻ mà chưa đến mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại những chi phí gì?
Trả lời:
Theo quy định tạ i Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người gâ y
thiệt hạ i cho sức khoẻ của người khá c phả i bồi thường thiệt hạ i cho người
đó những chi phí sau:
- Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

12



+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị
mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế
của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập
trung bình của lao động cùng loại;
+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt
hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người
thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị
thiệt hại.
- Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định
tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó
gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không
thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy
định.
Câu 6. Vừa qua, tôi có đọc một số bài báo viết về việc xét xử các vụ án dân sự,
trong đó báo có đề cập đến việc tòa án xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm hại.
Tôi xin hỏi, theo quy định của pháp luật thì thiệt hại do tính mạng bị xâm hại
được xác định như thế nào? Mức bồi thường thiệt hại là bao nhiêu?
Trả lời:
Việc xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm được quy định tại Điều 610 Bộ luật
Dân sự năm 2005. Cụ thể là:
- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi
chết;
+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
+ Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
- Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định
nêu trên và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người
mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt

13


hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả
thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu
do Nhà nước quy định.
Hiện nay, mức lương tối thiểu được quy định tại Nghị định số 118/2005/NĐ-CP ngày
15/9/2005 của Chính phủ về điều chỉnh mức lương tối thiểu chung, theo đó từ ngày 01 tháng
10 năm 2005 mức lương tối thiểu chung là 350.000 đồng/tháng. Như vậy, mức bồi thường bù
đắp tổn thất về tinh thần nếu các bên không thỏa thuận được là không quá 21.000.000 đồng
(hai mốt triệu đồng).
Câu 7. Vừa qua, tôi có dự phiên tòa xét xử lưu động tổ chức tại trụ sở Uỷ ban
nhân dân phường. Khi tuyên án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã đọc bản án, trong đó
có phần liên quan đến bồi thường thiệt hại của cá nhân do danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm phạm.
Tôi xin hỏi thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm những
loại thiệt hại nào ? Mức bồi thường thiệt hại là bao nhiêu ?
Trả lời:
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được quy định tại Điều 611 Bộ
luật Dân sự năm 2005 như sau.
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm, thiệt hại do danh
dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm bao gồm:
+ Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
- Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt
hại theo quy định trên và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó
gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không
thoả thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Câu 8. Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm
được Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định như thế nào ?

Trả lời:

14


Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm được quy
định tại Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2005, cụ thể là:
- Trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị
thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết.
- Trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ
cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây:
+ Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống
sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp
người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập
đủ nuôi sống bản thân;
+ Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng
cho đến khi chết.
Câu 9. Một người có hành vi chống trả người đang xâm phạm lợi ích của nhà
nước, lợi ích tập thể, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà gây
thiệt hại được pháp luật hình sự và pháp luật dân sự quy định như thế nào?
Trả lời:
Trong thực tế, có nhiều trường hợp một người, do phải chống trả một người khác đang
có hành vi xâm phạm lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình
hoặc của người khác mà gây thiệt hại cho người có hành vi xâm hại. Đây là những trường
hợp phòng vệ- tuỳ theo sự tương xứng tính chất, mức độ của sự xâm hại với thiệt hại gây ra
cho người có hành vi xâm hịa để xác định là phòng vệ chính đáng hay phòng vệ vượt quá
giới hạn chính đáng.
Trong luật hình sự, phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của
nhà nước, của tập thể, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả
lại một cách tương xứng người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Người có

hành vi phòng vệ chính đáng không bị coi là tội phạm. Chỉ khi hành vi chống trả rõ ràng là
quá mức cần thiết thì người có hành vi đó mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi chống
trả rõ ràng quá mức cần thiết là hành vi không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi xâm hại. Đây là trường hợp do đánh giá sai tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi xâm hại mà người phòng vệ đã lựa chọn phương tiện hoặc phương pháp

15


gây ra thiệt hại là quá mức cần thiết cho người xâm hại, trong khi không cần thiết phải gây
thiệt hại như vậy.
Trong luật dân sự, nguyên tắc bồi thường thiệt hại cũng được xác định dựa trên yếu tố
"phòng vệ chính đáng" hay "vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng". Theo quy định tại
Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ đáng
không phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Câu 10. T do uống rượu say xỉn, không tự chủ được hành vi đã quậy phá làm vỡ
nhiều đồ đạc có giá trị của anh H. Khi T tỉnh rượu, anh H yêu cầu T phải bồi thường.
T không chịu vì cho rằng, do say chứ T không cố ý phá phách, gây thiệt hại cho anh H.
Xin hỏi, trong trường hợp này T có phải bồi thường cho anh H không ?
Trả lời:
Mặc dù không cố ý nhưng hành vi của T quậy phá, gây ra thiệt hại cho anh H là hành
vi vi phạm pháp luật và T phải chịu trách nhiệm, phải bồi thường thiệt hại cho anh H( người
bị thiệt hại).
Việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp do dùng chất kích thích gây ra được quy
định tại Điều 615 Bộ Luật Dân sự năm 2005 như sau: Người do uống rượu hoặc do dùng
chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình, gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường.
Do vậy, T phải bồi thường thiệt hại cho anh H.
Câu 11. N và nhóm bạn của mình rủ nhau ra sông thi bơi, lặn đã vô ý làm tấm

lưới quây cá nhà bà T bị hở, do đó một số cá nhà bà T nuôi đã bơi ra ngoài. Vậy Bộ luật
dân sự quy định việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp này như thế nào?
Trả lời:
Điều 616 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: trong trường hợp nhiều người cùng gây
thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi
thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi
người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng
nhau.

16


Như vậy, N và nhóm bạn của mình đều có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà T
tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người. Nếu không xác định được mức độ lỗi của mỗi
người thì từng người phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
Câu 12. Do ông B quên không đóng cửa vườn dưa nên con bò nhà anh D đã vào
vườn và làm hư hại một phần vườn dưa nhà ông B. Ông B yêu cầu anh D phải bồi
thường thiệt hại do con bò gây ra, nhưng anh D không đồng ý vì cho rằng do lỗi của
ông B không đóng cửa vườn. Trong trường hợp này, việc bồi thường thiệt hại được xác
định như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 617 Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại trong
trường hợp người bị thiệt hại có lỗi thì khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt
hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của
mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại
không phải bồi thường.
Trong trường hợp trên, ông B tuy là người bị thiệt hại nhưng thiệt hại đó một phần do
lỗi của ông vì ông quên không đóng cửa vườn, nên ông phải chịu một phần trách nhiệm đối
với thiệt hại xảy ra. Còn anh D cũng có lỗi do đã không trông coi bò để bò phá vườn dưa, anh
cũng phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại xảy ra và phải bồi thường phần thiệt hại tương

ứng với mức độ lỗi của mình.
Câu 13. Trường hợp người của pháp nhân trong khi thực hiện nhiệm vụ được
pháp nhân giao gây thiệt hại cho người khác thì pháp nhân hay người gây thiệt hại phải
bồi thường ?
Trả lời:
Pháp nhân là một tổ chức được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài
sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình
tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Pháp nhân có thể là cơ quan nhà nước, đơn
vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế...

17


Theo quy định tại Điều 618 Bộ luật dân sự năm 2005, trường hợp người của pháp
nhân gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao thì pháp nhân phải bồi
thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền
yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả cho mình một khoản tiền theo quy
định của pháp luật.
Câu 14. Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành công
vụ, gây thiệt hại cho người khác thì xử lý thế nào. Ai là người phải bồi thường đối với
các thiệt hại đã xảy ra.
Trả lời :
Điều 619 Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra
như sau :
Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức phải bồi thường thiệt hại do cán bộ, công
chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ.
Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức có trách nhiệm yêu cầu cán bộ, công chức
phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu cán bộ, công chức có lỗi trong
khi thi hành công vụ .
Khoản 5, Điều 39 Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 được sửa đổi, bổ sung năm

2003 quy định:
Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ
gây thiệt hại cho người khác thì phải hoàn trả cho cơ quan, tổ chức khoản tiền mà cơ quan, tổ
chức đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các quy định trên khi cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật
trong khi thi hành công vụ, gây thiệt hại cho người khác thì cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ,
công chức phải bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra trong khi thi hành
công vụ. Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành nhiệm vụ, công
vụ gây thiệt hại cho người khác thì phải hoàn trả cho cơ quan, tổ chức khoản tiền mà cơ
quan, tổ chức đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Câu 15. Cơ quan điều tra huyện A đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và
khởi tố bị can M về tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 và ra
lệnh tạm giam M để điều tra. Lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát nhân dân huyện A
phê chuẩn. Nhưng sau qua trình điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện A ra quyết
định huỷ bỏ lệnh tạm giam vì M không thực hiện hành vi phạm tội. M có đơn yêu cầu
18


bồi thường thiệt hại. Hỏi trường hợp của M có được bồi thường thiệt hại không ? Nếu
có thì cơ quan nào có trách nhiệm bồi thường ?
Trả lời :
Điều 620 Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra, quy định :
Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình
gây ra khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng.
Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại
phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền có lỗi
trong khi thi hành nhiệm vụ.
Điểm 1.2 mục 1 phần I Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT – VKSNDTC-BCATANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25/3/2004 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an,
Toà án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ quốc phòng, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một

số quy định của Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 thì trường hợp của anh M thuộc
diện các trường hợp được bồi thường thiệt hại. Anh M có quyền làm đơn yêu cầu bồi thường
thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Điều 10 Nghị quyết
số 388/2003/NQ –UBTVQH, cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định như
sau :
- Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã ra quyết định khởi tố bị
can có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp có quyết định đình chỉ điều tra,
đình chỉ vụ án vì người bị khởi tố không thực hiện hành vi phạm tội.
- Cơ quan đã ra lệnh tạm giữ, tạm giam có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp việc tạm giữ bị huỷ bỏ vì người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật
hoặc việc tạm giam bị huỷ bỏ vì người bị tạm giam không thực hiện hành vi phạm tội ; nếu
việc tạm giữ, tạm giam có phê chuẩn của Viện kiểm sát, thì Viện kiểm sát đã phê chuẩn phải
bồi thường.
Như vậy, theo các quyết định nêu trên, thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong
trường hợp này là Viện kiểm sát nhân dân huyện A, nơi có quyết định phê chuẩn lệnh tạm
giam của Trưởng công an huyện A.
Câu 16. Cháu tôi 9 tuổi được đi cắm trại tại công viên do nhà trường tổ chức, do
nghịch ngợm, cháu cùng một số bạn đã dẫm nát hai luống hoa, cây cảnh mới trồng. Ban
quản lý công viên yêu cầu nhà trường phải đền bù thiệt hại. Nhà trường cho rằng bố,
19


mẹ các cháu đã gây thiệt hại là người phải bồi thường. Bố mẹ các cháu cho rằng vụ việc
xảy ra trong thời gian nhà trường quản lý nên trường có trách nhiệm bồi thường. Xin
hỏi trong trường hợp này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai?
Trả lời:
Điều 621 Bộ luật dân sự quy định về bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác
trực tiếp quản lý như sau:
Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học

phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
Trong trường hợp quy định nêu trên, nếu trường học chứng minh được mình không có
lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng
lực hành vi dân sự phải bồi thường.
Căn cứ quy định tại Điều 621 thì thiệt hại do các cháu gây ra trong thời gian thuộc sự
quản lý của nhà trường, do đó nhà trường có trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại xảy ra.
Câu 17. Ông A, chủ nhà hàng ăn uống, tôi có thuê một người trông giữ xe cho
khách, do bất cẩn người đó đã làm mất một chiếc xe máy của khách. Người khách bị
mất xe đòi tôi bồi thường. Theo quy định của pháp luật, ông A hay người trông giữ xe
phải bồi thường?
Trả lời:
Điều 622 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định, cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác
phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công
việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây
thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trong trường hợp này, trước hết, ông A có trách nhiệm bồi thường cho người
bị hại vì thiệt hại do người làm công gây ra trong khi thực hiện công việc được giao. Sau đó,
ông A có quyền yêu cầu người trông giữ xe hoàn trả toàn bộ hay một phần tiền theo quy định
của pháp luật.
Câu 18. Nguồn nguy hiểm cao độ là gì? Pháp luật quy định như thế nào về bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Trả lời:
Điều 623 Bộ luật dân sự quy định về nguồn nguy hiểm cao độ như sau:
20


- Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống
tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất
phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ,

vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.
- Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người
này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
+ Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
+ Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
- Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì
người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt
hại.
- Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Câu 19. Pháp luật quy định như thế nào về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường?
Trả lời:
Theo quy định tại Ðiều 624 Bộ luật dân sự, thì cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác
làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả
trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi.
Theo Điều 133 Luật bảo vệ môi trường, việc giải quyết bồi thường thiệt hại về môi
trường được quy định như sau:
- Tự thoả thuận của các bên;
- Yêu cầu Trọng tài giải quyết;
21


- Khởi kiện tại Toà án.
Việc tính toán chi phí thiệt hại về môi trường được quy định như sau:

- Tính toán chi phí thiệt hại trước mắt và lâu dài do sự suy giảm chức năng, tính hữu
ích của các thành phần môi trường;
- Tính toán chi phí xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường;
- Tính toán chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguồn gây thiệt hại;
- Thăm dò ý kiến các đối tượng liên quan;
Tuỳ điều kiện cụ thể có thể áp dụng một trong những biện pháp quy định kể trên để
tính toán chi phí thiệt hại về môi trường, làm căn cứ để bồi thường và giải quyết bồi thường
thiệt hại về môi trường.
Câu 20: Nhà ông A và nhà ông B là hai nhà liền kề. Vườn xoài nhà ông A có một
số cành xoài trùm lên phần mái nhà của ông B gây vỡ nhiều mảng ngói của nhà ông B.
Vậy ông B có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại hay không?
Trả lời:
Ông A có quyền sử dụng đất theo đúng mục đích sử dụng theo quy định của pháp luật.
Mảnh vườn đó thuộc quyền sử dụng của ông A. Vấn đề ông A trồng cây gì là thuộc quyền
của ông A, miễn là không phải cây mà pháp luật cấm trồng, hoặc việc trồng đó ảnh hưởng
đến môi trường sinh thái, và có nguy cơ phương hại đến các công trình liền kề. Trong trường
hợp này, ông A phải dự liệu tới việc tán lá phủ sang nhà liền kề, và do đó phải để ra một
khoảng cách thích hợp giữa cây mình trồng với nhà của ông B. Ở đây, ông A đã không làm
điều đó, mà để hậu quả xảy ra đối với nhà ông B. Vậy ông B có quyền yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại.
Theo quy định của Bộ luật dân sự cụ thể tại Điều 626 quy định, chủ sở hữu phải bồi
thường thiệt hại do cây cối đổ, gãy gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi
của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng.
Câu 21: Pháp luật quy định như thế nào về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công
trình xây dựng khác gây ra?
Trả lời:
Điều 627 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định, chủ sở hữu, người được chủ sở hữu
giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dưng khác phải bồi thường thiệt hại, nếu để
nhà cửa, công trình xây dựng khác đó bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác,
22



trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả
kháng.
Câu 22. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể được pháp luật quy định như
thế nào?
Trả lời:
Điều 628 Bộ luật dân sự quy định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể như
sau:
- Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác xâm phạm thi thể phải bồi thường thiệt hại.
- Thiệt hại do xâm phạm thi thể gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại.
- Người xâm phạm thi thể phải bồi thường một khoản tiền theo quy định nêu trên và
một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của người chết, nếu không có những người này thì người trực tiếp nuôi
dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần
do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng
lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Ví dụ: Nguyễn Văn A phải bồi thường thiệt hại cho Nguyễn Văn B về hành vi xâm phạm
thi thể, nhưng giữa A và B không thoả thuận được khoản tiền này. Do vậy, Nguyễn Văn A
phải bồi thường thiệt hại cho Nguyễn Văn B theo quy định của pháp luật. Cụ thể như sau:
Theo quy định hiện nay của pháp luật về tiền lương, thì mức lương tối thiểu là
350.000đồng/ 1tháng x 30 tháng = 10.500.000đồng
Như vậy, Nguyễn Văn A phải bồi thường thiệt hại cho Nguyễn Văn B là
10.500.000đồng.
Câu 23. Tôi có mua một chiếc máy bơm nước của Hàn Quốc tại một đại lý gần nhà
với thời hạn bảo hành là 24 tháng, gia đình tôi đưa vào sử dụng được hai tháng thì máy
bơm hỏng, theo địa chỉ ghi trên phiếu bảo hành, tôi đem chiếc máy bơm nước ra trạm
bảo hành của hãng, thì nhân viên của hãng nói là tôi đã mua phải chiếc máy bơm giả
của Trung Quốc và không bảo hành cho tôi. Vậy xin hỏi theo quy định của pháp luật
trong trường hợp này tôi có được bồi thường không?

Trả lời:

23


Điều 630 của Bộ luật dân sự quy định về việc bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
của người tiêu dùng như sau: cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không
bảo đảm chất lượng hàng hoá mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường.
Đối chiếu với các quy định của pháp luật, thì cửa hàng bán máy bơm nước có trách
nhiệm phải bồi thường thiệt hại vì đã đã có hành vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh
không bảo đảm chất lượng hàng hoá gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Mức bồi thường sẽ do
hai bên thoả thuận. Trong trường hợp không thoả thuận được, người có yêu cầu được bồi
thường thiệt hại có thể yêu cầu Toà án giải quyết.

MỘT SỐ TÌNH HUỐNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Posted on 07/04/2010 by Civillawinfor
TS. TRẦN THỊ HUỆ – Khoa Pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội
Tài liệu dùng cho sinh viên tham khảo trong học tập, không sử dụng vào mục đích khác
1. Quy định của pháp luật về gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ và trách niệm
của pháp nhân khi người của pháp nhân gây thiệt hại
B là công nhân vừa bị sa thải của công ty X, đến công ty đòi gặp giám đốc. Vì giám đốc đang
tiếp khách, mặt khác, thấy B đang trong tình trạng say rượu nên A – bảo vệ công ty đã ngăn
chặn không cho vào. B chửi bới, dùng những lời lẽ xúc phạm và cố tình xông vào công ty.
Không kiềm chế nổi, A dùng dùi cui đánh túi bụi vào lưng B cho đến khi B ngã quy. Kết quả
B bị trấn thương nặng.
– Hành vi của A có phải là phòng vệ chính đáng không?
Hành vi của A không được coi là phòng vệ chính đáng. Mặc dù B cố ý xông vào công ty
trong tình trạng say, bị kích động mạnh nhưng hành vi của B không phải đang tấn công gây
thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại ngay tức khắc. A có nhiệm vụ bảo vệ công ty nhưng việc A
đánh B túi bụi cho đến khi B ngã quỵ không phải là hành vi chống trả lại một cách tương

xứng với hành vi của B.
– B có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khoẻ không?
Mặc dù B cũng có lỗi xâm phạm đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân cũng như công
ty X (Điều 611 BLDS 2005) nhưng việc A gây thiệt hại cho B đáp ứng đầy đủ 4 yếu tố làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hướng dẫn của Nghị quyết Hội đồng thẩm
phán tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn áp dụng
một số quy định củaBLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: có thiệt hại do sức
khoẻ bị xâm phạm; có hành vi đánh người trái pháp luật của A; A có lỗi; có mối quan hệ
nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Vì vậy, B có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
– Ai phải chịu trách nhiệm bồi thường cho B và trách nhiệm bồi thường được giải quyết
như thế nào?
A gây thiệt hại cho B khi đang thực hiện công việc bảo vệ do công ty giao cho. Vì vậy, theo
Điều 618 của BLDS 2005 “pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra
trong khi thực hiện nhiệm vụ pháp nhân giao cho”, Công ty X có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về sức khoẻ cho B. Theo Điều 618 BLDS 2005, “nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt
hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây ra thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền
24


theo quy định của pháp luật”, vì vậy, xem xét A có lỗi đánh B đến mức trấn thương nặng nên
A có trách nhiệm bồi hoàn lại cho Công ty.
B cũng có lỗi do xâm phạm đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của A cũng như thành viên công
ty, xông vào công ty một cách trái phép nên B cũng phải chịu một phần trách nhiệm. Theo
Điều 617 BLDS 2005, “khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người
gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình”.
2. quy định của pháp luật về việc xác định lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
A và B là hai anh em đồng hao. Một lần, A gặp B đi làm đồng về qua ngõ nhà mình, sẵn có
ấm trà ngon nên A cố níu kéo mời B vào nhà mình uống trà. B một mực từ chối vì đang bận.
Cậy mình to khoẻ, A vòng tay ôm hai chân B, vác B lên vai định “cưỡng chế” B vào nhà

uống trà. B cố giãy giụa, A buồn cười quá nên tuột tay, làm B ngã, đầu cắm xuống đất. Bệnh
viện án xác định B bị trấn thương đốt sống cổ, dẫn đến liệt toàn thân. Gia cảnh của A rất khó
khăn.
– Ai có lỗi trong vụ việc trên?
Mặc dù A có ý tốt chỉ muốn mời B vào nhà mình uống trà và không cố ý gây thiệt hại cho B
nhưng trong vụ việc này, A đã có lỗi vô ý gây thiệt hại cho B. Nghị quyết Hội đồng thẩm
phán tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn áp dụng
một số quy định củaBLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định: “vô ý gây
thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt
hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại”. Việc B giãy giụa là phản ứng bình thường của B khi bị A
cưỡng ép, vì vậy B không có lỗi đối với thiệt hại
– Trách nhiệm bồi thường và xác định thiệt hại như thế nào?
A có trách nhiệm bồi thường thiệt hại gây ra cho B. Trong trường hợp này, do B bị trấn
thương dẫn đến liệt toàn thân, hoàn toàn mất khả năng lao động nên Theo Điều 609 BLDS
2005, A phải bồi thường các khoản sau: Chi phí hợp lý để cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức
khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của B; thu nhập bị mất của B; Chi phí cho người chăm
sóc B do B bị liệt toàn thân; và một khoản bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận,
nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu. Theo
Điều 612 BLDS 2005, “trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động
thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường đến khi chết”, do đó ông B được hưởng tiền bồi
thường đến khi chết.
Theo khoản 2 Điều 605 BLDS 2005, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường
nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của
mình, vì vậy, ông A có thể đề nghị để được giảm mức bồi thường.
3. Quy định của pháp luật khi người gây thiệt hại do uống rượu nên không tự chủ được
hành vi
P và Q là bạn thân thời đi học, sau mấy chục năm không gặp, bây giờ vô tình mới gặp lại. P
kéo Q vào quán vừa uống rượu, vừa hàn huyên. Q không uống được rượu nhưng vì P ép quá,
nể bạn, Q cố uống vài chén cho P vui lòng. Lúc đứng dậy ra về, Q thấy đầu choáng váng, đi

được vài bước, Q xô vào một chiếc bàn trong quán, làm đổ nồi lẩu đang sôi vào hai vị khách
đang ngồi ăn khiến họ bị bỏng nặng.
– Ai phải bồi thường, vì sao?
Điều 615 BLDS 2005 quy định: “người do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích mà lâm
vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình, gây thiệt hại cho người
khác thì phải bồi thường”. Trong trường hợp này, mặc dù P cố ý ép Q uống nhưng Q hoàn
toàn có thể từ chối. Q không uống được rượu nhưng vì nể bạn mà uống say, gây thiệt hại cho
người khác thì tự Q phải chịu trách nhiệm bồi thường.
25


×