Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Nhận thức của sinh viên Khoa Giáo dục, Học viện quản lý giáo dục về hiện tượng đồng tính luyến ái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.56 KB, 51 trang )

MỞ ĐẦU
1 . Lý do chọn đề tài
Con người là một thực thể tự nhiên và xã hội hoàn thiện và phức tạp nhất.
Trong khi tìm đường lên các vì sao, loài người đồng thời quay lại và tìm hiểu
chính mình. Và công việc này cũng không kém phần khó khăn so với các
nghiên cứu khoa học về vũ trụ, kỹ thuật và tự nhiên. Tiến bộ khoa học gần
đây nhất - việc giải mã và công bố bản đồ gen đã mở ra cánh cửa cho việc
đem lại những hiểu biết mới về con người. Đặc biệt là đống góp cho việc
chữa trị những căn bệnh nan y. Tuy nhiên, với tư cách vừa là nhà nghiên cứu,
vừa là đối tượng nghiên cứu, con người đôi khi không thể tìm ra câu trả lời
cho những câu đố về bản thân mình.
Hiện tượng đồng tính luyến ái cũng là một trong những vấn đề mà loài
người hiện nay còn đang trên đường tìm hiểu về bản chất cũng như nguyên
nhân và giải pháp cho nó. Xét về mặt y học, các nhà khoa học cho rằng đây có
thể được coi như một loại bệnh tâm thần. Họ xếp đồng tính luyến ái vào nhóm
bệnh về lệch lạc đối tượng. Nhưng nguyên nhân dẫn đến nó thì không đơn
thuần chỉ là nằm ở khía cạnh bệnh lý mà còn ở khía cạnh tâm lý. Có thể đó là
do cách giáo dục của gia đình không phù hợp dẫn dến sự phát triển lệch lạc từ
khi còn nhỏ hoặc do người đồng tính lợi dụng. Theo quan điểm của nhiều
người, đồng tính luyến ái là một hiện tượng lệch chuẩn. Đây là một lối sống
không có lợi cho xã hội cả về đạo đức cũng như phát triển. Bởi những gia
đình của người đồng tính luyến ái sẽ khó có thể thực hiện một chức năng quan
trọng - duy trì nòi giống để đảm bảo sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên sau
một thời gian dài điều trị liên tục thất bại, các nhà khoa học đã nhận ra là
mình đã sai lầm. Nên kể từ năm 1994, đồng tính luyến ái không bị coi là bệnh
nữa, không gì có thể chữa trị được, có chăng là hỗ trợ tâm lý để giúp họ yêu
đời hơn.

1



Trong những năm gần đây, trên thế giới và ở Việt Nam, hiện tượng đồng
tính luyến ái phát triển mạnh mẽ và ngày càng trở thành vấn đề nóng bỏng.
Đây đó đã xuất hiện những phong trào đòi quyền bình đẳng, đòi quyền được
kết hôn cho những người đồng tính luyến ái. Còn ở Việt Nam, từ sau thời
điểm mở cửa giao lưu kinh tế, những luồng văn hóa tư tưởng nước ngoài đã
xâm nhập và gây ra những ảnh hưởng không phải lúc nào cũng tốt cho lối
sống và quan niệm của người dân.
Tầng lớp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của nó chính là thanh niên. Đây
là thế hệ sinh ra sau chiến tranh, lớn lên trong nền kinh tế thị trường nên quan
niệm và lối sống có phần nào khác với thế hệ cha ông. Thêm nữa, tuổi trẻ
thường chưa đủ năng lực nhận thức, đánh giá nên dễ bị hấp dẫn bởi những
điều mới lạ chưa rõ tích cực hay tiêu cực.
Hiện tượng đồng tính luyến ái ở Việt Nam được quan niệm như một lối
sống, một ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường khác với những giá trị truyền
thống, nền tảng văn hóa của dân tộc. Trong thời gian gần đây, theo dõi trên
các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta hoàn toàn có thể đọc thấy
những bài báo viết về hiện tượng đồng tính luyến ái, chỉ ra những trường hợp
coi đồng tính luyến ái như một cái mode để đua theo, hoặc do đối tượng bị
cuốn hút bởi những miếng mồi vật chất của kẻ xấu. Đồng thời đồng tính luyến
ái còn phát triển trở thành một tệ nạn xã hội – đặc biệt là đồng tính luyến ái
nam. Chính vì thế, dư luận xã hội thường không đồng tình và coi đây là một
lối sống lệch lạc với chuẩn xã hội. Thêm nữa, những người đồng tính luyến ái
nằm trong top đầu những người có nguy cơ hiễm HIV cao nhất. Bởi vì họ
thường xuyên thay đổi bạn tình và quan hệ tình dục không có biện pháp an
toàn.
Sinh viên là nhóm xã hội có trình độ tri thức cao, đồng thời đây cũng là
lớp người kế cận của đất nước. Do vậy đòi hỏi họ phải luôn có những hiểu
biết và cách nhìn đúng đắn với các hiện tượng xã hội xảy ra xung quanh
2



mình. Thêm nữa, họ cũng là một bộ phận của thanh niên, những người rất dễ
bị ảnh hưởng, bị cuốn theo những điều mới lạ. Hiện tượng đồng tính luyến ái
có thể xảy ra ở bất kỳ giới nào, nghề nghiệp nào. Vì thế sinh viên cần có
những hiểu biết nhất định về nó để có thể có những cái nhìn và thái độ đúng
đắn hơn với hiện tượng đồng tính luyến ái này để tránh những cái nhìn kì thị
và qua đó giúp những người đồng tính có thêm động lực để sống và làm việc.
Xuất phát từ nhận định như vậy, chúng tôi đã chọn đề tài “Nhận thức của sinh
viên Khoa Giáo dục, Học viện quản lý giáo dục về hiện tượng đồng tính luyến
ái” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu nhận thức của nhóm sinh viên về bản chất cũng như biểu
hiện, nguyên nhân và đối tượng của hiện tượng đồng tính luyến ái
Nhằm phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức cũng như thái độ
và hành vi của sinh viên.
3. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức về hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên khoa giáo dục,
Học viện quản lý giáo dục.
3.2 Khách thể nghiên cứu
Sinh viên Khoa Giáo dục, Học viện quản lý giáo dục.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài
+ Tổng quan về hiện tượng đồng tính luyến ái trên thế giới và ở Việt Nam
+ Hệ thống các khái niệm
- Nghiên cứu thực trạng nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính.
- Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nhận thức của sinh viên.
- Tìm hiểu thái độ và quan điểm của sinh viên đối với người đồng tính.

3



5. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu trên 100 sinh viên khoa Giáo dục, Học viện quản lý giáo dục.
- Nghiên cứu từ tháng 03 năm 2012 đến tháng 05 năm 2012.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp xin ý kiến chuyên gia.

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về nghiên cứu hiện tượng đồng tính luyến ái trên thế giới
và ở Việt Nam
Hiện tượng đồng tính luyến ái đã xuất hiện rất lâu trên thế giới cùng
với sự phát triển của con người. Như ở Ấn Độ, vào độ tuổi vị thành niên,
những chàng trai phải trở thành một giới thứ ba, tức là yêu và sống chung với
một người cùng giới tính như một dạng hôn nhân thử nghiệm. Sau giai đoạn
đó, họ lại yêu và lấy một người phụ nữ bình thường khác. Hoặc ở châu Phi, có
trường hợp một người nam hay một người nữ có thể yêu một người cùng giới
với mình trong một thời gian. Điều này là do yếu tố văn hóa của bộ tộc chi
phối. Tuy nhiên, hiện tượng chỉ dừng lại ở mức tồn tại trong một thời điểm
hay một nền văn hóa riêng biệt chứ không mang tính công khai hay chính
thức. Bởi vì trong nhận thức của mỗi người, đồng tính luyến ái vẫn được coi
là một hiện tượng bất bình thường.

Trên thế giới, những đề tài khoa học, những nghiên cứu khoa học về
đồng tính luyến ái, hay nhận thức về đồng tính luyến ái đang có xu hướng
tăng nhanh, vì hiện tượng này, dù có kết quả thế nào vẫn không thể làm hài
lòng hay thỏa mãn hầu hết mọi người. Những nghiên cứu khoa học từ giữa
thế kỉ XX cho thấy, đồng tính luyến ái đã không còn phải là một loại bệnh.
Đó được nhìn nhận như một giới tính thực thụ. Qua những công trình nghiên
cứu, qua thời gian, đồng tính luyến ái hiện nay đang dần được xã hội có cái
nhìn thiện cảm hơn và phần nào bớt đi cái nhìn kì thị.
Những công trình nghiên cứu nổi bật của thế giới về đồng tính luyến
ái phải kể đến những công trinh nghiên cứu như: Di truyền trong sức khỏe và
rối loạn tinh thần của E.J Kalhan, ông đã tiến hành nghiên cứu trên những cặp
sinh đôi hợp tử và song hợp tử đã cho thấy “Trong mọi trường hợp sinh đôi
đơn hợp tử, nếu một đứa trẻ đồng tính, thì đứa kia cũng vậy, điều này không
5


xuất hiện ở những cặp sinh đôi song hợp tử ”. Những điều này cho thấy, khả
năng di truyền và bẩm sinh từ bé của những người đồng tính là rất lớn.
Hoặc đề tài nghiên cứu khoa học Violence agains lesbians and gaymen
của David Comstock, đây là một nghiên cứu tập trung về những vấn đề mà
người đồng tính luyến ái gặp phải trong cuộc sống. Tác giả đưa ra những số
liệu về tệ nạn sử dụng bạo lực cũng như phân biệt đối xử đối với những người
đồng tính luyến ái tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ nghiên cứu năm 1992.
Cuốn sách của Scott Coltrane and Randall Collins tên Socialogy of
marriage and the family – NXB Wadsworth/Thomson Learning 2001, đây là
cuốn sách xã hội học về hôn nhân và gia đình đã đề cập rất nhiều đến vấn đề
về đời sống hôn nhân cũng như giới tính. Trong đó, đồng tính luyến ái cũng
được đề cập. Chủ yếu nghiên cứu làm sáng tỏ sự xuất hiện và phát triển của
hiện tượng này trong đời sống cá nhân, cách nhìn nhận của cộng đồng về nó.
Về phía công trình nghiên cứu của các nhà Y học trên thế giới, theo

tiến sĩ Cladirmin Sakhizanhia cho rằng: có thể đồng tính luyến ái xuất hiện
như là một trong những biểu hiện (triệu chứng) của bệnh tâm thần phân liệt
cũng như những bệnh thần kinh nội tạng mà các bệnh nhân có xu hướng thực
hiện các hành động khác nhau chống lại xã hội và phá hủy những chuẩn mực
đã được xã hội chấp nhận. Nhưng trong bệnh tâm thần phân liệt còn có cả các
hiện tượng không kiểm soát được hành động của bản thân. Điều này cũng có
nghĩa là mặc dù đồng tính luyến ái đã được gạch tên khỏi danh sách các loại
bệnh,nhưng vẫn chưa thể có một lời giải đáp xác đáng nào cho tất cả mọi
người về hiện tượng đồng tính đang ngày một diễn ra nhiều như hiện nay.
Các nghiên cứu về nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính
luyến ái trên thế giới cũng có những thành tựu nổi bật. Ở mỗi quốc gia có
những đặc điểm sinh thái và con người khác nhau. Chính vì vậy mà nhận thức
về đồng tính luyến ái cũng phụ thuộc nhiều vào trình độ và con người đất
nước đó. Ở những nước phương Tây như Canada, hoặc một số bang của Hoa
6


Kỳ, đồng tính luyến ái cũng được chấp nhận hóa và được kết hôn với nhau. Ở
các quốc gia châu Á, mặc dù vẫn chưa được chấp thuận nhiều, ngoại trừ Thái
Lan có những điều luật bảo vệ người đồng tính và chấp nhận nó thì hầu như
các quốc gia khác vẫn chưa chấp nhận và việc kỳ thị vẫn diễn ra hàng ngày.
Đối với một số quốc gia theo đạo Hồi, việc một người đồng tính bị coi là
phạm tội và phải chịu hình phạt rất cao. Những nghiên cứu rõ rệt về nhận thức
của người đồng tính trên thế giới thì chưa có nhiều tài liệu cũng như sự thống
kê chính xác, điều đó thể hiện qua luật pháp và cách nhìn nhận của từng nước
đối với hiện tượng đồng tính luyến ái. Đặc biệt là nhận thức của sinh viên về
hiện tượng này, sinh viên là lớp tuổi trẻ có học thức cao. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính được đẩy mạnh
hơn.
Còn ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu diễn ra dù chưa thực sự

nhiều, nhưng cũng đã bước đầu có những cái nhìn tích cực và đổi mới đối với
hiện tượng nóng trên thế giới này. Việc thống kê một cách đầy đủ và rộng
khắp để đưa ra những số liệu đúng đắn về người đồng tính ở Việt Nam có ý
nghĩa quan trọng trong hoạch định chính sách đối với người đồng tính cũng
như tác động đối với xã hội nói chung. Tuy nhiên, những đề tài khoa học của
các nhà nghiên cứu tại Việt Nam thường diễn ra trong tình trạng khó khăn,
khó khăn bởi vì tâm lý của người Việt thường ngại nhắc đến những trường
hợp nhạy cảm như thế này.Ngoài ra, sự hiểu biết những vấn đề nóng bỏng của
xã hội của người Việt vẫn chưa nhanh nhạy, mà chỉ là nghe đâu biết đấy.
Những đề tài được nhắc đến nhiều tại Việt Nam như cuộc thăm dò
trực tuyến mang tên “Đặc điểm kinh tế, xã hội của nam giới có quan hệ tình
dục đồng giới tại Việt Nam” của Viện nghiên cứu xã hội, Kinh tế và Môi
trường hợp tác với Học viện báo chí tuyên truyền. Chương trình này được
thực hiện bằng cách đăng tải bộ câu hỏi trực tuyến lên 5 diễn đàn của người

7


đồng tính, nhằm thu thập những thông tin để giúp cho mọi người hiểu rõ hơn
về cộng đồng người đồng tính tại Việt Nam.
Các đề tài nghiên cứu về Nhận thức của sinh viên về đồng tính tại
Việt Nam cũng đang ngày được chú ý hơn trước bởi sức ảnh hưởng của vấn
đề này tới Việt Nam ngày càng lớn. Tuy nhiên, những đề tài này vẫn đang ở
dạng thực nghiệm chứ chưa được nghiên cứu rộng rãi, vì người ta e ngại tính
khả quan của đề tài mang lại. Số người nghiên cứu về nó ngày càng nhiều,
nhưng những kết quả đem lại vẫn chưa thật sự khả quan và chỉ đem lại hiệu
quả tương đối.
Trong một cuộc thăm dò nghiên cứu năm 2007 của đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh, với câu hỏi “Người đồng tính luyến ái có xấu hay
không?”. Kết quả có 80% trả lời là không. Đa phần sinh viên cho rằng, đó là

quyền tự do của mỗi người, và việc là người đồng tính không phải lỗi do bản
thân người đó. Và một câu hỏi nữa đó là “Nếu phát hiện ra bạn trong lớp
đồng tính, Em sẽ có thái độ như nào?”. Kết quả 72% khẳng định vẫn giữ mối
quan hệ bình thường với bạn, 34% giữ bí mật cho bạn,2% thấy khinh bỉ và
13% thấy sợ. Tỉ lệ sinh viên cảm thấy đồng tính luyến ái không xấu và không
khinh bạn chiếm tỉ lệ áp đảo. Điều đó chứng tỏ sinh viên đang ngày càng có
một cái nhìn tích cực, và thiện cảm hơn đối với những người đồng tính.
Ở Việt Nam có một viện nghiên cứu chuyên nghiên cứu về người đồng
tính đó là iSee, trụ sở được đặt ở Nguyễn Tri Phương, quận Ba Đình. Một
nghiên cứu của Viện về sự kỳ thị của người đồng tính nam tại Việt Nam cho
thấy :
1,5% cho biết đã bị đuổi học khi bị phát hiện là người đồng tính;
4,1 % bị kì thị về vấn đề nhà ở;
4,5% cho biết từng bị đánh đập vì là người đồng tính;
15,1 % cho biết bị gia đình chửi mắng vì là người đồng tính.

8


Kết quả nghiên cứu trên của Viện iSee cho thấy, việc gia đình mắng
chửi con cái khi biết con là người đồng tính chiếm đa số, điều đó cũng đồng
nghĩa với việc bố mẹ rất khó có thể chấp nhận con mình là người đồng tính và
khả năng không chấp nhận ấy còn có thể tăng cao.
Cuốn sách Giới tính học trong bối cảnh Việt Nam – Bác sĩ Trần Bồng
Sơn-NXB Trẻ 2002. Đây là một cuốn sách đi sâu vào những kiến thức khoa
học giới tính. Vấn đề đồng tính luyến ái cũng là một trong những nội dung
nghiên cứu của nó. Qua đó, người đọc có thể thu được những hiểu biết về
nguyên nhân, bản chất của đồng tính luyến ái cũng như cách giải quyết đối
với hiện tượng này.
Tạp chí AIDS và cộng đồng - Ủy ban thường trực phòng chống AIDS

quốc gia ( số 1-12-2000 ), trong tạp chí này, đồng tính luyến ái được nhắc đến
như một nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng căn bệnh HIV-AIDS, đặc biệt là
với nhóm đồng tính luyến ái nam.
Những đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên các trường về đề tài
Nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính cũng đang được chú ý và mở
rộng nhiều hơn. Điển hình có thể kể đến các trường như Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Học viện quản lý giáo dục, Đại học Sư phạm Hà nội…. Đặc
biệt phải kể đến đề tài được đánh giá cao của sinh viên Bùi Bích Hà của Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà nội.
Nhìn chung, nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến ái
hiện nay có một vai trò rất quan trọng, nó đánh giá được tầm nhìn và sự hiểu
biết của sinh viên về một vấn đề đang ngày càng được xã hội quan tâm. Bởi vì
sinh viên là lớp người kế cận thực hiện tiếp những công việc của đất nước.
Những người có trình độ học thức cao nên có những hiểu biết đúng đắn về
hiện tượng này.

9


1.2. Khái niệm về nhận thức
Theo cách hiểu thông thường, nhận thức đó chính là cách nhìn nhận, cách
hiểu biết về những sự vật hiện tượng xung quanh chúng ta.
Theo cách khoa học, Nhà tâm lý học người Đức cho rằng “Nhận thức là
sự phản ánh hiện thực khách quan trong ý thức của con người. Nhận thức bao
gồm nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau, và cơ sở, mục đích tiêu chuẩn của nhận thức là thực tiễn xã
hội”.
1.3. Khái niệm “ Nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến
ái”
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của những người đồng tính luyến ái

Đồng tính luyến ái là hiện tượng những người cùng giới có quan hệ tình
dục với nhau.
Những người đồng tính luyến ái bị hấp dẫn bởi những bạn tình đồng
giới thay vì những bạn tình khác giới. Họ vẫn có những vai trò giới nhất định
trong xã hội. Tuy nhiên xu hướng tình dục của họ không giống những người
bình thường mà nghiêng về những người giống mình.
1.3.2. Khái niệm “ Nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến
ái”
Nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến ái, chính là cách
nhìn nhận, đánh giá của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến ái.
1.4. Khái niệm sinh viên
Sinh viên theo từ gốc “student” trong tiếng Latin là những người làm
việc, học tập, tìm hiểu và khai thác tri thức.
Theo nghĩa thông thường, sinh viên là những người học tập ở bậc Cao
đẳng và Đại học.

10


1.5. Khái niệm giới tính
Là khái niệm dùng để chỉ những đặc trưng sinh học của nam và nữ.
Những đặc trưng sinh học dường như là bất biến và đó là cơ sở cho những
chuẩn mực về vai trò giới sau này. Sự chuyển đổi giới tính có thể do sinh học,
văn hóa, kinh tế.
Các đặc điểm của giới tính :
- Là đặc trưng sinh học quy định hoàn toàn bởi gen qua cơ chế di
truyền.
- Bẩm sinh.
- Đồng nhất vì đây là sản phẩm của sự tiến hóa sinh học nên không phụ
thuộc vào không gian, thời gian.

1.6. Khái niệm giới
Giới là khái niệm dùng để chỉ những mối quan hệ xã hội của nam và nữ.
Khái niệm giới liên quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những trông đợi
được tạo nên với hai giới tính. Giới là một sản phẩm của xã hội và liên quan
đến quá trình xã hội hóa.
Các đặc điểm của giới:
- Một phần vẫn bị quy định bởi yếu tố sinh học của giới tính.
- Không mang tính di truyền, bẩm sinh mà được hình thành qua quá
trình học tập, xã hội hóa cá nhân.
- Đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức do sự đa dạng của xã
hội, nền văn hóa.
- Có thể biến đổi.
1.7. Khái niệm bản sắc giới
Bản sắc giới liên quan đến sự nhận thức của cá nhân về nam giới hay nữ
giới. Nói một cách khách, bản sắc giới là sự cảm nhận của cá nhân về giới của
mình trong nền văn hóa. Bản sắc giới thường phù hợp với giới tính của cá

11


nhân nhưng không phải trường hợp nào bản sắc giới cũng đồng nhất với giới
tính của cá nhân đó.
1.8. Khía cạnh cá nhân và xã hội
Theo các nhà khoa học, hầu hết các hiện tượng Đồng tính luyến ái là do
bẩm sinh, một số do xu hướng và một số do ngộ nhận về bản thân. Có những
người muốn tò mò về giới tính thứ 3 này và cũng có những người bị lôi kéo,
đua đòi theo xu hướng ngoại lai đang xâm nhập ngày càng nhiều vào nước ta.
Những phim ảnh, tranh ảnh đang ngày càng nói nhiều về hiện tượng đồng tính
làm giới trẻ hoang mang chưa định hướng được về mình.
1.9. Khía cạnh Tâm lý học

Với cách tiếp cận Tâm lý học thì đồng tính luyến ái được coi là một hiện
tượng tự nhiên bởi vì đó xuất phát điểm là những mong muốn về tình dục
khác với bình thường chứ không hẳn là do bệnh hoạn hay biến thái như tư
tưởng cũ nhận định. Những người đồng tính luyến ái hoàn toàn bình thường.
Họ vẫn sống và làm việc như những người bình thường và cống hiến cho xã
hội.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Đồng tính luyến ái đang là một hiện tượng đang ngày càng nóng bỏng
trong xã hội. Việc nghiên cứu nhận thức của sinh viên về hiện tượng này sẽ
giúp chúng ta thấy được tư tưởng, cách nhìn nhận về các hiện tượng tính chất
xã hội như thế nào, đó cũng chính là cách mà sinh viên thể hiện quan điểm
sống của mình.

12


Chương 2
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tổ chức nghiên cứu
2.1.1. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 11/2011 đến tháng 1/2012, tìm hiểu những tài liệu, những đề
tài liên quan đến đề tài.
Từ tháng 1/2012 đến tháng 2/2012, xây dựng đề cương cho đề tài nghiên
cứu.
Từ tháng 3/2012 đến tháng 4/2012, tiến hành phát phiếu điều tra, phỏng
vấn, tiến hành thống kê kết quả.
Từ tháng 4/2012 đến tháng 5/2012, tiến hành phân tích kết quả đã thu
được và hoàn thiện khoá luận tốt nghiệp.
2.1.2. Nội dung nghiên cứu
Phân tích, tổng hợp những tài liệu, những công trình nghiên cứu của các

tác giả trong và ngoài nước về vấn đề đồng tính luyến ái, nhận thức của sinh
viên về hiện tượng đồng tính luyến ái.
Xác định những khái niệm công cụ có liên quan làm cơ sở cho nghiên
cứu thực tiễn.
Nghiên cứu thực trạng nhận thức của sinh viên Khoa Giáo dục, Học
viện quản lý giáo dục về hiện tượng đồng tính luyến ái.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Đây là phương pháp nghiên cứu những chuyên đề, bài viết, công trình,
giáo trình của các tác giả trong và ngoài nước đã được công bố, đăng tải trên
các sách báo, tạp chí, mạng internet…về hiện tượng đồng tính luyến ái, nhận
thức của sinh viên, cá nhân về hiện tượng đồng tính. Đồng thời phân tích,
tổng hợp và đánh giá những công trình đó nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý
luận cho đề tài.
13


Ngoài ra, phương pháp nghiên cứu lý luận - phân tích tài liệu còn giúp
tôi nghiên cứu rõ hơn về thái độ của sinh viên nói riêng và cá nhân trong xã
hội nói chung với người đồng tính luyến ái.
2.2.2. Phương pháp quan sát
Quan sát là một phương pháp nghiên cứu trong đó người quan sát sử
dụng các quá trình hình thành tri giác để thu thập thông tin về hành vi, cử chỉ,
lời nói của khách thể nghiên cứu trong những điều kiện nhất định nhằm đạt
được mục đích nghiên cứu nhất định.
Phương pháp này được sử dụng nhiều trong quá trình phỏng vấn sâu,
vừa phỏng vấn vừa quan sát điệu bộ khuôn mặt, cử chỉ, ánh mắt giọng nói của
sinh viên.
2.2.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Bảng hỏi là hệ thống các câu hỏi được xếp đặt trên cơ sở các nguyên tắc:

logic và theo nội dung nhất định nhằm tạo điều kiện cho người được hỏi thể
hiện quan điểm của mình với những vấn đề thuộc về đối tượng nghiên cứu và
người nghiên cứu thu nhận được các thông tin cá biệt đầu tiên đáp ứng các
yêu cầu của đề tài và mục tiêu nghiên cứu.
Tôi tiến hành phát 100 bảng hỏi cho 100 sinh viên Khoa Giáo dục, Học
viện quản lý giáo dục để nghiên cứu nhận thức của sinh viên về hiện tượng
này.
2.2.4. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn là cách thức giao tiếp trực tiếp để thu thập thông tin về một
số vấn đề liên quan đến nhận thức của sinh viên với hiện tượng đồng tính. Nội
dung phỏng vấn tập trung chủ yếu vào các vấn đề: Thái độ của sinh viên với
người đồng tính luyến ái, và quan điểm của sinh viên về hiện tượng đồng tính
luyến ái.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn ngẫu nhiên 10 bạn trong Khoa Giáo
dục để làm sáng rõ hơn nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính.
14


2.2.5. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia
Trao đổi với những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực này như các
chuyên gia làm trong các câu lạc bộ dành cho những người đồng tính để tìm
hiểu chi tiết hơn.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Đề tài được chúng tôi nghiên cứu trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm
2012 đến tháng 5 năm 2012. Trong đó, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu, nhiều công cụ nghiên cứu khác nhau, trong đó tập trung chủ
yếu là các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học để phục vụ yêu cầu nghiên
cứu của đề tài. Ngoài ra, chúng tôi cũng linh hoạt sử dụng các phương pháp
để có thể thu thập những thông tin, dẫn chứng cụ thể, thực tế bổ sung cho dữ
liệu của đề tài.


15


Chương 3
THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ
HIỆN TƯỢNG ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
3.1. Nhận thức cơ bản về hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên
3.1.1 Mức độ quan tâm đến hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên
Đồng tính luyến ái đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới cũng như Việt
Nam, nhưng trước đây do điều kiện đất nước trong chiến tranh và dư luận xã
hội vẫn rất khắt khe với những hiện tượng bất bình thường nên nó không có
cơ hội để phát triển. Từ sau khi đất nước ta hình thành cơ chế mở cửa, hiện
tượng đồng tính luyến ái cũng theo đà đó phát triển hơn và được biết đến
ngày một rộng rãi hơn. Bởi tuy đây chỉ là biểu hiện của một nhóm đối tượng
nhỏ nhưng ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa xã hội rất rõ ràng.
Sinh viên là nhóm có trình độ tri thức và năng lực được đánh giá cao
trong xã hội. Họ đại diện cho một bộ phận tiên tiến của xã hội, luôn nhạy bén
với các hiện tượng mới nảy sinh cả những hiện tượng tích cực cũng như tiêu
cực. Thêm nữa, do đặc thù về lứa tuổi, đặc thù về nơi cư trú, nên sinh viên
cũng có những hiểu biết tương đối về hiện tượng này.
Sinh viên Khoa Giáo dục của trường Học viện quản lý giáo dục cũng
vậy, họ chính là lớp tri thức tiên tiến, đại diện cho một tầng lớp xã hội tài
năng và nhiều hiểu biết. Sau khi điều tra đại diện 100 sinh viên của khoa Giáo
dục về hiện tượng Đồng tính luyến ái đã đưa ra những kết quả hết sức đáng
mừng về hiểu biết của sinh viên đối với hiện tượng đang rất nóng trong xã hội
này.
Khi được hỏi “Anh(chị) có nghe nói nhiều về Đồng tính luyến ái
không?” thì có tới 90% sinh viên trả lời đã nghe rất nhiều lần, 9% sinh viên
nghe nhiều, và 1% nghe nói về hiện tượng này ở mức độ bình thường. Điều

đó đồng nghĩa với việc 100% sinh viên đều đã từng nghe nói đến hiện tượng
này, chứng tỏ mức độ quan tâm của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính
16


luyến ái ở mức độ rất cao. Điều đó cũng chứng tỏ, đồng tính luyến ái hiện nay
không phải là một hiện tượng nhỏ cá biệt nữa mà đã được tồn tại thu hút sự
quan tâm của dư luận xã hội và nhóm sinh viên.
STT
Mức độ
Nam giới
Nữ giới
Tổng
1
Nghe rất nhiều lần
20%
70%
90%
2
Nghe nhiều
2%
7%
9%
3
Bình Thường
0%
1%
1%
4
Chưa bao giờ

0%
0%
0%
Bảng 1. Sự quan tâm của sinh viên tới hiện tượng đồng tính luyến ái
Qua bảng thống kê trên, ta có thể nhận thấy, số nữ sinh biết đến hiện
tượng đồng tính luyến ái cao hơn so với các nam sinh. Tuy nhiên, vì đặc thù
của khoa là nữ nhiều hơn nam nên số liệu trên chỉ là tương đối. Mặc dù chiếm
số lượng nam sinh rất ít, nhưng chúng ta có thể nhận thấy, hầu như 100% sinh
viên nam đều nghe nói rất nhiều về hiện tượng này. Điều này xuất phát từ
những nguyên nhân khách quan. Trước hết, nam giới luôn nhạy bén với các
vấn đề nóng bỏng của xã hội, năng động hơn và thích tìm hiểu những vấn đề
mới lạ, đặc biệt là liên quan đến giới tính. Còn nữ giới, luôn được quan niệm
phải dịu dàng, kín đáo. Thêm nữa, nữ giới thường e dè với những hiện tượng
nhạy cảm như đồng tính luyến ái. Do vậy, tỉ lệ nữ sinh mặc dù chiếm số đông
do chiếm nhiều hơn, nhưng tỉ lệ phần trăm nam sinh biết đến hiện tượng này
lại chiếm ưu thế so với mặt bằng chung tỉ lệ nam nữ. Và chính vì đã được
nghe rất nhiều về hiện tượng Đồng tính luyến ái trong cuộc sống nên khi được
hỏi Đồng tính luyến ái là gì, thì 100% sinh viên đều xác định được đồng tính
luyến ái chính là hai người đồng giới thích nhau.

17


Biểu đồ 1. Sự quan tâm của sinh viên tới hiện tượng đồng tính luyến ái
Một vấn đề nữa được nhận thấy sau khi nghiên cứu đó là mặc dù được
nghe nói về đồng tính luyến ái ít hay nhiều, nhưng mỗi người đều có những
hiểu biết và nhận định khác nhau, có những đánh giá chủ quan của bản thân
mình về sự ảnh hưởng của đồng tính luyến ái đến người đồng tính.

18



Mức độ ảnh hưởng ( % )
STT
Nội dung
Rất ảnh hưởng Ảnh hưởng Không ảnh hưởng
01
Ảnh hưởng đến
50%
20%
30%
lối sống
02
Ảnh hưởng đến
70%
24%
6%
đạo đức
03
Ảnh hưởng đến
30%
45%
25%
sinh hoạt
04
Ảnh hưởng đến
40%
30%
30%
sức khỏe

05
Ảnh hưởng đến
10%
20%
70%
tình cảm
Bảng 2. Mức độ ảnh hưởng của đồng tính luyến ái đến người đồng tính
theo quan điểm của sinh viên.
Nhìn vào bảng thống kê, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đó là cách
nhìn nhận vấn đề của mỗi sinh viên là hoàn toàn không giống nhau. Khi nhắc
đến đồng tính luyến ái, 70% trong số 100 sinh viên được nghiên cứu cho rằng,
đồng tính luyến ái ảnh hưởng đến lối sống của người đồng tính. 30% sinh
viên còn lại cho rằng, đồng tính thật ra không ảnh hưởng gì đến đồng tính
luyến ái. Khi được hỏi về ảnh hưởng đến đạo đức thì đến 94% sinh viên cho
rằng, đồng tính luyến ái ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức của con người.
Và điều ấy trái với tự nhiên và thuần phong mĩ tục. Chỉ có 6% cho rằng,
không có ảnh hưởng gì đến đồng tính luyến ái.
Bản thân của mỗi sinh viên có những hiểu biết khác nhau và những cách
nhìn nhận về vấn đề không giống nhau. Nhìn vào biểu đồ thống kê, chúng ta
có thể nhận thấy, đạo đức là vấn đề được sinh viên quan tâm nhất và cho đó là
mức độ ảnh hưởng cao nhất đối với người đồng tính. Ở đây chúng ta không
xét ai đúng, ai sai. Mà chúng ta chỉ thống kê lại những số liệu đã thu thập
được sau khi điều tra.
Về hiện tượng đồng tính luyến ái, ít nhiều sẽ có những mức độ ảnh hưởng
khác nhau tùy thuộc thời điểm và tùy thuộc suy nghĩ của mỗi người. Đồng
19


tính luyến ái xuất hiện từ lâu, mặc dù được nghe nói đến nhiều,nhưng không
phải sinh viên nào cũng có những hiểu biết căn bản về nó,và đánh giá nó một

cách khách quan và chính xác nhất.
Vấn đề tiếp theo trong đề tài nghiên cứu nhận thức của sinh viên đó là hỏi
về độ tuổi mà đồng tính luyến ái xuất hiện. Theo các nhà khoa học thì đồng
tính luyến ái xuất hiện chủ yếu ở nam giới và thường phát triển khi con người
bước vào độ tuổi trưởng thành. Đối với những người đồng tính do bẩm sinh
thì đây là giao đoạn họ phát triển cả về thể chất và tinh thần. Do vậy, những
biểu hiện tưởng chừng như chỉ có ở thời thơ ấu bây giờ cũng trở nên vững
chắc hơn, thôi thúc họ sống theo cách của mình. Trên thực tế và những
nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng, đồng tính luyến ái xuất hiện ở cả
hai giới và ở mọi lứa tuổi.
STT
Độ tuổi
Tỉ lệ ( % )
01 Thiếu niên
0%
02 Thanh niên
1%
03 Trung niên
0%
04 Mọi độ tuổi
99%
Bảng 3. Quan điểm của sinh viên về độ tuổi có thể bị đồng tính luyến ái.
Đã có rất nhiều sinh viên nhận thức đúng đắn về vấn đề này, có đến 99%
sinh viên cho rằng, đồng tính luyến ái xuất hiện ở mọi độ tuổi, bất kể tuổi tác
là bao nhiêu, thiếu niên, thanh niên, hay cả trung niên đều có những người
đồng tính luyến ái. 1% sinh viên cho rằng, đồng tính luyến ái chỉ xuất hiện ở
thanh niên. Trong vấn đề này, sinh viên đã có những hiểu biết tương đối đầy
đủ và chính xác về hiện tượng này. Bất kể tuổi tác là bao nhiêu, già hay trẻ,
đồng tính luyến ái có mặt ở hầu hết các độ tuổi.
Đối với mỗi cá nhân trong xã hội, từ khi sinh ra đã luôn gắn với một bản

sắc giới. Đó là sự nhận thức của cá nhân về giới của mình. Bản sắc giới
thường phù hợp với giới tính nhưng cũng có trường hợp không phải như vậy.
Đó chính là những trường hợp của những người đồng tính luyến ái. Về mặt
20


sinh học, họ là nam giới hoặc nữ giới. Nhưng trong nhận thức, họ mong muốn
và cảm thấy mình thuộc về giới tính kia hoặc có thể có quan hệ tình cảm,
quan hệ tình dục với người cùng giới tính với mình.
Nam giới là đối tượng có khả năng làm lan truyền bệnh HIV - AIDS cao
hơn so với nữ giới do đặc thù về lối sống. UNAIDS - tổ chức phòng chống
căn bệnh thế kỷ đã đưa ra năm lý do giải thích tại sao sao chiến dịch phòng
chống AIDS toàn cầu năm 2000 lại tập trung vào nam giới. Trong đó có một
nguyên nhân đáng chú ý là quan hệ tình dục đồng giới không an toàn giữa
nam với nam gây nguy cơ cho cả nam và nữ. Phần lớn quan hệ tình dục giữa
nam với nam là dấu giếm. Và theo nhiều nghiên cứu tiến hành trên thế giới,
có đến hơn 1/6 nam giới nói rằng họ có quan hệ tình dục đồng giới. Rất nhiều
trong số họ đồng thời cũng có quan hệ với cả phụ nữ. Do vậy nguy cơ lây
truyền bệnh HIV/AIDS tăng lên rất nhiều.
Mặc dù hiện nay, đồng tính luyến ái đã được tổ chức y tế thế giới công
nhận không phải là một bệnh lý, nhưng quan điểm lâu đời cuả một người bao
giờ cũng khó mà có thể thay đổi. Nhất là đối với một nước phương Đông như
Việt Nam chúng ta, nhận thức của con người rất khó thay đổi. Xã hội đang
ngày càng có cái nhìn tích cực hơn đối với những người đồng tính. Nhưng
không thể phủ nhận rằng, tình trạng kì thị người đồng tính hiện nay vẫn còn
nhiều. Nhất là ở những vùng quê. Tình trạng kì thị người đồng giới ngày một
tăng cao. Họ cho rằng, đó là bệnh hoạn và đi trái với thuần phong mĩ tục của
nước nhà. Chính vì vậy, bản thân người đồng giới còn phải mất rất nhiều thời
gian để có thể được công nhận là một giới tính thực thụ.
Nam giới và nữ giới ở lứa tuổi thiếu niên nếu bị đồng tính luyến ái có

những suy nghĩ, mong muốn được gắn bó với những người cùng giới. Họ vẫn
quan hệ với mọi người, nhưng người cùng giới là đối tượng họ gửi gắm tình
cảm. Lứa tuổi thiếu niên là lứa tuổi dễ hình thành và phát triển những quan
điểm sai lệch về giới tính nhất.
21


3.1.2 Mức độ phổ biến của hiện tượng đồng tính luyến ái qua điều tra tần
suất gặp của sinh viên
Qua điều tra, có thể thấy đa số sinh viên đã biết đến hiện tượng đồng tính
luyến ái. Điều này chứng tỏ rằng đồng tính luyến ái không còn tồn tại như
một số trường hợp cá biệt mà đã phát triển khá rộng rãi. Qua các phương tiện
thông tin đại chúng, sách báo gia đình và bè bạn, sinh viên thu thập được
những hiểu biết về hiện tượng này. Vấn đề đặt ra là trong thực tế, đồng tính
luyến ái có tồn tại phổ biến như vậy hay không. Có thể giải quyết câu hỏi này
bằng cách tìm hiểu mức độ đã gặp hiện tượng này của nhóm sinh viên.
STT
Tần suất gặp hiện tượng đồng tính luyến ái
Tỉ lệ (%)
01
Thường xuyên
7%
02
Thỉnh thoảng
70%
03
Hiếm khi
14%
04
Chưa bao giờ

9%
Bảng 4. Tần suất sinh viên gặp hiện tượng đồng tính luyến ái

Biểu đồ 2. Tần suất gặp hiện tượng đồng tính luyến ái của sinh viên
Nhìn vào bảng số liệu thống kê thu được, ta có thể dễ dàng nhận thấy tỉ lệ
sinh viên đã gặp, đã biết những người đồng tính luyến ái ít nhất 1 lần trở lên
lên đến con số 91%,trong khi đó chỉ có 9% sinh viên chưa gặp hiện tượng này
bao giờ.

22


Điều này càng khẳng định rằng đồng tính luyến ái không còn là một hiện
tượng cá biệt riêng ai, ít người quan tâm, biết đến mà mức tồn tại của nó đã
khá phổ biến. Trong số 91% sinh viên trả lời đã từng gặp những người đồng
tính, có 7% sinh viên gặp thường xuyên, đến 70% sinh viên thỉnh thoảng gặp
và 14% sinh viên hiếm khi gặp. Xã hội Việt Nam mở cửa với quốc tế, chính
vì vậy cái nhìn của xã hội cũng đã rộng mở hơn rất nhiều, mặc dù cũng có
nhiều người không dám nhận mình như thế, tuy nhiên, số người công khai
bản thân mình cũng đủ để nhóm sinh viên nhận ra. Người đồng tính hiện nay
đã nhận được thái độ cởi mở hơn của dư luận, họ vẫn đang cố gắng sống tốt
để khẳng định với mọi người là đồng tính luyến ái không phải là xấu mà chỉ
khác đi về xu hướng tình dục. Điều đó thuộc về cá nhân và không ảnh hưởng
đến ai.
Mức độ
Nam sinh
Nữ sinh
Tổng
Thường xuyên
2%

5%
7%
Thỉnh thoảng
20%
50%
70%
Hiếm khi
4%
10%
14%
Chưa bao giờ
0%
9%
9%
Bảng 5. Mức độ gặp người đồng tính của nam sinh và nữ sinh

Biểu đồ 3. Mức độ gặp người đồng tính của nam sinh và nữ sinh
Ở đây nếu xét về số lượng % tương quan gặp nhiều hơn thì sẽ nghiêng về
nữ giới. Tuy nhiên chúng ta xét trên tương quan số lượng nam sinh và nữ sinh
23


thì rõ ràng, là nam sinh đã gặp, và biết những trường hợp người đồng tính cao
hơn so với nữ sinh. Và tỉ lệ sinh viên nữ chưa gặp hiện tượng này cao hơn
nam. Tương tự như đánh giá về mức độ quan tâm tới hiện tượng đồng tính
luyến ái, nguyên nhân của sự khác biệt này là do bị chi phối với các đặc trưng
giới tính mạnh bạo, ham tìm hiểu nên nam giới luôn có xu hương thích tìm
hiểu các hiện tượng xã hội mới nảy sinh. Thêm nữa, theo quan điểm khoa học
và trong thực tế, hiện tượng đồng tính cũng xuất hiện nhiều ở nam giới hơn,
dẫn đến mức độ gặp nhiều hơn của nhóm sinh viên nam.

Ngoài ra chúng ta có thể nhận thấy đó là đặc trưng của sinh viên khoa
Giáo dục đó là 80% các bạn sống xa gia đình, và phải tự lập từ rất sớm.
Những khoảng thời gian rảnh rỗi, những khoảng trống trong lúc học tập cũng
chính là lúc các bạn tìm hiểu những vấn đề đang được xã hội hết sức quan
tâm. Người đồng tính hiện nay ngày càng xuất hiện với mật độ rất đông. Bằng
chứng đó là có rất nhiều người đi ra đường đã gặp và nhìn thấy những người
đồng tính. Người đồng tính đang ngày càng tìm được những chỗ đứng riêng
cho mình mà không sợ xã hội kì thị. Môi trường sống của sinh viên cũng ảnh
hưởng rất lớn đến nhận thức của họ. Sinh viên cũng là những người thuộc
tầng lớp thanh niên, đang ở độ tuổi trưởng thành về tâm sinh lý. Do vậy, có
thể xuất hiện xu hướng sống lệch lạc nếu trong môi trường có những người
đồng tính luyến ái hoặc do chính sự tò mò của bản thân. Một trường hợp sinh
viên nam học tại trường đại học của Hải Phòng đã tự kể về nguyên nhân mình
đã trở thành người đồng tính luyến ái trong một phóng sự của báo Hoa Học
Trò (“Tôi tự đánh mất giới tính của mình thế nào” số 420 - 421, ra ngày 2712- 2001 và 1-1-2002) “Tôi thức giấc vì nghe tiếng cười, tôi không còn tin ở
mắt mình nữa khi thấy Kvà V, hai anh sinh viên năm 4 phòng tôi đang làm
một cái trò kỳ quái vô cùng ngay trên chiếc giường dưới tôi. Cả hai anh ấy
đều hành động như vợ chồng..”. Bạn trai này đã phải trải qua những giờ phút
kinh hoàng với sự ám ảnh. Bạn đã định tâm sự với những người còn lại trong
phòng nhưng không ngờ những người bạn ấy cũng xử sự như những người
24


đồng tính luyến ái. Vì gia đình quá nghèo, bạn không thể xin chuyển ra ngoài
ở trọ và cuối cùng đã đánh mất giới tính của chính mình. Sự dụ dỗ, lôi kéo
của những người xung quanh cùng với sự tồn tại công khai quan hệ tình dục
đồng giới đã khiến một bạn sinh viên trở thành người đồng tính luyến ái. Sinh
viên thuê nhà trọ ở ngoài có tỷ lệ gặp hiện tượng ở nơi sống của mình cao
nhất. Bởi nếu những người trong ký túc xá đều là sinh viên thì những người ở
nhà trọ có nghề nghiệp và lối sống rất khác nhau. Đây là môi trường thuận lợi

nảy sinh các tệ nạn xã hội trong đó có đồng tính luyến ái. Khi được hỏi đã bao
giờ gặp hiện tượng này ở nhà trọ mình ở chưa, một bạn nữ cho biết: “Mình
đã gặp hiện tượng đồng tính luyến ái ở khu mình ở, đó là hai người nữ. Họ
thường xuyên đi chơi với nhau, người nữ đóng vai bạn trai ăn mặc rất
giống con trai. Đi đâu họ cũng đèo nhau và có cử chỉ thân mật như những
người khác giới khi yêu nhau. Họ công khai luôn mối quan hệ của
mình.”(H. nữ, K2A GD, nhà trọ - Kim Giang). Có thể thấy hiện tượng đồng
tính luyến ái với các bạn sinh viên không còn lạ lẫm nữa bởi những ví dụ của
thực tế tồn tại cùng với các bạn.
Còn với nhóm sinh viên ở cùng gia đình thì trường hợp gặp thường
xuyên là rất ít tuy nhiên vẫn có. Tuy nhiên, các bạn sinh viên thuộc nhóm này
thường gặp hiện tượng đồng tính luyến ái ở nơi công cộng và các tụ điểm giải
trí cao bằng nhóm sinh viên thuê nhà. Đây là hai nhóm có tính di động xã hội
cao hơn nhóm sinh viên trong ký túc xá. Bởi hầu hết các bạn sinh viên hiện ở
cùng gia đình đều sống tại Hà Nội. Họ có thời gian và điều kiện kinh tế để tới
những nơi vui chơi giải trí và các sinh viên ở nhà trọ cũng vậy. Cho nên họ có
thể gặp hiện tượng đồng tính luyến ái tại những nơi đó. Tỷ lệ sinh viên nói
chung lựa chọn địa điểm này cao áp đảo so với các địa điểm khác. Bởi người
đồng tính luyến ái thường không dám công khai mối quan hệ cũng như lối
sống của mình. Do vậy, chỉ khi tới những địa điểm công cộng, giữa những
người xa lạ, họ mới dám sống theo cách của mình, ít dấu giếm hơn, đặc biệt là
những nơi tập trung những đối tượng như mình. Điều này cũng chứng tỏ rằng,
25


×