Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Con người ta đến tuổi trưởng thành ai cũng phải chọn một nghề cho
mình. Chọn nghề chính là chọn số phận, chọn cuộc đời. Cuộc đời mỗi con
người có ý nghĩa hay không là ở chỗ: Bằng lao động của chính mình đem lại
lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội, sự lựa chọn nghề phù hợp sẽ giúp con
người phát huy hết khả năng của mình. Thế nhưng, trong biển nghề mênh
mông, con người làm thế nào để định hướng đúng cho mình được một nghề
phù hợp để có thể gắn bó máu thịt với mình suốt cuộc đời, điều đó quả là
không phải dễ.
Thực tế đã chứng minh : Muốn tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóahiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước một cách thắng lợi thì phải phát triển
mạnh sự nghiệp giáo dục, phát triển nhân tố con người. Bởi vì, con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước
và ngành GD&ĐT rất quan tâm tới giáo dục hướng nghiệp(GDHN) cho học
sinh phổ thông. Điều 27 Chương III Luật Giáo dục 2005 khẳng định về mục
tiêu của giáo dục THPT “Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh
củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học sơ sở, hoàn thiện
học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng
nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển,
tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống
lao động”.
Vì thế, GDHN là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu GD&ĐT, góp phần
vào việc phân luồng học sinh, chuẩn bị cho các em đi vào cuộc sống lao động
hoặc tiếp tục học lên cao phù hợp với năng lực của bản thân, khả năng của gia
đình và nhu cầu của xã hội. Hơn nữa, hiện nay nước ta đã gia nhập Tổ chức
SV: Lê Thị Thúy
1
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
Thương mại Thế giới, vấn đề hội nhập kinh tế toàn cầu và thị trường lao động
không biên giới khiến thanh niên và học sinh phải biết nắm bắt cơ hội trên cơ
sở hiểu rõ năng lực của bản thân để chọn ngành nghề phù hợp, đồng thời có
khả năng thích ứng và thay đổi nghề nghiệp kịp thời đáp ứng được nhu cầu
của xã hội.
Trong những năm qua, hệ thống các trường phổ thông trung học ở Việt
Nam mới chỉ chú trọng đến dạy kiến thức văn hoá, chưa chú ý nhiều đến
GDHN cho giáo dục. Nhà trường chưa chuẩn bị tâm thế cho học sinh sẵn
sàng đi vào cuộc sống lao động. Đội ngũ giáo viên có rất ít người đã làm tốt
công tác này, vì họ chưa được đào tạo sư phạm về hướng nghiệp và không
hiểu nhiều về nghề nghiệp, về nhu cầu của thị trường lao động và của xã hội
nên việc GDHN cho Học sinh vẫn còn hạn chế.
Bên cạnh đó, do áp lực tâm lý từ phía gia đình, hiện tượng cha mẹ,
người thân trong gia đình phản đối việc chọn nghề của các học sinh cũng khá
phổ biến. Người lớn can thiệp vào việc chọn nghề của học sinh thường do
động cơ muốn chọn những nghề mà theo chủ quan của họ thì đó là lĩnh vực
hoạt động mang lại lợi ích thiết thực. VD: cha mẹ không cho con cái theo
nghề địa chất, nông nghiệp vì không có cơ hội ở thành phố......, và quan niệm
của xã hội đã dẫn đến học sinh chọn sai ngành nghề, đổ xô vào học những
ngành nghề mà xã hội không thiếu. Chính vì vậy, khi tốt nghiệp ra trường
không thể xin được việc làm hoặc phải chấp nhận làm những việc không đúng
chuyên môn. Điều đó gây hụt hẫng về tâm lý và gây lãng phí lớn chi phí đào
tạo.
Hoạt động GDHN tại trường THPT Lam kinh – Huyện Thọ Xuân- tỉnh
Thanh Hóa trong thời gian qua đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên chất lượng của
công tác này còn hạn chế. Chính vì vậy chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu vấn
đề “ Sử dụng họa đồ nghề trong giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
SV: Lê Thị Thúy
2
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
trường trung học phổ thông Lam Kinh – Huyện Thọ Xuân – Tỉnh Thanh
Hóa” để làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Xây dựng quy trình sử dụng họa đồ nghề để nâng cao nhận thức về
nghề cho học sinh trường THPT, góp phần nâng cao chất lượng GDHN ở
trường THPT Lam Kinh- huyện Thọ Xuân- Tỉnh Thanh Hóa.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng: Việc sử dụng họa đồ nghề trong giáo dục hướng nghiệp
cho học sinh THPT.
3.2. Khách thể: Công tác Giáo dục hướng nghiệp cho Học sinh trường
THPT Lam Kinh- huyện Thọ Xuân- Tỉnh Thanh Hóa.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giáo dục hướng nghiệp trong trường
THPT.
- Nghiên cứu thực trạng công tác giáo dục hướng nghiệp tại trường THPT
Lam kinh.
- Xây dựng quy trình sử dụng họa đồ nghề để nâng cao nhận thức nghề
cho học sinh.
5. Phạm vi nghiên cứu.
Chỉ nghiên cứu quy trình sử dụng họa đồ nghề thông qua hoạt động
ngoại khóa trong nhà trường.
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1.
Nhóm phương pháp nghiên cứu Lý luận: phân tích- tổng hợp. Tham
khảo các tài liệu sách vở, báo chí.
6.2.
Nhóm phương pháp nghiên cứu Thực tiễn: điều tra bằng phiếu hỏi;
Nghiên cứu sản phẩm hoạt động; tổng kết kinh nghiệm thực tiễn;
thăm dò ý kiến.
SV: Lê Thị Thúy
3
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
7. Cấu trúc của bài luận văn.
Ngoài phần mở đầu, bài luận văn còn có các phần sau :
- Chương I:
Cơ sở lý luận của đề tài nghiên
- Chương II: Thực trạng công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường
THPT Lam Kinh- Huyện Thọ Xuân- Tỉnh Thanh Hóa.
- Chương III: Quy trình sử dụng họa đồ nghề để GDHN cho học sinh
trường THPT Lam Kinh - huyện Thọ Xuân- Tỉnh Thanh Hóa.
SV: Lê Thị Thúy
4
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TAÌ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số vấn đề về giáo dục hướng nghiệp
1.1.1 Hướng nghiệp:
Tuỳ theo cách tiếp cận mà ta có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm HN:
a, Xét về phương diện kinh tế học: HN được hiểu là hệ thống những
giải pháp dẫn dắt tổ chức thanh, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp nhằm
sử dụng hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi của đất nước. HN góp phần tích
cực vào quá trình phấn đấu nâng cao năng suất lao động xã hội.[4]
b, Xét về phương diện tâm lý học: HN được coi như một quá trình
chuẩn bị cho thế hệ trẻ sự sẵn sàng tâm lý đi vào lao động nghề nghiệp. Sự
sẵn sàng tâm lý đó chính là tâm thế lao động - một trạng thái tâm lý tích cực
trước HĐ lao động.[4]
c, Xét về phương diện giáo dục học: HN như một hệ thống tác động
giúp thế hệ trẻ có cơ sở khoa học trong việc chọn nghề, hệ thống điều chỉnh
sự lựa chọn nghề của HS cho phù hợp với những yêu cầu của sự phân công
lao động xã hội, có tính đến hứng thú và năng lực của từng cá nhân. Đối với
trường PT thì HN là một hệ thống giải pháp tác động của gia đình, nhà trường
và xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và
chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề tại những
nơi xã hội đang cần phát triển, đồng thời lại phù hợp hứng thú năng lực cá
nhân.
Như vậy HN là quá trình chọn nghề, chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào lao
động sản xuất xã hội có định hướng và hiệu quả hơn. HN vừa là HĐ dạy của
thầy vừa là HĐ học của trò, có nghĩa là trong công tác HN, GV là người tổ
chức, người hướng dẫn còn HS là người chủ động tham gia vào HĐ để tiếp
cận với hệ thống nghề nghiệp. Kết quả cuối cùng của quá trình HN là sự tự
quyết định của HS trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
SV: Lê Thị Thúy
5
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
1.1.2. Giáo dục hướng nghiệp.
1.1.2.1. Khái niệm:
Theo tài liệu HN của Australia thì “GDHN liên quan đến sự phát triển
kiến thức, kỹ năng và thái độ thông qua một chương trình hoạch định sẵn và
sẽ giúp HS có quyết định về sự lựa chọn nghề trong trường học và sau khi tốt
nghiệp, giúp HS làm việc có hiệu quả hơn”[3].
GDHN là hệ thống các giải pháp giáo dục của nhà trường, gia đình và
xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ về tâm lý, tri thức, kỹ năng để họ có thể
sẵn sàng đi vào ngành nghề, lao động sản xuất và cuộc sống. GDHN góp phần
phát huy năng lực, sở trường của từng người, đồng thời góp phần điều chỉnh
nguyện vọng của cá nhân sao cho phù hợp với nhu cầu phân công lao động
trong xã hội. Có thể nói "GDHN là hướng dẫn cho HS ngay khi còn ngồi trên
ghế nhà trường sớm có ý thức về một nghề mà sau này các em sẽ chọn”.
GDHN cho HS THPT là công việc của tập thể sư phạm nhà trường
nhằm giúp HS lựa chọn nghề một cách có ý thức trên cơ sở hiểu biết về sự
phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, về các HĐ, yêu cầu của nghề nghiệp,
những đòi hỏi về phẩm chất đạo đức, năng lực của người lao động đối với
nghề nghiệp, những điều kiện phát triển của nghề nghiệp. GDHN cho HS
THPT không những chỉ tạo ra cơ hội cho việc tuyển chọn lao động mà còn
góp phần vào việc phân công, sử dụng hợp lý HS tốt nghiệp ra trường. Đặc
biệt đối với các nước nghèo, nền kinh tế còn thấp, mạng lưới ngành nghề
chưa mở rộng, nhất là đối với các nước còn thừa thầy, thiếu thợ như nước ta
hiện nay. Từ đó ta thấy rằng thực chất GDHN trong trường PT là nhằm thực
hiện nhiệm vụ hình thành nhân cách nghề nghiệp cho HS, trên cơ sở điều
chỉnh động cơ hứng thú nghề nghiệp, chuẩn bị cho HS có ý thức chọn nghề
đảm bảo năng suất và hiệu quả lao động cao mang lại nhiều lợi ích cho cá
nhân và xã hội. Từ đó tư vấn giúp HS chọn nghề thích hợp.
SV: Lê Thị Thúy
6
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
1.1.2.2. Nhiệm vụ của GDHN ở trường PT
Chọn nghề là chọn cuộc đời, chọn tương lai. Cuộc đời của con người có
ý nghĩa chính là ở chỗ bằng lao động của mình đem lại lợi ích cho bản thân và
cho người khác. Công việc là nội dung chủ yếu của đời sống con người. Để
lao động trở thành niềm vui, hạnh phúc, sự thỏa mãn, nguồn cảm hứng và
sáng tạo, con người phải tạo cho mình một dạng hoạt động lao động, một
nghề thích hợp. Sự ăn khớp và tác động qua lại trong cặp “con người - nghề
nghiệp” này sẽ giúp con người phát triển và phát huy cao độ khả năng và sức
lực của mình. Với tư cách là một bộ phận cấu thành nền giáo dục phổ thông
hướng nghiệp là vấn đề giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ góp phần vào việc bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức, bồi dưỡng ý thức đúng đắn đối với lao động, nâng
cao chất lượng dạy và học, tạo ra những cơ sở ban đầu rất quan trọng cho thế
hệ trẻ tham gia lao động sản xuất và đào tạo nghề.
HN là một hoạt động giáo dục lâu dài và liên tục. Thông thường,
nguyện vọng nghề nghiệp của học sinh ít phù hợp với những đòi hỏi của xã
hội, vì vậy giáo dục phải định hướng cho học sinh biết chọn nghề xuất phát từ
những lợi ích của xã hội và biết đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân.
Vì vậy một trong những nhiệm vụ cơ bản của HN là giáo dục cho HS nhằm
hình thành tâm lí sẵn sàng tham gia lao động, hướng nghiệp phải được tiến
hành từ đầu cấp của trường PT thông qua các hoạt động giáo dục trong và
ngoài nhà trường mà trước hết phải giáo dục cho học sinh tình yêu đối với lao
động, hình thành ý thức, nghĩa vụ đối với lao động, trên cơ sở đó giáo dục cho
học sinh thói quen lao động, lao động vì tập thể. Đặc biệt đối với các nước mà
đieu kiện lao động còn vất vả, khó khăn thì việc giáo dục học sinh ý thức sẵn
sàng tham gia lao động sản xuất sau khi tốt nghiệp ra trườnglà rất quan trọng.
Tựu chung lại thì giáo dục hương nghiệp ở trường phổ thông có nhiệm vụ cụ
thể sau:
SV: Lê Thị Thúy
7
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
Theo chỉ thị số 33/2003/CT-BGD&ĐT thì GDHN có nhiệm vụ [3]:
- Giáo dục thái độ và ý thức đúng đắn với nghề nghiệp.
- Tổ chức cho HS học tập làm quen với một số nghề phổ biến trong xã
hội và các nghề truyền thống của địa phương.
- Tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của từng HS để
khuyến khích, hướng dẫn, bồi dưỡng khả năng nghề nghiệp thích hợp nhất.
- Động viên hướng dẫn HS đi vào những nghề, những nơi đang cần lao
động trẻ tuổi có văn hoá.
Ngoài ra, nhiệm vụ của GDHN là phải làm cho HS có thể thích ứng với
sự dịch chuyển của cơ cấu ngành nghề và cơ cấu lao động trong xã hội và địa
phương, nâng cao hiểu biết về an toàn lao động. Song song với nó còn rèn
luyện kỹ năng nghề nghiệp, thao tác kỹ thuật, kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng
tính toán và khả năng vận dụng kỹ thuật vào thực tiễn cho HS.
1.1.2.3. Các con đường giáo dục HN.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, GDHN trong trường PT được tiến hành qua
bốn con đường:
a, HN thông qua việc dạy các môn văn hóa:
Các môn khoa học cơ bản như Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Địa lí
v.v... có chức năng cung cấp một hệ thống những khái niệm làm nền tảng cho
sự hình thành tư duy lí luận, thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách
mạng cũng như tạo ra ở HS những kĩ năng thực hành, ứng dụng những tri
thức vào cuộc sống sinh động hàng ngày. GDHN qua các môn học là một
nguyên tắc đặt ra cho nhà giáo. Điều này có nghĩa là, những kiến thức mới,
những thông tin mới mà bài học mang lại cho HS đều phải có tác dụng
GDHN. Những khả năng HN qua các môn học gồm:
- Hình thành sự định hướng nghề nghiệp qua các bài giảng cụ thể, giúp
cho HS có biểu tượng tương đối rõ ràng về hệ thống nghề đang cần phát triển.
SV: Lê Thị Thúy
8
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
- Xây dựng cho HS phương pháp làm việc và tác phong công tác phù hợp
với nghề định chọn.
- Phát hiện năng khiếu, tài năng của HS qua các giờ học, từ đó tiến hành
công tác tư vấn nghề nghiệp cho HS.
- Giáo dục ý thức lao động XHCN đối với nghề nghiệp tương lai, từng
bước hình thành ở HS sự sẵn sàng tâm lí đi vào lao động sản xuất.
b, HN thông qua việc dạy môn công nghệ và dạy nghề PT:
HĐ dạy học môn công nghệ, dạy nghề PT có tác dụng to lớn trong
GDHN cho HSPT, góp phần tích cực thực hiện 4 nhiệm vụ HN đã nêu trong
quyết định 126/CP của Chính phủ. Cách thức thực hiện HN qua HĐ dạy học
môn công nghệ và nghề PT:
- Nghiên cứu kĩ để nắm vững, thực hiện nghiêm túc chương trình lao
động-HN.
- Trong quá trình soạn bài, lên lớp, giới thiệu cho HS biết các trường lớp
đào tạo, nhu cầu lao động của các ngành nghề liên quan đến tri thức và kĩ
năng của môn công nghệ và nghề PT.
- Bảo đảm thực hành, rèn luyện kĩ năng lao động tương ứng với kiến
thức công nghệ và nghề PT.
- Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu kĩ thuật cho HS.
c, HN thông qua sinh hoạt HN.
Sinh hoạt HN là hình thức GDHN qua việc giới thiệu cho HS biết các
ngành nghề đang cần phát triển và những nơi HS có thể đến đó học nghề hoặc
làm việc sau khi ra trường. Sinh hoạt HN thể hiện rõ vai trò chủ đạo của nhà
trường đối với việc định hướng nghề nghiệp cho thanh thiếu niên. Nội dung
chương trình sinh hoạt HN có tính hệ thống chặt chẽ nhằm cung cấp cho HS
những hiểu biết về: cách thức lựa chọn nghề nghiệp tương lai; tình hình và
yêu cầu phát triển kinh tế của địa phương, của đất nước; đặc điểm và yêu cầu
SV: Lê Thị Thúy
9
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
tâm sinh lí của hệ thống ngành nghề cơ bản trong xã hội; hệ thống trường lớp
đào tạo nghề của Trung ương và địa phương; các hướng đi của HS sau khi ra
trường.
d, HN thông qua HĐ ngoại khóa ở trong và ngoài nhà trường:
Những HĐ phong phú đa dạng của các tổ ngoại khoá và các hình thức
đọc thêm sách báo, xem phim, nghe đài, tham gia các HĐ do đoàn đội, hội
CMHS tổ chức ở trong và ngoài nhà trường giúp HS mở rộng thông tin nghề
nghiệp, nhu cầu lao động và điều chỉnh động cơ chọn nghề một cách sinh
động, tạo điều kiện để các em bộc lộ và thể nghiệm tài năng, hứng thú của
mình, sau đó tự giác điều chỉnh nguyện vọng, chọn nghề cho phù hợp với yêu
cầu xã hội. HN qua các HĐ ngoại khóa ở trong và ngoài nhà trường được tiến
hành như sau:
- Tổ chức cho HS đọc sách báo, nghe đài, xem phim, tận dụng các
phương tiện thông tin đại chúng, văn hoá nghệ thuật phục vụ GDHN, đồng
thời chú trọng xây dựng các tổ ngoại khoá.
- Tổ chức, động viên HS tích cực tham gia các HĐHN của các đoàn thể,
các cơ sở sản xuất và cơ sở giáo dục ở ngoài nhà trường.
- Phát huy vai trò chủ đạo của nhà trường đối với tác động HN của gia đình
1.2. Họa đồ nghề
1.2.1. Khái niệm.
Họa đồ nghề là một bản mô tả khách quan những điểm quan trọng nhất
của nghề. Trong đó gồm các nội dung chủ yếu của lao động: đối tượng lao
động; mục đích lao động; công cụ lao động; điều kiện lao động; các yêu cầu
đối với nghề… Những đặc điểm này được thể hiện một cách ngắn gọn, cô
đọng, những chỉ tiêu về cấu trúc yêu cầu của nghề, cấu trúc tâm lý của hoạt
động nghề đã được khái quát hóa.
Họa đồ nghề vừa là căn cứ vừa là phương tiện để đối chiếu năng lực
SV: Lê Thị Thúy
10
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
của học sinh trong tư vấn nghề.
1.2.2. Mục đích của họa đồ nghề
Mục đích của họa đồ nghề rất rộng. Bao gồm:
- Thứ nhất: Cung cấp các thông tin cần thiết về các nghề và nhóm nghề:
Những đặc điểm, tính chất, chức năng, nhiệm vụ nghề, tiền lương, triển vọng
của nghề…(Thông tin nghề)
- Cung cấp những yêu cầu về phẩm chất, năng lực cần thiết để cán bộ
tư vấn nghề đối chiếu với HS, nhằm xác định sự phù hợp nghề ( Tư vấn nghề)
- Cung cấp những thông tin để tuyển chọn người lao động cho các hoạt
động nghề khác nhau, bao gồm các yếu tố: Yêu cầu về thể lực; yêu cầu về
năng lực; thị trường lao động…v.v (Tuyển chọn nghề)
- Là tài liệu hữu ích giúp GV, các nhà giáo dục, tư vấn viên, phụ huynh
và học sinh muốn tìm hiểu về nghề nghiệp
1.2.3 Nội dung họa đồ nghề
Một bản họa đồ nghề đơn giản gồm các nội dung sau:
1. Tên nghề và tên các chuyên môn của nghề
2. Đặc điểm hoạt động của nghề
Đối tượng lao động
Mục đích
- Các công việc, thao tác chủ yếu phải hoạt động trong nghề
- Các sản phẩm,(bán thành phẩm, sản phẩm) thu được trong lao động
Công cụ lao động: Xẻng, cuốc, cày…
Điều kiện lao động
- Trong nhà, ngoài trời
- Nhiệt độ, tiếng ồn, độ ẩm, các chất độc hại, các sự cố nguy hiểm..
- Tư thế làm việc, đứng, ngồi…
3. Các yêu cầu của nghề đối với người lao động
SV: Lê Thị Thúy
11
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
- Yêu cầu về thể lực
- Yêu cầu về các phẩm chất tâm lý (khuynh hứng, hứng thú, năng
lực..)
- Yêu cầu về kiến thức và trình độ văn hóa, trình độ tay nghề…
4. Những chống chỉ định cần thiết: Những phẩm chất, bệnh lý không
phù hợp với nghề.
5. Giới thiệu những nơi đào tạo nghề: Các trường, trung tâm, viện…
có đào tạo nghề đó
6. Triển vọng bồi dưỡng và nâng cao tay nghề: Làm nghề đó được tập
huấn, bồi dưỡng kỹ thuật, có tài liệu hướng dẫn, tham khảo để nâng
cao tay nghề, bậc nghề..
7. Những nơi có thể tới làm việc hoặc hoạt động nghề
- Các cơ sở tư nhân
- Các cơ sở tập thể
-
Các cơ sở thuộc nhà nước
-
Các cơ sở liên doanh, liên kết
- Nước ngoài.
Từ những thông tin về họa đồ nghề, sẽ làm căn cứ cho cán bộ tư vấn
nghề, những giáo viên làm công tác hướng nghiệp làm cơ sở, tiền đề để biên
soạn các họa đồ nghề của từng nơi, từng địa phuơng cụ thể và giới thiệu cho
học sinh, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
thông qua việc sử dụng họa đồ nghề. (Họa đồ nghề cụ thể sẽ được trình bày ở
phần sau).
1.3. Công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường Trung học phổ thông
1.3.1. Giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT.
- Mục đích của giáo dục hướng nghiệp là giúp học sinh chọn trường,
chọn ngành và có hướng đi phù hợp sau khi tốt nghiệp THPT. Giúp học sinh
SV: Lê Thị Thúy
12
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
có những kiến thức căn bản về nghề nghiệp cũng như có cái nhìn đúng đắn
và khách quan hơn. Cụ thể, mục đích của GDHN là:
a, Về kiến thức:
- Hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp
tương lai.
- Hiểu được một số thông tin cơ bản về định hướng phát triển kinh tếxã hội của địa phương, đất nước và khu vực; về thế giới nghề nghiệp, thị
trường lao động, hệ thống giáo dục nghề nghiệp (TCCN và DN), CĐ, ĐH ở
địa phương và cả nước.
b, Về kĩ năng:
- Tự đánh giá được năng lực bản thân và điều kiện gia đình trong việc
định hướng nghề nghiệp tương lai.
- Tìm kiếm được những thông tin về nghề, về thị trường lao động và cơ
sở đào tạo cần thiết cho bản thân trong việc chọn nghề.
- Định hướng và lựa chọn được nghề nghiệp tương lai cho bản thân.
c, Về thái độ:
- Chủ động tự tin trong việc chọn nghề phù hợp.
- Có hứng thú và hướng chọn nghề đúng đắn.
1.3.2. Nội dung công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT.
Giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT là công tác giáo dục hướng
nghiệp toàn xã hội.
Xét trên bình diện xã hội về lâu dài muốn làm tốt nhiệm vụ HN thì nhà
trường PT phải làm tốt ba nội dung của GDHN:
a, Định hướng nghề nghiệp: là nhằm cung cấp cho HS những thông tin
về tình hình phát triển kinh tế của đất nước của địa phương, về nhu cầu sử
dụng lao động, về thế giới nghề nghiệp, về HĐ của những ngành nghề cơ bản,
nghề chủ yếu và những yêu cầu của nghề đối với người lao động. Qua đó giúp
SV: Lê Thị Thúy
13
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
HS đánh giá bản thân và lựa chọn nghề có chủ định.
b, Tư vấn HN: là hệ thống những giải pháp tâm lý- giáo dục để đánh
giá toàn bộ những phẩm chất, năng lực thể chất và tinh thần của thanh thiếu
niên, đối chiếu những yêu cầu do nghề đặt ra đối với người lao động, có cân
nhắc đến nhu cầu nhân lực của các thành phần kinh tế nhằm xác định nhóm
nghề phù hợp. Trên cơ sở đó cho HS những lời khuyên chọn nghề có căn cứ
khoa học, loại bỏ những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn trong khi chọn
nghề. Có hai loại tư vấn:
b1, Tư vấn sơ bộ: GV chủ nhiệm hoặc GV bộ môn đóng vai trò “nhà tư
vấn”, từ những hiểu biết về yêu cầu của một số ngành nghề ở một số trường
hoặc địa phương, về nhu cầu nhân lực và về năng lực của HS từ đó cho HS
những lời khuyên nên học gì? Ở đâu?
b2, Tư vấn chuyên sâu: Tiến hành trên cơ sở khoa học, đảm bảo độ
chính xác cao nhờ vào các máy móc hiện đại. Điều kiện để có loại tư vấn
chuyên sâu đòi hỏi phải có đội ngũ chuyên gia tư vấn được đào tạo có tay
nghề cao như các nhà tâm lý, các nhà giáo dục học, các bác sĩ...
c, Tuyển chọn nghề: là xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu của nghề để
tuyển người phù hợp vào học hay vào làm việc.
Ba nội dung này có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau. Trong
trường THPT ta thường tiến hành định hướng nghề nghiệp và tư vấn HN,
đồng thời góp phần cho việc tuyển chọn nghề. Đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay, các trường trung cấp, CĐ thường xuống trực tiếp trường PT để tuyên
truyền, tuyển chọn nghề thì nội dung công tác tuyển chọn nghề cũng được coi
là một nội dung mà trường PT cần phải làm. Ba nội dung của GDHN được
biểu diễn bằng sơ đồ:
SV: Lê Thị Thúy
14
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa các nội dung trong GDHN [20]
Định hướng nghề
Đặc điểm, yêu
cầu hệ thống
nghề xã hội cần
phát tiển
Tư vấn nghề 2
1
Thị trường
lao động
Phẩm chất, năng lực
hoàn cảnh cá nhân
3
Tuyển chọn nghề
Ba mặt hoạt động này có quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Trong nhà
trường phổ thông tiến hành hướng nghiệp chủ yếu là định hướng nghề nghiệp
và một phân tư vấn nghề, còn tuyển chọn lao động do các cơ quan, doanh
nghiệp, các cơ sở tuyển dụng tiến hành.Tuy nhiên công tác hướng nghiệp
không chỉ được thực hiện trong nhà trường phổ thông mà còn được tiến hành
trong các trường nghề nhằm tạo nên sự thích ứng nghề và được tiến hành cả
trong thời kỳ đầu khi người ta mới bước vào nghề nhằm hình thành sự ỏn
định nghề ở mỗi cá nhân, làm cho họ yên tâm, hạnh phúc trong lao động nghề
nghiệp.
Chương trình, kế hoạch GDHN ở trường THPT được thực hiện từ lớp
10, thống nhất theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT. Cấu trúc chương trình hiện
nay kế thừa ở lớp 9: lớp 10,11 chủ yếu giúp các em tìm hiểu về các nhóm
nghề cụ thể, còn lớp 12 tập trung vào việc tìm hiểu thông tin đào tạo và hướng
phát triển kinh tế nhằm giúp cho việc chọn nghề, chọn ngành, chọn trường có
hiệu quả. Chương trình GDHN ở trường THPT gồm các nội dung cụ thể như
sau: [ TL tập huấn bồi dưỡng GV về TVHN và chọn nghề]
SV: Lê Thị Thúy
15
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp Bài
1
2
3
4
5
6
10
7
8
9
1
2
3
4
5
Lớp TLGD K1B
Nội dung
Lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
Năng lực bản thân và truyền thống gia đình.
Tìm hiểu nghề dạy học.
Giới tính và nghề nghiệp.
Tìm hiểu một số nghề về Nông-Lâm-Ngư nghiệp.
Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành Y, Dược.
Tham quan một đơn vị sản xuất công hoặc nông nghiệp.
Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành xây dựng.
Nghề tương lai của tôi.
Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành Giao thông-Địa chất.
Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực kinh doanh, dich vụ.
Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực an ninh quốc phòng.
Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành Năng lượng, Bưu chính
viễn thông, Công nghệ thông tin.
Giao lưu với những điển hình về sản xuất, kinh doanh giỏi,
những gương vượt khó... theo chủ đề; Làm gì sau khi tốt
6
7
8
nghiệp THPT?
Nghề nghiệp với nhu cầu của thị trường lao động.
Thảo luận: Tôi muốn đạt được được ước mơ của mình.
Tham quan một số trường ĐH (hoặc CĐ), TCCN, DN tại
1
địa phương.
Định hướng phát triển kinh tế của đất nước, của địa
2
3
phương.
Thảo luận: Những điều kiện để thành đạt trong nghề.
Tìm hiểu hệ thống trường TCCN và đào tạo nghề của trung
4
5
6
7
8
ương và địa phương.
Tìm hiểu hệ thống đào tạo ĐH và CĐ.
Tư vấn nghề.
Hướng dẫn HS chọn nghề cụ thể để làm hồ sơ tuyển sinh.
Thảo luận: Thanh niên lập thân, lập nghiệp.
Tham quan hoặc tổ chức HĐ văn hoá theo chủ đề HN.
Thời lượng của HĐ GDHN là 3 tiết/tháng. Từ năm học 2008-2009, số
tiết của HĐ GDHN giảm còn 1 tiết/tháng, trong đó một số nội dung được tích
SV: Lê Thị Thúy
16
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
hợp vào HĐ ngoài giờ lên lớp và môn Công nghệ.
1.3.3. Phương pháp GDHN
Phương pháp GDHN có thể thực hiện riêng theo lớp hoặc theo khối
lớp, có thể giao cho GV hoặc mời các chuyên gia, nhà QL kinh tế, QL doanh
nghiệp giảng dạy. Các phương pháp cụ thể như sau:
a. Thuyết trình nêu vấn đề.
b. Dạy học theo tình huống
c. Thảo luận lớp về nội dung HN
d. Dạy học dự án: Dạy học theo dự án là một hình thức tổ chức dạy
học, trong đó HS thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn,
kết hợp lí thuyết với thực hành, tự lực lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá kết
quả. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm, kết quả dự án là những sản
phẩm có thể giới thiệu như các bài viết, tập tranh ảnh sưu tầm, chương trình
hành động cụ thể. Trong đó HS: là người học tích cực thông qua việc tự giải
quyết vấn đề, tự hướng dẫn, tìm ý nghĩa và tự xây dựng tri thức riêng, học qua
cộng tác và làm việc với bạn bè; GV: hướng dẫn tri thức, tạo khung cho việc
học tập có phối hợp.
e. Dạy học theo nhóm nhỏ: Nhóm giữ vai trò cơ bản trong việc hình
thành nhân cách của tuổi vị thành niên. Làm việc theo nhóm sẽ hỗ trợ cho
HN: tạo ra sự thay đổi ở HS về ý tưởng, định hướng nghề nghiệp… và giúp
HS đi đến quyết định cuối cùng. Mục đích chủ yếu của làm việc nhóm trong
HN là trợ giúp cho việc xây dựng bản thân (bản sắc cá nhân), cho sự thay đổi
và chuyển tiếp.
f. Tổ chức trò chơi theo chủ đề HN.
g. Đóng vai (diễn kịch), mô phỏng.
( Tài liệu tập huấn & bồi dưỡng GV về hướng nghiệp và chọn nghề Bộ GD&ĐT - TTLĐ-HN ).
SV: Lê Thị Thúy
17
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
1.3.4. Hình thức GDHN.
Các hình thức GDHN.
- HN qua dạy các môn văn hóa.
- HN qua dạy môn công nghệ và DN PT.
- HN qua các buổi sinh hoạt HN.
- HN qua HĐ ngoại khóa như HĐ tham quan các cơ sở sản xuất, các
trường ĐH, CĐ, trung cấp nghề, các cuộc thi...
1.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng GDHN ở trường phổ thông
1.3.5.1. Yếu tố khách quan:
a. Sự chỉ đạo của Bộ, ngành: Thông qua việc ban hành hệ thống các
văn bản pháp quy hướng dẫn về định hướng, mục tiêu, nội dung, chương trình
kế hoạch GDHN và việc kiểm tra, đánh giá công tác GDHN ở cơ sở. Hiện nay
hệ thống các văn bản pháp quy này về cơ bản đã được ban hành khá cụ thể
như nội dung chương trình và hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên, chưa có văn
bản về đánh giá, tổng kết công tác này như thế nào, gắn với thi đua, khen
thưởng ra sao. Kết quả GDHN mới chỉ có tác dụng tham gia đánh giá về hạnh
kiểm HS. Vì vậy, ảnh hưởng của nó đối với công tác GDHN và QL GDHN tại
các trường THPT chưa cao.
b. Triển khai thực hiện của cơ sở: Hoạt động GDHN đã được bộ
GD&ĐT đưa vào chương trình giáo dục phổ thông nhằm giúp HS tìm hiểu về
thế giới nghề nghiệp, biết cách tìm kiếm thông tin nghề và cơ sở đào tạo cần
thiết cho bản thân, biết cách tự đánh giá năng lực bản thân, điều kiện gia đình
và nhu cầu xã hội để định hướng học tập và chọn nghề tương lai cho phù hợp.
Tuy nhiên, nhìn chung khi tiến hành triển khai kế hoạch, do điều kiện của
trường và thời gian riêng dành cho công tác GDHN còn hạn chế, hầu như chỉ
thực hiện công tác này bằng cách lồng ghép vào các môn văn hóa hoặc có tổ
chức GDHN nhưng mức độ và tần số còn ít, chưa thực hiện đúng, đủ nhiệm
SV: Lê Thị Thúy
18
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
vụ, nội dung GDHN, chưa có phương pháp, hình thức phù hợp. Vì vậy chất
lượng GDHN ở các trường THPT còn hạn chế
c. CSVC phục vụ công tác GDHN: Lãnh đạo nhà trường phải hết sức
quan tâm tạo điều kiện về CSVC phục vụ công tác GDHN như: tài liệu, máy
chiếu, băng hình, phòng, xưởng và chế độ thù lao với CBGV làm công tác
này. Hiện nay, vấn đề đáp ứng về CSVC phục vụ cho công tác HN còn hạn
chế, nhà trường còn chưa đầu tư được nhiều trang thiết bị để phục vụ riêng ,
vì vậy phần nào ảnh hưởng đến chất lượng công tác này.
1.3.5.2. Yếu tố chủ quan
a. Ý thức của CBQL, GV, HS và CMHS: Có thái độ, ý thức đúng đắn
với công tác GDHN, đánh giá đúng vai trò của công tác GDHN trong việc
định hướng HS chọn ngành, chọn nghề. Ý thức đúng đắn của các lực lượng
tham gia công tác GDHN sẽ quyết định sự thành công của công tác này ở
trường PT.Sự quyết tâm, đồng lòng của các lực lượng kể trên sẽ là nguồn
động lực thúc đẩy để nâng cao chất lượng công tác GDHN. Tuy nhiên, do còn
nhiều bất cập giữa chương trình GD và thời gian, điều kiện nhà trường đã ảnh
hưởng không nhỏ đến công tác này. Một số GV chưa tìm được phương thức
làm việc hiệu quả và sáng tạo dẫn đến hiệu quả công tác này còn hạn chế. Đối
với CMHS, đa số đánh giá cao vai trò của công tác GDHN, nhưng bên cạnh
đó hầu hết chưa tìm được phương pháp HN cho con em mình và thiếu các
thông tin cần thiết nên khả năng thuyết phục đối với con em không cao.
b. Sự ủng hộ và đồng lòng của tập thể GV, HS và CMHS: cũng như mọi
HĐ khác, công tác GDHN trong trường THPT không thể thành công nếu
không có sự ủng hộ đồng lòng của đối tượng và các lực lượng GDHN, trong
đó sự ủng hộ, đồng lòng của tập thể GV, HS và CMHS đóng vai trò quan
trọng nhất. Trong vấn đề trên, một bộ phận CBGV còn chưa thực sự ủng hộ,
còn đùn đẩy trách nhiệm, còn CMHS thì nhiều người chưa quyết tâm thực
SV: Lê Thị Thúy
19
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
hiện, chiều theo ý thích con cái hoặc sợ trách nhiệm. Ngược lại, có người rất
độc đoán, không tôn trọng sự chọn lựa của con em họ. Chính vì vậy, công tác
GDHN hiện nay ở các trường PT đang cần có sự đồng thuận cao của tất cả
mọi người liên quan.
c. Chất lượng của các lực lượng tham gia GDHN: Là yếu tố hết sức
quan trọng quyết định chất lượng công tác GDHN ở trường THPT, đặc biệt là
đội ngũ CBGV- những người trực tiếp làm công tác này. Vì thế, phải chú
trọng đến việc nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực thực hiện GDHN của họ. Hiện nay, đội ngũ này hầu hết chưa có CM
về GDHN, mới chỉ qua tập huấn ngắn ngày ở sở GD&ĐT, chưa đủ mạnh để
đảm đương hoàn thành nhiệm vụ được giao. Vì vậy mới xảy ra tình trạng làm
theo kiểu đối phó là chính dẫn đến chất lượng công tác GDHN chưa đáp ứng
được yêu cầu của các cấp ngành.
1.4. Các văn bản, chỉ thị về giáo dục HN
Thế giới ngày nay đang tiến vào thế kỷ XXI với cuộc chạy đua ráo riết
về khoa học công nghệ, về chất lượng thông tin. “Phần thắng sẽ thuộc về
quốc gia nào không những xây dựng và phát triển được một nền kinh tế hùng
mạnh dựa trên cơ sở kỹ thuật công nghệ cao mà còn GD&ĐT được một đội
ngũ lao động, năng động, sáng tạo có trình độ nghề nghiệp cao mà từng cá
nhân có khả năng tự lựa chọn, định hướng và phát triển các phẩm chất và
năng lực nghề nghiệp của mình cho phù hợp với nhu cầu rất phong phú đa
dạng và thường xuyên biến đổi về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo của
nền sản xuất và đời sống xã hội hiện đại”.
Chính vì vậy mà ngày 19/3/1981 Hội đồng Chính phủ đã ra quyết định
số 126/CP, trong quyết định này đã khẳng định: “Thực hiện phân ban ở cấp
THPT trên cơ sở đảm bảo chuẩn kiến thức PT cơ bản toàn diện và HN cho
mọi HS”. [20]
SV: Lê Thị Thúy
20
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
Ngày 23 tháng 7 năm 2003, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ra chỉ thị số
33/2003/CT-BGD&ĐT về tăng cường GDHN cho HSPT. Từ khi sát nhập bộ
Giáo dục và Bộ ĐH - Trung học chuyên nghiêp thành Bộ GD&ĐT, đây là lần
đầu tiên có một chỉ thị do Bộ trưởng ký về GDHN. Chỉ thị này ban hành trong
bối cảnh toàn ngành giáo dục đang triển khai nhiệm vụ đổi mới chương trình
GDPT theo Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 40 của Quốc hội
khoá X và chỉ thị số 14 của Thủ tướng Chính phủ. Với ý nghĩa quan trọng đó,
Chỉ thị 33/2003/CT-BGD&ĐT đã định hướng cho GDHN không chỉ vài năm
mà là một giai đoạn nhiều năm. Chỉ thị đã khẳng định GDHN là một bộ phận
hữu cơ của nội dung giáo dục toàn diện đã được xác định trong Luật giáo dục.
Chỉ thị đã xác định ý nghĩa, mục tiêu, nội dung của GDHN, đồng thời còn chỉ
ra nhiệm vụ cụ thể của các cấp QL, các cơ sở giáo dục... trong việc đẩy mạnh
GDHN thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, chuẩn bị cho HS học lên hoặc
đi vào đời sống lao động, phục vụ cho sự phát triển đất nước.
Điều 27 chương III Luật giáo dục 2005 khẳng định về mục tiêu của
giáo dục THPT “Giáo dục THPT nhằm giúp HS củng cố và phát triển những
kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn PT và có những hiểu biết
thông thường về kỹ thuật và HN, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để
lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học ĐH, CĐ, trung cấp, học nghề hoặc đi
vào cuộc sống lao động”.
Trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định:
“Coi trọng bồi dưỡng cho HS, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng
đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng
đồng, của dân tộc.”
“Hoàn chỉnh và ổn định lâu dài hệ thống giáo dục quốc dân; chú trọng
phân luồng sau THCS bảo đảm liên thông giữa các cấp đào tạo”.
“Mở rộng qui mô DN và THCN bảo đảm tốc độ tăng nhanh hơn đào
SV: Lê Thị Thúy
21
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
tạo ĐH, CĐ. Qui mô tuyển sinh DN dài hạn tăng 17%/năm và THCN tăng
15%/năm”. [ 15, 207, 208]
Trong chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2010 và chủ trương đổi
mới chương trình GDPT hiện nay cũng nhấn mạnh đến yêu cầu tăng cường
GDHN cho HSPT, nhằm góp phần tích cực vào việc phân luồng HS một cách
có hiệu quả, chuẩn bị cho HS đi vào cuộc sống lao động hoặc được tiếp tục
đào tạo phù hợp với năng lực của bản thân, nhu cầu của xã hội và của địa
phương, đất nước.
1.5. Ý nghĩa của việc GDHN ở trường THPT
1.5.1. Ý nghĩa giáo dục: GDHN là bộ phận hữu cơ của GDPT. Nó có
khả năng điều chỉnh động cơ chọn nghề và hứng thú nghề nghiệp của HS theo
nhu cầu lao động và sự phân công lao động của xã hội, của địa phương.
GDHN giúp cho thế hệ trẻ chọn đúng nghề phù hợp với kỹ năng và năng lực
của cá nhân, phù hợp xu thế phát triển của xã hội.
GDHN góp phần cụ thể hoá mục tiêu đào tạo của trường THPT, nó
không những chỉ đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động có tri thức, có kỹ
năng làm việc, có óc sáng tạo mà còn sẵn sàng thay đổi nghề nghiệp khi cần
thiết cũng như có thể tham gia lao động ở bất cứ nơi nào. Như vậy GDHN
trong trường THPT không dừng ở chỗ giáo dục cho HS ý thức lao động chung
chung mà phải hướng các em đi vào một nghề cụ thể hoặc biết tự tạo việc làm
phù hợp với khả năng và nhu cầu của xã hội, có thể thích ứng việc làm trong
mọi điều kiện và cũng có thể thay đổi việc làm khi cần thiết.
1.5.2 Ý nghĩa kinh tế: GDHN hướng vào sử dụng hợp lý tiềm năng lao
động trẻ để từ đó nâng cao năng suất lao động, giúp họ biết phát huy khả năng
của mình, có lòng yêu nghề và tự tạo hứng thú trong nghề nghiệp. Nhất là
trong giai đoạn chạy đua giữa các nước về khoa học kỹ thuật, về số lượng và
chất lượng thông tin. Trong cuộc chạy đua này phần thắng sẽ thuộc về quốc
SV: Lê Thị Thúy
22
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
gia nào làm tốt việc đào tạo đội ngũ lao động lành nghề có tri thức, đội ngũ
cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao. Điều đó cũng có nghĩa là quốc gia
nào làm tốt công tác GDHN. Vì thế khi nói đến GDHN là nói đến tác dụng
của nó đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
1.5.3. Ý nghĩa chính trị: Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định giáo
dục phải “Tạo ra một cơ cấu lao động mới trong đó lao động có trình độ cao,
có kỹ năng, biết ngoại ngữ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn”.[14, 55]
Vì vậy, nếu GDHN một cách nghiêm túc sẽ góp phần không nhỏ vào
việc phân luồng HS tạo tiền đề cho việc tạo ra cơ cấu lao động mới, không
những có kiến thức khoa học, có óc sáng tạo mà còn có những kiến thức cơ
bản về kỹ thuật sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, những thói quen lao động,
sẵn sàng bước vào cuộc sống lao động, để xây dựng sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước, thực hiện chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN, với mục tiêu
làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.5.4. Ý nghĩa xã hội: GDHN ở trường PT nhằm mục đích đưa HS
THPT đi vào các ngành nghề mà xã hội và địa phương cần, giúp các em chọn
được một nghề, để được làm việc, được cống hiến cho xã hội để nuôi sống
bản thân và giúp đỡ gia đình.
Vì vậy nếu làm tốt công việc GDHN sẽ có thể định hướng cho thế hệ
trẻ đi vào cuộc sống lao động một cách có chủ định, hợp khả năng, không
lãng phí, có hiệu quả kinh tế cao góp phần ổn định xã hội, tạo nên một nếp
sống lao động bình thường, lành mạnh, kinh tế bền vững.
Kết luận chương 1.
Chất lượng nguồn nhân lực đang là mục tiêu và động lực của sự phát
triển kinh tế xã hội vì phần thắng sẽ thuộc quốc gia nào GD&ĐT được đội
ngũ lao động năng động, sáng tạo có trình độ nghề nghiệp cao.
Để có được đội ngũ lao động năng động, sáng tạo có trình độ nghề
SV: Lê Thị Thúy
23
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
nghiệp cao thì GDHN trong trường THPT giữ một vai trò rất quan trọng vì nó
góp phần cho sự phân luồng HS, từ đó tạo sự cân bằng trong lao động tránh
tình trạng thừa thầy thiếu thợ như hiện nay.
Nâng cao chất lượng GDHN ở trường THPT là việc tất yếu và cần
thiết, điều đó được thể hiện thông qua các hoạt động hướng nghiệp trong đó
việc giới thiệu và xây dựng quy trình sử dụng họa đồ nghề chiếm vị trí quan
trọng và chủ chốt.
Như vậy, những vấn đề lý luận được trình bày ở chương I sẽ là căn cứ
quan trọng giúp chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng công tác GDHN ở
trường THPT trong chương II của luận văn.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP Ở TRƯỜNG
THPT LAM KINH – HUYỆN THỌ XUÂN - TỈNH THANH HÓA
2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội và giáo dục của huyện Thọ Xuân.
2.1.1 Tình hình phát triển kinh tế- xã hội huyện Thọ Xuân.
Thọ Xuân nằm về phía tây bắc thành phố Thanh Hoá là huyện đồng
bằng nối liền với trung du và miền núi của tỉnh Thanh Hoá. Phía Bắc - Tây
bắc giáp huyện Ngọc Lặc, phía Nam giáp huyện Triệu Sơn, phía Tây giáp
huyện Thường Xuân, phía Đông - Đông bắc giáp huyện Yên Định, phía Đông
SV: Lê Thị Thúy
24
Khóa luận tốt nghiệp
Học viện Quản lý giáo dục
Lớp TLGD K1B
- Đông nam giáp huyện Thiệu Hoá.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện: 30.035,58 ha với dân số tính đến
năm 2009 khoảng 300.000 người, thuộc ba dân tộc Kinh, Mường, Thái cùng
sống hoà thuận bên nhau. Có thể nói Thọ Xuân là nơi có nền kinh tế - văn
hoá, chính trị ổn định và phát triển, là vùng đất, lịch sử, văn hoá giàu truyền
thống cách mạng.
Về cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, công nghiệp, chăn nuôi và
dịch vụ. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
cùng với sự nỗ lực cố gắng của nhân dân trong huyện, kinh tế có nhiều
chuyển biến tích cực. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vật nuôi cây trồng đã
đem lại hiệu quả phát triển rõ nét. Đặc biệt khu vực kinh tế Lam Sơn - Sao
Vàng phát triển khá năng động. Trên khu vực này có nhà máy đường Lam
Sơn một trong những đơn vị dẫn đầu phong trào mía đường của cả nuớc.
2.1.2 Tình hình GD THPT huyện Thọ Xuân.
2.1.2.1. Mạng lưới trường, lớp, HS.
Tình hình giáo dục THPT huyện Thọ Xuân được thể hiện rõ qua các
bảng 2.1 và 2.2 sau:
Bảng 2.1. Mạng lưới trường, lớp, HS và chất lượng HS THPT.
Số
Năm học Số
trường lớp
THPT
Số
HS
Chất lượng HS
Hạnh kiểm (tỉ lệ %)
Tốt
Khá TB
Yếu
Học lực (tỉ lệ %)
Giỏi Khá
TB
Yếu,
kém
2007-2008
6
186 8950 79.1 15.1 5.1
0.7
2.2
46.4 46.1
5.3
2008-2009
6
183 8974 80.1 14.7 4.7
0.5
2.4
45.4 47.1
5.1
2009-2010
6
182 8454 79.5 15.3 4.6
0.6
2.3
43.4 49.8
4.5
SV: Lê Thị Thúy
25
Khóa luận tốt nghiệp