Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Vận dụng nguyên tắc tập tập trung dân chủ trong quản lý nhà trường ở Trường Trung học cơ sở Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.56 KB, 76 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới quản lý giáo dục hiện nay là một nhiệm vụ cấp bách của Nhà
nước và mọi cơ sở giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Nó đòi hỏi
phải đổi mới toàn diện trong đó chú trọng phát huy quyền làm chủ của cán bộ
giáo viên, học sinh và nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu. Thực chất
của vấn đề này là thực hành tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý
giáo dục.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng số một trong
hoạt động của mọi tổ chức chính trị xã hội và mọi cơ quan tổ chức nhà nước
cũng như mọi nhà trường. Từ khi ra đời đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam
luôn tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; nhờ đó, Đảng
cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng Việt Nam
hơn nửa thế kỷ qua. Quan điểm “Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ…”
đã được Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định trong nhiều văn kiện quan trọng
của Đảng như Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng 8 – Khóa VII,
Báo cáo Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII; Điều 9 - Điều lệ Đảng cộng
sản Việt Nam ghi rõ: “Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập
trung dân chủ”. Tập trung dân chủ là nguyên tắc Hiến định. Nguyên tắc này
trở thành nguyên tắc Hiến định Điều 6, chương 1– Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi) quy định: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà
nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Trong
quản lý nhà trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định 04/2000/QĐBGD&ĐT về việc ban hành “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của
nhà trường” cũng quy định rõ trách nhiệm của Hiệu trưởng tại khoản 7 Điều 4
của Quy chế như sau: “Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ
trong quản lý nhà trường…”.Vì vậy việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân
chủ trong quản lý nhà trường càng có ý nghĩa quan trọng, vừa đảm bảo định
hướng chính trị vừa nâng cao chất lượng quản lý nhà trường.
Trên thực tế, việc vận dụng nguyên tắc này trong các cơ quan, đơn vị


nhà trường trên phạm vi cả nước đã đạt được một số kết quả nhất định song
còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Trong các trường trung học cơ sở ỏ Hà
1


Nam nói chung và huyện Thanh Liêm thuộc tỉnh Hà Nam nói riêng, việc vận
dụng nguyên tắc tập trung dân chủ cũng như thực hiện quy chế dân chủ trong
trường học bước đầu đã tạo ra không khí dân chủ và trách nhiệm trong các
trường học. Tuy nhiên cũng giống như nhiều cơ quan đơn vị thuộc nhiều
ngành, lĩnh vực khác, vẫn có Hiệu trưởng ở nhiều trường vận dụng chưa tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ vào trong các hoạt động quản lý của nhà trường
nên chưa phát huy được sức mạnh tập thể cũng như trí tuệ và trách nhiệm của
người Hiệu trưởng. Điều đó, ảnh hưởng không tốt đến chất lượng dạy và học
của nhà trường.
Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ
nhằm nâng cao năng lực, trách nhiệm của người Hiệu trưởng và phát huy
quyền làm chủ của cán bộ, giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh trong
các trường trung học cơ sở ở huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam vẫn là một yêu
cầu cấp thiết cần có những nghiên cứu thực tế và có những biện pháp để vận
dụng nguyên tắc tập trung dân chủ được tốt hơn, ổn định nhà trường, nâng
cao chất lượng quản lý. Đó là việc làm quan trọng đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của mỗi nhà trường cũng như toàn ngành giáo dục.
Trường Trung học cơ sở Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam là
nơi em đã từng học tập và có nhiều kỷ niệm gắn bó.Việc vận dụng nguyên tắc
tập trung dân chủ trong quản lý nhà trường có những kết quả và hạn chế nhất
định. Là một học sinh cũ của trường, với mong muốn nâng cao chất lượng
quản lý nhà trường, góp phần xây dựng nhà trường từng bước phát triển, em
chọn đề tài: “Vận dụng nguyên tắc tập tập trung dân chủ trong quản lý
nhà trường ở Trường Trung học cơ sở Thanh Hà, huyện Thanh Liêm,
tỉnh Hà Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp khóa học; hy vọng luận văn sẽ

góp phần thiết thực và có hiệu quả cho việc vận dụng nguyên tắc tập trung
dân chủ trong quản lý trường học ở Trường Trung học cơ sở Thanh Hà qua đó
đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của nhà trường trong
giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng việc vận dụng nguyên tắc tập
trung dân chủ trong quản lý nhà trường ở Trường Trung học cơ sở Thanh Hà,
huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam hiện nay, luận văn xác định một số biện
pháp và kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ trong
quản lý của nhà trường, nâng cao chất lượng quản lý và chất lượng dạy học,
giáo dục, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đổi mới quản lý giáo dục hiện nay.
2


3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân
chủ trong quản lý trường học, làm sáng tỏ sự cần thiết phải thực hiện sáng tạo
nghiêm túc, linh hoạt nguyên tắc tập trung dân chủ trong các trường học hiện
nay.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng vận dụng nguyên tắc tập trung dân
chủ ở Trường Trung học cơ sở xã Thanh Hà hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng vận dụng nguyên
tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà trường ở Trường Trung học cơ sở
Thanh Hà hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Là nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong
quản lý nhà trường.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong

quản lý nhà trường của Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Thanh Hà,
huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam hiện nay.
Do điều kiện còn hạn chế về nguồn lực, thời gian nên đề tài chỉ nghiên
cứu việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ ở một trường trung học cơ sở
với một số hoạt động tổ chức và quản lý của nhà trường mà chưa đi sâu cụ thể
vào từng nội dung quản lý nhà trường cũng như nghiên cứu việc vận dụng
nguyên tắc này ở nhiều trường khác.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà
trường thì chất lượng quản lý ở Trường Trung học cơ sở Thanh Hà, huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam sẽ được nâng cao qua đó góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục của nhà trường.
7. Nhóm phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận gồm: phương pháp phân tích
và tổng hợp lý thuyết; phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm: phương pháp quan sát;
phương pháp điều tra; phương pháp thống kê; phương pháp chuyên gia.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

3


-Ý nghĩa lý luận: Đề tài làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc vận dụng
nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà trường.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài đã khảo sát thực trạng vận dụng nguyên tắc
tập trung dân chủ trong quản lý nhà trường ở Trường Trung học cơ sở Thanh
Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam giúp nhà trường hiểu rõ thực trạng vấn
đề này.
Trên cơ sở đó cùng với các cơ sở khác, luận văn đề xuất một số biện

pháp có tính hiện thực và khả thi, có khả năng góp phần nâng cao chất lượng
vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà trường qua đó nâng
cao chất lượng quản lý ở Trường Trung học cơ sở Thanh Hà. Các trường
trung học cơ sở khác có hoàn cảnh tương tự như trường Trung học cơ sở
Thanh Hà có thể tham khảo và ứng dụng.
9.Kế hoạch và tiến độ thực hiện
Đề tài được thực hiện trong 5 tháng, từ ngày 15/12/2010 đến ngày
15/05/2011.
STT
Công việc thực hiện
Tiến độ thời gian
1
2

3

4
5

Nhận đề tài, lập và thông qua đề
cương
Nghiên cứu tài liệu và khảo sát
thực trạng và xây dựng đề cương
chi tiết.
Viết bản thảo, thông qua thầy
hướng dẫn, xin ý kiến chuyên
gia.
Hoàn thiện đề tài, xin ý kiến
hướng dẫn của giảng viên.
Nộp luận văn


10. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận gồm các phần sau đây:
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận

4

Từ
ngày
15/12/2010
đến
15/02/2011
Từ ngày 13/01/2011 đến ngày
01/03/2011
Từ ngày 02/03/2011 đến ngày
15/04/2011
Từ ngày 18/04/2011 đến ngày
30/04/2011
Từ ngày 02/05/2011 đến ngày
04/05/2011


Chương 2: Thực trạng vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong
quản lý nhà trường ở Trường Trung học cơ sở Thanh Hà, huyện Thanh Liêm,
tỉnh Hà Nam.
Chương 3: Một số biện pháp của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất
lượng vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà trường ở
Trường Trung học cơ sở Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.

PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Quản lý
Quản lý là gì? Ngày nay, nhiều người thừa nhận quản lý là một nghề và
là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội. Quản lý là hoạt động phổ biến
diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và liên quan tới tất cả mọi
người. C. Mác coi quản lý là một đặc điểm vốn có, bất biến về mặt lịch sử của
đời sống xã hội. Ông viết: “Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu có một sự chỉ
đạo để điều hòa các hoạt động cá nhân, sự chỉ đạo đó phải là các chức năng
chung, tức là những chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động
chung của cơ thể sản xuất với những vận động cá nhân của những khí quan
độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển
lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng”.
Thuật ngữ quản lý gồm hai quá trình tích hợp nhau: Quá trình “quản”
gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ thống ở trạng thái ổn định; quá trình “lý” là
sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ vào thế phát triển. Vì vậy nếu người chỉ
huy chỉ lo việc quản thì tổ chức dễ trì trệ, và nếu chỉ quan tâm đến lý thì phát
triển không bền vững. Quản lý phải làm cho hệ thống ở trạng thái cân bằng
động, vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong môi trường tương tác
giữa các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.Thuật ngữ quản lý trở
nên phổ biến và có rất nhiều cách đĩnh nghĩa khác nhau, nhưng chưa có một

định nghĩa chính xác nhất được tất cả mọi người chấp nhận hoàn toàn.Tuy
vậy các định nghĩa đưa ra đều có những điểm chung thống nhất ở một mức độ
nhất định.
Theo Đại Bách Khoa toàn thư Liên Xô trước đây “Quản lý là chức
năng của những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội, sinh vật,
kỹ thuật), nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động,
thực hiện những chương trình, mục đích hoạt động”.
Một số quan niệm khác:
- Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể người để tổ chức và phối
hợp hoạt động của họ trong suốt quá trình lao động.

6


- Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý ( người bị quản lý) trong một
tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích.
- Quản lý là hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm hoàn thành công
việc qua những nỗ lực của người khác.
- Mary Parker Follett cho rằng “Quản lý là nghệ thuật đạt được mục
đích thông qua nỗ lực của người khác”. Định nghĩa này nói lên rằng những
nhà quản lý đạt được mục tiêu của tổ chức bằng cách sắp xếp, giao việc cho
những người khác thực hiện chứ không phải hoàn thành công việc bằng chính
mình.
- Hiện nay, quản lý được định nghĩa rõ ràng hơn: Quản lý là quá trình
đạt tới mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các chức năng: Kế hoạch –
Tổ chức – Chỉ đạo – Kiểm tra.
Tuy nội hàm của các định nghĩa có khác nhau song các đều đề cập tới
bản chất của hoạt động quản lý: Đó là cách tổ chức điều khiển (cách tác động)
của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm thực hiện có hiệu quả mục

tiêu mà tổ chức đã đề ra.
Bản chất của hoạt động quản lý nói một cách cụ thể hơn đó là sự tác
động có mục đích đến tập thể người nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Trong
giáo dục, đó là những tác động của nhà quản lý đến tập thể giáo viên, người
phục vụ, học sinh và các lực lượng giáo dục khác nhằm đạt được mục tiêu
quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục có bản chất vì lợi ích phát triển của giáo dục nhằm mục tiêu
tối thượng là hình thành và phát triển nhân cách người được giáo dục, đối
tượng giáo dục và chủ thể giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội.
1.1.2 Quản lý giáo dục
1.1.2.1 Khái niệm và bản chất của quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục cũng có nhiều cách diễn đạt:
- Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là sự điều hành, điều chỉnh và
phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường
xuyên trong xã hội, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho
mọi người; tuy nhiên trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ cho nên quản lý
giáo dục được hiểu là sự điều hành, điều chỉnh toàn bộ hệ thống giáo dục
quốc dân và các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm thực
7


hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và hoàn
thiện nhân cách công dân.
- Khi đề cập tới nội dung của quản lý giáo dục đó là hoạt động chăm
sóc, giữ gìn, sửa sang, sắp xếp, phối hợp và đổi mới để ổn định và phát triển
giáo dục, một bộ phận quan trọng của kinh tế - xã hội. Hệ thống giáo dục,
mạng lưới nhà trường là bộ phận kết cấu hạ tầng xã hội, do vậy quản lý giáo
dục là quản lý một loại quá trình kinh tế xã hội nhằm thực hiện đồng bộ, hài

hòa sự phân hóa xã hội để tái sản xuất sức lao động có kỹ thuật phục vụ các
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Theo cố giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: “Vấn đề cốt lõi của quản lý
nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học, có tổ chức được
các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ
thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo dục; tức là cụ thể
hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp
ứng yêu cầu của nhân dân và đất nước”.
- Tác giả Trần Kiểm, tiếp cận khái niệm quản lý giáo dục theo hai cấp
độ vĩ mô và vi mô.
+ Đối với cấp vĩ mô:
• Quản lý giáo dục là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích,
có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt
xích của hệ thống ( từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục nhà trường) nhằm
thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo thế
hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục.
• Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích
của chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm tạo tính trồi (emergence) của
hệ thống; sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống
nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện đảm bảo
sự cân bằng với môi trường bên ngoài luôn luôn biến động.
• Cũng có thể đĩnh nghĩa quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ
thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát,…một
cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ
cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Các khái niệm nêu trên tương ứng với sự phát triển hệ thống giáo dục
quốc dân trên quy mô cả nước hay hệ thống giáo dục của một tỉnh / thành phố
hay đối với hệ thống giáo dục của một ngành học, cấp học cụ thể nào đó.
+ Đối với cấp vi mô (nhà trường):
8



• Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản
lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và
các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường;
• Cũng có thể định nghĩa quản lý giáo dục thực chất là những tác động
của chủ thể quản lý vào quả trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể giáo
viên và học sinh với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của
nhà trường.
• Thuật ngữ quản lý trường học / quản lý nhà trường có thể xem là đồng
nghĩa với quản lý giáo dục thuộc tầm vi mô. Đây là những tác động quản lý
diễn ra trong phạm vi nhà trường.
Quản lý giáo dục (quản lý nhà trường) là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho nhà
trường vận hành theo đúng đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực
hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu
điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục, đưa nhà trường tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất, góp phần thực hiện mục tiêu chung của
giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tóm lại, bản chất của quản lý giáo dục là quá trình tác động có định
hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động
giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục. Các
thành tố đó là: Mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục,
lực lượng giáo dục (người dạy), đối tượng giáo dục ( người học), phương tiện
giáo dục (cơ sở vật chất).
1.1.2.2 Chức năng quản lý giáo dục

Chức năng quản lý giáo dục là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt,
thông qua đó chủ thể quản lý giáo dục tác động vào đối tượng quản lý của
mình nhằm thực hiện các mục tiêu quản lý giáo dục. Quản lý giáo dục có bốn
chức năng cơ bản đó là các chức năng sau: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo,
kiểm tra cùng với các hoạt động chung là thông tin và quyết định. Thông tin
là mạch máu của quản lý.
- Lập kế hoạch: Là quyết định trước xem phải làm gì, làm như thế nào,
làm khi nào và ai làm cái đó.
9


Có thể hiểu kế hoạch có nghĩa là xác định mục tiêu, mục đích đối với
thành tựu tương lai của tổ chức và các con đường biện pháp, cách thức tổ
chức để đạt mục tiêu, mục đích đó.
- Tổ chức: Là quá trình hình thành nên cấu trúc và các quan hệ giữa các
thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện
thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ có
việc tổ chức mà người quản lý mới có thể điều phối tốt các nguồn lực.
- Chỉ đạo: Là tác động nhằm hướng dẫn, thúc đẩy, động viên người
dưới quyền làm việc có hiệu quả để đạt được mục tiêu đề ra.
- Kiểm tra: Là đo lường, đánh giá và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm
đảm bảo rằng các mục tiêu của tổ chức và các kế hoạch đặt ra đang được hoàn
thành. Kiểm tra là một quy trình giám sát các hoạt động để đảm bảo rằng các
hoạt động này được thực hiện theo kế hoạch và điều chỉnh các sai lệch.
Bốn chức năng cơ bản của quản lý giáo dục có quan hệ mật thiết với
nhau tạo thành chu trình quản lý.
1.1.2.3 Nguyên tắc quản lý giáo dục
Trên cơ sở khái niệm nguyên tắc, nguyên tắc quản lý, một số nhà
nghiên cứu quản lý giáo dục đưa ra khái niệm như sau về nguyên tắc quản lý
giáo dục: “ Nguyên tắc quản lý giáo dục là những luận điểm cơ bản, những

tiêu chuẩn hành vi, đòi hỏi mọi chủ thể quản lý giáo dục phải tuân theo khi
tiến hành hoạt động quản lý”.
Một cách cụ thể hơn: Nguyên tắc quản lý giáo dục là những tiêu chuẩn,
quy tắc cơ bản nền tảng, những yêu cầu, những luận điểm cơ bản cần phải
tuân theo trong tổ chức và hoạt động quản lý giáo dục nhằm đạt được mục
tiêu phát triển giáo dục đã đề ra.
Các nguyên tắc quản lý giáo dục được xây dựng trên cơ sở lý luận của
học thuyết Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và quản lý Nhà
nước xã hội chủ nghĩa, về quản lý giáo dục, từ các khoa học giáo dục, lý luận
quản lý giáo dục và thực tiễn quản lý giáo dục.
Nguyên tắc quản lý giáo dục được nhận thức đúng đắn trong quá trình
tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục và ngày càng được bổ sung hoàn thiện,
có vai trò chỉ đạo toàn bộ hoạt động của chủ thể quản lý và là cơ sở để xây
dựng hệ thống các phương pháp quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội với đặc trưng cơ
bản là đào tạo con người. Vì vậy việc tuân thủ các nguyên tắc quản lý có ý

10


nghĩa quan trọng trong quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện mục tiêu quản lý,
mục tiêu giáo dục.
Các nguyên tắc quản lý giáo dục cơ bản bao gồm:
- Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam ;
- Nguyên tắc tập trung dân chủ;
- Nguyên tắc pháp chế;
- Nguyên tắc kết hợp nhà nước và xã hội;
- Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương,
vùng lãnh thổ;
- Nguyên tắc tính khoa học;

- Nguyên tắc tính hiệu quả, thiết thực và cụ thể;
- Nguyên tắc tính kế hoạch.
Các nguyên tắc quản lý này là chỗ dựa đáng tin cậy về lý luận giúp
người cán bộ quản lý giáo dục định hướng đúng đắn trong hoàn cảnh phức tạp
luôn biến đổi để tự mình giải quyết các tình huống cụ thể, đa dạng và biết tổ
chức một cách khoa học hoạt động quản lý để đạt hiệu quả tối ưu.
Người cán bộ quản lý cần nắm được thực chất nội dung của từng
nguyên tắc, thấy được các biểu hiện của các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt
động của các cơ quan quản lý giáo dục để thực hiện tốt, không vi phạm nhằm
đưa hệ thống giáo dục phát triển đúng hướng đạt mục tiêu mong muốn.
Trong thực tế hoạt động quản lý, các nguyên tắc liên hệ chặt chẽ với
nhau, tác động bổ sung cho nhau.Chất lượng và hiệu quả quản lý giáo dục
được đảm bảo khi thực hiện tốt các nguyên tắc quản lý.
1.1.3 Quản lý nhà trường
1.3.3.1 Quan niệm về nhà trường và quản lý nhà trường
Trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lê
nin và lịch sử phát triển nhà trường thì Nhà trường được hiểu là một dạng
thiết chế tổ chức chuyên biệt và đặc thù của xã hội, được hình thành do nhu
cầu tất yếu khách quan của xã hội nhằm thực hiện chức năng truyền thụ kinh
nghiệm xã hội cho từng nhóm dân cư nhất định trong cộng đồng xã hội.
Qua tiến trình lịch sử và phát triển xã hội và đặc biệt là thời đại ngày
nay càng cho ta thấy rằng: Nhà trường là một thiết chế tổ chức chuyên biệt
trong hệ thống tổ chức xã hội thực hiện các chức năng tái tạo nguồn nhân lực
phục vụ cho sự duy trì và phát triển của xã hội.
Nhà trường trong nền kinh tế công nghiệp không chỉ là thiết chế sư
phạm đơn thuần. Công việc diễn ra trong nhà trường có mục đích cao nhất là
11


hình thành “Nhân cách – Sức lao động”, phục vụ phát triển cộng đồng. Quản

lý xã hội lấy tiêu điểm là quản lý giáo dục thì quản lý giáo dục phải coi nhà
trường là nút bấm và quản lý nhà trường phải lấy quản lý dạy học là khâu cơ
bản, việc dạy học phải xuất phát từ người học và hướng vào người học.
Quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp
và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và cá lực lượng giáo dục
khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo trong nhà trường.
Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong
phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo
dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục,
đối với thế hệ trẻ và đối với từng học sinh.
Quản lý nhà trường là sự cụ thể hóa công tác quản lý giáo dục. Nhà
trường là tế bào chủ chốt của bất cứ hệ thống giáo dục nào từ Trung ương đến
địa phương. Quản lý nhà trường thực chất là quản lý giáo dục ở cơ sở.
Mỗi nhà trường đều có Hiệu trưởng và Hội đồng giáo viên là chủ thể
trực tiếp vận hành hệ thống giáo dục đi đến mục tiêu giáo dục chung. Bản
chất của quản lý trường học là quản lý quá trình giáo dục theo nghĩa rộng
( quá trình sư phạm tổng thể - quá trình dạy học và quá trình giáo dục theo
nghĩa hẹp).
Đối tượng của quản lý nhà trường là các thành tố cấu thành nhà trường
vận động xung quanh trục quá trình giáo dục và những nguồn lực được huy
động, sử dụng cho quá trình đó. Nội dung quản lý nhà trường được xác định
cho từng chủ thể quản lý.
Các chủ thể quản lý bên ngoài nhà trường là các cấp quản lý, quản lý
nhà trường theo trách nhiệm và phạm vi quyền hạn của mình, trong đó các
chủ thể quản lý chủ yếu nằm trong cơ cấu dọc của bộ máy quản lý giáo dục
theo phân cấp quản lý.
Các chủ thể quản lý trong nhà trường: Đây là các chủ thể có vai trò trực
tiếp trong quản lý quá trình giáo dục ở cơ sở. Với các chủ thể này, nhà trường
trở thành khách thể quản lý đối với hoạt động quản lý của họ. Chất lượng,

hiệu quả của chương trình giáo dục, chất lượng của nhà trường phụ thuộc rất
nhiều vào chất lượng quản lý quá trình giáo dục của các chủ thể này.
1.3.3.2 Những nội dung cơ bản của quản lý nhà trường
Nội dung quản lý nhà trường của các chủ thể trong nhà trường được
xác định với những vấn đề chính sau:
12


1) Đảm bảo chất lượng của quá trình giáo dục thông qua ba hình thức
học tập trên lớp, hoạt động ngoài giờ lên lớp và hoạt động lao động kỹ thuật
hướng nghiệp và dạy nghề;
2) Sử dụng, xây dựng và bảo quản cơ sở vật chất nhà trường, quản lý
tài chính, tổ chức các hoạt động kinh tế phù hợp nhằm đảm bảo hoạt động dạy
và học của giáo viên và học sinh;
3) Xây dựng tập thể giáo viên và học sinh, các đoàn thể của nhà trường
bảo đảm hai mặt chế độ và chính sách nhằm thực hiện nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần và nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho giáo viên;
4) Thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá của các cấp nhằm đánh giá
kịp thời chất lượng các bộ môn văn hóa của học sinh, chất lượng các hoạt
động lao động, kết quả rèn luyện sức khỏe, chất lượng giảng dạy của giáo
viên, chất lượng giáo dục, tư tưởng, giáo dục học sinh…
Chủ thể quản lý trong nhà trường bao gồm: Lãnh đạo nhà trường (Ban
giám hiệu nhà trường mà đại diện là Hiệu trưởng), Tổ trưởng chuyên môn và
nhà giáo. Mỗi chủ thể nói trên khác nhau về vị trí, vai trò trong bộ máy quản
lý của nhà trường nên họ quản lý quá trình giáo dục với nội dung khác nhau.
Hoạt động giáo dục của nhà trường là đối tượng chính của quản lý giáo
dục tại cơ sở. Đó là những hoạt động do nhà trường tổ chức nhằm nục đích
tác động đến người học và hoạt động của họ để thực hiện mục tiêu giáo dục
đã đề ra. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục nhà trường bao gồm:
1) Quản lý hoạt động dạy và giáo dục của người dạy, bao gồm các vấn

đề như: Mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và giáo
dục, kết quả dạy học và giáo dục (được kiểm tra, được đánh giá); công tác
chuẩn bị và thực hiện các hoạt động dạy học và giáo dục của người dạy;
2) Quản lý hoạt động của người học, bao gồm các vấn đề như: Ý thức
thực hiện các nhiệm vụ học tập, các hoạt động do người học thực hiện và các
hoạt động giáo dục khác do người dạy tổ chức, kết quả học tập, giáo dục
(được kiểm tra, được đánh giá);
3) Quản lý các điều kiện hoạt động, cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài
chính phục vụ hoạt động dạy học và giáo dục;
4) Phát triển tập thể sư phạm đủ và đồng bộ, nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và đời sống cho đội ngũ nhà giáo;
5) Phát triển và hoàn thiện các mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội để
làm tốt công tác giáo dục thế hệ trẻ thông qua hoạt động dạy học và các hoạt
động giáo dục khác.
13


Trên đây là những vấn đề chung về quản lý nhà trường, khi đi sâu vào
từng nhà trường ở mỗi cấp học và ngành học thì nội dung quản lý có những
nét khác biệt. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà
trường phổ thông trong đó có trường trung học cơ sở, do đó đề tài chỉ đưa ra
những nội dung quản lý nhà trường phổ thông. Nội dung quản lý nhà trường
phổ thông bao gồm:
1) Quản lý hoạt động dạy học:
Chỉ đạo tốt các hoạt động chuyên môn theo chương trình giáo dục của
Bộ giáo dục và đào tạo, của nhà trường. Quản lý chuyên môn bao gồm: quản
lý chương trình, quản lý thời gian, quản lý chất lượng.
2) Quản lý các hoạt động giáo dục:
Chỉ đạo tốt các hoạt động giáo dục theo chương trình của Bộ giáo dục
và đào tạo, của nhà trường để chương trình được thực hiện nghiêm túc đạt

hiệu quả giáo dục cao. Phối hợp với Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
và các lực lượng trong, ngoài nhà trường để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục
học sinh.
3) Quản lý đội ngũ cán bộ giáo dục, giáo viên và học sinh:
Tổ chức đội ngũ giáo viên, cán bộ công nhân viên và tập thể học sinh
thực hiện tốt các nhiệm vụ trong chương trình công tác của nhà trường. Động
viên, giáo dục tập thể sư phạm trở thành một tập thể đoàn kết, nhất chí, gương
mẫu, hợp tác tương trợ nhau làm việc;
Giáo dục học sinh phấn đấu học tập và tu dưỡng trở thành những công
dân ưu tú. Quản lý con người là việc làm phức tạp, bao gồm các nội dung về
nhân sự, tư tưởng, chuyên môn, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng và đề bạt.
Quản lý con người vừa là một khoa học vừa là môt nghệ thuật. Chính đội ngũ
giáo viên có chất lượng và phương pháp quản lý giáo dục tốt sẽ làm nên mọi
thành quả của giáo dục.
4) Quản lý tài chính và cơ sở vật chất:
Quản lý tốt nguồn tài chính hiện có của nhà trường theo nguyên tắc
quản lý tài chính của nhà nước và của ngành giáo dục. Đồng thời biết động
viên, thu hút các nguồn tài chính khác nhằm xây dựng cơ sở vật chất, mua
sắm thiết bị phục vụ các hoạt động dạy học và giáo dục;
Quản lý tốt cơ sở vật chất của nhà trường không đơn thuần chỉ là bảo
quản tốt, mà phải phát huy tốt năng lực của chúng cho dạy học và giáo dục,
đồng thời còn làm sao để có thể thường xuyên bổ sung thêm những thiết bị
mới có giá trị.
14


5) Quản lý các hoạt động thanh tra – kiểm tra:
Thực hiện nghiêm túc các quy định về kiểm tra – thanh tra theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và của luật thanh tra, bao gồm kiểm tra thanh tra của cấp trên, kiểm tra – thanh tra của lãnh đạo nhà trường về mọi
hoạt động trong nhà trường.

6) Quản lý mối quan hệ giữa nhà trường và các lực lượng xã hội:
Trong quá trình hoạt động, nhà trường cần chủ động phối hợp với các
lực lượng xã hội, chính quyền và các tổ chức xã hội tại địa phương để quản lý
cơ sở vật chất, thiết bị và nhân sự giáo viên và học sinh.
1.1.4 Quản lý nhà trường trung học cơ sở
Quản lý nhà trường trung học cơ sở trong sự nghiệp giáo dục – đào tạo
“Là một trong những nhân tố cơ bản quyết định thành công hay thất bại của
hệ thống”.
Xuất phát từ đặc điểm của trường trung học cơ sở là cấp cơ sở của bậc
trung học bao gồm cả bậc trung học phổ thông và trung học nghề nghiệp và
trở thành giáo dục phổ cập. Công tác quản lý trường trung học cơ sở vừa có
những nét chung của quản lý nhà trường vừa có những nét riêng của cấp học
mình và những nét đặc thù ở từng trường với những vùng miền, điều kiện
kinh tế xã hội cụ thể.Tuy vậy công tác quản lý trường trung học cơ sở phải
đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau:
Trước hết, người cán bộ quản lý giáo dục tại trường trung học cơ sở
phải “Nhận thức đúng đắn về đối tượng và mục tiêu quản lý là yêu cầu trước
tiên đối với người hiệu trưởng về mặt tri thức quản lý trường học”. Người cán
bộ quản lý (chủ thể quản lý) phải hiểu những đặc trưng bản chất của nhà
trường (đối tương quản lý) và hoạt động đặc trưng tại trường học là thực hiện
quá trình dạy học, quá trình giáo dục một cách có mục đích, có phương pháp,
có kế hoạch của nhà sư phạm lên đối tượng giáo dục.
Công tác quản lý trọng tâm ở trường trung học cơ sở là quản lý quá
trình dạy học – giáo dục, đó là tiến hành các chức năng quản lý (Lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) đối với quá trình đó. Người quản lý phải
gắn mục tiêu của cấp học với mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương, gắn
nhà trường với cộng đồng xã hội. Nhà trường trung học cơ sở là một hệ tự
điều khiển, do đó việc thường xuyên cải tiến tổ chức phương pháp quản lý là
một việc làm không thể thiếu được của người cán bộ quản lý trường trung học
cơ sở.


15


Trong công tác quản lý ở nhà trường trung học cơ sở, người cán bộ
quản lý phải vận dụng linh hoạt có hiệu quả các nguyên tắc cơ bản quản lý
nhà trường đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ vì trong xu thế của nhà
trường hiện đại – “nhà trường mở” thì cần phát huy dân chủ để tạo dựng sức
mạnh tập thể và tăng cường tính tập trung để nâng cao trách nhiệm cá nhân.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng vào trong tất cả các hoạt động tổ
chức quản lý quan trọng của nhà trường.
1.2 Quan điểm của V.I Lê- nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc
tập trung dân chủ.
1.2.1 Quan điểm của V.I Lê- nin về nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc xây dựng Đảng được V.I Lê-nin hết
sức đề cao. Khi Đảng cộng sản cầm quyền thì nguyên tắc này được vận dụng
cả vào trong quá trình tổ chức và vận hành của nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và trong quản lý các quá trình kinh tế - xã hội.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tiếng Nga chỉ là một từ, trong đó
tập trung là danh từ, dân chủ là tính từ. Dịch nguyên, nghĩa là nguyên tắc tập
trung mang tính dân chủ. Như vậy không thể bỏ đi danh từ “tập trung” hoặc
tính từ “dân chủ” hoặc không chỉ dùng riêng lẻ danh từ “tập trung” hay tính từ
“dân chủ” trong nguyên tắc này. Trong tiếng Nga nguyên tắc này còn có thể
hiểu là: “dân chủ được tập trung lại”, “tập trung của dân chủ”. Dù sao sự cắt
nghĩa trên đây cũng chỉ mang tính “chiết tự”, quan trọng hơn là nội hàm của
nguyên tắc này.
Những nội dung chủ yếu của nguyên tắc “tập trung dân chủ” được V.I
Lê-nin nêu lên trong những luận cương trình bày tại đại hội II Quốc tế cộng
sản, khi nói về điều kiện để kết nạp vào Quốc tế cộng sản: “Các đảng ra nhập
Quốc tế cộng sản phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.

Nguyên tắc này đã trở thành điều lệ của Quốc tế cộng sản (Đại hội II năm
1920). Nội dung của nguyên tắc đó như sau:
1) Tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân tổ chức cơ bản của Đảng;
2) Tất cả các cơ quan cấp trên đều thực sự được bầu ra, có trách nhiệm
báo cáo công tác và có thể bị bãi miễn;
3) Tổ chức đảng là tổ chức của những công nhân dân chủ - xã hội và
sinh hoạt độc lập;
4) Phải thực hiện bằng được chế độ tự trị của mọi tổ chức đảng;
5) Cần xóa bỏ và xóa bỏ bằng được sự tranh dành địa bàn, sự lo sợ
“phái” khác;
16


6) Thống nhất về tổ chức, đồng thời có sự đấu tranh thuần túy về tư
tưởng giữa các trào lưu tư tưởng dân chủ - xã hội khác nhau trong nội bộ các
tổ chức đảng;
7) Xác định rõ rệt nguyên nhân tranh luận giữa các trào lưu tư tưởng
trong đảng là điều kiện cần thiết để phát triển đảng một cách lành mạnh, để
giáo dục giai cấp công nhân và tránh được sự sai lầm về đường lối;
8) Trong sinh hoạt tư tưởng phải chỉ ra vấn đề nào là đã thống nhất, vấn
đề nào còn bất đồng và còn bất đồng đến mức nào. Bỏ thói quen sinh hoạt
theo lối tiểu tổ cũ (Tức là thích kêu gào, thích buộc tội mà không phân tích
một cách thực sự cầu thị những ý kiến bất đồng);
9) Cung cấp cho đảng viên đầy đủ tài liệu về sinh hoạt của đảng, để
đảng viên độc lập nghiên cứu những sự bất đồng trong quá trình ra các nghị
quyết của đảng;
10) Thảo luận hết sức rộng rãi những quyết định của đại hội đảng, đảng
viên phải có thái độ hoàn toàn tự giác và có tính chất phê phán đối với những
nghị quyết của đảng. Thông qua thảo luận, báo chí, sinh hoạt ở tiểu tổ,…tạo
điều kiện cho đảng viên và các tổ chức công nhân hiểu mọi tình hình và nói

lên sự đồng tình hay phản đối của mình đối với vấn đề này hay vấn đề kia.
Trong một đảng thống nhất, các đảng viên được tự do thảo luận và
thống nhất hành động. Cuộc đấu tranh tư tưởng không được chia rẽ về tổ
chức, không được phá hoại sự thống nhất hành động của giai cấp vô sản. Ở
đây có vấn đề giới hạn của “thống nhất hành động” và “tự do thảo luận”.
Chính V.I Lê - nin đã dùng khái niệm “giới hạn”. Người nói: “Ngoài những
giới hạn của sự thống nhất hành động thì có thể thảo luận và lên án một cách
rộng rãi và tự do nhất về những biện pháp, quyết định, khuynh hướng mà
chúng ta cho là có hại. Chỉ trong những cuộc thảo luận, những nghị quyết và
kháng nghị như thế mới có thể hình thành được dư luận thật sự của đảng ta.
Chỉ trong điều kiện như thế mới có được một chính đảng thật sự biết luôn
luôn nói lên ý kiến của mình và tìm ra những con đường đúng đắn để biến ý
kiến đã được xác định thành quyết định của một đại hội mới”. Còn “thống
nhất hành động”, V.I Lê nin nêu ví dụ về thời kỳ khởi nghĩa. Trong thời kỳ
ấy, thì thống nhất hành động là tuyệt đối cần thiết. Ông khẳng định: trong thời
gian đấu tranh kịch liệt như thế thì không thể dung thứ bất kỳ một sự phê bình
nào. Ông giải thích rằng: trong thời kỳ nội chiến gay gắt hiện nay, Đảng cộng
sản chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình nếu đảng được tổ chức một cách
tập trung nhất, nếu trong đảng có một kỷ luật sắt, gần giống với kỷ luật quân
17


sự và nếu Trung ương đảng là một cơ quan có uy tín mạnh mẽ, có quyền lực
rộng rãi, được toàn thể đảng viên tin cậy.
Như vậy, nội hàm của nguyên tắc tập trung dân chủ về cơ bản, tương
đồng với nguyên tắc “dân chủ” trong khoa học chính trị hiện đại. Có điều,
nguyên tắc này, trong lúc coi tính dân chủ như là một nguyên tắc, người sáng
tạo ra nó -V.I Lê-nin đã chú ý đến vấn đề “tập trung”- tính thống nhất, tính tổ
chức và tính nguyên tắc…do bối cảnh nước Nga còn nặng tàn tích văn hóa
tiểu nông và bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa xã hội vô chính phủ của phái Ba-cunin.

Thống nhất giữa hai mặt tập trung và dân chủ là vấn đề có tính nguyên
tắc, trong các điều kiện khác nhau sẽ được vận dụng khác nhau, mặc dù vậy
chỉ nên hiểu đây là một nguyên tắc - nguyên tắc tập trung có tính dân chủ.
Không thể có tập trung mà không có dân chủ, không qua dân chủ, không bằng
các cách thức dân chủ. Nói cách khác đây là nguyên tắc “dân chủ được tập
trung lại”. Không nên hiểu đây là hai nguyên tắc kết hợp với nhau đi đến tùy
tiện tăng cường tính tập trung hoặc hạn chế dân chủ, làm như vậy sẽ tổn hại
đến chất lượng hoạt động của Đảng cộng sản.
1.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tập trung dân chủ
Hồ Chí Minh là Người sáng lập và lãnh đạo Đảng ta. Trong công tác
xây dựng đảng, Người đặc biệt coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ
Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng, là nguyên tắc
cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt
chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của tập
thể phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng đã đề ra.
Hồ Chí Minh viết về mối quan hệ đó như sau: Tập trung trên nền tảng
dân chủ; Dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung. Hoặc, Người viết: “Chế độ
ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với
mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý.
Đó là một quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ của mọi người.
Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền
tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.”
Dân chủ vừa là bản chất, vừa là động lực, mục tiêu của xã hội mới mà
Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân xây dựng nên. Dân chủ trong Đảng là tất cả các
đảng viên được tự do bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề trong sinh
hoạt đảng để góp phần thống nhất về quan điểm, chủ trương trong lãnh đạo,
chỉ đạo, để xây dựng nghị quyết, đưa nghị quyết vào cuộc sống. Vì vậy, dân
18



chủ phải đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung. Phải tránh dân chủ theo kiểu
tùy tiện, phân tán, vô tổ chức, dân chủ hình thức. Những kiểu dân chủ như
vậy là rất nguy hại, làm suy giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mỗi
tổ chức Đảng. Về tập trung, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong Đảng phải thống
nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động. Biểu hiện của tập trung là thiểu số
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên…Tập trung trên cơ sở phát huy
dân chủ chứ không phải tập trung quan liêu, độc đoán chuyên quyền. Hiểu và
thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ làm cho Đảng ta ngày càng
vững mạnh, thống nhất trong tư tưởng và hành động “Đảng ta tuy nhiều người
nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, cùng với nguyên tắc
tập trung dân chủ, Người còn đề cập tời nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách. Đây là biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trên phương
diện lãnh đạo, quản lý. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tập thể lãnh đạo là dân
chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là
dân chủ tập trung”.
Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lãnh đạo như sau: “Vì sao cần phải
có tập thể lãnh đạo?
Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến
đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn
đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.
Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm.
Người thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề ấy mới
được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”. Về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh
cho rằng: “Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định
rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ
trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách công việc
mới chạy.
Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho

người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế
việc gì cũng không xong”. Làm như vậy thì kế hoạch mới được thực hiện đầy
đủ, tránh dựa dẫm, chồng chéo nhau, công việc mới đạt kết quả cao. Khi đánh
giá công việc mới có cơ sở để biểu dương những người làm giỏi, phê bình
những người làm kém, mới xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân. “Lãnh
đạo mà không tập thể thì dẫn đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết
19


quả là hỏng việc. Phụ trách không có cá nhân thì sẽ đi đến tệ bừa bãi, lộn
xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân
phụ trách phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày
thành lập đến nay luôn luôn tuân thủ và thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức, hoạt động và sinh hoạt đảng. Chính điều đó đã làm cho
Đảng có sức mạnh to lớn để lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng thành công,
đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Với tính chất và tầm quan trọng đặc biệt của nó cũng như bắt nguồn từ
bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà V.I Lê - nin và Hồ Chí Minh đã đề
cập, nguyên tắc tập trung dân chủ không những là nguyên tắc để xây dựng
Đảng Cộng sản mà nó trở thành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của mọi tổ
chức chính trị - xã hội, cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị hành chính sự
nghiệp… trong đó có nhà trường. Quản lý giáo dục cũng không nằm ngoài
quy định mang tính khách quan đó tức là quản lý giáo dục mà trong phạm vi
hẹp là quản lý nhà trường phải thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
1.3 Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý giáo dục
Tập trung dân chủ là nguyên tắc bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã
hội chủ nghĩa, là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ hoạt động quản lý (Điều 6 – Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ: “Quốc hội , Hội
đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động

theo nguyên tắc tập trung dân chủ). Đây là cơ sở pháp lý cao nhất, cho thấy
tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý giáo dục cũng
như các hoạt động quản lý khác của nhà nước. Tinh thần của nguyên tắc này
trong quản lý giáo dục là ở chỗ phải thường xuyên kết hợp sự lãnh đạo tập
trung với sự tham gia của quảng đại quần chúng lao động vào công việc tổ
chức quản lý giáo dục.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý giáo dục có các nội dung
sau:
- Phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung và dân
chủ trong quản lý. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, tập
trung phải trên cơ sở dân chủ và dân chủ phải thực hiện trong khuôn khổ tập
trung.
- Khía cạnh tập trung thể hiện ở chỗ phải thống nhất quản lý từ một
trung tâm – Phải tăng cường quản lý tập trung, thống nhất trên quy mô toàn
quốc về những vấn đề cơ bản. Nó có nghĩa là sự chỉ huy, điều phối thống nhất
20


dựa trên quan hệ mệnh lệnh phục tùng từ cấp quản lý Trung ương đến các cơ
sở thực hiện quá trình giáo dục đào tạo, mặt khác thể hiện sự thực hiện trong
thực tiễn đường lối giáo dục của Đảng một cách nhất quán, không có bất kỳ
ngoại lệ nào. Tập trung biểu hiện ở ba điểm chính:
+ Thứ nhất, có bộ chỉ huy làm nhiệm vụ lãnh đạo;
+ Thứ hai, có lề lối làm việc hợp lý;
+ Thứ ba, thực hiện chế độ một thủ trưởng ở tất cả đơn vị, các cấp.
- Khía cạnh dân chủ biểu hiện ở chỗ: phải phát huy mở rộng tối đa
quyền chủ động của các địa phương, các cơ sở giáo dục, của quần chúng lao
động trong việc giải quyết các vấn đề trọng yếu, bằng các phương pháp,
phương tiện đa dạng sáng tạo.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ gắn liền với vấn đề phân cấp trong quản

lý giáo dục: một đặc trưng quan trọng của nguyên tắc này đó là sự phân cấp
quản lý thích hợp, vấn đề phân cấp quản lý còn liên quan tới nguyên tắc kết
hợp giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Bản chất của việc phân
cấp quản là sự ủy quyền từ cấp quản lý cao hơn cho cấp quản lý thấp hơn. Sự
ủy quyền này kèm theo những vấn đề tổ chức, chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn, thẩm quyền của mỗi cấp. Một trong những nét đặc trưng của hệ thống
giáo dục đào tạo là mạng lưới giáo dục đào tạo trải rộng đến tận thôn xã, vì
vậy vấn đề phân cấp quản lý là một đòi hỏi khách quan, hợp quy luật.
- Trong quản lý giáo dục việc đảm bảo dân chủ còn thể hiện ở chỗ thực
hiện công khai, cung cấp đầy đủ thông tin để cán bộ công nhân viên, giáo viên
được biết, được bàn, được làm và được kiểm tra giám sát. Dân chủ biểu hiện
ở năm điểm chính:
+ Thứ nhất xác định rõ phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của các cấp;
+ Thứ hai, đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở;
+ Thứ ba, chấp nhận đấu tranh, chấp nhận liên kết;
+ Thứ tư, giáo dục bồi dưỡng ý tưởng cho quần chúng, tạo cơ hội cho
họ được học tập nâng cao trình độ về mọi mặt để đảm bảo thực hiện tốt việc
quần chúng “biết, bàn, làm và kiểm tra”;
+ Thứ năm, giảm bớt việc họp hành không cần thiết, tiết kiệm thời gian
cho các cấp làm tốt công việc của họ.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ có nội dung phong phú và có vai trò
quan trọng trong quản lý. Thực hiện nguyên tắc này vừa đề cao trách nhiệm
của cá nhân người phụ trách, vừa đề cao quyền làm chủ của người lao động,

21


vừa chống được tình trạng tập trung quan liêu, đảm bảo sự thống nhất ý chí và
hành động, làm tăng sức mạnh của tổ chức.
- Tuy nhiên trong thực tế quản lý giáo dục, không phải cán bộ giáo viên

nào cũng nhận thức được đầy đủ chính xác và thực hiện đúng tinh thần và bản
chất của nguyên tắc này cũng như thấy được tầm quan trọng của nó trong
quản lý. Điều đó rất nguy hiểm dẫn đến làm sai lệch và giảm hiệu quả thực
hiện nguyên tắc.
Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp tối ưu giữa hai
mặt tập trung và dân chủ trong sinh hoạt và tổ chức các hoạt động quản lý
giáo dục.
Tóm lại, nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà trường là một
nguyên tắc rất quan trọng quyết định đến chất lượng quản lý nhà trường. Vì
vậy cần phải làm sáng tỏ cơ sở lý luận vận dụng nguyên tắc này, đặc biệt là
những khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu và nội dụng của
nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý giáo dục… Đây là những vấn đề
lý luận then chốt, làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực trạng vận dụng nguyên
tắc và đề xuất biện pháp để nâng cao chất lượng vận dụng nguyên tắc vào
trong quản lý nhà trường ở Trường Trung học cơ sở Thanh Hà hiện nay.

22


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
TRONG QUẢN LÝ NHÀ TRƯỜNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
THANH HÀ, HUYỆN THANH LIÊM, TỈNH HÀ NAM.
2.1 Vài nét về Trường Trung học cơ sở Thanh Hà, huyện Thanh Liêm,
tỉnh Hà Nam
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của nhà trường
Xã Thanh Hà là một xã có diện tích tương đối rộng: 457,7 ha, dân số
đông, hiện nay dân số của xã là 13.000 dân. Đây là xã có nghề thêu ren xuất
khẩu nổi tiếng nên thu nhập bình quân đầu người ở mức khá. Năm 2010, thu
nhập bình quân đầu người vào khoảng 900.000 đồng/ người. Xã có 1 trường

tiểu học, 1 trường trung học cơ sở, 1 trường mầm non đi vào hoạt động vào
năm học 2011-2012. Về công tác giáo dục, từ năm 2007 đến nay, xã đầu tư
gần 8 tỷ đồng để xây dựng mới và sửa chữa trường học và xây dựng quỹ
khuyến học nhằm khuyến khích các em học tập. Tuy nhiên, toàn xã vẫn còn
21 học sinh nghèo và khó khăn. Trường Trung học cơ sở Thanh Hà được
thành lập tháng 9/1964 tại thôn Dương Xá, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm,
tỉnh Hà Nam (Khu tiếp giáp thôn Mậu Chử và thôn Dương Xá). Trong quá
trình hoạt động, trường phải chuyển địa điểm hai lần, nay đóng tại trung tâm
của thôn Dương Xá và cũng là trung tâm của xã Thanh Hà (Khu ao cá Bác
Hồ).
Đầu tiên, trường mang tên: Trường cấp II Thanh Hà sau đổi tên là
Trường phổ thông cơ sở Thanh Hà ( Ghép cả Mầm non, cấp I, cấp II ) do thầy
giáo Nguyễn Văn Tước làm Hiệu trưởng. Năm 1990, trường cấp II tách ra và
có tên là Trường cấp II Thanh Hà (lấy lại tên đầu tiên khi thành lập) do thầy
giáo Phạm Văn Hà và sau đó là thầy giáo Vũ Đức Vận làm Hiệu trưởng. Từ
năm 1995 đến nay, trường mang tên là Trường Trung học cơ sở Thanh Hà do
thầy giáo Vũ Đức Vận và cô giáo Vũ Thi Mai làm Hiệu trưởng. Hiện nay,
Hiệu trưởng nhà trường là cô giáo Vũ Thị Mai.
Trường Trung học cơ sở Thanh Hà có diện tích khoảng 10.000 mét
vuông, nằm trên tuyến đường trục từ 495 đến quốc lộ 1A khu xí nghiệp May
199 và công ty May xuất nhập khẩu Bắc Hà. Lúc mới thành lập cơ sở vật chất
của nhà trường vô cùng thiếu thốn, suốt một thời gian dài, nhà trường phải
học 2 ca do thiếu phòng học. Hiện nay, cơ sở vật chất của nhà trường đã được
đảm bảo hơn về số lượng và chất lượng, không phải học hai ca như trước kia .
23


Trường có 18 phòng học cao tầng đủ cho 18 lớp học; 1 phòng máy; 1 phòng
Hội đồng; có khu Hiệu bộ với đầy đủ các phòng làm việc: 1 phòng Hiệu
trưởng, 2 phòng Phó Hiệu trưởng, 1 phòng truyền thống, 1 phòng Đoàn Đội, 3

phòng thiết bị, 1 phòng thư viện, 1 phòng y tế, 1 phòng tài vụ. Trang thiết bị
phục vụ dạy học có 2 bộ/ khối lớp. Sách giáo khoa dùng chung có 30 bộ cho
giáo viên, sách giáo khoa phục vụ học tập của học sinh 589 bộ, sách tham
khảo 12 bộ, sách giáo viên 16 bộ.
Đội ngũ giáo viên của nhà trường có các đặc điểm sau:
- Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường là 53 trong đó có 48
người là giáo viên ( trong đó có 3 cán bộ quản lý, 40 giáo viên biên chế và 5
giáo viên hợp đồng ), và 5 nhân viên ( trong đó có 3 người là nhân viên hành
chính và 2 bảo vệ của nhà trường ).
- Cơ cấu đội ngũ giáo viên: Trong những năm qua, đội ngũ giáo viên đã
từng bước được hoàn thiện về cơ cấu chuyên môn, giới tính, tuổi nghề và
trình độ chính trị. Sự hợp lý giữa các yếu tố bên trong của đội ngũ giáo viên
Trường Trung học cơ sở Thanh Hà có sức mạnh đồng bộ để hoàn thành
nhiệm vụ được giao.
+ Về chuyên môn: Đội ngũ giáo viên vừa thừa lại vừa thiếu
• Thừa ở môn Ngữ văn 2 giáo viên
• Thiếu giáo viên ở một số môn: 1 giáo viên Hóa - Sinh, 1 giáo viên
Tiếng Anh và 1 giáo viên Họa. Trong khi đó một số giáo viên ở các bộ môn
này còn phải đi học đại học để nâng cao trình độ chuyên môn như giáo viên
Hóa – Sinh và giáo viên Tiếng Anh. Nhà trường phải nhận hợp đồng với một
số giáo viên ở bộ môn này.
+ Về giới tính: Qua số liệu điều tra ở bảng 2.1 cho thấy tỷ lệ giáo viên
nam tham gia giảng dạy là thấp 5/48 giáo viên chiếm tỷ lệ 10,42%.
+ Về chính trị: 100% giáo viên là đoàn viên và đảng viên trong đó tỷ lệ
đảng viên rất cao 22/48 đồng chí xấp xỉ bằng 45,83%.
+ Về tuổi đời và tuổi nghề: Giáo viên từ 5 – 20 năm công tác chiếm đa
số 34/48 giáo viên, đạt tỷ lệ 70,8% tổng số giáo viên.

24



Bảng 2.1: Cơ cấu đội ngũ giáo viên trường Trung học cơ sở Thanh Hà năm
học 2010- 2011
Tổ
Tổng Giới tính Chính trị
Tuổi đời
Tuổi nghề (năm)
Nam Nữ Đoàn Đảng <30 30- >40 <5 5- 10 >20
chuyên số
viên viên
40
10 20
Tổ xã 25
1
24 13
12
2
15
8
2
13 5 5
hội
Tổ tự 23
4
19 13
10
2
13
8
3

10 6 4
nhiên
Tổng
48
5
43 26
22
4
28
16 5
23 11 9
Nguồn: Phòng Hành chính
Phẩm chất của đội ngũ giáo viên còn được thể hiện: 45,83% là đảng
viên Đảng cộng sản Việt Nam; xấp xỉ 54,2% là đoàn viên thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh; 100% giáo viên tham gia Công đoàn.
Đội ngũ giáo viên của nhà trường có lòng tin tưởng vào đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa
và xác định được ý thức và trách nhiệm nghề nghiệp đúng đắn.
Phẩm chất đạo đức của đội ngũ giáo viên thể hiện ở việc gắn bó với
nghề dạy học, quan tâm và giúp đỡ học sinh; giáo viên của nhà trường gương
mẫu trong giảng dạy và sinh hoạt, có lối sống lành mạnh, quan tâm, giúp đỡ
nhau trong công tác cũng như trong cuộc sống.
- Trình độ đào tạo về chuyên môn của đội ngũ giáo viên:
Theo thống kê năm học 2010 – 2011, trong tổng số 48 giáo viên của
trường ( bao gồm cả Hiệu trưởng và 2 Phó Hiệu trưởng ) thì có 23 giáo viên
đạt trình độ đại học ( trên chuẩn giáo viên trung học cơ sở ) chiếm tỷ lệ
47,92%; có 24 giáo viên trình độ cao đẳng chiếm tỷ lệ 50%; có 1 giáo viên
Nhạc trình độ trung cấp chiếm tỷ lệ 2,08%. Nhìn chung nhà trường có tỷ lệ
giáo viên đạt tỷ lệ chuẩn và trên chuẩn cao so với các trường trung học cơ sở
khác trong huyện.

Hàng năm, đội ngũ giáo viên được nhà trường cử đi tham gia bồi
dưỡng thường xuyên chu kỳ để nâng cao trình độ chuyên môn và đổi mới
phương pháp dạy học.

Bảng 2.2 Trình độ đào tạo của đội ngũ giáo viên Trường Trung học cơ sở
Thanh Hà năm học 2010- 2011
25


×