Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.77 KB, 73 trang )

Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
------------------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 2011 – 2015
ĐỀ TÀI:

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
NGƯỜI TỐ CÁO

Giảng viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

TS.PHAN TRUNG HIỀN

TRẦN KIM HOA
MSSV: 5115712
Lớp: LK1163A1

Cần Thơ – 11/2014

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

1

SVTH: Trần Kim Hoa



Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TỐ CÁO ............................8
1.1. Khái niệm .................................................................................................................8
1.1.1. Khái niệm tố cáo ...................................................................................................8
1.1.2. Khái niệm người tố cáo ......................................................................................10
1.1.3. Phân biệt khiếu nại tố cáo ..................................................................................12
1.2. Khái quát chung về quyền tố cáo của công dân ...................................................12
1.2.1. Quyền tố cáo của công dân nước ta trong thời phong kiến .............................13
1.2.2. Quyền tố cáo của công dân qua Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam ................14
1.2.2.1. Thời kỳ trước năm 1975 ...................................................................................14
1.2.2.2. Thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1998 .................................................................17
1.2.2.3. Thời kỳ từ năm 1998 đến năm 2011 .................................................................21
1.2.2.4. Thời kỳ từ năm 2011 đến nay ...........................................................................22
1.3. Yêu cầu thực tiễn và mục đích của việc quy định về bảo vệ người tố cáo ..........22
1.3.1. Yêu cầu thực tiễn về bảo vệ người tố cáo ..........................................................22
1.3.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định về bảo vệ người tố cáo của nước ta ......23
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ NGƯỜI
TỐ CÁO........................................................................................................................25
2.1. Khái quát các quy định của nước ta về bảo vệ người tố cáo ...............................25
2.1.1. Bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo .................................................................29
2.1.1.1. Bảo vệ bí mật thông tin về người tố cáo trong quá trình tiếp nhận, thụ lý, giải
quyết tố cáo ....................................................................................................................29
2.1.1.2.. Trách nhiệm bảo vệ bí mật thông tin về người tố cáo của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan ............................................................................................29
2.1.2. Bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tính và các
quyền nhân thân khác của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo ......30

2.1.2.1. Bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người tố cáo và người thân thích của người tố
cáo..................................................................................................................................30
2.1.2.2. Bảo vệ tài sản của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo ..............31
2.1.2.3. Bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của người tố
cáo, người thân thích của người tố cáo .........................................................................32

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

2

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
2.1.3. Bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo, người thân thích của
người tố cáo ..................................................................................................................32
2.1.3.1. Bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo, người thân thích của
người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức ...............................................................32
2.1.3.2. Bảo vệ việc làm đối với người tố cáo, người thân thích của người tố cáo là
người làm việc theo hợp đồng lao động mà không phải là viên chức ...........................33
2.1.4. Những điểm mới của pháp luật hiện hành về bảo vệ người tố cáo ở nước ta 33
2.1.4.1. Về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo............................................................33
2.1.4.2. Về nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo ..........................................................34
2.1.4.3. Về công tác bảo vệ người tố cáo ......................................................................35
2.2. Các phương thức bảo vệ người tố cáo ..................................................................35
2.2.1. Các biện pháp hành chính .................................................................................36
2.2.2. Các biện pháp kĩ thuật ........................................................................................36
2.2.3. Các biện pháp kinh tế .........................................................................................37
2.2.4. Các biện pháp hình sự ........................................................................................38
2.3. Chủ thể có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo ........................................................38

2.3.1. Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tố cáo ........................................39
2.3.2. Cơ quan công an các cấp ...................................................................................42
2.3.3. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan ............................................44
2.4. Xử lý đối với những vi phạm liên quan đến việc xét, giải quyết tố cáo và bảo vệ
người tố cáo ..................................................................................................................46
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ BẢO VỆ NGƯỜI TỐ CÁO VÀ GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TỐ CÁO ...................48
3.1. Tình hình thực thi pháp luật về bảo vệ người tố cáo hiện nay ...........................48
3.2. Những hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ người tố cáo ......50
3.3. Một số hành vi phạm tội xâm hại quyền lợi người tố cáo hiện nay ....................52
3.3.1. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở quyền tố cáo, việc xét và giải quyết tố
cáo hoặc việc xử lý người bị tố cáo ..............................................................................52
3.3.2. Có trách nhiệm mà cố ý không chấp hành quyết định của cơ quan có thẩm
quyền xét và giải quyết tố cáo gây thiệt hại cho người tố cáo ....................................54
3.3.3. Trả thù người tố cáo ...........................................................................................56
3.4. Nguyên nhân dẫn đến việc người tố cáo không được bảo vệ toàn diện .............57
3.5. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác bảo vệ người tố cáo trên thực tế ..58
GVHD : TS. Phan Trung Hiền

3

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
3.5.1. Xây dựng và thực hiện nghiêm túc các quy trình, nghiệp vụ về tiếp nhận, xử
lý và giải quyết tố cáo, bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo ......................................58
3.5.2. Xây dựng căn cứ để yêu cầu bảo vệ người tố cáo .............................................60
3.5.3. Phối hợp giữa người giải quyết tố cáo và các cơ quan, tổ chức có liên quan .61
KẾT LUẬN ..................................................................................................................63


GVHD : TS. Phan Trung Hiền

4

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân
là một mục tiêu quan trọng mà cả Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và quyết tâm đạt
được, trong đó sự phát triển bền vững và ổn định về mặt chính trị là vấn đề đầu tiên
cần phải có. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “ Nước ta là Nhà nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ”1, và “... Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ,
biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”2. có thể thấy để xây dựng được
một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì người dân đóng vai trò quan trọng
không thể thiếu, muốn có một xã hội văn minh và phát triển như ý muốn thì cần thiết
phải có các cơ chế và những điều kiện tốt nhất để người dân nói lên tâm tư, nguyện
vọng chính đáng của mình, chủ động và sẵn sàng bày tỏ sự bất bình của mình về hành
vi sai trái, hành vi vi phạm pháp luật của một cá nhân, tổ chức nào đó với cơ quan
chức năng có thẩm quyền giải quyết kể cả đó là lãnh đạo, là người thủ trưởng trực tiếp
của mình.
Hiện nay, công tác giải quyết tố cáo của công dân luôn được Đảng và Nhà nước
ta quan tâm và coi đây là nhiệm vụ quan trọng của các cấp các ngành trong hoạt động
quản lý Nhà nước, nhất là từ khi nước ta bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, nhiều
cơ chế chính sách, pháp luật và các điều kiện kinh tế xã hội được đổi mới thì tình hình

tố cáo lại càng có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, quy mô và mức độ, đặt ra
những vấn đề hết sức bức xúc và phức tạp, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải thật sự
thận trọng để giải quyết một cách triệt để, chặt chẽ và toàn diện. Thời gian qua, Đảng
và Nhà nước đã ban hành rất nhiều quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo, nhờ đó
pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo nói chung, những quy định về người tố cáo nói
riêng ngày càng được hoàn thiện, nhất là sau khi Luật Tố cáo 2011 và Nghị định số
76/2012/ND-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số những quy định của
Luật Tố cáo được ban hành.
Tuy nhiên, thực tiễn công tác giải quyết tố cáo hiện nay vẫn còn gặp phải một
số khó khăn nhất định, trong nhiều vụ việc người tố cáo vẫn còn e ngại, bất hợp tác
hoặc hợp tác không tích cực với các cơ quan có thẩm quyền trong việc kiểm tra, xác
minh và xử lý vụ việc, người dân không chỉ không muốn lên án tố cáo những hành vi
vi phạm pháp luật khi những vi phạm đó không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
1
2

Xem thêm Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, xuất bản năm 1986, tập 6 trang 286.
Xem them Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, xuất bản năm 1989, tập 10 trang 508.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

5

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
ích hợp pháp của mình vì sợ liên lụy, thậm chí có nhiều hành vi vi phạm pháp luật ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhưng người dân vẫn không
muốn đứng ra tố cáo vì đối tượng vi phạm sử dụng các thủ đoạn che giấu hành vi

phạm pháp của chúng bằng nhiều cách như mua chuộc, đe dọa và thực hiện các hành
vi bạo lực khiến cho người dân hoang mang, lo sợ3. Ý thức được sự cần thiết phải bảo
vệ người tố cáo và tầm quan trọng của công tác nói trên, người viết lựa chọn đề tài
“Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo” để làm luận văn tốt nghiệp cho mình,
qua đó người viết đã phân tích và đưa ra một số kiến nghị về việc triển khai thực hiện
pháp luật về bảo vệ người tố cáo trên thực tế để công tác này ngày càng hoàn thiện
hơn.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của tác giả là nghiên cứu những quy định của pháp luật về bảo vệ
người tố cáo, thực tiễn của công tác bảo vệ người tố cáo, qua đó đưa ra những kiến
nghị và giải pháp nhầm từng bước củng cố những quy định của pháp luật Việt Nam về
bảo vệ người tố cáo, góp phần tạo nên một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

3. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này người viết chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tố cáo của công dân, quyền được bảo vệ của
người tố cáo và công tác bảo vệ người tố cáo mà chủ yếu là Luật Tố cáo năm 2011 và
Nghị định số 76/2012/ND-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số những
quy định của Luật Tố cáo được ban hành. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu người
viết cũng đã tham khảo thêm về quyền tố cáo của công dân trong các triều đại phong
kiến Việt Nam đồng thời có mở rộng nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật
liên quan để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu của luận văn.

4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, bằng kiến thức đã học cùng với việc thu thập, tổng hợp
các văn bản luật có liên quan đến quyền tố cáo của công dân Việt Nam nói chung và từ
đó tìm nhưng văn bản luật và văn bản dưới luật khác liên quan quy định về bảo vệ
người tố cáo nói riêng. Cùng với việc thu thập, tổng hợp tác giả đã dùng phương pháp
phân tích, so sánh kết hợp với lý luận và thực tiễn để làm rõ đề tài nghiên cứu này.


5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung chính
nghiên cứu được kết cấu gồm có ba chương.
3

Hồng Thanh, “Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo với định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân”, Viện khoa học thanh tra.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

6

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo

Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo vệ người tố cáo
Chương này giới thiệu các cơ sở lý luận chung nhất về khái niệm tố cáo, quan
niệm bảo vệ người tố cáo và các khái niệm liên quan, lịch sử ra đời và phát triển của
pháp luật quy định về quyền tố cáo của công dân qua các thời kỳ. sau đó nêu lên yêu
cầu thực tiễn phải bảo vệ người tố cáo, đồng thời phân tích và làm rõ mục đích, ý
nghĩa của việc quy định về bảo vệ người tố cáo ở nước ta hiện nay. Cuối cùng, dựa
trên cơ sở lý luận theo quy định của pháp luật để làm nền tảng cho việc phân tích một
số quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ người tố cáo sẽ được trình bày ở
chương 2.

Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ người tố cáo
Nội dung của chương này là phân tích những quy định của pháp luật có liên

quan về công tác bảo vệ người tố cáo, những phương thức được áp dụng để bảo vệ
người tố cáo, chủ thể có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo, các hành vi vi phạm trong
quá trình bảo vệ người tố cáo và biện pháp xử lý những hành vi đó. Từ đó, làm cơ sở
để chương 3 so sánh, đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn. Đồng thời, tìm ra phương
hướng hoàn thiện cho vấn đề nghiên cứu.

Chương 3: Thực tiễn của vấn đề bảo vệ người tố cáo và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
Chương này tập trung phân tích thực tiễn về công tác bảo vệ người tố cáo đang
được thực hiện ở nước ta hiện nay, những điểm mới và hạn chế của pháp luật hiện
hành quy định về bảo vệ người tố cáo, một số hành vi xâm hại đến quyền lợi của người
tố cáo và những nguyên nhân chính dẫn đến vấn đề người tố cáo không được bảo vệ
một cách toàn diện. Sau cùng là đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện
các quy định của pháp luật để cho công tác bảo vệ người tố cáo ngày càng được hiệu
quả hơn.
Do thời gian nghiên cứu có hạn và kiến thức vẫn còn nhiều hạn chế, nên trong
quá trình nghiên cứu đề tài sẽ không thể nào tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận
được sự góp ý từ quý thầy, cô và các bạn để người viết có thể có được những ý kiến tốt
nhất làm cho đề tài nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

7

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TỐ CÁO
Chương này sẽ được người viết lần lượt trình bày các vấn đề: khái niệm tố cáo
và các khái niệm liên quan, quan niệm về bảo vệ người tố cáo, quyền tố cáo của công
dân Việt Nam qua các thời kỳ. Cuối cùng là yêu cầu, mục đích và ý nghĩa của việc
pháp luật quy định về bảo vệ người tố cáo.

1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm tố cáo
Nhà nước ra đời và trở thành công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, họ sử dụng
sức mạnh của Nhà nước để điều hòa những mâu thuẫn của các giai cấp trong xã hội và
cũng để bảo vệ quyền lợi cho chính giai cấp của mình. Bất kì Nhà nước nào muốn tồn
tại và phát triển bền lâu cũng cần đến sự đồng thuận và ủng hộ từ phía người dân, do
vậy trong hoạt động của mình, mọi nhà nước điều cần có những quy định về mặt pháp
luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân. Mặt khác, bản thân Nhà nước
nào cũng mong muốn quyền hành và bộ máy cai trị của mình lập ra không bị phá vỡ
và luôn được giữ vững. Tuy nhiên, trên thực tiễn vì nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn
như lợi ích, tình cảm hay từ sự yếu kém của mình mà một số bộ phận nào đó đã vô ý
hoặc cố tình làm sai, thậm chí là vi phạm nghiêm trọng những quy định của Nhà nước,
của pháp luật làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức, xã hội. Chính vì để bảo đảm quyền lợi của công dân, đồng thời là
để dễ dàng quản lý và sớm phát hiện được những sai phạm đó, đưa chúng ra ánh sáng
và tìm ra biên pháp phù hợp để xử lý, “tố cáo” ra đời. Tùy theo mức độ, phạm vi và
đối tượng, sẽ có nhiều cách nhìn khác nhau về tố cáo. Về phương diện xã hội thì tố cáo
thể hiện sự bất bình của người này đối với hành vi sai trái, vi phạm pháp luật của
người khác và báo cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc người khác biết để có
những thái độ và biện pháp chế tài thỏa đáng đối với hành vi đó, còn về phương diện
Chính trị - pháp luật thì tố cáo là một quyền của công dân, là phương thức để người
dân giám sát các hoạt động của bộ máy Nhà nước và bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã
hội và công dân.
- Theo từ điển tiếng việt “tố cáo” là vạch trần hành động xấu xa, phạm pháp

hay tội ác trước cơ quan có thẩm quyền hay trước dư luận4.
- Theo quan niệm của PGS.TS Nguyễn Cửu Việt, “tố cáo” là quyền của công
dân phát hiện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các quyết định, hành vi trái pháp
4

Từ điển Tiếng Việt, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, xuất bản ngày 20/11/1997, trang 438

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

8

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
luật của cơ quan tổ chức hoặc cá nhân đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi
ích nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích của công dân nói chung mà không gây thiệt
hại trực tiếp cho công dân thực hiện việc tố cáo5.
- Dưới góc độ pháp lý, luật khiếu nại tố cáo được quốc hội nước ta thông qua
ngày 2/12/1998, lần đầu tiên đã quy định khái niệm tố cáo: “là việc công dân theo thủ
tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về
hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc
đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức6”.
Đến Luật Tố cáo năm 2011 được ban hành thì khái niệm “tố cáo” vẫn được giữ
nguyên so với khái niệm “tố cáo” của Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998.

1.1.2. Khái niệm người tố cáo
Theo quy định của luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 lần đầu tiên nêu khái niệm
về người tố cáo “Người tố cáo là công dân thực hiện quyền tố cáo”, đến khi Luật Tố

cáo năm 2011 được ban hành thay thế cho Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 thì quan
niệm về người tố cáo vẫn không có gì thay đổi so với luật cũ.
Từ định nghĩa của luật “Người tố cáo là công dân thực hiện quyền tố cáo”, có
thể thấy người tố cáo là những người biết được hành vi vi phạm pháp luật của người
khác đang được thực hiện hoặc đã thực hiện và trình báo với cơ quan, tổ chức, người
có thẩm quyền về những gì mình biết. Họ không chỉ là công dân bình thường mà hơn
nữa họ còn là một công dân đặc biệt, họ là những người nhân danh công lý đứng ra
vạch trần những tiêu cực, sai phạm xảy ra trong xã hội. Ngoài ra người tố cáo còn là
những người cộng tác, phối hợp với cơ quan Nhà nước để cung cấp các chứng cứ,
thông tin, tài liệu hữu ích góp phần lớn vào việc giải quyết đúng đắn các vụ việc tố
cáo. Chính vì người tố cáo đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chỉ ra người sai
phạm và cung cấp thông tin, tài liệu để vạch tội những người có hành vi tiêu cực nên
họ thường phải đối mặt với rất nhiều nguy hiểm như bị mua chuộc, đe dọa hay thậm
chí là bị xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản…Vì vậy,
người tố cáo cần phải được áp dụng những biện pháp bảo vệ cần thiết để họ có thể
thực hiện tốt trách nhiệm công dân của mình, góp phần bảo vệ sự công bằng của xã hội
và kỹ cương phép nước.

5
6

Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam - Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2008.
Xem khoản 2, điều 2 Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

9

SVTH: Trần Kim Hoa



Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo

1.1.3. Phân biệt khiếu nại, tố cáo
Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: “khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ
chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan hành chính Nhà Nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính Nhà Nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng
quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
mình7”.
Xuất phát từ khái niệm, chúng ta có thể thấy rằng giữa khiếu nại và tố cáo có
điểm chung là chúng sẽ cùng phát sinh khi có vi phạm pháp luật (hoặc bị người khiếu
nại, tố cáo cho là có vi phạm pháp luật) của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân và họ đề
nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết, xử lý việc làm đó để khôi
phục hoặc bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tập thể; quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân. Tuy nhiên, giữa khiếu nại và tố cáo có những điểm khác nhau cơ bản sau:
- Về chủ thể:
Chủ thể của khiếu nại bao gồm công dân, cơ quan, tổ chức, trong khi chủ thể
của tố cáo chỉ có thể là công dân. Xuất phát từ tính chất của tố cáo là yêu cầu xử lý
người bị tố cáo, nên nhà nước khuyến khích người tố cáo đúng, đồng thời quy định
người nào lợi dụng quyền tố cáo, tố cáo sai sự thật, gây thiệt hại cho người khác thì
phải bị xử lý để tránh tình trạng có người nhân danh cơ quan, tổ chức nào đó thực hiện
việc tố cáo với mục đích cá nhân. Để cá thể hóa trách nhiệm của người tố cáo, tạo điều
kiện cho cơ quan nhà nước có thể dễ dàng xử lý người cố tình tố cáo sai sự thật luật
quy định chủ thể của tố cáo phải là công dân (cá nhân) chứ không bao gồm cả cơ quan
và tổ chức như khiếu nại.
Còn điểm khác nữa đó là, chủ thể của khiếu nại có thể đồng thời là chủ thể giải
quyết khiếu nại, còn tố cáo thì không được phép như vậy.
- Về đối tượng:

Khiếu nại: bao gồm quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan
hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ công chức, những quyết định và
hành vi này phải tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại,
trong khi đối tượng của tố cáo rộng hơn nhiều bao gồm: hành vi vi phạm pháp luật của
bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, của mình và của người
khác. Như vậy, hành vi vi phạm pháp luật của người bị tố cáo có thể tác động trực tiếp
7

Xem khoản 1, điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

10

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
hoặc không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của người tố cáo, nhưng người tố cáo vẫn có
quyền tố cáo.
- Nguyên nhân phát sinh:
Đối với khiếu nại là khi quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại bị xâm
phạm, còn đối với tố cáo là khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích không chỉ của cá nhân người tố cáo mà còn cả lợi
ích của cơ quan, tổ chức và công dân khác. Cũng có trường hợp quyền và lợi ích của
người tố cáo không nhất thiết phải gắn liền với vấn đề tố cáo.
- Mục đích:
Mục đích của khiếu nại là nhằm bảo vệ và khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp
của người khiếu nại.

Mục đích của tố cáo không chỉ để bảo vệ quyền và lợi ích của người tố cáo mà
còn để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội và của tập thể, của cá nhân khác và nhằm
trừng trị kịp thời, áp dụng các biện pháp nghiêm khắc để loại trừ những hành vi trái
pháp luật xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, của cá nhân.
- Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo:
Người khiếu nại có thể tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác khiếu nại tại cơ
quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Người tố cáo phải tự mình (không được uỷ
quyền cho người khác) tố cáo hành vi vi phạm pháp luật đến bất kỳ tổ chức, cơ quan
quản lý Nhà nước nào.
Người khiếu nại được quyền rút khiếu nại. Người tố cáo không được rút tố cáo
và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình, nếu cố ý tố cáo
sai sự thật thì phải bồi thường thiệt hại.
Người khiếu nại có quyền khiếu nại lần thứ hai hoặc khởi kiện vụ án hành
chính ra Toà án khi không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại (mà không cần
phải có căn cứ cho rằng việc giải quyết khiếu nại không đúng pháp luật). Còn người tố
cáo chỉ được tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố
cáo không được giải quyết chứ không được khởi kiện ra toà án.
- Về tính chất:
Khiếu nại thường mang tính nội bộ, lấy mục tiêu sửa nhanh là chính. Vì vậy,
phương pháp giải quyết thường là mềm dẻo, linh hoạt nhằm giúp cho đối tượng nhận
rõ sai sót để khắc phục, sửa chữa kịp thời, nhanh chóng. Những sai sót trong khiếu nại
thường nhỏ, đơn giản, dễ khắc phục hơn so với tố cáo. Tính chất tố cáo thường nguy
hiểm, phức tạp hơn, mức độ sai phạm nặng hơn, ảnh hưởng tới danh dự và phẩm chất
GVHD : TS. Phan Trung Hiền

11

SVTH: Trần Kim Hoa



Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
của người bị tố cáo, do đó người bị tố cáo bao giờ cũng lẫn tránh trách nhiệm, có nhiều
thủ đoạn để đối phó nhằm che giấu khuyết điểm và hành vi vi phạm của mình.

1.1.4. Quan niệm về bảo vệ người tố cáo
Như chúng ta đã biết, tính chất của tố cáo thường là những vụ việc phức tạp,
nguy hiểm, mức độ sai phạm nặng, người bị tố cáo có thể sẽ bị ảnh hưởng rất lớn đến
danh dự, nhân phẩm và thậm chí là mất cả tương lai, sự nghiệp. Do vậy, để bảo vệ bản
thân, người bị tố cáo bao giờ cũng muốn lẫn tránh trách nhiệm, dùng mọi thủ đoạn để
che giấu những khuyết điểm và hành vi sai phạm của mình, trong nhiều trường hợp
người bị tố cáo đã không ngại dùng đến bạo lực để đe dọa, trả thù…gây cho người tố
cáo và thân nhân tâm lý hoang mang, lo sợ, e ngại không dám đứng ra tố cáo, không
chịu hợp tác hoặc hợp tác không tích cực với các cơ quan có thẩm quyền, gây nhiều
cản trở, khó khăn trong quá trình xác minh, điều tra vụ việc. Những yếu tố mà người bị
tố cáo thường lợi dụng để làm mục đích che giấu, tránh né sai phạm của mình là mua
chuộc người tố cáo, đe dọa dùng bạo lực để trả thù, xúc phạm danh dự, nhân phẩm,
sức khỏe, làm thiệt hại tài sản và thậm chí là xâm phạm đến thân nhân của người tố
cáo. Thông thường, người bị tố cáo thường là những người có chức vụ, quyền hạn nên
để đạt được mục đích họ sẽ dùng đến những thủ đoạn tinh vi, khó lường, gây nguy
hiểm nghiêm trọng cho người tố cáo.
Từ đó cho thấy, người tố cáo là một chủ thể đặc biệt, để đứng ra bảo vệ cho
công lý, lợi ích của Nhà nước và công dân, họ luôn phải đối mặt với rất nhiều áp lực từ
người bị họ tố cáo như mua chuộc, đe dọa, trả thù…Chính vì thế, người tố cáo cần
phải có được sự quan tâm đặc biệt từ phía Nhà nước nói chung, các cơ quan có thẩm
quyền nói riêng để họ có thể an tâm hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình và có được
quyền công dân một cách đúng nghĩa.
“Bảo vệ người tố cáo”, không đơn thuần chỉ là bảo vệ cho bản thân người tố
cáo mà bao gồm cả việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, sức khỏe và tài sản cho người
thân của người tố cáo. Ngoài ra bảo đảm các quyền, lợi ích vật chất, tinh thần cho họ

cũng là vấn đề không kém phần quan trọng trong công tác bảo vệ người tố cáo.

1.2. Khái quát chung về quyền tố cáo của công dân
Hành vi tố cáo là một hiện tượng khách quan trong xã hội và nó chỉ trở thành
quyền một khi được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật. vì thế quyền tố cáo của
công dân bao giờ cũng mang bản chất giai cấp. Ở mỗi chế độ khác nhau, mỗi Nhà
nước khác nhau thì quy định nội dung pháp luật về quyền tố cáo cũng khác nhau.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

12

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo

1.2.1. Quyền tố cáo của công dân nước ta trong thời phong kiến
Theo nghiên cứu lịch sử Việt Nam cho thấy trong những thời kỳ hưng thịnh của
Nhà nước phong kiến, các triều đại phong kiến Việt Nam luôn biết “dựa vào dân” và
thực hiện nhiều kế sách để “an dân”. Nguyễn Trãi đã từng viết “việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân”8, bởi ông nhận thấy “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Với quan
niệm lấy dân làm gốc, ông cha ta ngày xưa đã chú trọng và tạo mọi điều kiện để người
dân được trình bày nguyện vọng cũng như bày tỏ nỗi oan ức của mình đến nhà vua
thông qua việc thỉnh cầu và cáo giác các hành vi bạo ngược của quan lại, cường hào.
Sử cũ ghi chép, vào thời vua Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) lên ngôi (1009-1028),
nhà vua đã ra lệnh xây cung Long Đức làm nơi xử kiện và xuống chiếu “từ nay ai có
việc tranh kiện, cho đến triều tâu bày, vua thân xét quyết9”. Đến đời vua Lý Anh Tông
(1138-1175), vào năm Mậu Dần (1158) nhà vua đã cho đặc một cái hòm gỗ ở giữa sân
rồng để nhận đơn khiếu kiện của người dân10. Dưới triều vua Trần Nhân Tông (12711293) vua cho phép dân thường được tâu bày những điều oan ức và được thỉnh cầu

trực tiếp với nhà vua khi vua xa giá kinh lý11. Đến triều đại nhà Lê Sơ (1428-1527)
việc giải quyết tố cáo của người dân có quy định chặt chẽ hơn, vua ban hành “Quốc
Triều Khám Tụng Điều Lệ” quy định về trình tự khiếu nại, tố cáo, trong đó quy định
cấm việc khiếu nại vượt cấp: “các việc kiện tụng chưa kinh qua lần khám nào đã dẫn
dắt khiếu nại vượt cấp thì các nha môn không được nhận khám, tuy nhiên mọi trường
hợp bị người quyền uy ức hiếp gây thiệt hại nặng, cùng các trường hợp oan ức, không
biết khám lệ ở nha môn nào, không còn đường nào có thể kêu cầu, cùng các trường
hợp đã qua công luận, phúc đình nhưng chưa giải tỏa được công lý mới cho khua
gióng mỏ mà kêu lên”. Đến sau này, vào năm Ất Tỵ (1725), niên hiệu là Bảo Thái,
chúa Trịnh Cương cho yết bảng ở các lỵ sở tại ngã ba đường để dân chúng phản ánh
điều hay dở, thiện ác của các quan trong địa hạt và trình với vua những điều oan ức
của mình. Năm Nhâm Tý (1732), niên hiệu là Vĩnh Khánh, chúa Trịnh Giang tiếp tục
cho đặt lại hòm thư ở phủ chúa để người dân tâu bẩm, trình bày oan ức của mình. Đến
năm Đinh Mão (1747), niên hiệu Cảnh Hưng, chúa Trịnh Doanh cho đặt chuông, mỏ
ở cổng phủ đường để người nào thấy mình có tài thì đến đánh chuông tự tiến cử, đồng
thời người có oan ức, muốn khiếu nại, tố cáo cũng có thể đến đánh chuông để tâu bày
với chúa. Các khiếu nại, tố cáo của người dân phải được ghi rõ thành văn bản và
phong kín để được chuyển lên phủ chúa xem xét. Ở đàng trong, vào năm (1788) chúa
8

Xem “Bình Ngô Đại Cáo” (1428) của Nguyễn Trãi, bản dịch Ngô Tất Tố, phần 1, trang 1.
Xem: www.vnmilitaryhistory.net. [truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2014]
10
Xem: www.vnmilitaryhistory.net. [truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2014]
11
Xem: http//quehuongonline.vn. [truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2014]
9

GVHD : TS. Phan Trung Hiền


13

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
Nguyễn Ánh cũng cho đặt một hòm ở cửa phủ chúa để ai có oan khuất hay bị người
khác hãm hại có thể viết đơn trình bày rõ ràng sự việc, ghi rõ họ tên, quê quán để tiện
việc tra xét, người nào bỏ thư nặc danh, vu khống cho người khác sẽ bị xử tội nặng.
Vào năm Quý Hợi (1803), vua Gia Long cho dân từ các trấn Nghệ An ra Bắc, ai có
oan khuất thì đến công đường hay sở tại tâu bày. Đơn thư kêu oan sẽ được chuyển lên
vua và văn thần xét đoán, kẻ nào vu cáo, thêu dệt thì sẽ bị trị tội. Năm sau, Giáp Tý
(1804), theo lời tâu của các quan trấn Bắc thành, vua Gia Long cho dựng nhà coi việc
ở Nam thành Thăng Long, cứ năm ngày một lần, họp quan lại để bàn việc, ai có việc
gì oan ức đã qua ba trấn, phủ, huyện mà chưa được phục tình thì cho đầu đơn để xét
cho rõ lý. Từ thời vua Minh Mạng (1820-1841), tại Ty Tam Pháp (cơ quan pháp luật
cao nhất của triều đình gồm ba cơ quan tương đương Viện Kiểm Sát, Tòa Án và bộ Tư
Pháp hiện nay) có đặt một trống đăng văn, vào các ngày 6, 16 và 26 hàng tháng, cho
phép ai có điều oan ức muốn tâu bày được đến đánh trống kêu oan. Quan pháp ty sẽ ra
nhận đơn và xét xử, còn các ngày khác nếu ai tự tiện đến đánh trống thì coi như phạm
tội, dù có bị oan ức đến mấy cũng sẽ không được xem xét.
Nhìn chung, để thực hiện tốt việc đảm bảo quyền tố cáo của công dân, một số
triều đại phong kiến của Việt Nam đã ban hành nhiều loại văn bản luật quy định việc
gửi đơn tố cáo và trách nhiệm của quan lại trong việc xem xét giải quyết tố cáo của
người dân. Đáng kể nhất là: Bộ Hình thư thời Lý (1042), bộ Quốc triều Hình thư và
Quốc triều Hình luật (1341) thời Trần, Bộ luật Hồng Đức (1483) và Khám tụng điều lệ
(1777) thời Lê, Bộ luật Gia Long thời Nguyễn (1815)… Trong đó có nhiều điều khoản
quy định về các quyền và trách nhiệm giải quyết tố cáo của nhân dân. Ngoài ra các vua
còn ban hành các văn bản đơn lẽ như Lệnh, Lệ, Dụ, Chỉ để quy định cụ thể, chi tiết
việc giải quyết tố cáo của người dân.

Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, triều đại nào mà người cầm quyền biết
thông cảm với nỗi khổ của dân, biết lắng nghe ý kiến của nhân dân biết tôn trọng và đề
cao tiếng nói người dân, tạo mọi điều kiện để giải quyết tốt các khiếu nại, tố cáo của
dân thì thời đó đất nước sẽ thanh bình, thịnh vượng và bền vững.

1.2.2. Quyền tố cáo của công dân qua Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam
1.2.2.1. Thời kỳ trước năm 1975
Ngay sau khi đọc bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố khai sinh nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa (02/9/1945), bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc ta năm 1946 đã
long trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

14

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
bính trong nước là của toàn dân Việt Nam12”. Nhà nước dân chủ nhân dân kiểu mới do
Đảng cộng sản lãnh đạo đã mang đến cho người dân Việt Nam các quyền dân chủ, dân
sinh, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Mặc dù nhà nước sơ khai mới ra đời còn
trăm công nghìn việc và phải lo chống thù trong giặc ngoài, nhưng do thấm nhuần
quan điểm về quyền con người, quyền dân chủ và quyền hạnh phúc của người dân,
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quan tâm sâu sắc đến vấn đề xem xét và giải
quyết tố cáo của công dân. Trong quá trình xây dựng và quản lý đất nước, với sự nhạy
bén về mặt Chính trị, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ sự cần thiết của công tác
kiểm tra, giám sát các hoạt động của bộ máy chính quyền, kế thừa truyền thống quý
báo của ông cha trong lĩnh vực này kết hợp với lý luận và kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng tới biện pháp tăng cường hiệu quả

quản lý Nhà nước bằng việc thành lập “Ban thanh tra đặc biệt”.
Ngày 23 tháng 11 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 64/SL
thành lập ban thanh tra đặc biệt, việc nhận đơn khiếu tố được Bác đặc ở tầm cao ngang
với việc đi giám sát công việc thực tế ở các cấp chính quyền. Nếu điều 1 ghi là:
“Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có ủy nhiệm là đi giám sát tất cả
công việc và nhân viên của Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”, thì điều
2 quy định: “nhận đơn khiếu nại của nhân dân; điều tra hỏi chứng, xem xét các giấy tờ
của Ủy ban nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám
sát. Trong sắc lệnh số 138b/SL ngày 18 tháng 12 năm 1949 cũng vậy, cùng với nhiệm
vụ: “xem xét thi hành chủ trương của Chính phủ” là nhiệm vụ “thanh tra sự khiếu nại
của người dân”. Những quy định trên nói lên sự quan tâm của chủ tịch Hồ Chí Minh
và Chính phủ đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Ngoài ra, Nhà
nước ta còn ban hành nhiều văn bản, nhằm tạo ra cơ chế đảm bảo quyền tố cáo của
công dân và tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết tốt các trường hợp tố cáo của người
dân. Trong thông tư số 203 NV/VP ngày 25/5/1946 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về khiếu
tố nói rõ: “Chính phủ và các cơ quan của chính phủ thiết lập trên nền tảng dân chủ, có
bổn phận đảm bảo công lý và vì thế rất để ý đến nguyện vọng của dân chúng và sẵn
lòng xem xét những nỗi oan khuất trong dân gian13”. Công văn này hướng dẫn cho
người dân thủ tục gửi đơn, giới thiệu thẩm quyền của các cơ quan giải quyết và thời
hạn để giải quyết khiếu tố. Thông tư số 436/TTg ngày 13/9/1958 của thủ tướng Chính
phủ quy định trách nhiệm, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan chính quyền trong
việc giải quyết các loại đơn thư khiếu nại, tố cáo (gọi tắt là khiếu tố) của nhân dân.
Thông tư xác định: “Nghiên cứu và giải quyết các việc khiếu nại và tố giác của nhân
12
13

Điều 1, Hiến pháp Việt Nam năm 1946.
Thông tư số 203 NV/VP về việc phân định thẩm quyền cơ quan tư pháp, ngày 25/5/1946.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền


15

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
dân là một trách nhiệm quan trọng của tất cả các cơ quan Nhà nước trước nhân
dân14”, ngoài ra Thông tư còn nêu những nguyên tắc về quyền hạn và nghĩa vụ của
nhân dân trong việc khiếu tố; những nguyên tắc về trách nhiệm và tổ chức của các cơ
quan hành chính, cơ quan chuyên môn các cấp, các ngành trong việc nghiên cứu và
giải quyết các loại đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Ngày 01/01/1960, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh công bố Hiến pháp mới
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hiến pháp này đã dành riêng một điều quy định
về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và trách nhiệm của cơ quan Nhà nước phải
xem xét giải quyết kịp thời, nhanh chóng các khiếu nại, tố cáo, bảo vệ quyền lợi cho
người dân. Điều 29 Hiến pháp 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa có quyền khiếu nại, tố cáo bất cứ cơ quan Nhà nước nào về những hành vi vi
phạm pháp luật của nhân viên cơ quan Nhà nước. Những khiếu nại và tố cáo phải
được giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi vi phạm pháp luật của
nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường15”. Tiếp đó Chính phủ đã ban
hành nhiều văn bản nhằm cụ thể hóa Hiến pháp, đảm bảo cho công dân thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo mà Hiến pháp đã ghi nhận, đồng thời quy định trách nhiệm của
các cơ quan Nhà nước trong việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân như Nghị quyết số 164/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ về việc tăng
cường công tác thanh tra và trấn chỉnh hệ thống cơ quan thanh tra của Nhà nước. Nghị
định số 165/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ quyền
hạn của Ủy ban thanh tra của Chính phủ. Thông tư số 60/UBTT ngày 22/5/1971 của
Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ hướng dẫn trách nhiệm của các ngành, các cấp về
giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Trong các văn bản nói trên, Chính

phủ đã giao việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân cho Uỷ ban Thanh tra của
Chính phủ, đồng thời qui định cụ thể một số nguyên tắc trong việc giải quyết đơn thư
khiếu tố như:
- Trách nhiệm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo chủ yếu thuộc về cơ quan
phát sinh vấn đề, trước hết là trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan.

- Trình tự xem xét và giải quyết đơn thư khiếu tố của Uỷ ban hành chính các
cấp và các ngành chuyên môn.
Những qui định nói trên của Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho công dân
thực hiện quyền làm chủ trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, kiểm
tra, giám sát hoạt động của cán bộ, nhân viên nhà nước, tổ chức xã hội trong việc thi
14

Thông tư số 436/TTg, quy định trách nhiệm, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan chính quyền trong việc
giải quyết các loại đơn khiếu nại, tố cáo của người dân ngày 13/9/1958.
15
Điều 29, Hiến pháp Việt Nam năm 1959.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

16

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
hành chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của
tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời qui định trách nhiệm của
mỗi cấp mỗi ngành phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, nâng cao tinh thần phục
vụ nhân dân, giải quyết đúng đắn, kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.


1.2.2.2. Thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1998
Sau khi nước nhà được thống nhất, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp mới, Hiến
pháp năm 1980. Một lần nữa, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp 1980 và so với Điều 29 của Hiến pháp năm 1959 thì qui định về
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân tại Điều 73 Hiến pháp năm 1980 cụ thể hơn, chi
tiết hơn. Tại điều 73 Hiến pháp quy định:
“Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những
việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang hoặc của
bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó.
Các điều khiếu nại, tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng.
Mọi hành động xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của công dân phải được kịp
thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo16.”
Sau khi Hiến pháp năm 1980 được ban hành, ngày 27/11/1981, Hội đồng Nhà
nước đã ban hành Pháp lệnh qui định việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân. Có thể nói, đây là văn bản pháp lý đầu tiên qui định một cách tập trung, đầy đủ và
chi tiết về việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Pháp lệnh năm
1981 gồm những qui định chung về quyền khiếu nại, tố cáo và thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tố cáo (Chương I); việc tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo (Chương II); thẩm
quyền và thời hạn xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo (Chương III); việc quản lý kiểm tra
công tác xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo (Chương IV); việc xử lý vi phạm (Chương V)
và Điều khoản cuối cùng (Chương VI). Nghị định số 58/HĐBT ngày 29/3/1982 của
Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Pháp lệnh đã qui định cụ thể về thẩm quyền và
trách nhiệm của công dân trong việc khiếu nại, tố cáo. Có thể khái quát một số đặc
điểm của cơ chế giải quyết khiếu nại theo qui định của Pháp lệnh năm 1981 và Nghị
định số 58 như sau:
- Về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, Điều 1 Pháp lệnh qui định: “Công
dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc
làm trái chính sách pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội và

16

Điều 73 Hiến pháp Việt Nam năm 1980.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

17

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc cơ quan, đơn vị, tổ chức
đó làm thiệt hại đến lợí ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính đáng của
công dân17". Như vậy có thể thấy rằng, đối tượng của khiếu nại là rất rộng và không có
sự phân biệt với tố cáo và chưa thể hiện rõ tính chất của khiếu nại hành chính. Điều
này chỉ được thể hiện khi qui định thẩm quyền giải quyết thuộc về thủ trưởng các cơ
quan hành chính nhà nước.
- Về việc bảo vệ người khiếu nại, tố cáo Pháp lệnh đã quy định tại điều 11 như
sau: “Cấm tiết lộ hoặc chuyển đơn tố cáo, bản sao đơn tố cáo, bản ghi lời tố cáo của
các đương sự cho cơ quan, tổ chức hoặc người bị tố cáo.
Không được chuyển các khiếu nại cho cơ quan, tổ chức hoặc người bị khiếu nại nếu
thấy có hại cho người khiếu nại”18. Có thể thấy, Nghị quyết đã phần nào xác định được
tầm quan trọng của việc bảo vệ người khiếu nại, tố cáo, tuy nhiên những quy định
trong Nghị quyết vẫn còn đơn giản, chưa chặt chẽ và chi tiết.
- Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, ngoài việc xác định trách nhiệm
giải quyết khiếu nại, tố cáo là thủ trưởng các cơ quan nhà nước, Pháp lệnh còn qui
định cả Chủ nhiệm hợp tác xã và Trưởng tập đoàn sản xuất. Điều này phù hợp với tình
hình thời kỳ đó khi mà kinh tế tập thể chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế và mặc
dù là một tổ chức kinh tế có tính chất tập thể nhưng tổ chức và hoạt động của nó được

thực hiện trên những nguyên tắc gần giống như các cơ quan nhà nước. Những quyết
định của ban lãnh đạo hợp tác xã hay tập đoàn sản xuất cũng có tính chất đơn phương,
mệnh lệnh như một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước.
- Về cơ chế giải quyết tố cáo được thể hiện trong Điều 13 Pháp lệnh như sau:
“Các tố cáo đối với nhân viên thuộc cơ quan, tổ chức nào thì thủ trưởng hoặc ban lãnh
đạo cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm xét, giải quyết. Các tố
cáo đối với thủ tưởng hoặc ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức nào thì tùy tính chất sự việc
thủ trưởng hoặc ban lãnh đạo cấp trên trực tiếp hoặc cao hơn một cấp của cơ quan, tổ
chức đó có trách nhiệm xét, giải quyết. các tố cáo đới với chủ nhiệm hoặc ban quản trị
hợp tác xã, đối với tập đoàn trưởng hoặc ban quản lý tập đoàn sản xuất thì Ủy ban
nhân dân huyện hoặc cấp tương đương có trách nhiệm xem xét và giải quyết 19”. Có thể
thấy, cơ chế giải quyết theo Pháp lệnh năm 1981 là cơ chế cấp trên - cấp dưới theo hệ
thống thứ bậc, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải là thủ trưởng của người bị
tố cáo; người bị tố cáo là thủ trưởng cơ quan Nhà nước thì không có thẩm quyền tự
giải quyết tố cáo đối với việc làm của chính mình. Điều 12 Nghị định số 58 qui định:
17

Điều 1 Nghị định 58/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Pháp lệnh năm 1981, ngày 29/3/1982
Điều 11, Pháp lệnh Quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, ngày 27/11/1981
19
Điều 13, Pháp lệnh Quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, ngày 27/11/1981
18

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

18

SVTH: Trần Kim Hoa



Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
“Các khiếu nại, tố cáo do cơ quan, tổ chức cấp dưới đã xem xét, giải quyết nhưng
đương sự còn khiếu nại, tố cáo thì thủ trưởng cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp có
trách nhiệm thẩm tra lại, nếu thấy việc giải quyết của cấp dưới là đúng thì ra văn bản
chuẩn y và thông báo cho đương sự biết; nếu phát hiện có sai lầm thì ra quyết định giải
quyết lại và thông báo kết quả cho đương sự biết”. Tuy nhiên, Pháp lệnh 1981 và Nghị
định 58 không qui định cấp nào là cấp giải quyết cuối cùng đối với vụ việc khiếu nại,
tố cáo. tức là chưa tạo ra được điểm dừng cho việc khiếu nại, tố cáo.
Về trách nhiệm của các tổ chức thanh tra nhà nước, Pháp lệnh qui định Chủ
nhiệm Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ xem xét và trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
giải quyết các khiếu nại, tố cáo về việc làm trái chính sách, pháp luật của thủ trưởng
các ngành trung ương hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và cấp tương đương; xem xét và kiến nghị giải quyết lại hoặc trình Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng giải quyết các khiếu nại, tố cáo mà Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà
nước, thủ trưởng cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương đã giải quyết nhưng phát
hiện có sai lầm. Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra các địa phương, Trưởng ban Thanh tra
các ngành có trách nhiệm giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, thủ trưởng ngành xét và giải
quyết các khiếu nại, tố cáo.
Nhìn chung, Pháp lệnh qui định việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân năm 1981 thể hiện tư tưởng dân chủ và đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước trong việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại của công dân với một trình tự,
thủ tục còn tương đối đơn giản và theo xu hướng tạo mọi điều kiện cho công dân thực
hiện được quyền khiếu nại, tố cáo của mình. Chẳng hạn, qui định công dân có thể
khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước; qui định về việc chuyển đơn
nhận được không đúng thẩm quyền... Những qui định này phù hợp với trình độ hiểu
biết pháp luật của người dân và sự phát triển pháp luật thời kỳ đó.
Tiếp đó, Nhà nước ta đã ban hành thêm một số văn bản, những văn bản này
được ban hành nhằm thực hiện tốt những qui định của Pháp lệnh năm 1981 và Nghị
định 58. Đó là Thông tư 02/TTr ngày 4/5/1982 của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ;

Nghị quyết số 26-HĐBT ngày 12/5/1984 của Hội đồng Bộ trưởng về việc tăng cường
tổ chức và nâng cao hiệu lực của hoạt động thanh tra ; Chỉ thị số 17-CT của Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng ngày 3/7/1989 về kiểm điểm việc thực hiện Pháp lệnh năm 1981.
Qua mười năm thi hành pháp lệnh qui định về việc xét, giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân, Nhà nước ta đã quyết định ban hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

19

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
công dân năm 1991 thay thế cho Pháp lệnh năm 1981. Pháp lệnh năm 1991 có những
nét mới và tiến bộ hơn so với Pháp lệnh năm 1981 như sau:
Về quyền tố cáo: Một mặt Pháp lệnh năm 1991 tiếp tục khẳng định tố cáo là
một trong những quyền cơ bản của người dân được Nhà nước bảo đảm thực hiện
nhưng khác với trước kia, để bảo đảm thực hiện quyền tố cáo có hiệu quả thì công dân
cần khiếu tố cáo đến đúng cơ quan nhà nước có thẩm quyền, qui định này nhằm khắc
phục tình trạng đơn thư tố cáo gửi tràn lan, gây lãng phí về thời gian và công sức cho
quá trình tiếp nhận và giải quyết tố cáo. Đồng thời, Pháp lệnh cũng nêu ra những qui
định cụ thể về quyền và trách nhiệm của từng chủ thể liên quan đến việc tố cáo (quyền
và nghĩa vụ của bên tố cáo và bên bị tố cáo). Điều đó bảo đảm sự bình đẳng của công
dân trước pháp luật cũng như tạo điều kiện để các bên có cơ sở thực hiện tốt quyền và
nghĩa vụ của mình trong quá trình vụ việc tố cáo được giải quyết.
Thứ hai, khác với qui định trước kia, lần đầu tiên, Pháp lệnh đã nêu ra hai khái
niệm khiếu nại và tố cáo với những nội dung khác nhau căn cứ vào tính chất của nó.
Đây là vấn đề hết sức quan trọng, nó làm cơ sở cho việc xác định thẩm quyền giải
quyết đối với từng loại vụ việc (khiếu nại và tố cáo) cũng như trình tự, thủ tục giải

quyết đối với từng loại đơn thư một cách phù hợp. Đây có thể nói là cơ sở cho việc
tiếp tục nghiên cứu và xây dựng một cơ chế giải quyết riêng đối với Tố cáo sau này.
Thứ ba, Pháp lệnh đưa ra một trình tự và thủ tục tiếp nhận và giải quyết Tố cáo
một cách tương đối chặt chẽ, tạo điều kiện để công dân có thể thực hiện quyền tố cáo
của mình, đồng thời cũng giúp các cơ quan nhà nước có trách nhiệm có thể thực hiện
việc tiếp nhận và giải quyết tố cáo một cách nề nếp, qui củ (quá trình tiếp nhận, phân
loại xử lý đơn thư, thụ lý vụ việc…)
Thứ tư, Pháp lệnh qui định cụ thể về thẩm quyền giải quyết đối với vụ việc
khiếu nại và tố cáo, nhất là đối với Tố cáo, theo đó một vụ việc Tố cáo sẽ được các cơ
quan khác nhau giải quyết tùy vào nội dung của từng loại tố cáo:
“Tố cáo mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý Nhà nước của cơ quan
nào, thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm hành chính thì do cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính giải quyết.
Tố cáo về hành vi phạm tội thì do cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát nhân dân giải
quyết.20”

20

Xem điều 29 Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước số 53-LCT/HDND ngày 07/5/1991 về Khiếu nại tố cáo của
công dân.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

20

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo

Có thể nói, những qui định của Pháp lệnh năm 1991 có nhiều điểm thể hiện sự
đổi mới về mặt nhận thức về quyền tố cáo của công dân cũng như công tác giải quyết
tố cáo. nhưng cũng phải thừa nhận rằng, sự đổi mới đó còn rất ít cơ sở thực tế để phát
huy hiệu lực và hiệu quả. Những qui định về trình tự, thủ tục cũng tỏ ra không thực tế
và quá trình thực hiện có nhiều vi phạm kể cả người tố cáo cũng như cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết. Chính vì những vấn đề nêu trên cho nên hiệu
lực và hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo kể từ sau khi Pháp lệnh 1991
ban hành không có những sự biến đổi tích cực và gần như đồng thời với việc ban hành
Pháp lệnh năm 1991, Nhà nước ta đã có chủ trương nghiên cứu và thiết lập cơ chế giải
quyết khiếu kiện hành chính bằng con đường tài phán để khắc phục những nhược điểm
của phương thức giải quyết khiếu kiện hành chính từ trước đến nay.

1.2.2.3. Thời kỳ từ năm 1998 đến năm 2011
Tháng 12 năm 1998, Quốc hội đã thông qua Luật khiếu nại, tố cáo thay thế cho
Pháp lệnh khiếu nại tố cáo của công dân năm 1991 và như vậy cơ chế giải quyết khiếu
kiện hành chính được thực hiện theo qui định của các văn bản này. Sự ra đời của luật
khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, coi đây là một trong những công tác góp phần
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng và quản lý đất nước, là cơ
sở pháp lý quan trọng để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của
Nhà nước và của tập thể. Đồng thời là phương tiện để công dân thực hiện quyền làm
chủ và giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy
Nhà nước, loại trừ những biểu hiện tiêu cực của cán bộ, công chức Nhà nước như quan
liêu, hách dịch, sách nhiễu, cửa quyền, những hành vi phạm pháp, tham nhũng…
Ngày 15/6/2004 Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI,
tại kỳ họp thứ 5 đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Khiếu nại, tố
cáo. Tại kỳ họp này Quốc hội đã ra nghị quyết số 30/2004/QH11, trong đó nêu rõ
“Chính phủ khẩn trương tiến hành tổng kết toàn diện việc thi hành Luật khiếu nại, tố
cáo năm 1998, làm cơ sở cho việc nghiên cứu sửa đổi cơ bản Luật khiếu nại, tố cáo,
xây dựng cơ chế hữu hiệu để giải quyết các khiếu kiện hành chính phù hợp với tình

hình thực tế của nước ta và thông lệ quốc tế”21. Luật sửa Khiếu nại, Tố cáo 1998 sửa
đổi bổ sung 2004 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2004. Ngày 29/11/2005, tại kỳ
họp thứ 8 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã thông qua Luật sửa
đổi bổ sung một số điều Luật khiếu nại, tố cáo. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày
21

Xem Nghị quyết số 30/2004/QH11, về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý hành chính
Nhà nước, ngày 15/6/2004.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

21

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
01/6/2006. Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004, năm 2005 được Quốc hội ban hành đã tạo khung
pháp lý quan trọng để công dân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại, công dân
thực hiện quyền tố cáo cũng như việc xác định trách nhiệm của các cơ quan nhà trong
quá trình tiếp nhận, giải quyết tố cáo của công dân. Tuy nhiên, sau một thời gian dài
thực hiện Luật đã có nhiều quy định không phù hợp với thực tiễn và hội nhập quốc tế,
đòi hỏi Nhà nước ta cần ban hành Luật mới phù hợp với điều kiện phát triển của đất
nước hiện tại hơn so với Luật Khiếu nại, Tố cáo năm 1998.

1.2.2.4. Thời kỳ từ năm 2011 đến nay
Ngày 11 tháng 11 năm 2011, Quốc hội nước ta đã ban hành Luật khiếu nại,
Luật tố cáo để thay thế Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và các Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004, năm 2005. So với Luật khiếu nại, tố

cáo năm 1998 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm
2004, năm 2005 chúng ta thấy Luật tố cáo năm 2011 đã quy định thêm một số nội
dung mới về công khai nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm trong tố cáo.
Điểm nổi bật nhất của Luật Tố cáo 2011 là đã bổ sung một chương mới (Chương V)
về bảo vệ người tố cáo. Trong đó xác định trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người
tố cáo thuộc về người giải quyết tố cáo. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
tiếp cận thông tin về người tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo đều có trách nhiệm
bảo đảm giữ bí mật các thông tin này không kể người tố cáo có yêu cầu hay không.
Việc quy định người tố cáo phải có văn bản yêu cầu bảo vệ chỉ áp dụng khi họ có căn
cứ cho rằng họ bị phân biệt đối xử về việc làm, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa
vụ công dân hay nguy hại đến sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy
tính của mình. Đây cũng là cơ sở để các cơ quan xác định các biện pháp bảo vệ phù
hợp, bảo đảm tính khả thi trên thực tiễn, phù hợp với nguyên tắc bảo vệ bí mật thông
tin cho người tố cáo.

1.3. Yêu cầu thực tiễn và mục đích của việc quy định về bảo vệ người tố cáo
1.3.1. Yêu cầu thực tiễn về bảo vệ người tố cáo
Trong nhiều năm qua, công dân đã chủ động, tích cực thực hiện quyền tố cáo,
số đơn thư tố cáo của công dân có chiều hướng ngày càng gia tăng, điều này chứng tỏ
người dân đã biết phát huy quyền dân chủ trong đấu tranh chống lại các hành vi vi
phạm pháp luật, nhân dân không còn thờ ơ với công việc của Nhà nước, ý thức được
trách nhiệm của mình và biết đấu tranh góp phần ổn định trật tự xã hội, xây dựng Nhà
nước trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt là trong công cuộc đấu tranh phòng chống tham
nhũng đã xuất hiện nhiều cá nhân tiêu biểu, đại diện cho đông đảo quần chúng nhân
GVHD : TS. Phan Trung Hiền

22

SVTH: Trần Kim Hoa



Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
dân tích cực trong việc phản ánh, lên án, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật (tham
nhũng), tiêu cực tại nơi sinh sống, công tác và làm việc, góp phần to lớn vào việc ngăn
ngừa và từng bước đẩy lùi các hành vi phạm pháp luật ở nước ta.
Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo 2011 quy định: “Tố cáo là việc công dân theo thủ
tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về
hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc
đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức”. Từ đó có thể hiểu người tố cáo là người biết được hành vi vi phạm
pháp luật của người khác đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện và trình báo với
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền về những gì mình biết. Người tố cáo cần phải
được áp dụng các biện pháp bảo vệ, bởi lẽ những người này trước hết là công dân, họ
có quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Đây là
những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể
hóa trong các văn bản pháp luật khác. Mỗi công dân trong xã hội đương nhiên có
quyền được bảo vệ trước nguy cơ xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Hơn nữa, người tố cáo là công dân có vai trò đặc biệt: họ là người cộng tác, phối hợp
với cơ quan nhà nước trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, họ là
người cung cấp các thông tin hữu ích góp phần giải quyết đúng đắn vụ việc tố cáo. Vì
vậy, họ có nguy cơ bị người có hành vi vi phạm pháp luật đe dọa, xâm hại tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản với ý đồ nhằm ngăn cản, trả thù do sự cộng tác,
phối hợp đó. Mặt khác, xuất phát từ bản chất của quan hệ tố cáo, người tố cáo là
những người yếu thế hơn người bị tố cáo (nhất là tố cáo các hành vi tham nhũng),
người bị tố cáo thường là những người có chức vụ, quyền hạn nên các hình thức trả
thù cũng rất tinh vi, khó lường. Ngoài ra, để thu thập được đầy đủ, chính xác các thông
tin từ người tố cáo, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đảm bảo an toàn cho họ,
tạo cho họ lòng tin và sự an tâm, phối hợp nhiệt tình với các cơ quan chức năng, giúp
những vụ việc tố cáo sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng. Đó cũng là cách Nhà
nước thể hiện rõ sức mạnh và trách nhiệm của mình đối với công dân nói chung cũng

như đẩy mạnh tính tích cực của cộng đồng, ngăn chặn ý đồ gây khó khăn, cản trở, trả
thù người tố cáo. Bảo vệ người tố cáo cũng góp phần hạn chế những hành vi vi phạm
pháp luật, bảo vệ sự công bằng của xã hội và kỹ cương phép nước.

1.3.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định về bảo vệ người tố cáo của nước ta
Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, những quy định về bảo vệ
người tố cáo nhằm hướng tới những mục đích sau đây:

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

23

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức
thông qua việc thực hiện chức năng của mình.
- Bảo đảm cho việc giải quyết tố cáo được thực hiện đúng đắn và kịp thời.
- Bảo đảm cho việc thi hành các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của việc
giải quyết tố cáo được thực hiện nghiêm chỉnh và có hiệu quả.
Các quy định về bảo vệ người tố cáo có ý nghĩa quan trọng đối với việc đảm
bảo thực thi pháp luật nói chung và thực thi pháp luật về tố cáo nói riêng. Việc thực
hiện các quy định về bảo vệ người tố cáo mang tính chất bắt buộc chung đối với tất cả
mọi người, mọi cơ quan và tổ chức. Việc tuân thủ triệt để các quy định về bảo vệ
người tố cáo trước hết tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo một
cách thuận lợi và nhanh chóng, đồng thời bảo đảm cho người tố cáo thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ công dân của mình, trên cơ sở đó mà các lợi ích hợp pháp của
bản thân người tố cáo và xã hội được tôn trọng, bảo vệ.
Ngoài ra, việc quy định về bảo vệ người tố cáo còn góp phần ngăn chặn mọi

hành vi vi phạm pháp luật và những biểu hiện tiêu cực phát sinh trong quá trình giải
quyết tố cáo.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

24

SVTH: Trần Kim Hoa


Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ NGƯỜI
TỐ CÁO
Nội dung chính của chương này tập trung tìm hiểu những quy định của pháp
luật Việt Nam về công tác bảo vệ người tố cáo như: Bảo vệ người tố cáo bằng những
phương thức nào? Những chủ thể nào có trách nhiệm trong công tác bảo vệ người tố
cáo? Những hành vi vi phạm liên quan đến việc bảo vệ người tố cáo sẽ được xử lý như
thế nào?... Sau khi phân tích và tìm hiểu về mặt lý luận, người viết sẽ lấy đó làm tiền
đề để tìm hiểu về thực tiễn công tác bảo vệ người tố cáo sẽ được trình bày ở chương 3.

2.1. Khái quát các quy định của nước ta về bảo vệ người tố cáo
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giải quyết hiệu quả các
khiếu nại, tố cáo nói chung, việc giải quyết tố cáo nói riêng và coi việc thực hiện
quyền tố cáo là phương thức để người dân thể hiện quyền dân chủ trực tiếp và tham
gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và
các vi phạm pháp luật khác. Xuất phát từ quan điểm đó, ở mỗi giai đoạn phát triển đất
nước, Đảng và Nhà nước đều có các chỉ thị, nghị quyết, văn bản pháp luật về công tác

giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó có đề cập đến vấn đề bảo vệ người tố cáo. Hiến
pháp 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước ta tuy chưa có điều khoản cụ thể nào quy
định về quyền tố cáo của công dân, song cơ chế dân chủ mà Hiến pháp tạo dựng đã là
nền tảng cơ bản hình thành quyền tố cáo của công dân trên thực tế. Hiến pháp năm
1959 lần đầu tiên quy định quyền khiếu nại, tố cáo của công dân tại Điều 29 “Công
dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan
nào của Nhà nước về những hành vi vi phạm của nhân viên cơ quan nhà nước. Những
việc khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì
hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường” 22. Bắt
đầu từ đây, khái niệm tố cáo đã được chính thức sử dụng trong văn bản pháp luật. Đến
Hiến pháp năm 1980, quyền tố cáo của công dân tiếp tục được củng cố và phát triển
hơn trước. Điều 73 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ
quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan,
tổ chức, đơn vị đó; các điều khiếu nại, tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh
chóng; mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp
22

Điều 29, Hiến pháp năm 1959.

GVHD : TS. Phan Trung Hiền

25

SVTH: Trần Kim Hoa


×