Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.9 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
---

---

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2011-2015

Đề tài:
TỘI ĐƯA HOẶC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP THÔNG TIN
TRÊN MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, MẠNG
INTERNET TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
TS. Phạm Văn Beo
Bộ môn Luật Tư pháp

Sinh viên thực hiện:
Thái Anh Thư
MSSV: 5115761
Lớp luật Tư pháp 1-K37

Cần Thơ, 12/2014


LỜI CẢM ƠN

Trên thực tế không có một sự thành công nào mà không gắn liền với
những sự hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người
khác. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập tại giảng đường đại học đến


nay, người viết đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ của gia đình,
Thầy cô và bạn bè.
Đầu tiên người viết xin dành muôn vàn lời yêu thuơng gửi đến Ba, Mẹ
- Người đã không ngại vất vả, gian lao nuôi dạy con đến ngày hôm nay. Ba,
Mẹ là chỗ dựa vững chắc cho con sau những lần vấp ngã, luôn cổ vũ động
viên con tiếp tục phấn đấu vươn lên trong học tập và cuộc sống.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, người viết xin cảm ơn cô cố vấn học tập
cùng toàn thể quí Thầy, Cô trong khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ đã
cùng với tri thức và tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu
cho người viết trong suốt thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt người viết xin gửi đến thầy Phạm Văn Beo lời cảm ơn chân
thành, thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi để
người viết hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Người viết cũng xin cảm ơn quí Thầy Cô trong Hội đồng đã chỉ dạy,
đóng góp để người viết nắm vững hơn kiến thức của mình và để bài viết
hoàn thiện hơn.
Cuối cùng người viết xin gửi lời cảm ơn đến tập thể lớp Tư Pháp 1K37 và tất cả các bạn bè đã ủng hộ, giúp đỡ và chia sẻ cùng người viết trong
suốt thời gian qua.
Cần Thơ, ngày

tháng

năm 2014

THÁI ANH THƯ


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN



........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................

........................................................................................................................
........................................................................................................................
........................................................................................................................


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin…

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2.
3.
4.
5.

Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 2
Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 2
Phương pháp nghiên cứu đề tài ........................................................................... 3
Kết cấu đề tài ...................................................................................................... 3

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI ĐƯA HOẶC SỬ DỤNG
TRÁI PHÉP THÔNG TIN TRÊN MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG,
MẠNG INTERNET TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................. 4
1.1. Vài nét về tội phạm công nghệ cao ..................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm về tội phạm ............................................................................... 4
1.1.2. Khái niệm về tội phạm công nghệ cao ....................................................... 4
1.1.3. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm công nghệ cao.......................................... 9
1.2. Khái quát về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng

viễn thông, mạng internet ......................................................................................... 12
1.2.1. Khái niệm về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy
tính, mạng viễn thông, mạng internet ................................................................ 12
1.2.2. Đặc điểm của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy
tính, mạng viễn thông, mạng internet ................................................................ 14
1.2.3. Lịch sử pháp luật Hình sự Việt Nam về tội đua hoặc sử dụng trái phép
thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet. ....................... 15
1.2.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy định của pháp luật Hình sự về tội đưa
hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng
internet. .............................................................................................................. 21
1.2.4.1. Về mặt lý luận .................................................................................... 21
1.2.4.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn..................................................................... 22
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ TỘI ĐƯA HOẶC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP THÔNG TIN TRÊN
MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, MẠNG INTERNET .................... 24
2.1. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông,
mạng internet được quy định tại Điều 226, Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm
2009. ........................................................................................................................ 24
2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy
tính, mạng viễn thông, mạng internet ........................................................................ 25
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin…

2.2.1. Mặt chủ thể của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy

tính, mạng viễn thông, mạng internet ................................................................ 25
2.2.2. Mặt Khách thể của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng
máy tính, mạng viễn thông, mạng internet......................................................... 26
2.2.3. Mặt khách quan của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng
máy tính, mạng viễn thông, mạng internet......................................................... 29
2.2.4. Mặt chủ quan của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng
máy tính, mạng viễn thông, mạng internet......................................................... 33
2.3. Trách nhiệm hình sự của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy
tính, mạng viễn thông, mạng internet ........................................................................ 33
2.3.1. Khung hình phạt cơ bản. ......................................................................... 33
2.3.2. Khung hình phạt tăng nặng .................................................................... 34
2.3.3. Hình phạt bổ sung ................................................................................... 40
2.4. So sánh tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng internet với một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn
thông khác trong Bộ luật hình sự Việt hiện hành. ..................................................... 40
2.4.1. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng internet với tội phát tán vi rút, chương trình tin học có tính năng
gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết
bị số ................................................................................................................. 41
2.4.2. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng internet với tội cản trở hoặc gây rối loạn cho hoạt động của mạng
máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số. ...................................... 42
2.4.3. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng internet với tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng
viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số của người khác. .............................. 43
2.4.4. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng internet với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng
internet hoặc thiết bị số hực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. ........................... 44
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG
TỘI ĐƯA HOẶC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP THÔNG TIN .................................... 46

TRÊN MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, MẠNG INTERNET......... 46
3.1. Tình hình tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng
viễn thông, mạng internet ở Việt Nam. ..................................................................... 46

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin…

3.2. Bất cập trong quá trình xử lý tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng
máy tính, mạng viễn thông, mạng internet ................................................................ 49
3.2.1. Những bất cập trong quy định về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin
trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet ....................................... 50
3.2.2. Những bất cập trong công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý tội đưa hoặc
sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng
internet. ............................................................................................................. .52
3.2.3. Những bất cập trong công tác quản lý Nhà nước về thông tin trên
mạng…… ........................................................................................................... 54
3.3. Giải pháp cho những bất cập trong đấu tranh phòng chống tội đưa hoặc sử dụng
trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet ở Việt Nam55
3.3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin
trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet ....................................... 55
3.3.2. Giải pháp cho những bất cập trong công tác chủ động phòng ngừa, phát
hiện và xử lý tội phạm ........................................................................................ 57
3.3.3. Giải pháp cho những bất cập trong công tác quản lý nhà nước về thông
tin trên mạng ...................................................................................................... 58

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, để đạt mục tiêu chung mà Đaị
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra là phấn đấu trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Do vậy, việc ứng
dụng công nghệ thông tin ở Việt Nam được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực đã góp phần
thúc đẩy nền kinh tế- xã hội Việt Nam phát triển hơn, đời sống nhân dân được nâng
cao rõ rệt và đưa nước ta thoát khỏi danh sách những nước nghèo kém p hát triển. Với
những thành tựu đạt được trong những năm qua đã kéo theo sự bùng nổ của công
nghệ thông tin, viễn thông ở Việt Nam với hệ quả là số người sử dụng internet và các
thiết bị viễn thông ngày một gia tăng nhanh chóng. Theo thống kê của Bộ Thông tin và
Truyền thông, tính đến ngày 26/12/2013 tổng số thuê bao điện thoại đạt 105 triệu thuê
bao, trong đó di động chiếm 93%; hơn 31 triệu người sử dụng Internet; tổng số thuê
bao Internet băng rộng (xDSL) đạt hơn 5,17 triệu thuê bao; tổng băng thông kết nối
Internet trong nước đạt 613,8Gb/s và tổng băng thông kết nối Internet quốc tế đạt
549Gb/s; hơn 263.000 tên miền “.vn” đã đăng ký và Việt Nam tiếp tục giữ vị trí số 1
Đông Nam Á về số lượng sử dụng tên miền cấp cao mã quốc gia, đạt tốc độ tăng
trưởng bình quân 172% năm; tổng số tên miền tiếng Việt đã đăng ký đạt gần 950.000;

tổng số địa chỉ IPv4 đã cấp đạt trên 15,5 triệu địa chỉ 1. Công nghệ thông tin, viễn
thông trở thành một lĩnh vực mà các đối tượng tập trung khai thác, sử dụng để thực
hiện tội phạm. Loại toại phạm trong lĩnh vực công nghệ cao này gia tăng nhanh chóng,
diễn biến phức tạp và gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Trong đó, đáng kể nhất là tội
đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng
internet. Tội phạm này đưa lên mạng những thông tin kích động bạo lực, hình ảnh dàn
dựng, công khai những thông tin riêng hợp pháp…những hành vi này không những
xâm phạm lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân, mà còn ảnh hưởng đến trật tự và an
toàn xã hội gây hậu quả nghiêm trọng, tạo sự bất ổn trong xã hội cản trở sự phát triển
của đất nước. Chính vì vậy nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề an toàn công cộng, trật
tự công cộng, không ngừng đổi mới và hoàn thiện những quy định của pháp luật trong
lĩnh vực này. Từ đó, đánh dấu bước tiến quan trong trong lịch sử lập pháp hình sự Việt
Nam, đặc cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đấu tranh phòng chóng tội phạm có hiệu
quả góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội, tập trung phát triển kinh tế.
1

Bộ thông tin và truyền thông: Tình hình phát triển viễn thông, internet trong năm 2013,

/>x, [truy cập ngày 31/10/2014].

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

1

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...


Trong Bộ luật hình sự Việt Nam 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, tội đưa hoặc
sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet được
quy định ở chương XIX, tại Điều 226 và đây là loại tội phạm xâm phạm đến lợi ích
của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội gây hậu quả nghiêm
trọng. Mặc dù, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009, đã góp
phần sửa đổi hoàn thiện tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng internet trong Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, tình hình
tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng
internet hàng năm chỉ có một vài vụ hoặc không có vụ án nào nhưng so với vụ án
trước thì vụ án xảy ra sau đều được thực hiện với thủ đoạn ngày càng tinh vi, kín đáo
và có sự thay đổi phương thức liên tục nhằm lẩn tránh sự phát hiện của các cơ quan
bảo vệ pháp luật. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay việc nghiên cứu những đặc điểm,
bản chất cơ bản của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng internet để tìm ra những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn áp
dụng tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông,
mạng internet ở Việt Nam trong thời gian qua từ đó đưa ra giải pháp khắc phục thực
trạng đang diễn ra để những nhà lập pháp có thể dự liệu nhiều tình huống thực tế và từ
đó chọn ra phương pháp tối ưu nhất để hoàn thiện điều luật hơn. Đây cũng chính là lý
do người viết chọn đề tài “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy
tính, mạng viễn thông, mạng internet trong luật hình sự việt Nam” để làm đề tài
luận văn của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Với mong muốn tìm hiểu nhiều hơn và hoàn thiện kiến thức về loại tội phạm này,
trong phạm vi nghiên cứu của đề tài “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên
mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet trong luật hình sự Việt Nam”, người
viết sẽ trình bày những lý luận chung về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên
mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, dấu hiệu pháp lý và diễn biến của tội
phạm này trong giai đoạn hiện nay, từ đó nâng cao hiểu biết của bản thân về loại tội
phạm mới này, kiến nghị những biện pháp phòng ngừa và tuyên truyền cho mọi người

xung quanh hiểu biết về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng internet, góp phần đấu tranh phòng chống có hiệu quả tội
phạm này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng internet” trong luật hình sự Việt Nam hiện hành, tại điều 226. Và những
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

2

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

tài liệu trong phạm vi pháp luật Việt Nam có liên quan, chỉ rõ những thuộc tính bản
chất của loại tội phạm này để có thể xây chiến lược phòng chống tội phạm này, đồng
thời có thể hoàn thành tốt bài viết của mình.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên
mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet trong luật hình sự Việt Nam”, người
viết sử dụng các phương pháp sau:
− Phương pháp so sánh
− Phương pháp đối chiếu
− Phương pháp phân tích luật viết
− Phương pháp tổng hợp tài liệu
− Phương pháp luận
Trong đó phương pháp phân tích luật viết giữ vai trò chủ đạo trong tất cả các

phương pháp được áp dụng để nghiên cứu đề tài.
5. Kết cấu đề tài
Lời mở đầu
Phần nội dung:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tội đưa hoặc sử dụng trái phép
thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet trong luật hình
sự Việt Nam
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội đưa hoặc sử dụng
trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet
Chương 3: Thực trạng và giải pháp đấu tranh phòng chống tội đưa hoặc sử
dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet
Phần kết luận
Mặc dù trong quá trình nghiên cứu đã có sự cố gắng nổ lực của người viết và sự
hướng dẫn nhiệt tình của giảng viên, nhưng do trình độ, kinh nghiệm và khả năng
nghiên cứu còn hạn chế nên không tránh khỏi thiếu sót, kính mong quí Thầy Cô thông
cảm và đóng góp thêm để đề tài được hoàn thiện.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

3

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI ĐƯA HOẶC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP

THÔNG TIN TRÊN MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, MẠNG
INTERNET TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Vài nét về tội phạm công nghệ cao
1.1.1. Khái niệm về tội phạm
Tội phạm là chế định quan trọng và chủ yếu của luật hình sự. Nội dung của khái
niệm tội phạm đã “thể hiện một cách rõ nét bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị
xã hội cũng như những đặc điểm pháp lý của pháp luật hình sự”2. Đồng thời, nó còn
“được xem như là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và
không phải là tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lý
khác…” 3.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS 1999 quy định: “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá,
quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa”.
Có thể xem quy định về tội phạm nêu trên là quy định “có tính khoa học thể
hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm”4. Từ quy định mang tính
định hướng này có thể rút ra khái niệm tội phạm một cách khái quát như sau: Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình
phạt.5
1.1.2.

Khái niệm về tội phạm công nghệ cao

Trên thế giới, khái niệm tội phạm công nghệ cao xuất hiện vào cuối thế kỷ XX
cùng với sự phát triển của các ngành khoa học công nghệ khác như công nghệ hóa học,

công nghệ vật lý, công nghệ sinh học…đặc biệt là công nghệ thông tin và sự ra đời của
2

Đào Trí Úc (chủ biên), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hính sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1994, tr.157.
3
Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội, 1991, tr. 9.
4
Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.33.
5
Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.33.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

4

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

máy vi tính cùng với mạng internet toàn cầu. Theo đó đã xuất hiện những khái niệm về
loại tội phạm mới như tội phạm máy tinh, tội phạm đột nhập (hacker), tội phạm tin
học. Hiện nay, các nhà tội phạm hoc trên thế giới đưa ra nhiều khái niệm về tội phạm
công nghệ cao. Để có thể hiểu khái niệm về tội phạm công nghệ cao thì việc đầu tiên
là phải tìm hiểu công nghệ cao là gì?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật công nghệ cao năm 2008 thì “Công nghệ
cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;

được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất
lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò
quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa
ngành sản xuất, dịch vụ hiện có”.
Việc ứng dụng công nghệ cao trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đều
mang lại thành công. Đó chính là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam
trong những năm gần đây đưa nước ta thoát khoải danh sách những nước nghèo kém
phát triển. Tuy nhiên, khi công nghệ cao ngày càng được ứng dụng rộng rãi thì càng dễ
bị lợi dụng, sử dụng hoặc là mục tiêu của bọn tội phạm Các thành tựu do công nghệ
thông tin đem lại cũng không nằm ngoài quy luật đó, nên đã hình thành một khái niệm
mới về loại tội phạm, đó là tội phạm công nghệ cao. Để đảm bảo sự thống nhất và
chuyên sâu, trong phạm vi đề tài này người viết chỉ tập trung nghiên cứu về tội phạm
công nghệ cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Qua nghiên cứu cho thấy, hiện có rất nhiều khái niệm khác nhau, nhiều luồng ý
kiến chưa đồng nhất về tội phạm công nghệ cao. Có thể đưa ra một số ví dụ như:
Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam nêu khái niệm tội phạm công
nghệ cao là: Loại tội phạm sử dụng những thành tựu mới của khoa học - kỹ thuật và
công nghệ hiện đại làm công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội một cách
cố ý hoặc vô ý, gây nguy hiểm cho xã hội. Chủ thể của loại tội phạm này thường là
những người có trình độ học vấn, chuyên môn cao, có thủ đoạn rất tinh vi, khó phát
hiện. Hậu quả do loại tội phạm này gây ra không chỉ là những thiệt hại lớn về mặt
kinh tế, xã hội mà nó còn xâm hại tới an ninh quốc gia. Một số nhóm tội phạm công
nghệ cao phổ biến hiện nay là: Nhóm tội phạm tin học (Hacker), viễn thông; nhóm tội
phạm sử dụng phương tiện điều khiển chính xác; nhóm tội phạm sinh học - hoá học.
Theo Tổ chức Cảnh sát Hình sự quốc tế INTERPOL thì khái niệm tội phạm
công nghệ cao là loại tội phạm sử dụng, lạm dụng những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền
công nghệ có trình độ công nghệ cao như một công cụ, phương tiện để thực hiện hành

GVHD: TS. Phạm Văn Beo


5

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

vi phạm tội. Trong các dạng của tội phạm công nghệ cao có 2 dạng chính, đó là tội
phạm máy tính (computer crime) và tội phạm công nghệ thông tin - điều khiển học
(cyber crime). Việc xác định hành vi phạm tội, mức độ tội phạm và mức hình phạt ở
các nước trên thế giới có sự khác nhau tuỳ thuộc vào hệ thống pháp luật mà nước đó
đang áp dụng.
Theo Bộ Tư pháp Mỹ thì khái niệm tội phạm công nghệ cao là “bất cứ hành vi
vi phạm pháp luật hình sự nào có liên quan đến việc sử dụng các hiểu biết về công
nghệ máy tính trong việc phạm tội”.
Hiện nay, theo các chuyên gia về tội phạm học Việt Nam thì khái niệm tội
phạm công nghệ cao được sử dụng với nội hàm gồm hai nhóm tội phạm:
+ Nhóm thứ nhất: Tội phạm với mục tiêu tấn công là cơ sở dữ liệu của máy
tính, hoặc mạng máy tính, trong đó những hành vi chủ yếu là: tạo ra, lan truyền, phát
tán các chương trình virus, đột nhập trái phép cơ sở dữ liệu máy tính, trộm cắp dữ liệu,
thông tin (đặc biệt là cơ sở dữ liệu quốc gia, an ninh, quốc phòng), sử dụng trái phép
dữ liệu, đưa thông tin trái phép lên mạng...
+ Nhóm thứ hai: Tội phạm đã được quy định trong Bộ Luật hình sự, nhưng với
phương thức thủ đoạn hoạt động mới, trong đó máy tính được sử dụng như một công
cụ để gây án, để lưu giữ thông tin tội phạm, như: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trộm
cắp tài sản, tội tham ô, tội rửa tiền, tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ... với những thủ
đoạn của tội phạm sử dụng công nghệ cao.
Các loại tội phạm công nghệ cao, đặc biệt là các hành vi phạm tội thực hiện qua

mạng máy tính chủ yếu là: trộm cắp cước phí viễn thông, đánh cắp tiền trong tài khoản
ngân hàng, lừa đảo trong thanh toán, đánh cắp dữ liệu trái phép; xâm nhập, theo dõi
hoạt động của hệ thống máy tính khác trái phép; lợi dụng mạng máy tính để tiêu thụ
ma tuý, hoạt động mại dâm, tham gia thao túng thị trường chứng khoán; viết, phát tán
và tấn công khủng bố bằng virus đến các hệ thống máy tính khác; tuyên truyền thông
tin đồn nhảm, thất thiệt; tuyên truyền văn hoá phẩm độc hại, đồi truỵ...Có thể nói công
nghệ thông tin có vai trò, mức độ nhất định trong việc thực hiện, che giấu và gây ra
những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nhìn một cách tổng thể, đối với loại tội phạm
công nghệ cao, chúng ta thấy công nghệ thông tin (máy tính và mạng máy tính) đóng
một số vai trò quan trọng trong quá trình phạm tội. Dưới góc độ như là khách thể, hiểu
theo nghĩa thông thường máy tính và các thiết bị có liên quan là một loại tài sản có giá
trị, do vậy nó có thể trở thành đối tượng của các tội về xâm phạm quyền sở hữu như
trộm, cướp hay phá hoại tài sản. Hiểu theo một góc độ phức tạp hơn, máy tính với vai

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

6

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

trò như là khách thể còn được thể hiện trong việc tội phạm cố tình phá hoại hay ăn cắp
chúng nhằm xoá bỏ hoặc lấy cắp các thông tin mà nó chứa đựng. Dưới góc độ là công
cụ phạm tội, máy tính và mạng máy tính với những khả năng ưu việt ngày càng được
các loại tội phạm khác nhau sử dụng để thực hiện các tội phạm truyền thống như tội
đánh bạc, tội lừa đảo... hoặc sử dụng máy tính làm trung gian chuyển tiền bất hợp pháp

phục vụ cho các mục đích phi pháp khác.
Mặc dù, chúng ta phân chia vai trò của công nghệ thông tin đối với từng quá
trình diễn biến của tội phạm như trên, nhưng thực tiễn nhận thức về vấn đề này rất
khác nhau ở từng quốc gia, khu vực và phụ thuộc vào ý chí chính trị, trình độ phát
triển khoa học công nghệ của mỗi quốc gia, khu vực đó. Do vậy, tuỳ thuộc vào nhận
thức, khái niệm về tội phạm công nghệ cao có thể hiểu rất rộng cũng có thể rất hẹp.
Tiếp cận trên phạm vi rộng, thì việc phân loại thế nào là tội phạm công nghệ
cao cần dựa trên vai trò của công nghệ thông tin. Theo quan điểm này thì tội phạm
công nghệ cao gồm những tội phạm có sự liên quan của công nghệ thông tin với ba vai
trò sau: Sử dụng công nghệ thông tin làm mục đích của tội phạm; sử dụng công nghệ
thông tin làm công cụ phạm tội; sử dụng công nghệ thông tin là vật trung gian để cất
giấu, lưu trữ, phát tán những tư tưởng đối lập, tuyên truyền thông tin đồn nhảm, thất
thiệt; tuyên truyền văn hoá phẩm độc hại, đồi truỵ... Theo quan điểm này thì rất nhiều
các loại tội phạm truyền thống cũng được coi là tội phạm công nghệ cao. Quan điểm
hiểu tội phạm công nghệ cao theo phạm vi rộng cũng vấp phải một vấn đề khó khăn đó
là cụ thể hoá các hành vi phạm tội để từ đó xác định tội danh cụ thể cho các hành vi
này. Đây là công việc không dễ dàng vì đối với tội phạm công nghệ cao trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, khi định tội danh, xét về bản chất nhiều tội danh lại trùng với
các tội danh truyền thống như tội lừa đảo, trộm cắp, đánh bạc…, có khác chăng ở đây
là việc sử dụng mạng máy tính làm công cụ phạm tội.
Tiếp cận trên phạm vi hẹp, có nhà nghiên cứu cho rằng tội phạm công nghệ cao
chỉ là tội phạm được thực hiện và gây hậu quả trên môi trường ảo, thế giới ảo do thành
tựu của khoa học công nghệ tin học đem lại và nó hoàn toàn khác với các loại tội phạm
truyền thống trước kia. Bộ luật Hình sự năm 1999 đã tiếp cận theo quan điểm này. Bộ
luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009 đã đề cập đến 5 tội danh có liên quan đến
máy tính (Điều 224, 225, 226, 226a, 226b BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm
2009). Phương pháp tiếp cận theo phạm vi hẹp này tuy có ưu điểm là định rõ được tội
danh cần xử lý nhưng lại có nhược điểm là rất dễ bỏ sót tội phạm, nhất là trong bối
cảnh công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua. Một ví dụ điển
hình là hiện nay trên thế giới cũng như ngay tại Việt Nam đang tranh cãi về việc có coi

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

7

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

hành vi trộm cắp, lừa đảo tài sản mà người chơi (các game thủ) có được khi chơi trò
chơi trực tuyến hay không (trò chơi Võ lâm truyền kỳ ở Việt Nam là một điển hình,
game thủ có thể sở hữu những chiếc áo giáp, kiếm… nếu đánh thắng đối thủ trong trò
chơi). Nếu nhìn dưới góc độ thế nào là tài sản theo quy định của pháp luật hiện hành,
thì các “tài sản ảo” này hoàn toàn không có giá trị vì nó thực chất không phải là tài sản
thực mà chỉ là sản phẩm được tạo ra trong thế giới ảo do những người xây dựng trò
chơi trực tuyến nghĩ ra và xây dựng lên thông qua phần mềm máy tính. Tuy nhiên, nếu
xét dưới góc độ các tài sản này do game thủ đã bỏ nhiều công sức để tạo lập được,
cùng với tính chất có thể “chiếm hữu, sử dụng và định đoạt” (thực chất chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt ở đây cũng chỉ là tương đối) và đặc biệt là những tài sản này có thể
quy đổi sang giá trị thực (có thể bán lại cho những người chơi khác với giá tiền rất
cao) thì chúng lại thực sự cần được coi là một tài sản thực và cần được pháp luật bảo
vệ trước các hành vi như lừa đảo, trộm cắp như đối với các tài sản hữu hình khác.
Mặt khác, nếu chỉ coi tội phạm công nghệ cao giới hạn trong phạm vi thế giới
ảo, môi trường điện tử do công nghệ thông tin đem lại thì đối với những tội phạm
truyền thống sử dụng thành tựu công nghệ thông tin đem lại để thực hiện hành vi phạm
tội, việc truy tìm dấu vết, chính sách phòng ngừa, đấu tranh đối với hành vi này sẽ
không có gì khác so với phương pháp xử lý truyền thống, trong khi về bản chất thì các
hành vi phạm tội này khác hẳn, như kẻ phạm tội tống tiền trên mạng trong và sau khi

thực hiện hoàn toàn có thể xoá sạch dấu vết tội phạm bằng kỹ thuật công nghệ tin học
gây không ít khó khăn cho hoạt động điều tra, xử lý nếu các phương pháp thu thập,
bảo quản chứng cứ không được thay đổi cho phù hợp.
Chính vì mỗi quan điểm có những khiếm khuyết nhất định, nên hiện nay trên
thế giới vẫn chưa đi tới được một khái niệm hoàn chỉnh về tội phạm công nghệ cao.
Ngay về tên gọi có rất nhiều thuật ngữ khác nhau, có tài liệu dùng thuật ngữ “tội phạm
công nghệ cao - hightech crimes”, “tội phạm sử dụng công nghệ cao”, có trường hợp
gọi là “tội phạm lợi dụng công nghệ cao” hoặc “tội phạm máy tính (computer
crimes)”, “tin tặc”, “tội phạm mạng (cyber crimes)”, cũng có tác giả gọi là “tội phạm
khủng bố trong lĩnh vực công nghệ thông tin”... Đây là những khái niệm mới không
chỉ đối với Việt Nam chúng ta mà cả với nhiều nước trên thế giới. Do vậy ngay từ việc
sử dụng thuật ngữ đến việc đưa ra khái niệm, đặc điểm đến việc xếp những hành vi
nguy hiểm cho xã hội nào vào danh sách của loại tội phạm mới này cũng còn có nhiều
ý kiến chưa đồng nhất. Đây hiện được xem là một trong những mối quan ngại của cả
cộng đồng quốc tế và là thách thức mới đối với các nhà làm luật cũng như các cơ quan
thực thi pháp luật trong việc định ra những quy định phù hợp để có thể phòng ngừa,

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

8

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

đấu tranh một cách có hiệu quả loại tội phạm mới đặc biệt nguy hiểm này. Tuy nhiên
để thống nhất với thuật ngữ quốc tế đang sử dụng và bao hàm được đầy đủ các đối

tượng nghiên cứu, trong bài viết này người viết sử dụng khái niệm mang tính chung
nhất là tội phạm công nghệ cao.
Từ những nhận thức lý luận trên, người viết có thể đưa ra khái niệm tội phạm
công nghệ cao là hành vi vi phạm pháp luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm
hình sự sử dụng những thành tựu mới của công nghệ thông tin làm công cụ, phương
tiện để thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý, xâm phạm đến an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội, gây nguy hiểm cho xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và
của công dân.
1.1.3. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm công nghệ cao
1.1.3.1. Mặt khách thể của tội phạm công nghệ cao
Thứ nhất, tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin xâm phạm,
làm ảnh hưởng đến sự an toàn của hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin và
viễn thông. Sự xâm phạm ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là các từ việc làm
hỏng hóc, chiếm đoạt, làm sai lệnh thông tin của máy tính, mạng máy tính, các thiết bị
liên quan cũng như các thông tin trong hệ thống máy tính và mạng máy tính,mạng viễn
thông. Các khách thể này rất đa dạng, từ chiếc máy tính đơn nhất, các thiết bị của
mạng máy tính... đến các chương trình máy tính, các thông tin chứa đựng trong hệ
thống máy tính và hệ thống mạng. Đây là nhóm khách thể của 05 tội danh về tin học
trong Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 của nước ta.
Thứ hai, tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin sử dụng máy
tính và mạng máy tính như là công cụ để xâm phạm đến lợi ích chính đáng của cá
nhân, pháp nhân, tổ chức, ảnh hưởng đến trật tự công cộng. Đây là khách thể rất rộng
và liên quan đến các tội phạm truyền thống những đã sử dụng các thành tựu của công
nghệ thông tin, viễn thông để thực hiện hành vi phạm tội. Với sự trợ giúp của khoa học
kỹ thuật mới, các tội phạm này có thể gây ra những thiệt hại vô cùng nghiêm trọng về
nhiều mặt cho hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và đời
sống xã hội không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia.
1.1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm công nghệ cao
Các hành vi của tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin rất
đa dạng và phức tạp. Các hành vi này cũng phát triển, thay đổi không ngừng cùng với

sự phát triển của các công nghệ mới.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

9

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

Hiện nay, theo Bộ luật hình sự 1999 của nước ta thì có 05 nhóm hành vi chính,
đó là:
− Nhóm hành vi tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi rút qua mạng
máy tính hoặc bằng các phương thức khác. Tạo ra các chương trình vi-rút là hành vi
sản xuất ra các chương trình vi-rút tin học. lan truyền các chương trình vi-rút là hành
vi truyền đi các chương trình vi-rút tin học thông qua hệ thống (mạng) máy tính trong
nước hoặc quốc tế (internet). Phát tán các chương trình vi-rút là hành vi truyền các
chương trình vi-rút tin học không thông qua hệ thống mạng máy tính mà bằng các sản
phẩm phần mềm máy tính.
− Nhóm hành vi vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử trái với
các quy định của Nhà nước. Vận hành mạng máy tính điện tử là hành vi khởi động,
truy cập vào hệ thống mạng máy tính điện tử. Khai thác mạng máy tính điện tử là hành
vi tìm kiếm nhằm rút ra hoặc ghi lại các thông tin cần thiết cho nhu cầu của mình từ
các dữ liệu trong mạng máy tính điện tử. Sử dụng mạng máy tính điện tử là hành vi
phát huy tính năng, công dụng của mạng máy tính điện tử nhằm khai thác các thông tin
có trong các dữ liệu của máy tính.
− Nhóm hành vi sử dụng thông tin trên mạng và trong máy tính hoặc đưa vào

mạng máy tính các thông tin trái với các quy định của Nhà nước. Sử dụng trái phép
thông tin trong các dữ liệu của máy tính không được phép của cơ quan Nhà nước hoặc
người có thẩm quyền. Đưa trái phép vào mạng máy tính các thông tin là hành vi đưa
các thông tin vào trong các dữ liệu của máy tính không được phép của các cơ quan
Nhà nước hoặc người có thẩm quyền.
− Nhóm hành vi truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông,
mạng internet hoặc thiết bị số của người khác nhằm chiếm quyền điều khiển; can thiệp
chức năng hoạt động của thiết bị số; lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm giả dữ liệu hoặc
sử dụng trái phép các dịch vụ.
− Nhóm hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc
thiết bị số để thực hiện một trong những hành vi như sử dụng thông tin về tài khoản,
thẻ ngân hàng để chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ, lừa
đảo trong thương mại điện tử, kinh doanh… nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có rất nhiều các hành vi phạm tội truyền thống như
hành vi lừa đảo, khủng bố, tống tiền, quấy rối tình dục, mại dâm, đánh bạc… cũng
được coi là hành vi phạm tội công nghệ cao nếu các hành vi này được thực hiện qua hệ
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

10

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

thống máy tính, sử dụng công nghệ thông tin vào quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
Thông thường, các hành vi phạm tội công nghệ cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin

phải gây ra hậu quả nhất định thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ như Điều
224 Bộ luật Hình sự 1999 quy định nếu chỉ tạo ra các chương trình vi rút nhưng không
lan truyền hoặc phát tán chúng, không gây ra hậu quả thì không cấu thành tội phạm.
1.1.3.3. Mặt chủ quan của tội phạm công nghệ cao
Đối với các tội phạm về công nghệ cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin, thông
thường được thực hiện do lỗi cố ý. Trong 5 tội danh có liên quan đến tội phạm công
nghệ thông tin và viễn thông trong Bộ luật hình sự 199 có một tội danh được thực hiện
do lỗi vô ý do cẩu thả hoặc quá tự tin là tội vi phạm các quy định về vận hành, khai
thác và sử dụng mạng máy tính điện tử (Điều 225). Tuy nhiên, trong trường hợp lỗi vô
ý, thì thường là những hành vi gây ra hậu quả thiệt hại nghiêm trọng.
Các yếu tố về động cơ, mục đích phạm tội của nhóm các tội phạm công nghệ
thông tin thường không phải là dấu hiệu bắt buộc của loại tội phạm này mà quan trọng
nhất để xác định tội phạm là hành vi phạm tội và hậu quả thiệt hại. Sở dĩ như vậy vì
chúng ta có thể thấy động cơ, mục đích của nhóm tội về công nghệ thông tin rất đa
dạng và đôi khi động cơ, mục đích rất đơn giản nhưng lại gây ra những hậu quả rất
nghiêm trọng. Do đó, đối với nhóm tội phạm này, chúng ta không thể coi động cơ,
mục đích là dấu hiệu bắt buộc mà chỉ nên coi chúng nhưng là những tình tiết tăng nặng
và giảm nhẹ có liên quan mà thôi.
1.1.3.4. Mặt chủ thể của tội phạm công nghệ cao
Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật. Các tội phạm được quy định tại các điều
224 ,225, 226, 226a, 226b thuộc các tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng nên theo quy định tại điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 về tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự thì người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi có thể trở thành chủ thể
của tội phạm này nếu phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng do cố ý. Chủ thể
của tội phạm này thông thường là có kiến thức nhất định về công nghệ máy tính, công
nghệ mạng và đã lợi dụng những hiểu biết của mình để thực hiện hành vi phạm tội, họ
thường được gọi là “những tên trộm tri thức thế kỷ 21”, vì vậy họ luôn thành công
trong việc phạm tội và gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát
hiện, điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này. Cũng có những trường hợp là những

người không hiểu biết đầy đủ về các quy định liên quan đến vận hành, khai thác và sử
dụng mạng máy tính điện tử dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội và đã gây ra những

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

11

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

thiệt hại cho xã hội. Và một điều đáng báo động là chủ thể của nhóm tội phạm này
ngày càng được trẻ hóa. Với sự phát triển của mạng máy tính và các chương trình phần
mềm khác, giới trẻ thường là thế hệ nhận biết nhanh nhạy những công nghệ mới, cùng
với tính bồng bột, thích thể hiện mình nên dễ dẫn đến con đường phạm tội. Cũng có rất
nhiều người trong cộng đồng khoa học và công nghệ có khả năng vượt trội nhưng
không tìm được việc làm phù hợp nên họ rất dễ chuyển sang hoạt động với mục đích
bất chính.
1.1.4. Nguyên nhân gia tăng tội phạm công nghệ cao
Tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân có nhiều nguyên
nhân, nhưng chủ yếu là:
Về khách quan, tình hình tội phạm công nghệ cao trên thế giới và các nước
trong khu vực có nhiều diễn biến phức tạp. Trong khi đó, đặc thù của loại tội phạm
này là tính quốc tế và hội nhập nhanh, do đó, đã tác động mạnh đến tình hình tội phạm
công nghệ cao ở trong nước.
Về chủ quan, công tác quản lý nhà nước về công nghệ thông tin, viễn thông,
thương mại điện tử, thanh toán điện tử và quản lý, vận hành các hệ thống máy tính của

nhiều cơ quan, doanh nghiệp và cá nhân tại Việt Nam còn nhiều sơ hở, phần lớn chưa
được bảo mật tốt. Hệ thống pháp luật của nước ta trong lĩnh vực đấu tranh, xử lý tội
phạm sử dụng công nghệ cao chưa đầy đủ và chưa theo kịp diễn biến tình hình thực tế.
Lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm công nghệ cao còn chưa đáp ứng yêu
cầu về số lượng. Đến nay, lực lượng này mới chỉ được thành lập ở Bộ Công an và
Công an ở một số địa phương điển hình nhất là ở Hà Nội. Đa phần các địa phương còn
lại chưa có đầu mối chuyên trách cho công tác này. Đội ngũ cán bộ cảnh sát phòng,
chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đa số còn trẻ, chưa được đào tạo chuyên sâu về
chuyên môn, kỹ thuật và nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm thực tế. Trang thiết bị, phương
tiện kỹ thuật mặc dù đã được quan tâm đầu tư, nhưng vẫn còn thiếu, lạc hậu chưa theo
kịp sự thay đổi liên tục của lĩnh vực công nghệ cao dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong
triển khai các biện pháp nghiệp vụ để phát hiện, thu thập, bảo quản tài liệu, chứng cứ.
1.2. Khái quát về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng internet
1.2.1. Khái niệm về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng internet
Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông,
mạng internet được quy định tại Điều 226 trong Bộ luật hình sự của nước cộng hòa
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

12

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định của Bộ luật hình sự hình sự 1999, sửa đổi

bổ 2009 tội phạm này được định nghĩa như sau:
“Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông,
mạng internet được hiểu là những hành vi sau:
a) Đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet những thông tin trái
với quy định của pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 88 và Điều
253 của Bộ luật này;
b) Mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai hoá những
thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trên mạng máy tính, mạng
viễn thông, mạng Internet mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó;
c) Hành vi khác sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng Internet”6.
Trong đó, các thuật ngữ mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet và
thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân được hiểu như sau:
− Mạng máy tính là tập hợp nhiều máy tính kết nối với nhau, có thể chia sẻ dữ
liệu cho nhau.
− Mạng viễn thông là tập hợp thiết bị viễn thông được liên kết với nhau bằng
đường truyền dẫn để cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ ứng dụng viễn thông.
− Mạng internet là hệ thống gồm các mạng máy tính được kết nối với nhau trên
phạm vi toàn thế giới để thực hiện các dịch dụ truyền thông dữ liệu (như tìm đọc thông
tin từ xa, truyền các tập tin, thư tín điện tử và các nhóm thông tin.
− Thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân là những thông tin
thuộc sở hữu của cơ quan, tổ chức, cá nhân được pháp luật bảo vệ.
Từ định nghĩa về tội phạm này trong luật hình sự, có thể thấy hành vi đưa hoặc sử
dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet chủ yếu
nhằm mục đích xâm phạm lợi ích cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm phạm trật tự an toàn
xã hội và hành vi này chỉ thỏa mãn yếu tố khách quan của tội này khi gây ra hậu quả
nghiêm trọng. Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng internet là hành vi được thực hiện một cách cố ý, bởi đây là trường hợp
mà hành vi được thực hiện bởi quyết định của bản thân chủ thể, là kết quả hoạt động ý
chí của chủ thể. Tội phạm đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính,

6

Điều 226 Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, Bộ
luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

13

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

mạng viễn thông, mạng internet là những hành vi bị quy định trong luật hình sự. Nói
cách khác đây là những hành vi bị luật coi là tội phạm.
1.2.2. Đặc điểm của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng internet
Qua phân tích những đặc điểm của tội phạm trong môi trường mạng máy tính,
chúng ta có thể rút ra những đặc điểm khác biệt giữa tội phạm này với nhóm các tội
phạm thông thường.
Thứ nhất: Có vai trò của máy tính, mạng máy tính và các thiết bị mạng máy
tính có liên quan. Máy tính, mạng máy tính vừa có thể là đối tượng của tội phạm, vừa
có thể là môi trường và công cụ đắt lực để thực hiện hành vi phạm tội.
Thứ hai: Về chủ thể thì những người phạm tội này hầu hết là những người có tri
thức, am hiểu công nghệ mới, có những kiến thức nhất định về công nghệ thông tin
nên có thể khai thác, sử dụng thành thạo. Vì vậy khả năng thành công của hành vi
phạm tội là rất cao, gây rất nhiều khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng, họ thường là

những người trẻ tuổi, chưa có tiền án, tiền sự.
Thứ ba: Về hậu quả thiệt hại, hậu quả của tội phạm trong môi trường mạng máy
tính thường rất nghiêm trọng, một khi các hoạt động xã hội được máy tính hóa, thì hệ
thống mạng, hệ thống thông tin được phổ biến rộng khắp trên tất cả các môi trường
của đời sống xã hội, thì hậu quả của tội phạm này gây ra thường ảnh hưởng nhanh
chóng đến tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Thứ tư: Các hành vi phạm tội có liên quan đến mạng máy tính rất tinh xảo về
thủ đoạn thực hiện hành vi, thủ đoạn che dấu tội phạm cũng như hậu quả của tội phạm.
Tội phạm phá hủy sự hoạt động của các đối tượng dưới dạng trạng thái, không tồn tại
dưới dạng vật thể, chúng chỉ phá hoại các dữ liệu mà không phá hủy máy tính hoặc
mạng máy tính, thông tin và các linh kiện khác nên sự phá hủy này thường không để
lại dấu vết của sự phá hủy tồn tại dưới dạng vật thể; người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội trong thời gian rất ngắn với sự hỗ trợ của máy tính với tốc độ xử lý siêu tốc.
Mặt khác, nó cũng không bị hạn chế về thời gian, không gian, chúng có thể thực hiện
ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời gian nào, người phạm tội có thể xóa hoàn toàn các dấu vết
của hành vi phạm tội với các chương trình xóa dấu vết đã được cài sẵn khi các lệnh
phạm tội được thực hiện, vì vậy loại tội phạm này có độ ẩn rất cao. Tội phạm trong
lĩnh vực mạng máy tính là tội phạm trong thời kỳ hội nhập. Theo phân tích của các cơ
quan chức năng, cùng với sự bung nổ về mạng máy tính và những ứng dụng rộng rãi
của mạng máy tính trong tất cả các môi trường của đời sống xã hội, thì tình hình hoạt
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

14

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...


động của tội phạm này sẽ diễn biến phức tạp, gây nguy hại cho nền kinh tế, chính trị
và xã hội. Do vậy, tất cả cần phải được xử lý bằng luật hình sự với các chế tài nghiêm
khắc đủ để trấn áp, răn đe và phòng ngừa.
Ngoài những đặc điểm trên ta ta có thể thấy một số dấu hiệu khác biệt so với tội
phạm thường như: tính không biên giới của loại tội phạm này, tính ngày càng gia tăng
về số lượng và hậu quả, tinh vi về cách thức tiến hành với sự trợ giúp đắc lực của cuộc
cách mạng mạng máy tính. Nhận biết được các dấu hiệu này sẽ giúp chúng ta dễ dàng
hơn trong việc xác định đúng các loại tội danh thuộc nhóm tội phạm về mạng máy tính
để có những biện pháp ngăn chặn và xử lý có hiệu quả cao. Hầu hết các nước trên thế
giới đều đã và đang ban hành những văn bản pháp luật hình sự để ngăn ngừa và trừng
trị loại tội phạm này. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung
năm 2009 cho thấy tội phạm trong môi trường mạng máy tính đã được tội phạm hóa,
ngày càng hoàn thiệm hơn. Tuy nhiên, để cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này
thực sự có hiệu quả thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nổ lực nhiều hơn nữa.
1.2.3. Lịch sử pháp luật Hình sự Việt Nam về tội đua hoặc sử dụng trái phép
thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet.
1.2.3.1.

Giai đoạn trước năm 1999

Với chính sách hội nhập quốc tế, ngày 19/11/1997 Việt Nam đã chính thức triển
khai và thực hiện kết nối với mạng Internet, việc kết nối này thật sự đã trở thành sự
kiện quan trong đối với đất nước, đáp ứng nhu cầu trực tiếp của phần lớn ban ngành
chức năng, Ngày 01/12/1997 Việt Nam chính thức đưa Internet vào hoạt động một
cách rộng rãi và cho đến hiện nay, Internet không còn là môi trường xa lạ đối với
người dân Việt Nam, và hiệu quả của Internet là điều không thể phủ nhận trong
thành quả chung của sự đổi mới đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới đất
nước, bên cạnh những thành tựu đạt được thì trong đời sống xã hội lại nảy sinh
nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình tôi phạm diễn biến phức tạp. Xuất hiện nhiều

hành vi phạm tội mới nhưng chưa được ghi nhận trong Bộ luật hình sự 1985 trong
đó có “tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng internet”. Mặc dù Bộ luật hình sự 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn
lần, nhưng vẫn còn nhiều điểm bất cập, chưa theo kịp tình hình phát triển của xã
hội.
1.2.3.2.

Giai đoạn từ năm 1999 đến trước năm 2009

Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần không còn là
một chỉnh thể thống nhất. Hơn nữa Bộ luật hình sự 1985 đã bộc lộ nhiều vấn đề hạn
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

15

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

chế, cho thấy bộ luật này đã không đáp ứng được nhu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong giai đoạn mới.
Đáp ứng yêu cầu hiện tại của nước ta ngày 21/12/1999 Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6, đã thông qua Bộ luật hình
sự (gọi tắt là Bộ luật hình sự 1999) thay cho Bộ luật hình sự 1985 có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 7 năm 2000. Kể từ năm 2000 đến nay, Bộ luật hình sự đã góp phần
quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần tích cực

vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa góp phần đẩy nhanh công cuộc đổi mới đất nước, nhất là trong
thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản việt Nam. Trước
những tác hại to lớn cho xã hội mà bọn tội phạm mạng đã gây ra, để pháp luật hình sự
có thể theo kịp bước tiến của khoa học kỹ thuật, Nhà nước ta đã hình sự hóa một số
quan hệ liên quan đến môi trường mạng máy tính trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999, Bộ luật hình sự năm 1985 chưa hề có khái niệm này. Bộ luật hình sự 1999 quy
định cụ thể ba tội danh liên quan đến tội phạm mạng máy tính từ Điều 224 đến Điều
226 thuộc chương XIX các tội xâm phạm trật tự công công, an toàn công cộng, trong
đó tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính được quy định tại Điều
226.
Điều 226. Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính
1. Người nào sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính, cũng như đưa
vào mạng máy tính những thông tin trái với quy định của pháp luật gây hậu quả
nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền
từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc
bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm
năm:
a) Có tổ chức;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

16

SVTH: Thái Anh Thư



Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến
năm năm.7
Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực thi hành từ ngày 1 - 7 - 2000 nhưng cho đến
nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể cho việc xử lí đối với tội sử dụng trái phép
thông tin trên mạng và trong máy tính nói riêng và các tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin nói chung, chính vì lẽ đó đã làm cho việc xác định một hành vi trong
thực tế đã cấu thành một trong các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin hay
chưa hoặc là vi phạm vào điều luật nào trong các nhóm tội phạm này đang là vấn đề
gây nhiều tranh cãi. Cụ thể là:
Thứ nhất, đối với tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính
(Điều 226 – BLHS): Tội này quy định điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với hành vi này phải là “gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành
chính mà còn vi phạm”. Với việc quy định như trên có thể hiểu là người vi phạm điều
luật này chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đồng thời phải gây hậu quả
nghiêm trọng và bị xử lý kỷ luật hoặc bị xử phạt hành chính, còn nếu chỉ gây hậu quả
nghiêm trọng thì không cấu thành tội phạm. Ngược lại, có ý kiến cho rằng, chỉ cần gây
hậu quả nghiêm trọng là cấu thành tội phạm, nếu không gây hậu quả nghiêm trọng thì
phải bị xử lý kỷ luật hoặc bị xử phạt hành chính. Và cũng theo tinh thần của điều
luật này thì không rõ gây hậu quả đến mức độ nào là “gây hậu quả nghiêm trọng”.
Hình phạt này còn nhẹ, chưa tương xứng với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
nên chưa đạt mục đích trừng trị người phạm tội, giáo dục họ trở thành những người
có ích cho xã hội và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm.
Thứ hai, đối với hành vi sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy
tính (Điều 226 – BLHS). Trong thực tế, đa số các chủ thể vi phạm đều sử dụng vi rút

tin học để đánh cắp mật khẩu đột nhập vào mạng phá hủy hàng rào bảo vệ phần mềm
để sao chép, chuyển đổi bất hợp pháp các thông tin trên mạng máy tính… Về hành vi
này có ý kiến cho rằng chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự về cả hai tội
danh: Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi rút tin học (Điều 224) và
Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226). Bởi vì trước
khi khai thác thông tin trên mạng chủ thể đã sử dụng vi rút để phá vỡ hàng rào bảo vệ
đột nhập vào mạng và chỉ cần có hành vi này đủ yếu tố cấu thành tội tạo ra và lan
truyền, phát tán các chương trình vi rút tin học. Và trong điều 224, tội tạo ra và lan
7

Điều 226 tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính, Bộ luật hình sự 1999.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

17

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

truyền, phát tán các chương trinh virus tin học, nếu hành vi mà mới chỉ tạo ra là chưa
cấu thành tội phạm, luật cũng không quy định cụ thể trường hợp nếu một người không
tạo ra mà người khác tạo ra, anh ta phát tán các chương trinh virus tin học và gây hậu
quả thì bị xử lý như thế nào, truờng hợp này không đầy đủ các dấu hiệu khách quan
trong cấu thành tội phạm. Ngược lại, có ý kiến cho rằng nếu chủ thể sử dụng vi rút tin
học để đột nhập vào mạng đánh cắp mật khẩu nhưng chưa khai thác được thông tin
trên mạng và gây hậu quả nghiêm trọng thì xử lý về tội tạo ra và lan truyền, phát tán

các chương trình vi rút tin học (Điều 224). Còn nếu đã khai thác được thông tin trái
phép trên mạng và thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của Điều 226 BLHS thì chỉ xử về tội
sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226).
Qua nghiên cứu cho thấy quy định của Bộ luật hình sự 1999 tại Điều 226 chưa
đủ sức răn đe loại tội phạm này và chính những lỗ hổng của hệ thống pháp luật đã làm
nảy sinh nhiều điều kiện để cho bọn tội phạm tin học tiến hành các cuộc tấn công
nhằm lấy oai, trục lợi và hành động ngày càng táo bạo, thiếu suy nghĩ hơn. Thậm chí,
các tổ chức, doanh nghiệp có thể lợi dụng để thực hiện việc cạnh tranh không lành
mạnh thông qua việc thực hiện các vụ tấn công lẫn nhau. Nếu không có những quy
định luật pháp rõ ràng và biện pháp hỗ trợ đảm bảo an toàn mạng thì môi trường đầu
tư của Việt Nam sẽ kém hấp dẫn.
1.2.3.3.

Giai đoạn từ năm 2009 đến nay

Bộ luật hình sự năm 1999 thực sự là một công cụ sắc bén, là hành lang pháp lý
quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời gian qua. Tuy
nhiên, qua nhiều năm thi hành, Bộ luật hình sự 1999 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế
đòi hỏi phải được khắc phục, điển hình như:
Thứ nhất, do ban hành từ năm 1999, nên Bộ luật hình sự chưa thể chế hoá được
những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (sau đây gọi là Nghị quyết số
08/NQ-TW) và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi là Nghị quyết số 49/NQTW).
Thứ hai, một số quy định của Bộ luật hình sự về cấu thành của một số tội phạm
(như: các tội phạm về môi trường, các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin)
còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này
trên thực tế.


GVHD: TS. Phạm Văn Beo

18

SVTH: Thái Anh Thư


Luận văn tốt nghiệp

Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin...

Thứ ba, Bộ luật hình sự hiện hành chưa cập nhật được những hành vi nguy
hiểm cho xã hội đòi hỏi phải xử lý về mặt hình sự mới xuất hiện trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế, nhất là trong một số
lĩnh vực như: công nghệ thông tin, chứng khoán, tài chính - kế toán, sở hữu trí tuệ
v.v...
Từ những lý do nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự là một đòi hỏi
khách quan và cấp thiết trong điều kiện phát triển về kinh tế và xã hội hiện nay của
nước ta. Do vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự đã được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII tại kỳ họp thứ 5
thông qua ngày 19/06/2009 đã sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc thay thế một số điều,
khoản, cụm từ của Bộ luật hình sự 1999. Vậy nên, những quy định về tội phạm
công nghệ thông tin thuộc chương XIX các tội xâm phạm trật tự công cộng, an toàn
công cộng đã được sửa đổi hoàn thiện hơn trước. trong đó, tội sử dụng trái phép
thông tin trên mạng và trong máy tính (Bộ luật hình sự 1999) vẫn được quy định tại
điều 226 Bộ luật hình sự hiên hành nhưng đã có những sự thay đổi, bổ sung cần
thiết cả về tiêu đề lẫn nội dung của điều luật.
Điều 226. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng Internet
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm lợi ích của cơ

quan, tổ chức, cá nhân, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội gây hậu quả nghiêm trọng,
thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet những thông tin trái
với quy định của pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 88 và Điều
253 của Bộ luật này;
b) Mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai hoá những
thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trên mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng Internet mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó;
c) Hành vi khác sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng Internet.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm:
a) Có tổ chức;

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

19

SVTH: Thái Anh Thư


×