Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 50 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

CÁC TRƢỜNG HỢP SỬ DỤNG TÁC PHẨM ĐÃ
CÔNG BỐ KHÔNG PHẢI XIN PHÉP NHƢNG
PHẢI TRẢ TIỀN NHUẬN BÚT, THÙ LAO
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Ths. Nguyễn Phan Khôi

Nguyễn Công Giàu

Bộ môn: Luật Tư pháp

Mssv: 5115973

Cần Thơ 12/2014


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập người viết luôn nhận được sự giảng dạy tận tâm của
quý Thầy, Cô của Khoa Luật Trường Đại học Cần Thơ đã truyền đạt những kiến thức
pháp luật, dạy dỗ và rèn luyện đạo đức – nhân cách – kiến thức cho người viết. Đặc biệt


trong quá trình viết luận văn, người viết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới Thầy
Nguyễn Phan Khôi đã quan tân và chỉ dẫn tận tình tạo điều kiện giúp người viết có thể
hoàn thành tốt nhất Luận văn tốt nghiệp này.
Vì kiến thức có hạn, thêm vào đó là lần đầu tiên bắt tay vào viết Luận văn nên
không tránh khỏi những sai sót nhất định, người viết mong nhận được sự chia sẽ, góp ý
từ phía các Thầy, Cô để người viết thông suốt kiến thức và sửa chữa lại để Luận văn
được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, người viết xin chúc quý Thầy, Cô luôn dồi dào sức khoẻ và thu được
nhiều thành công trong công tác học tập, giảng dạy và nghiên cứu.
Xin trân trọng kính chào!

Cần Thơ, ngày tháng năm 2014
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Công Giàu


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1

Lý do chọn đề tài

2

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

3

Phạm vi nghiên cứu của đề tài


4

Phương pháp nghiên cứu của đề tài

5

Kết cấu của đề tài

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ
NGOẠI LỆ CỦA QUYỀN TÁC GIẢ .............................................................................. 4
1.1

Khát quát quy định chung về quyền tác giả và đặc điểm của quyền tác giả..... 4

1.1.1

Quyền tác giả ...................................................................................................... 4

1.1.2

Đặc điểm của quyền tác giả. .............................................................................. 7

1.2

Quy định các ngoại lệ của quyền tác giả theo pháp luật quốc tế và quốc gia. . 9

1.2.1

Quy định về các ngoại lệ của quyền tác giả theo pháp luật quốc tế. ................ 9


1.2.2

Quy định về các ngoại lệ của quyền tác giả theo của pháp luật quốc gia. ...... 10

1.2.3

Ý nghĩa của việc quy định các ngoại lệ của quyền tác giả............................... 12

1.3

Sự hình thành và đặc điểm của quy định “Các trƣờng hợp sử dụng tác phẩm

đã công bố không phải xin phép nhƣng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” theo pháp
luật Việt Nam.................................................................................................................... 14
1.3.1

Sự hình thành của quy định “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố
không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” tại Việt Nam .. .14

1.3.2

Đặc điểm quy định “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải
xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” theo pháp luật Việt Nam ... 16

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ “CÁC
TRƢỜNG HỢP SỬ DỤNG TÁC PHẨM ĐÃ CÔNG BỐ KHÔNG PHẢI XIN PHÉP
NHƢNG PHẢI TRẢ TIỀN NHUẬN BÖT, THÙ LAO” .............................................. 19
2.1 Cơ sở pháp lý liên quan quy định về “Các trƣờng hợp sử dụng tác phẩm đã
công bố không phải xin phép nhƣng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” theo pháp luật

Việt Nam hiện hành ......................................................................................................... 19
2.2 Chi tiết quy định về “Các trƣờng hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không
phải xin phép nhƣng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” theo pháp luật Việt Nam .... 20


2.2.1

Chủ thể được đề cập trong quy định “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã
công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”. .......... 20

2.2.2

Đối tượng được đề cập trong quy định “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã
công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” .......... .24

2.2.3

Điều kiện về việc sử dụng tác phẩm được đặt ra trong quy định “Các trường
hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao” ......................................................................................... 28

2.3 Các vấn đề khác có liên quan. ................................................................................ 29
2.3.1

Nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật ...... .30

2.3.2

Một số hành vi xâm phạm quyền tác giả trong việc sử dụng tác phẩm đã công
bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao ...................... 31


2.3.3

Các biện pháp chế tài xử lý vi phạm được đặt ra điều chỉnh........................... 31

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KHÓ KHĂN CÕN GẶP PHẢI TỪ QUY ĐỊNH ĐẾN THỰC
TIỄN VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ĐẶT RA. ............................ 35
3.1 Một số khó khăn còn gặp phải từ quy định đến thực tiễn áp dụng ................... 35
3.2 Một vài đề xuất giải quyết vấn đề khó khăn còn gặp phải theo pháp luật Việt
Nam hiện hành. ................................................................................................................ 40
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 44


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Pháp luật, công cụ hữu hiệu trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
thể được bảo vệ trong pháp chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc bảo vệ quyền và lợi ích
của các chủ thể được thực hiện trên nhiều góc độ và phương diện khác nhau. Xem xét
dưới góc độ Sở hữu trí tuệ, pháp luật về Sở hữu trí tuệ góp phần không nhỏ vào việc bảo
vệ “sự sáng tạo tư duy” của con người. Sự sáng tạo này là các “tài sản vô hình” mà pháp
luật nhận nhận thấy cần phải bảo hộ bằng cách trao cho chủ nhân của nó một hay một số
độc quyền nhất định với mục đích nhằm tôn trọng, bảo vệ, khuyến khích việc sáng tạo ra
các tài sản trí tuệ đó và vì lợi ích chung của xã hội.
Nhìn chung, pháp luật Sở hữu trí tuệ luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người nắm giữ quyền tác giả để họ có thể khai thác tốt quyền lợi mà họ nhận được từ sự
sáng tạo của mình. Với các đối tượng của Sở hữu trí tuệ nói chung và việc bảo hộ quyền
tác giả đối với tác phẩm nói riêng, việc bảo hộ nhìn chung thường bị giới hạn về thời

gian, cũng như tồn tại một số giới hạn - ngoại lệ nhất định mà theo đó người nắm giữ
quyền tác giả sẽ bị hạn chế một hoặc một số quyền đối với tác phẩm của mình. Một trong
những giới hạn - ngoại lệ được đưa ra nghiên cứu là: “Các trường hợp sử dụng tác phẩm
đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” được ghi nhận
tại Điều 26 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Điều này
mang ý nghĩa chính là giúp phổ biến các tài sản trí tuệ được thuận tiện và rộng rãi hơn.
Bài viết nhằm làm rõ một phần về mặt lý luận trong quy định “Các trường hợp sử
dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”
theo quy định của pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành, đặc biệt là việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ thể nắm giữ quyền tác giả. Suy cho cùng bản chất của
trường hợp sử dụng được nêu trên thực chất là hành vi xâm phạm đến quyền của chủ thể
nắm giữ quyền tác giả, nhằm làm sáng tỏ quy định của pháp luật và phân tích đặc điểm, ý
nghĩa, cơ sở pháp lý của quy định cũng như quy định hiện hành về chủ thể, đối tượng,
điều kiện, các vấn đề liên quan như nhuận bút, thù lao,… các hành vi xâm phạm và một
số chế tài xử lý trong “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin
phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”. Bên cạnh đó người viết cũng có sự nhìn
nhận những tồn tại về một số khó khăn còn gặp phải từ quy định đến thực tiễn và từ đó đề
xuất một vài hướng giải quyết được cho là có khả năng giải quyết được các vấn đề trên.
GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

1

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Người viết muốn đi vào hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích về một trong

các giới hạn - ngoại lệ của quyền tác giả được ghi nhận tại Điều 26 “Các trường hợp sử
dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”
của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Trên cái nhìn tổng
quan về quyền tác giả, đặc điểm của quyền tác giả cũng như các giới hạn - ngoại lệ của
quyền tác giả, người viết tiến hành tìm hiểu và phân tích quy định “Các trường hợp sử
dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”.
Đồng thời nhìn nhận những bất cập, hạn chế gặp phải và từ đó đưa ra một số giải pháp
mà người viết cho rằng có thể giải quyết được một phần các vấn đề mà mình đã trình bày.
3 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Sở hữu trí tuệ là một phạm trù có phạm vi nghiên cứu rộng, bao gồm nhiều đối
tượng được bảo hộ. Trong phạm vi nghiên cứu, do hạn chế về hiểu biết và thời gian nên
người viết chỉ nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến “Các trường hợp sử dụng tác
phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” được quy
định tại Điều 26 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Cụ thể, người viết sẽ đề cập đến các nội dung sau: khái quát các quy định chung
về quyền tác giả và đặc điểm của quyền tác giả, các ngoại lệ của quyền tác giả, sự hình
thành quy định được đưa ra nghiên cứu, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở pháp lý cũng như quy
định hiện hành về chủ thể, đối tượng, điều kiện, các vấn đề khác liên quan đến nhuận bút,
thù lao, quyền lợi vật chất khác, một số hành vi xâm phạm và biện pháp xử lý vi phạm
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Thông qua đó, người viết cũng có sự
nhìn nhận về một số hạn chế, bất cập còn gặp phải từ quy định đến thực tiễn và trên cơ sở
đó cũng đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện một phần quy định của pháp luật.
4 Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Trong đề tài, người viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
tổng hợp các quy định của pháp luật về cùng một vấn đề; phương pháp so sánh để tìm cái
chung, cái riêng để xác định vấn đề trọng tâm, cái khác biệt nổi bật; phương pháp sắp
xếp, chọn lọc các nguồn tài liệu tham khảo được để sắp xếp theo chuẩn chung và tìm tài
liệu đáng tin cậy và phương pháp phân tích các quy định của pháp luật xoay quanh vấn
đề “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả
tiền nhuận bút, thù lao” được đưa ra nghiên cứu trong quy định tại Điều 26 của Luật Sở

hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

2

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

5 Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì kết cấu của đề tài
nghiên cứu được bố cục chính gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Khái quát chung các quy định về quyền tác giả và ngoại lệ của quyền
tác giả
Chƣơng 2: Nội dung quy định của pháp luật Việt Nam về “Các trường hợp sử
dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”
Chƣơng 3: Một số khó khăn còn gặp phải từ quy định đến thực tiễn và một số đề
xuất giải quyết vấn đề đặt ra

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

3

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
VÀ NGOẠI LỆ CỦA QUYỀN TÁC GIẢ
Đất nước ngày càng có những thay đổi đáng kể về kinh tế, xã hội và mặt khác
cùng với những tiến bộ nhanh chóng cho sự phát triển đem lại những thay đổi quan trọng,
muốn phát triển đất nước đòi hỏi rất nhiều ở khâu lập pháp và cải cách pháp luật cho phù
hợp với tình hình mới. Luật Sở hữu trí tuệ góp phần không nhỏ vào việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam. Một trong những vấn đề được đề cập là các quy định về việc
bảo hộ quyền tác giả và giới hạn quyền tác giả đối với tác phẩm được bảo hộ.
Thách thức nảy sinh trong hoàn cảnh mới là sự duy trì cân bằng giữa việc đền đáp
xứng đáng cho chủ thể quyền tác giả của tác phẩm và đảm bảo rằng những đền đáp như
vậy là phù hợp với lợi ích công cộng và nhu cầu của xã hội hiện đại. Theo đó, Luật Sở
hữu trí tuệ đưa ra các giới hạn (bao gồm các ngoại lệ) của quyền sở hữu trí tuệ nói chung
hay giới hạn của quyền tác giả nói riêng, cho phép chủ thể quyền tác giả chỉ được thực
hiện các quyền hạn của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ luật định.
1.1
Khái quát quy định chung về quyền tác giả và đặc điểm của quyền tác giả
1.1.1 Quyền tác giả
Có thể nói, lịch sử phát triển của nhân loại là lịch sử phát triển của tri thức và nền
văn minh ngày nay là thành quả của quá trình tích luỹ và kế thừa tri thức qua các thời đại.
Việt Nam và các quốc gia trên thế giới càng ý thức cao giá trị và tầm quan trọng của các
sản phẩm do trí tuệ con người sáng tạo ra, vì vậy đã không ngừng khuyến khích và bảo
vệ thành quả đó bằng nhiều biện pháp khác nhau tác động để điều chỉnh.
Quyền tác giả là một trong hai nhóm đối tượng quan trọng nhất của Sở hữu trí tuệ,
được đề cập trên phạm vi quốc tế lần đầu tiên bởi Công ước Berne 1886.1
Quyền tác giả là một lĩnh vực còn khá là mới mẻ đối với Việt Nam, tuy ý tưởng về
quyền tác giả có thể được xem là hình thành đầu tiên từ bản Hiến pháp năm 1946.2 Năm
1986 với Nghị định số 142/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng quy định quyền tác giả, có
hiệu lực thi hành ngày 14-11-1986, đây là lần đầu tiên Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận

một văn bản riêng biệt về quyền tác giả đã được ban hành với những quy dịnh cơ bản.

Nguyễn Phan Khôi, Bài giảng Luật Sở hữu trí tuệ, Khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ, tháng 8 năm
2013, trang 17.
2
Nguyễn Bình, Nguyễn Thị Chính, Nguyễn Huy Ngát, Nguyễn Bích Ngọc, Bình luận về quyền tác giả
theo pháp luật Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội, năm 2006, trang 9.
1

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

4

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

Sau đó không lâu, ngày 22-4-1994 Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp
lệnh bảo hộ quyền tác giả. Pháp lệnh đã quy định tương đối đầy đủ và cụ thể về bảo hộ
quyền tác giả so với Nghị định 142/HĐBT trước đó.
Tiếp đó, ngày 28-10-1995 Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được Quốc hội khoá IX, kỳ hợp thứ 8 thông qua, có hiệu lực ngày 1-7-1996.
Bộ luật này dành riêng hai chương trong Phần thứ sáu quy định về sở hữu trí tuệ và nó
trở thành nền tảng cơ sở pháp lý cao nhất cho việc khai thác tương đối toàn diện lĩnh vực
sở hữu trí tuệ. Đây là móc son quan trọng đánh dấu việc bắt đầu lập nên một hệ thống
pháp luật hiện đại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Ngày 14-6-2005, Quốc hội Việt Nam khoá XI, kỳ hợp thứ 7 đã thông qua Bộ Luật
Dân sự và Bộ Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2006. Nhưng nhìn chung quyền

tác giả được đề cập đến trong các Bộ luật này đa phần mang tính chất dân sự là chủ yếu.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế - xã hội từng bước thay đổi đặt ra, Luật Sở hữu
trí tuệ năm 2005 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ
hợp thứ 8 thông qua ngày 29-11-2005, có hiệu lực thi hành ngày 01-7-2006, lần này thì
quyền tác giả đã được quy định riêng bởi Luật mang tính “sở hữu trí tuệ” thật sự.
Ngày 19-6-2009, Quốc hội khoá XII, kỳ hợp thứ 5 đã thông qua Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và có hiệu lực thi hành từ 01-01-2010
(sau đây gọi là Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành). Cùng với việc ra đời Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2005 thì cũng đã có các văn bản hướng dẫn thi hành cho Luật này tiêu biểu như:
- Nghị định 100/2006/NĐ-CP ban hành ngày 21-9-2006 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về
quyền tác giả và quyền liên quan (sau đây gọi là Nghị định 100/2006/NĐ-CP).
- Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền Sở hữu trí tuệ và
quản lý Nhà nước về Sở hữu trí tuệ (sau đây gọi là Nghị định 105/2006/NĐ-CP).
- Nghị định 47/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành
chính về quyền tác giả, quyền liên quan, có hiệu lực thi hành ngày 30-6-2009 (sau đây
gọi là Nghị định 47/2009/NĐ-CP).
- Nghị định 85/2011/NĐ-CP ngày 29-09-2011 của Chính phủ quy định sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 100/2006/NĐ-CP (sau đây gọi là Nghị định
85/2011/NĐ-CP).

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

5

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao

theo pháp luật Việt Nam

- Nghị định 131/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành
chính về quyền tác giả, quyền liên quan và có hiệu lực thi hành ngày 15/12/2013 (sau đây
gọi là Nghị định 131/2013/NĐ-CP)…
Cùng đó, Việt Nam cũng đã gia nhập Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO)
cũng như là thành viên của nhiều Điều ước quốc tế về Sở hữu trí tuệ.
Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) là một trong số các tổ chức chuyên môn
thuộc Liên hợp quốc, được thành lập năm 1967 theo bản kí kết thành lập tại Stockholm.
Tuy nhiên, nguồn gốc sâu xa của WIPO phải được tính từ khi thông qua Công ước Pari
vào năm 1853, và Công ước Berne năm 1886. Wipo có sứ mệnh thúc đẩy hợp tác quốc tế
trong hoạt động sáng tạo, phổ biến, sử dụng và bảo hộ tài sản trí tuệ của con người nhằm
phát triển kinh tế, văn hoá của xã hội của con người. Việt Nam trở thành thành viên của
WIPO vào ngày 2-7-1976. Đồng thời với hệ thống pháp luật quốc gia đã được định hình
như trên, Hiệp định song phương về thiết lập quan hệ quyền tác giả, Hiệp định Thương
mại giữa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kì, Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
giữa Việt Nam và Liên bang Thụy Sỹ cũng đang có hiệu lực thi hành.3
- Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Vào
ngày 7-6-2004, Việt Nam gia nhập Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và
nghệ thuật, ngày 26-10-2004 Công ước có hiệu lực thi hành ở Việt Nam.
- Công ước Genever về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép
bất hợp pháp bản ghi âm của họ năm 1952. Việt Nam trở thành thành viên thứ 75 của
Công ước và Công ước Genever có hiệu lực thi hành ở Việt Nam kể từ ngày 6-7-2005.
- Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức
phát sóng. Công ước có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày 1-3-2007),…
Tóm lại, pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam còn tương đối mới. Song có thể
thấy, pháp luật về quyền tác giả của Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định theo
thời gian. Trong thời gian tới, việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật quốc gia và gia nhập
Điều ước quốc tế về quyền tác giả cũng như tăng cường sự hiểu biết và thực thi pháp luật
trong lĩnh vực này là yêu cầu bức thiết nhằm khuyến khích nội lực sáng tạo và đáp ứng

nhu cầu hội nhập quốc tế.
Cục Bản quyền tác giả, Kiến thức cơ bản, phổ thông về quyền tác giả, quyền liên quan, Bài 1: GIỚI
THIỆU
CHUNG,
Ts.

Mạnh
Chu,
[truy
cập ngày 3-9-2014].
3

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

6

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

1.1.2

Đặc điểm của quyền tác giả

Trong thực tế, chúng ta còn gặp một số thuật ngữ khác như “tác quyền” hay “bản
quyền”. Các thuật ngữ này thực ra cũng là cách gọi khác của quyền tác giả trên thực tế,
nhưng không được thừa nhận trong luật.4
Đề cập đến quyền tác giả, pháp luật Việt Nam xác định: quyền tác giả là quyền

của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.5 Quyền tác giả là
một chế định pháp luật trong Luật Sở hữu trí tuệ và trong các văn bản pháp luật có liên
quan, là một trong ba bộ phận cấu thành của quyền sở hữu trí tuệ (quyền sở hữu trí tuệ
bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với
giống cây trồng). Quyền tác giả ở Việt Nam có thể nói bao gồm các đặc điểm chính sau:
Quyền tác giả bảo vệ lợi ích cá nhân và kinh tế của quyền tác giả trong mối liên
quan với tác phẩm. Lợi ích cá nhân và lợi ích kinh tế của quyền tác giả được bảo vệ
thông qua nhóm quyền nhân thân và nhóm quyền tài sản của quyền tác giả đối với các tác
phẩm được pháp luật bảo hộ quyền tác giả.
Đối tượng được bảo hộ quyền tác giả bao gồm các tác phẩm văn học, nghệ thuật
và khoa học dưới bất kỳ hình thức và cách thức thể hiện nào. Không như các đối tượng
khác của Sở hữu trí tuệ, quyền tác giả chủ yếu bảo hộ hình thức thể hiện của ý tưởng chứ
không bảo hộ chính bản thân ý tưởng đó - ý tưởng thể hiện trong tác phẩm không cần
phải mới song hình thức thể hiện phải mới. Việc bảo hộ không phụ thuộc vào chất lượng
hay giá trị sản phẩm tạo ra hay sử dụng tác phẩm đó như thế nào. Sự khẳng định này
nhằm làm rõ, tránh sự hiểu lầm giữa đối tượng được bảo hộ theo pháp luật về quyền tác
giả với đối tượng được bảo hộ theo pháp luật về sở hữu công nghiệp hay đối tượng khác.
Lĩnh vực quyền tác giả và quyền liên quan được bảo hộ theo cơ chế các quyền tự
động phát sinh ngay sau khi tác phẩm được hình thành. Trong khi lĩnh vực sở hữu công
nghiệp và giống cây trồng, các quyền phải được xác lập bằng việc cấp văn bằng bảo hộ
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được
sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội
dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã
đăng ký hay chưa đăng ký.6 Điều này cũng có nghĩa việc đăng ký quyền tác giả tại cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền không phải là thủ tục để xác lập quyền mà đó chỉ là việc
Ths. Nguyễn Phan Khôi, Bài giảng Luật Sở hữu trí tuệ, Khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ, tháng 8
năm 2013, trang 17.
5
Khoản 2 Điều 4 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành
6

Khoản 1 Điều 6 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành
4

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

7

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

củng cố quyền của quyền tác giả mà thôi. Nếu có tranh chấp xảy ra thì chủ thể quyền tác
giả được cấp “Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả” không cần phải có nghĩa vụ
chứng minh quyền tác giả thuộc về mình, trừ trường hợp có căn cứ ngược lại.7 Tác phẩm
phái sinh chỉ được bảo hộ quyền tác giả trong trường hợp không gây phương hại đến
quyền tác giả của tác phẩm được sử dụng để sáng tạo tác phẩm phái sinh. Tuy nhiên chỉ
những tác phẩm được tác giả trực tiếp sáng tạo, không sao chép từ tác phẩm khác mới
thuộc loại hình được bảo hộ.
Việc bảo hộ quyền tác giả bị giới hạn về mặt thời gian. Thời hạn bảo hộ quyền tác
giả được quy định là khác nhau đối với quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân
thân của quyền tác giả được pháp luật bảo hộ vô thời hạn (trừ quyền công bố tác phẩm
hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm), còn về quyền tài sản được pháp luật bảo
hộ với thời hạn khác nhau tuỳ vào các tác phẩm và các yếu tố quy định khác.
Việc bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam chỉ giới hạn trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia và trong phạm vi tác phẩm. Về nguyên tắc các tác phẩm được sự bảo
hộ quyền tác giả là tất cả các sáng tạo trí tuệ nguyên gốc. Tác phẩm được bảo hộ quyền
tác giả thuộc tác phẩm trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả (Điều 14
của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành). Một điều khoản liệt kê cũng được đưa ra với ý nghĩa

giới hạn các đối tượng được bảo hộ quyền tác giả. Cụ thể, tại Điều 15 của Luật Sở hữu trí
tuệ hiện hành quy định các đối tượng sau không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả như:
tin tức thời sự thuần tuý đưa tin; văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn
bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó; quy trình, hệ
thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.
Việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ nói chung hay quyền tác giả nói riêng phải
đảm bảo chính sách của Nhà nước. Việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ phải đảm bảo
không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật
có liên quan. Trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và
các lợi ích khác của Nhà nước, xã hội được quy định tại Luật này, Nhà nước có quyền
cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ
thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số
quyền của mình với những điều kiện phù hợp.8

7
8

Xem quy định tại khoản 2 Điều 49 của Luật Sở hữu trí tuệ hiên hành
Khoản 1 Điều 6 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

8

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam


1.2

Quy định các ngoại lệ của quyền tác giả theo pháp luật quốc tế và quốc gia

Bảo hộ quyền tác giả có nghĩa là bảo vệ quyền của tác giả cũng như chủ sở hữu
quyền tác giả đối với tác phẩm được bảo hộ. Nhưng để đảm bảo rằng chủ sở hữu có tác
phẩm được bảo hộ quyền tác giả không lạm dụng những đặc quyền mà họ được trao cho,
hoặc hạn chế thương mại một cách vô lý, pháp luật quốc tế và quốc gia quy định một số
giới hạn - ngoại lệ quyền tác giả nhất định nhằm đảm bảo cân bằng lợi ích chính đáng
giữa chủ sở hữu và người sử dụng cũng như đảm bảo nhu cầu của lợi ích công cộng.
1.2.1

Quy định về các ngoại lệ của quyền tác giả theo pháp luật quốc tế

Công ước Berne năm 1886 cũng quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm tự
9

do. Đồng thời Công ước cũng quy định quyền của các quốc gia thành viên liên hiệp và
thoả thuận và những thoả hiệp đặc biệt đã có hay sẽ ký giữa các quốc gia này có thẩm
quyền quy định cho phép sử dụng trong mức độ phù hợp, có mục đích những tác phẩm
văn học hay nghệ thuật miễn sao việc sử dụng đó phù hợp với thông lệ quốc tế.
Liên quan đến giới hạn - ngoại lệ của quyền tác giả, “Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế
giới đã đề xuất “nguyên tắc phép thử ba bước” để các quốc gia xây dựng luật pháp phù
hợp, đó là: giới hạn quyền chỉ là những trường hợp đặc biệt phải ghi rõ tại luật; nó không
thể làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường; không gây phương hại đến quyền của
chủ sở hữu. Việc khai thác, sử dụng tác phẩm được luật các quốc gia quy định giới hạn
trong các trường hợp sử dụng nhằm phục vụ nghiên cứu khoa học, giáo dục hoặc chính
sách xã hội, nhân đạo. Thông thường được phân thành 2 loại:
- Loại thứ nhất là việc sử dụng tự do, tức việc khai thác, sử dụng tác phẩm đã công

bố không phải xin phép, không phải trả tiền, như việc sao chép không quá 1 bản, nhập
khẩu không quá 1 bản cho mục đích nghiên cứu cá nhân, giáo dục; chuyển sang chữ nổi
cho người khiếm thị; trích dẫn hợp lí phục vụ cho một phóng sự báo chí, luận văn, công
trình nghiên cứu khoa học... Tuy nhiên việc khai thác, sử dụng ở loại này không áp dụng
đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm nghệ thuật tạo hình, chương trình máy tính. Mọi
trường hợp sử dụng đều phải dẫn chiếu nguồn gốc xuất xứ, bao gồm tên tác phẩm, tên tác
giả, năm xuất bản, nhà xuất bản đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn. Tất cả các
trường hợp trích dẫn đều phải đặt trong ngoặc kép ( “... ”).
- Loại thứ hai “cấp phép bắt buộc” là việc khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố
không phải xin phép, nhưng phải trả tiền. Trường hợp này luật Việt Nam cho phép các tổ
chức phát sóng, các tổ chức cá nhân hoạt động kinh doanh, thương mại được phép sử
9

Xem khoản 2 Điều 9, Điều 10, Điều 10bis và 11bis của Công ước Berne năm 1886

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

9

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, nhưng phải trả tiền theo thỏa thuận kể từ
khi sử dụng tác phẩm. Tuy nhiên việc khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố trong các
trường hợp này không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm của chủ
sở hữu, không gây phương hại đến quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.” 10
Theo pháp luật của Hoa Kỳ, có những ngoại lệ của bản quyền nhằm làm hài hoà

lợi ích của chủ sở hữu bản quyền và nhu cầu của công chúng được tiếp cận tri thức.
Trong trường hợp này, công chúng có thể tiếp cận những tác phẩm được bảo hộ bản
quyền, nhưng với một số điều kiện. Thông thường điều kiện đó là phải trả một khoản lệ
phí cho hội bản quyền, đồng thời việc sử dụng tác phẩm phải là việc sử dụng hợp lý. 11
1.2.2

Quy định về các ngoại lệ của quyền tác giả theo pháp luật quốc gia

Trên cơ sở của pháp luật quốc tế, Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam hiện hành
cũng quy định một số trường hợp ngoại lệ trong việc giới hạn quyền tác giả tại Điều 25
và Điều 26 quy định về “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin
phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao” và “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã
công bố không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” của Luật này.
Ngoại lệ thứ nhất: “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin
phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao” được quy định tại Điều 25 của Luật Sở hữu
trí tuệ hiện hành và hướng dẫn tại Điều 6 của Nghị định 100/2006/NĐ-CP. Bao gồm:
- Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy cá nhân.
Quy định trên không áp dụng đối với các trường hợp nghiên cứu khoa học, giảng dạy của
cá nhân nhằm mục đích thương mại. Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục
đích nghiên cứu là việc sao chép không quá một bản. Thư viện không được sao chép và
phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số.
- Trích dẫn hợp lý12 tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh
họa trong tác phẩm của mình. Trường hợp này phải phù hợp các điều kiện: phần trích dẫn
chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác
Cục Bản quyền tác giả, Kiến thức cơ bản, phổ thông về quyền tác giả, quyền liên quan - Bài 1: GIỚI
THIỆU
CHUNG,
Ts.

Mạnh

Chu,
[truy
cập ngày 4-9-2014].
11
Xem bài giảng của Anna Thuc, Anh Tran, Bài giảng về Bảo hộ quốc tế và tăng cường hiệu lực của bản
quyền - Anthony V. Lupo, tháng 7 năm 1999, Đại học Australia, Dự án Aus ADI - Dự án tài trợ của Cục
Thông tin Hoa Kỳ USIA.
12
“Trích dẫn hợp lý” được nêu trên khác “đạo văn”. Đạo văn là hành vi sao chép, sử dụng tác phẩm của
người khác mà không nêu nguồn gốc xuất xứ và tự cho đó là của mình.
10

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

10

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

phẩm của mình, số lượng và thực chất của phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để
trích dẫn không gây phương hại tới quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích
dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn.
- Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm
định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu.
- Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả,
không nhằm mục đích thương mại.
- Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. Trong

trường hợp này cũng được quyền sao chép chỉ một bản.
- Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi
sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động mà không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào.
Các hình thức này có thể là bán vé hoặc chương trình có tài trợ, hoặc quảng cáo,…
- Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy.
Chủ thể ghi âm, ghi hình tác phẩm trên không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác
thương mại buổi biểu diễn đó.
- Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng
dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó.
- Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị.
- Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng. Quy định này chỉ
áp dụng cho trường hợp nhập khẩu không quá một bản.
Các trường hợp trên không áp dụng đối với “tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo
hình, chương trình máy tính”, việc sử dụng không được làm ảnh hưởng đến việc khai
thác bình thường của tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ tác phẩm.
Ngoại lệ thứ hai:“Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin
phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” tại Điều 26, Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành.
- Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng
cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù
lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận; trường hợp
không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Toà
án theo quy định của pháp luật.
GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

11

SVTH: Nguyễn Công Giàu



Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

- Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ,
quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng
phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy
định của Chính phủ.
Trong trường hợp này việc sử dụng không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác
bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác giả. Và cuối
cùng là việc sử dụng tác phẩm trong trường hợp được nêu ở ngoại lệ thứ hai này không
áp dụng đối với loại hình “tác phẩm điện ảnh”.
Một trong những ngoại lệ được người viết đề cập đến trong bài nghiên cứu của
mình là trường hợp ngoại lệ thứ hai về “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố
không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”.
Tóm lại, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đưa ra quy định các giới hạn - ngoại lệ của
quyền tác giả về “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép,
không phải trả tiền nhuận bút, thù lao” tại Điều 25 và quy định về “Các trường hợp sử
dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”
tại Điều 26 như vừa trình bày là phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế. Đặc biệt
là phù hợp với “nguyên tắc phép thử ba bước” về các giới hạn - ngoại lệ của quyền tác
giả mà Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới đã đề suất như đã trình bày. Theo đó, pháp luật
quốc gia đã đưa ra và ghi nhận giới hạn - ngoại lệ của quyền tác giả về “Các trường hợp
sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù
lao” tại Điều 26 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành; quy định cũng đã đưa ra điều kiện
cho việc sử dụng là không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm
được sử dụng và không gây phương hại đến quyền của chủ sở hữu.
1.2.3


Ý nghĩa của việc quy định các ngoại lệ của quyền tác giả

Bản quyền là một yếu tố quan trọng trong tiến trình của sự phát triển. Bảo hộ
quyền tác giả là công cụ hữu hiệu nhằm khuyến khích, làm giàu và phổ biến di sản văn
hóa quốc gia và điều đó phụ thuộc trực tiếp vào mức độ bảo hộ đối với các tác phẩm.
Sự phát triển của một đất nước phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động sáng tạo của
người dân. Muốn kích thích sự sáng tạo của người dân đòi hỏi Nhà nước phải có các quy
định điều chỉnh để bảo hộ sự sáng tạo đó. Có như vậy thì việc khuyến khích và phổ biến
các sáng tạo sẽ thực hiện dễ dàng hơn - là điều kiện thiết yếu đối với quá trình phát triển.

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

12

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

Nhìn chung, quy định về các ngoại lệ của quyền tác giả trên phạm vi quốc tế và tại
Việt Nam nói riêng mang nhiều ý nghĩa hướng tới lợi ích công chúng, giúp phổ biến giá
trị các tài sản trí tuệ, mang lại lợi ích cho công chúng tiếp cận tri thức, từ đó góp phần
vào sự phát triển kinh tế - xã hội và ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của người dân, phù hợp với sách lược của Nhà nước.
Ngoại lệ của quyền tác giả về “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố
không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao” được quy định tại Điều 25
của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành vừa nêu trên nhìn chung mang ý nghĩa hướng đến việc
duy trì lợi ích công chúng. Lợi ích công chúng được duy trì thông qua việc sử dụng tác
phẩm mang tính tự do (tự do sử dụng mà không cần xin phép) và trong khuôn khổ rộng

(rộng về đối tượng tác phẩm, chủ thể và hình thức việc sử dụng) của quy định.
Ngoại lệ của quyền tác giả về “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố
không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” được quy định tại Điều 26
của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành thì mang ý nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử
dụng và khai thác các tài sản trí tuệ của con người tao ra - là các tác phẩm đã công bố.
Nhờ quy định trên mà việc sử dụng và khai thác tác phẩm đã công bố dưới hình thức
“phát sóng tác phẩm” của tổ chức phát sóng được dễ dàng hơn khi không cần thông qua
thủ tục xin phép sử dụng và được sự đồng ý từ chủ sở hữu quyền tác giả mà chỉ cần đảm
bảo về nghĩa vụ của chủ thể sử dụng mà pháp luật quy định như: thông tin về tác giả,
nguồn gốc xuất xứ của tác giả, chế độ nhuận bút, thù lao, quyền lợi ích vật chất khác,…
Ngoài ra, ngoại lệ của quyền tác giả ở Việt Nam còn mang các ý nghĩa khác như:
Đảm bảo sự bảo hộ quyền nhân thân của pháp luật đối với chủ thể quyền tác giả
của tác phẩm được sử dụng. Việc sử dụng và khai thác các giá trị từ tác phẩm đã công bố
mà không phải xin phép và có hay không có trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất
khác, mặc dù là hành vi xâm phạm quyền tác giả nhưng đó chỉ là sự xâm phạm không
tuyệt đối. Điều này có thể nhìn thấy rõ thông qua quy định về việc sử dụng không được
gây phương hại đến quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tác giả và
nguồn gốc, xuất xứ của tác giả hay tác phẩm.
Đảm bảo quyền tài sản đối với tác phẩm của chủ thể quyền tác giả vẫn diễn ra
bình thường. Việc sử dụng các tác phẩm đã công bố như vừa nêu trên dù ít hay nhiều
cũng đã ảnh hưởng một phần đến quyền tài sản của quyền tác giả. Nhưng trong trường
hợp này thì pháp luật quy định chủ thể được quyền sử dụng tác phẩm đã công bố không
được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm được sử dụng. Đặc bệt
GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

13

SVTH: Nguyễn Công Giàu



Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

trong “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải
trả tiền nhuận bút, thù lao” tại Điều 26 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành thì quyền tài
sản của quyền tác giả cũng được đảm bảo thêm một phần thông qua việc pháp luật đưa ra
quy định chế độ nhuận bút, thù lao, hay quyền lợi ích vật chất khác cho phía chủ sở hữu
quyền tác giả kể từ khi sử dụng tác phẩm.
Quy định về các ngoại lệ của quyền tác giả mang ý nghĩa và hướng đến mục đích
đảm bảo chính sách của Nhà nước về sở hữu trí tuệ. Nhà nước công nhận và bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên cơ sở đảm bảo hài hoà giữa chủ thể quyền
sở hữu trí tuệ với lợi ích công cộng, không bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ trái với
đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh. Nhà nước khuyến
khích, thúc đẩy hoạt động sáng tạo, khai thác tài sản trí tuệ nhằm góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.13
Tóm lại, quy định về các giới hạn - ngoại lệ của quyền tác giả ở Việt Nam nhìn
chung mang ý nghĩa đảm bảo cân bằng lợi ích giữa chủ thể sáng tạo, người sử dụng và
công chúng thụ hưởng.
1.3
Sự hình thành và đặc điểm của quy định “Các trƣờng hợp sử dụng tác phẩm
đã công bố không phải xin phép nhƣng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” theo pháp
luật Việt Nam
1.3.1

Sự hình thành của quy định “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố
không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” tại Việt Nam

Tại Việt Nam, ngay từ bản Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận những quyền cơ bản
của công dân liên quan đến quyền tác giả. Năm 1986, Nghị định 142/HĐBT của Hội
đồng Bộ trưởng có hiệu lực ngày 14-11-1986, văn bản đầu tiên quy định quyền tác giả

của Việt Nam được ban hành, rồi đến Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994. Kể từ đó
đến nay, hệ thống văn bản pháp luật quy định về quyền tác giả được định hình và bước
đầu tạo được hành lang pháp lý bảo hộ thành quả lao động sáng tạo, khuyến khích phát
triển các hoạt động nghệ thuật sáng tạo như đã trình bày ở mục “1.1.1 Quyền tác giả”.
Tuy nhiên, quy định của pháp luật về Sở hữu trí tuệ liên quan đến ngoại lệ về
“Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao” của quyền tác giả vào giai đoạn trước năm 2005 (trước ngày Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 có hiệu lực thi hành) vẫn chưa được đặt ra để điều chỉnh.

13

Xem quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 8 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

14

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 được Quốc hội khoá IX, kỳ hợp thứ 8 thông qua
ngày 29-11-2005, có hiệu lực thi hành ngày 01-7-2006. Đây là văn bản Luật đầu tiên đặt
ra để điều chỉnh về vấn đề “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin
phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” được ghi nhận tại Điều 26 của Luật.
Ngày 19-6-2009 Quốc hội khoá XII, kỳ hợp thứ 5 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009. Một trong những quy định được sửa
đổi, bổ sung lần này là “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin

phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” với nội dung như sau:
“1. Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ,
quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả
tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút,
thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận;
trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi
kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật.
Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ,
quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng
phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy
định của Chính phủ.14
2. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được
làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các
quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc,
xuất xứ của tác giả.
3. Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này
không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh.”
Trong lần sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 thì quy định tại Điều 26 có
thêm một số điểm mới tại khoản 1 như: mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác
và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận; trường hợp không thỏa thuận được thì
thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp
luật trong trường hợp tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài
trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải
trả tiền nhuận bút, thù lao. Trường hợp này luật đưa ra quy định về sự thỏa thuận cũng
như việc khởi kiện để đạt được mục đích nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác.
14

Đây là trường hợp mới được đưa vào trong lần sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi


15

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

Việc sửa đổi, bổ sung và tiến đến đưa vào quy định “Tổ chức phát sóng sử dụng tác
phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất
kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở
hữu quyền tác giả theo quy định của Chính phủ” tại đoạn 2, khoản 1 của Điều 26 là một
quy định hoàn toàn mới và trước đây Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (trước ngày Luật Sở
hữu trí tuệ hiện hành có hiệu lực) không hề quy định về trường hợp này.
Rõ ràng có thể nhận thấy quy định tại đoạn 2, khoản 1 của Điều 26 đã mở rộng
quyền sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút,
thù lao của chủ thể quyền sử dụng tác phẩm của “tổ chức phát sóng” trong việc phát
sóng tác phẩm đã công bố có tài trợ, quảng cáo, thu tiền và ngay cả trong trường hợp
không có tài trợ, quảng cáo hay không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào.
Nhìn chung trong lần sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 quy định về
“Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao” đã mở rộng phạm vi quyền của chủ thể sử dụng về một trong những
giới hạn - ngoại lệ của quyền tác giả. Quy định cũng đã một lần nữa thể hiện đảm bảo
việc cân bằng lợi ích giữa chủ thể sáng tạo, người sử dụng và công chúng thụ hưởng.
1.3.2

Đặc điểm của quy định “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố
không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”
Điều 26 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành chỉ cho phép “tổ chức phát sóng” là


chủ thể duy nhất được quyền sử dụng mà không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận
bút, thù lao. Tổ chức, cá nhân thực hiện việc “phát sóng tác phẩm” mới có quyền sử
dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng mà không phải xin phép nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao cho việc sử dụng đó. Điều luật này mang tính loại trừ rất cao và đã loại
trừ việc sử dụng các tác phẩm đã công bố mà không phải xin phép nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao của hầu hết tất cả các chủ thể khác trong xã hội.
Quyền nhân thân của quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để phát sóng
vẫn được pháp luật tôn trọng và bảo hộ. Như quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi
tác phẩm được đưa ra sử dụng, bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác
sửa chữa, cắt xén, hoặc xuyên tạc tác phẩm. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm không
gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tác
giả, nguồn gốc xuất xứ của tác giả trong các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố
không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao.

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

16

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

Hình thức của việc sử dụng tác phẩm là dạng hình thức “phát sóng tác phẩm”.
Điều này đồng nghĩa với việc nếu “tổ chức phát sóng” sử dụng tác phẩm đã công bố để
thực hiện việc sử dụng dưới hình thức khác với hình thức “phát sóng tác phẩm” thì
không thuộc điều chỉnh tại Điều 26 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành và việc sử dụng
phải thông qua thủ tục xin phép sử dụng, trả tiền,.. (tùy vào sự thỏa thuận giữa các bên).

Quyền khai thác tác phẩm của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả vẫn được diễn ra
bình thường. Quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền thực
hiện hoặc cho phép người khác thực hiện một hoặc một số quyền tài sản như các quyền
làm tác phẩm phái sinh, biểu diễn tác phẩm đến công chúng, sao chép tác phẩm, phân
phối hoặc nhập khẩu bản sao tác phẩm, truyền đạt tác phẩm đến công, cho thuê bản gốc
hoặc bản sao chương trình máy tính vẫn được pháp luật tôn trọng và bảo hộ. Tổ chức
phát sóng không được làm ảnh hưởng đến sự khai thác bình thường của tác phẩm được
mình sử dụng để phát sóng.
Độc quyền cho phép người khác sử dụng tác phẩm được bảo hộ của chủ sở hữu
quyền tác giả bị luật vô hiệu hóa một phần. Cũng có nghĩa là sự thoả thuận giữa các bên
về việc cho phép sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không tồn tại. Phần độc
quyền bị vô hiệu hoá là phần độc quyền “cho phép sử dụng” và điều này được nêu rõ
trong quy định: “Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài
trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép….Tổ chức
phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc
không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép…”15
Trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả thì loại hình “tác phẩm
điện ảnh” không áp dụng sử dụng. Quy định tại khoản khoản 3 Điều 26 của Luật Sở hữu
trí tuệ hiện hành đã xác định rõ đặc điểm này. Tác phẩm điện ảnh (bao gồm tác phẩm
điện ảnh và các tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự) không được áp dụng sử
dụng trong các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải
trả tiền nhuận bút, thù lao.
Trong trường hợp này, chủ sở hữu quyền tác giả được một quyền mới phát sinh
đó là quyền được nhận nhuận bút, thù lao hay quyền lợi vật chất khác từ việc khai thác
tác phẩm (phát sóng tác phẩm đã công bố) từ phía chủ thể sử dụng (tổ chức phát sóng)
tuỳ vào từng trường hợp cụ thể và sự thỏa thuận giữa các bên.

15

Xem quy định tại khoản 1 của Điều 26 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành


GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

17

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

Tóm lại, thông qua quá trình tìm hiểu các quy định của pháp luật quốc gia và pháp
luật quốc tế, người viết đã trình bày một cách khái quát nhất các vấn đề về quyền tác giả,
đặc điểm của quyền tác giả cũng như việc quy định về các ngoại lệ của quyền tác giả.
Đặc biệt là ý nghĩa của việc quy định về các ngoại lệ của quyền tác giả, nhìn chung các
quy định mang nhiều ý nghĩa khác nhau nhưng quan trọng hơn cả là mang khuynh hướng
hướng tới lợi ích công chúng, giúp phổ biến giá trị các tài sản trí tuệ, mang lại lợi ích cho
công chúng tiếp cận tri thức, từ đó góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội và ngày
càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, phù hợp với sách lược của
Nhà nước. Việc tìm hiểu về sự hình thành và đặc điểm của quy định về “Các trường hợp
sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù
lao”, một trong những quy định về các giới hạn - ngoại lệ của quyền tác giả tại Việt Nam
và đây sẽ là tiền đề cho việc nghiên cứu các vấn đề trọng tâm trong đề tài nghiên cứu.

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

18

SVTH: Nguyễn Công Giàu



Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

CHƢƠNG 2
NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
“CÁC TRƢỜNG HỢP SỬ DỤNG TÁC PHẨM ĐÃ CÔNG BỐ KHÔNG PHẢI XIN
PHÉP NHƢNG PHẢI TRẢ TIỀN NHUẬN BÖT, THÙ LAO”
Pháp luật Sở hữu trí tuệ luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể nắm
giữ quyền tác giả để họ có thể khai thác tốt các quyền họ nhận được. Luật Sở hữu trí tuệ
Việt Nam cũng có quy định một số trường hợp đặc biệt, theo đó, quyền của tác giả, độc
quyền khai thác tác phẩm của chủ sở hữu quyền tác giả có thể bị giới hạn.
Một trong những quy định về giới hạn - ngoại lệ quyền của quyền tác giả được
đưa ra phân tích, tìm hiểu là “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải
xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” được ghi nhận tại Điều 26 của Luật Sở
hữu trí tuệ hiện hành. Việc phân tích, tìm hiểu nội dung chi tiết của quy định được thực
hiện thông qua quá trình xác định cơ sở pháp lý, chủ thể, đối tượng, điều kiện về việc sử
dụng và các vấn đề có liên quan như quy định về nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất
khác, các hành vi xâm phạm quyền tác giả và các chế tài xử lý vi phạm như sẽ trình bày.
2.1
Cơ sở pháp lý quy định về “Các trƣờng hợp sử dụng tác phẩm đã công bố
không phải xin phép nhƣng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” theo pháp luật Việt
Nam hiện hành
Cơ sở pháp lý quy định về “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không
phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” chính là các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành. Cụ thể:
- Hiến pháp năm 2013.16
- Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, đặc biệt phải kể đến quy định có thể được xem là
cơ sở, nền móng cho “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép
nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” được quy định tại Điều 26 của Luật này.

- Nghị định 61/2002/NĐ-CP ban hành ngày 11-6-2002 của Chính phủ quy định về
chế độ nhuận bút.
- Nghị định 100/2006/NĐ-CP ban hành ngày 21-09-2006 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về
quyền tác giả và quyền liên quan.
16

Xem Điều 40 của Hiến pháp năm 2013

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

19

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

- Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền Sở hữu trí tuệ và
quản lý Nhà nước về Sở hữu trí tuệ.
- Nghị định 47/2009/NĐ-CP của Chính phủ phủ quy định về xử phạt vi phạm hành
chính về quyền tác giả, quyền liên quan.
- Nghị định 85/2011/NĐ-CP ngày 29-09-2011 của Chính phủ quy định về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21-9-2006 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí
tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.
- Nghị định 131/2013/NĐ/CP ngày 16-10-2013 của Chính phủ quy định về xử
phạt hành chính về quyền tác giả và quyền liên quan.

- Thông tư liên tịch số 01/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP của Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp ngày
29/2/2008 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ…
2.2
Chi tiết quy định về “Các trƣờng hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không
phải xin phép nhƣng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” theo pháp luật Việt Nam
2.2.1

Chủ thể được đề cập trong quy định “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã
công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao”

Trong quy định về “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin
phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” tại Điều 26 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện
hành người viết nhận thấy có các chủ thể như: tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của tác
phẩm và tổ chức phát sóng. Sau đây, người viết xin chia thành hai nhóm chủ thể sau:
Nhóm đầu tiên: tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả bao gồm: tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức,
cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được
công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba
mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá
nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền
tác giả mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.17

17

Khoản 2 Điều 13 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi


20

SVTH: Nguyễn Công Giàu


Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo pháp luật Việt Nam

Tác giả: Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm
văn học, nghệ thuật và khoa học18, pháp luật thừa nhận một người là tác giả ngay cả trong
trường hợp người đó chỉ sáng tạo một phần tác phẩm. Theo quy định trên thì tác giả phải
là thể nhân và trong trường hợp tác phẩm được các đồng tác giả sáng tạo, trong đó mỗi
phần trong tác phẩm nếu có thể tách rời để sử dụng độc lập thì quyền nhân thân và quyền
tài sản của quyền tác giả được áp dụng cho từng phần tác phẩm được sử dụng độc lập đó,
nếu các đồng tác giả không có sự thoả thuận khác.
Ngoài ra, những người dưới đây cũng được công nhận là tác giả như người dịch
tác phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác được coi là tác giả tác phẩm dịch; người
phóng tác từ tác phẩm đã có, người cải biên, chuyển thể tác phẩm từ loại hình nghệ thuật
này sang loại hình khác được coi là tác giả của tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể;
người biên soạn, chủ giải, tuyển chọn tác phẩm của người khác thành tác phẩm có tính
sáng tạo được coi là tác giả biên soạn, chú giải, tuyển chọn.19
Pháp luật hiện hành xác định tổ chức, cá nhân nào nắm giữ một, một số hoặc toàn
bộ các quyền tác giả được xem như là chủ sở hữu quyền tác giả. Để phân biệt các dạng
chủ sở hữu thì Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành đưa ra quy định xác định sáu loại chủ thể
được cho là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm như sau:
Chủ sở hữu quyền tác giả đồng thời là tác giả.20 Về nguyên tắc, người sáng tạo ra
tác phẩm và nếu không có thoả thuận gì với các chủ thể khác về chủ sở hữu quyền tác giả
của tác phẩm tạo ra thì người đó được cho là tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Chủ sở
hữu tác phẩm trong trường hợp này có đầy đủ các quyền nhân thân (Điều 19) và quyền
tài sản (Điều 20) theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành.

Chủ sở hữu quyền tác giả là các đồng tác giả.21 Mỗi đồng tác giả có đầy đủ các
quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm chung của họ. Việc sử dụng các quyền
tài sản liên quan đến tác phẩm chung phải được tất cả các đồng tác giả đồng ý. Trong
trường hợp phần vốn góp của các đồng tác giả trong tác phẩm chung có thể sử dụng độc
lập22 như một tác phẩm độc lập, trường hợp phần đóng góp của họ có thể phân chia được
thì việc sử dụng phần đóng góp của tác giả phần đóng góp đó chỉ làm phát sinh các quyền
nhân thân và quyền tài sản đối với tác giả đó.
Khoản 1 Điều 8 của Nghị định 100/2006/NĐ-CP
Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ, Những người được coi là tác giả của tác phẩm,
[truy cập ngày 24/10/2014].
20
Điều 37 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành
21
Điều 38 của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành
22
Xem quy định tại Điều 741 của Bộ Luật Dân sự năm 2005
18
19

GVHD: Ths. Nguyễn Phan Khôi

21

SVTH: Nguyễn Công Giàu


×