Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Niên khóa 2011- 2015
Đề tài

BẢO HỘ QUYỀN LIÊN QUAN ĐỐI VỚI
BẢN QUYỀN TRUYỀN HÌNH THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

Trương Bảo Trân

Bộ môn Luật Tư pháp

MSSV: 5115947
Lớp: Thương Mại 2 Khóa 37

Cần Thơ, 11/2014


MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................... 01
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .................................................................. 01
2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................... 01
3. Phạm vi của đề tài ....................................................................................................... 02
4. Phương pháp ngiên cứu ............................................................................................. 02
5. Bố cục của đề tài .......................................................................................................... 02
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ QUYỀN LIÊN QUAN ĐỐI VỚI BẢN QUYỀN
TRUYỀN HÌNH ................................................................................................................. 03
1.1. Khái quát về quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình…………………....03
1.1.1. Khái niệm về bản quyền truyền hình……………………………………….... 03
1.1.2. Khái niệm quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình……………….......03
1.1.3. Khái niệm bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình…...............06
1.2. Pháp luật quốc tế và một số quốc gia khác về bảo hộ quyền liên quan đối vớibản
quyền truyền hình … .................................................................................................. 08
1.2.1. Pháp luật quốc tế ………………………………………………………...…...08
1.2.1.1. Công ước Rome 1961 …………………………………………....….08
1.2.1.2. Công ước Brussels 1974 …………………………………………….10
1.2.2. Pháp luật một số quốc gia khác ……………………………………………....10
1.3. Lịch sử phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền
truyền hình……………………………………………………………………………11
1.3.1. Trên thế giới ………………………………………………………...…….......11
1.3.2. Ở Việt Nam ………………………………………………………………........12
1.4. Sự cần thiết quy định pháp luật về bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền
truyền hình …………………………………………………………...........................13
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN LIÊN QUAN ĐỐI VỚI BẢN
QUYỀN TRUYỀN HÌNH…………………….………………………………………......16
2.1. Căn cứ phát sinh và điều kiện bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền truyền
hình………………………………………………………………………………….....16
2.1.1. Căn cứ phát sinh quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình ………........16
2.1.2. Điều kiện bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình……………...17

2.2. Chủ thể quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình………………………......22
2.2.1. Người biểu diễn ………………………………………………………….........22
2.2.2. Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ………………………………………........23
2.2.3. Tổ chức phát sóng …………………………………………………………......24
2.3. Nội dung quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình ………………………...26
2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của người biểu diễn …………………………………........26


2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình………………........29
2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức phát sóng ……………………………….........30
2.4. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình………………....32
2.5. Chuyển giao quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình …………………….33
2.6. Các hành vi xâm phạm quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình và biện
pháp xử lí ……………………………………………………………………………..34
2.6.1. Các hành vi xâm phạm quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình ….......34
2.6.2. Biện pháp xử lí …………………………………………………………….......36
Chương 3. THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN LIÊN QUAN ĐỐI VỚI BẢN QUYỀN
TRUYỀN HÌNH - NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP……….…………………………40
3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình40
3.1.1. Tình hình chung……………………………………………………………..….40
3.1.2. Một số vụ việc cụ thể ...………………………………………………………...41
3.2. Nguyên nhân và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền liên quan đối với
bản quyền truyền hình………………………………………………………….…….49
3.2.1. Nguyên nhân.......…………………………………………………………….....49
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền liên quan đối với bản quyền
truyền hình......……………………………………………………………………....51
KẾT LUẬN ………………………………………………………….…….………………55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục



LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kể từ khi truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỉ thứ XX và phát triển với tốc độ như vũ
bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh thông tin quan trọng
trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình,
mỗi quốc gia, dân tộc. Truyền hình trở thành công cụ sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa
cũng như các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. Truyền hình giúp con người hiện
đại thưởng thức các giá trị nghệ thuật và làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần. Tuy
nhiên, việc ghi nhận và bảo hộ quyền của những người đóng góp sáng tạo trí tuệ và đầu tư
thời gian, vật chất của mình cho việc truyền bá các chương trình truyền hình tạo ra sự thỏa
mãn nhu cầu cơ bản ấy dường như vẫn là một vấn đề mới mẻ.
Với một nước đang phát triển và mới hội nhập như Việt Nam, sở hữu trí tuệ nói chung
mà đặc biệt là quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình càng không thể là những khái
niệm quen thuộc. Song, hội nhập vào một thế giới đang toàn cầu hoá mạnh mẽ đòi hỏi pháp
luật quốc gia phải tương thích với những quy tắc của luật quốc tế, điều đó có nghĩa là chúng
ta cần bảo hộ quyền liên quan của các chủ thể sở hữu bản quyền truyền hình với mức độ và
những nguyên tắc mang tính chất toàn cầu như nhiều quốc gia khác. Mặt khác, những quy
định trong pháp luật sở hữu trí tuệ nước ta cũng là đòi hỏi tất yếu nhằm bảo vệ có hiệu quả
quyền lợi chính đáng của những nghệ sĩ biểu diễn, những nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình,
các tổ chức phát sóng có quyền lợi liên quan đến các chương trình phát sóng và nhà sản xuất
truyền hình… trong nước, từ đó khuyến khích hoạt động nghệ thuật của họ, phục vụ đời sống
tinh thần của xã hội, phát triển kinh tế. Đó cũng là điều kiện để nền văn hóa phong phú, đặc
sắc và lâu đời của dân tộc được giữ gìn, phát huy và giới thiệu đến thế giới cũng như đưa
những điều tinh túy của thế giới để Việt Nam tiếp thu chọn lọc.
Tuy nhiên, với một hệ thống các quy định được cho là còn đang trong quá trình hoàn
thiện, lại đứng trước thực tế phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp giải trí trong thời
đại số hóa, pháp luật về quyền liên quan trong lĩnh vực truyền hình đã bộc lộ những lỗ hỏng
và những hạn chế nhất định, xuất hiện những vấn đề thực tiễn cần được xem xét và giải quyết,
đòi hỏi không ngừng đổi mới và hoàn thiện các quy định của lĩnh vực pháp luật này. Do vậy,

Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cần dành nhiều sự quan tâm đến các chủ thể nói trên, cùng
với sự quan tâm đến vấn đề này, người viết đã chọn đề tài khóa luận cho mình là: “Bảo hộ
quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình theo pháp luật Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn hướng tới việc làm rõ cơ sở lý luận của quyền liên quan đối với bản quyền
truyền hình, phân tích các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh cũng như phản ánh thực
tiễn áp dụng các quy định này. Trên cơ sở đó, người viết đưa ra một số kiến nghị để góp phần

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

1

SVTH: Trương Bảo Trân


hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của những người sở hữu bản quyền
truyền hình, bảo vệ lợi ích của đông đảo nhân dân quan tâm việc phát sóng truyền hình trong
nước và của nước ngoài, nâng cao khả năng thực thi của pháp luật, bảo hộ có hiệu quả các
quyền liên quan đến bản quyền truyền hình và nâng cao hiệu quả làm việc của cơ quan quản
lí nhà nước.
3. Phạm vi của đề tài
Quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình là một đối tượng điều chỉnh của Luật
sở hữu trí tuệ, mặc dù là một đối tượng riêng biệt về lĩnh vực truyền hình nhưng các chủ thể
có quyền và lợi ích liên quan là khá rộng, hầu như là tất cả chủ thể thuộc quyền liên quan đến
quyền tác giả đều được đề cập tới trong đề tài này, tuy nhiên về các quyền cụ thể thì có sự
chênh lệch bởi quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình là đối tượng nghiên cứu hẹp
hơn so với quyền liên quan nói chung.
Với phạm vi nghiên cứu như trên, người viết xác định đối tượng nghiên cứu chủ yếu
của khóa luận chỉ nằm trong giới hạn bao gồm:
- Các quy định pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành về quyền liên quan đối với

bản quyền truyền hình;
- Các quy định về quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình tại các điều ước quốc
tế phổ biến và pháp luật một số quốc gia;
- Tình hình thực thi các quy định pháp luật về quyền liên quan đối với bản quyền truyền
hình tại Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
của khoa học xã hội nói chung, khoa học pháp lý nói riêng, đó là các phương pháp lịch sử, hệ
thống, phân tích, tổng hợp, so sánh. Các phương pháp này được kết hợp nhằm làm rõ các quy
định của pháp luật thực định, nhìn nhận, đánh giá chúng trong mối liên hệ với pháp luật quốc
tế cũng như trong thực tiễn áp dụng.
5. Bố cục của đề tài
Đề tài bao gồm các phần: mở đầu, nội dung và kết luận; trong đó phần nội dung gồm
có 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình
- Chương 2: Quy định của pháp luật về bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền
truyền hình
- Chương 3: Tình hình thực hiện pháp luật về quyền liên qaun đối với bản quyền truyền
hình- nguyên nhân và giải pháp
GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

2

SVTH: Trương Bảo Trân


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ QUYỀN LIÊN QUAN ĐỐI VỚI
BẢN QUYỀN TRUYỀN HÌNH

1.1.

Khái quát về quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình

1.1.1. Khái niệm về bản quyền truyền hình
Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện nay chưa có điều luật hay văn bản dưới luật nào khái
niệm rõ thuật ngữ “bản quyền truyền hình”, để dễ dàng cho việc tìm hiểu các quy định pháp
luật liên quan vấn đề này, tác giả tạm thời khái niệm thuật ngữ bản quyền truyền hình theo
cách hiểu như sau: Bản quyền là việc bảo vệ các tác phẩm khoa học, văn chương dù đã được
xuất bản hay còn ở dạng bản thảo, các tác phẩm kịch nghệ, âm nhạc và nghệ thuật ở bất kỳ
hình thức nào, từ sách báo cho tới các chương trình máy tính, đĩa CD-ROM, băng đĩa nhạc,
phim ảnh, các chương trình phát thanh truyền hình, các trang web hay cơ sở dữ liệu… Chương
trình truyền hình là các chương trình được phát và thu từ xa trên sóng vô tuyến hoặc hữu
tuyến và có thể lưu trữ được. Như vậy có thể hiểu một cách đơn giản bản quyền truyền hình
là các chương trình phát thanh truyền hình có chủ sở hữu được bảo vệ để tránh những sự xâm
phạm từ những chủ thể không có quyền sở hữu chúng bởi pháp luật sở hữu trí tuệ và các quy
định pháp luật có liên quan.
1.1.2. Khái niệm quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình
Để có thể hiểu được những vấn đề pháp lý liên quan đến việc bảo hộ bản quyền truyền
hình thì trước tiên cần hiểu rõ khái niệm thế nào là truyền hình và chương trình truyền hình.
Truyền hình là một loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh và
âm thanh về một vật thể hoặc một cảnh đi xa bằng sóng vô tuyến điện. Thuật ngữ truyền hình
(Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có
nghĩa là “đi xa”, còn “videre” là “thấy được”, tiếng Latinh có nghĩa là xem được từ xa, ghép
hai từ đó lại thành “Televidere” có nghĩa là xem được ở xa. Tiếng Anh là “Television”, còn
tiếng Pháp là “Télévision”. Như vậy, dù có phát triển ở bất cứ đâu, ở quốc gia nào thì tên gọi
truyền hình cũng có chung một nghĩa như trên.
Để các chương trình truyền hình được truyền tải tới công chúng nhất thiết trải qua rất
nhiều giai đoạn mà đáng chú ý và không thể thiếu trong đó là phát sóng truyền hình. Tức là
một chương trình phát sóng là bất kỳ chương trình nào được truyền bằng hình thức phát sóng,

hay nói cách khác là truyền qua các phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến (kể cả truyền tín
hiệu vệ tinh) để công chúng thu nhận âm thanh và hình ảnh.
Theo quy định tại khoản f điều 3 của công ước Rome (1961): “Phát sóng là việc truyền
bằng phương tiện vô tuyến những âm thanh hoặc những hình ảnh và âm thanh để công chúng
thu”. Theo quy định tại khoản f điều 2 Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và ghi âm (1996):
GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

3

SVTH: Trương Bảo Trân


“Phát sóng là việc truyền bằng các phương tiện vô tuyến cho việc thu của công chúng các
âm thanh, hoặc hình ảnh và âm thanh hoặc sự tái hiện lại của nó; việc truyền như vậy qua
vệ tinh cũng là phát sóng; việc truyền tín hiệu được mã hóa là phát sóng khi mà các phương
tiện giải mã được cung cấp cho công chúng bởi hoặc với sự đồng ý của các tổ chức phát
sóng này”. Trên cơ sở pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam quy định có tiếp thu và chọn
lọc phù hợp với thực tế tại Việt Nam. Tại khoản 11 điều 4 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa
đổi bổ sung năm 2009 quy định: “Phát sóng là việc truyền âm thanh hoặc hình ảnh hoặc cả
âm thanh và hình ảnh của tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng đến công chúng bằng phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến, bao gồm cả việc truyền qua
vệ tinh để công chúng có thể tiếp nhận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn”.
Pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia cũng không có quy định thế nào được
gọi là chương trình phát sóng (một cách đơn giản có thể hình dung chương trình phát sóng là
chương trình được phát sóng trên kênh truyền hình dưới hình thức chương trình thực tế, phóng
sự, các chương trình thể thao..v.v). Tuy nhiên từ các khái niệm phát sóng trên ta có thể hiểu
chương trình phát sóng là chương trình có chứa âm thanh hoặc hình ảnh hoặc cả âm thanh và
hình ảnh được truyền bằng phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến mà công chúng có thể tiếp
nhận được. Do đó có thể khẳng định chương trình phát sóng bao gồm cả chương trình truyền
hình trong đó.

Về thuật ngữ “bản quyền” theo pháp luật Việt Nam vẫn chưa được nêu rõ và vẫn chưa
có cách hiểu thống nhất, mặc dù người ta vẫn thường hiểu thuật ngữ bản quyền đồng nghĩa
với quyền tác giả. Tuy nhiên, trong lĩnh vực truyền hình, thuật ngữ bản quyền thường sử dụng
để biểu hiện quyền của các tổ chức, cá nhân sở hữu một chương trình phát sóng hoặc chương
trình truyền hình chứ không dùng để thể hiện quyền của tác giả sáng tạo ra chương trình đó,
nếu muốn đề cập đến quyền tác giả trong truyền hình thì người ta sẽ dùng thuật ngữ là bản
quyền kịch bản truyền hình. Theo quy định tại khoản 3 điều 17 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005
sửa đổi, bổ sung năm 2009(sau đây gọi ngắn gọn là Luật sở hữu trí tuệ năm 2005) thì các đối
tượng quyền liên quan được bảo hộ có bao gồm: Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hóa được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây và
không làm phương hại đến quyền tác giả:
- Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa của tổ chức
phát sóng có quốc tịch Việt Nam.
- Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa của tổ chức
phát sóng được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

4

SVTH: Trương Bảo Trân


Từ những điều nêu trên mới xuật hiện cụm từ bản quyền truyền hình trong bài luận
văn này, nói cách khác có nghĩa là quyền của những người sở hữu bản quyền truyền hình
cũng là một đối tượng thuộc quyền liên quan được bảo hộ.
Về khái niệm quyền liên quan đến quyền tác giả được pháp luật Việt Nam đề cập đến
một cách gián tiếp bằng phương pháp liệt kê. Cụ thể, khái niệm này được đưa ra tại khoản 3
Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005: “Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức,

cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hóa”.
Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
cũng đã giải thích theo hướng liệt kê tương tự tại khoản 2 điều 3 về bảo hộ quyền tác giả,
quyền liên quan, theo đó, quyền liên quan được hiểu là “các quyền của người biểu diễn đối
với cuộc biểu diễn; các quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình; các quyền của tổ
chức phát sóng đối với chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã
hóa được quy định tại Điều 745, 746, 747 và Điều 748 của Bộ luật Dân sự và Điều 29, 30 và
31 của Luật Sở hữu trí tuệ”.
So với những quyền liên quan được bảo hộ ở cấp độ toàn cầu theo các điều ước quốc
tế như Công ước Rome hay Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm năm 1996
(WPPT), khái niệm quyền liên quan được quy định trong pháp luật Việt Nam có phạm vi rộng
hơn, bao gồm cả quyền của nhà sản xuất bản ghi hình và quyền của tổ chức phát sóng đối với
tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Điều này không trực tiếp phản ánh năng lực
bảo hộ của pháp luật sở hữu trí tuệ quốc gia trong mối tương quan với điều ước quốc tế mà là
vấn đề quan điểm lập pháp cũng như đặc điểm của hệ thống pháp luật mỗi nước.
Các sáng tạo trí tuệ trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật luôn hướng tới việc thỏa mãn
nhu cầu tinh thần của con người. Để thực hiện chức năng đó, các sản phẩm tinh thần này phải
được phổ biến tới công chúng càng rộng rãi càng tốt. Việc chuyển tải các tác phẩm tới công
chúng, đặc biệt đối với các tác phẩm nghệ thuật, lại thường không phải do tác giả thực hiện
mà thông qua một đội ngũ những người trung gian khác, và trong nhiều trường hợp, sự tham
gia của lực lượng này là không thể thiếu. Ví dụ một chương trình gameshow1 hay một
liveshow2 nếu muốn truyền tải đến công chúng phải được dàn dựng và biểu diễn bằng những
công sức và sự đầu tư vật chất của những người biểu diễn, các tổ chức ghi âm, ghi hình và
các tổ chức phát sóng.

Một chương trình truyền hình trong đó các thí sinh cạnh tranh cho các giải thưởng bằng cách chơi trò chơi kiến
thức hay cơ hội.
1


2

Chương trình biểu diễn ca nhạc sống động, trực tiếp và có quy mô lớn, thường của một ca sĩ.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

5

SVTH: Trương Bảo Trân


Một cách chung nhất, vai trò của đội ngũ trung gian, hỗ trợ tác giả đưa tác phẩm đến
với công chúng cần phải được đánh giá đúng mức, và một sự bảo vệ dành riêng cho bộ phận
này nhằm chống lại việc sử dụng bất hợp pháp những đóng góp sáng tạo của họ là cần thiết.
Xem nhẹ và không bảo hộ những người “liên quan” này không chỉ tác động trực tiếp đến
quyền lợi của họ, mà còn làm suy giảm chất lượng truyền tải các tác phẩm nghệ thuật, tất yếu
ảnh hưởng đến tác giả - do tác phẩm đã không được thể hiện đúng giá trị của nó, đồng thời
tác động tiêu cực đến khả năng tiếp cận tác phẩm của công chúng. Những hiện tượng này
không nên xuất hiện nếu một xã hội muốn hài hòa lợi ích các bộ phận thành viên trong nó và
phát triển toàn diện, bền vững.
Tuy nhiên, do thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn nên trong bài nghiên cứu này,
tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh của các chủ thể quyền liên quan, đó là các đối tượng có
quyền liên quan đến tác phẩm chương trình truyền hình và những cá nhân, tổ chức sở hữu bản
quyền các chương trình truyền hình thuộc quyền liên quan cần được pháp luật bảo hộ. Vì sao
các đối tượng này cần được bảo hộ? Do lợi ích của họ cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng nghiêm
trọng khi các chương trình do họ biên tập, đầu tư làm ra bị phát lại bởi các tổ chức đồng
nghiệp khác mà không có sự thỏa thuận và đền bù thỏa đáng. Do đó, cũng cần phải thiết lập
một sự bảo hộ thích đáng dành riêng cho họ.
Tóm lại, mặc dù chưa có khái niệm thống nhất về quyền liên quan đối với chương trình

truyền hình, nhưng theo tác giả thì ta có thể khái niệm quyền này theo hai phương diện.
Thứ nhất, đó là quyền nhân thân(nếu có) và quyền tài sản của các tổ chức, cá nhân
thực hiện việc chuyển tải, truyền đạt tác phẩm truyền hình tới công chúng thông qua người
biểu diễn, các tổ chức sản xuất bản ghi âm, ghi hình và tổ chức phát sóng.
Thứ hai, từ phương diện khách quan, đó là tổng hợp các quy định pháp luật nhằm xác
định và bảo vệ các quyền nhân thân(nếu có) và quyền tài sản đối với những cá nhân, tổ chức
là sở hữu quyền phát sóng truyền hình hoặc có quyền liên quan đến các chương trình truyền
hình.
1.1.3. Khái niệm bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình
Một tác phẩm khi được ra đời thì điều tác giả quan tâm nhất là liệu nó có được công
chúng đón nhận và hưởng ứng hay không. Do vậy, việc công bố và quảng bá tác phẩm là một
trong những việc làm không thể thiếu. Tuy nhiên, nếu một tác phẩm chỉ được truyền đạt đến
công chúng thông qua trình diễn thì hiệu quả của nó cũng sẽ rất hạn chế. Vì thế, vai trò của
các nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình và tổ chức phát sóng là không kém phần quan trọng.
Họ đã giúp cho các tác giả truyền đạt được tác phẩm của mình đến với công chúng một cách
rộng rãi nhất. Các sản phẩm họ làm ra (tác phẩm truyền hình) cũng có thể bị sao chép và làm
lậu. Do vậy, bảo hộ các quyền lợi chính đáng của những nghệ sĩ biểu diễn, những nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình, các tổ chức phát sóng…, từ đó khuyến khích hoạt động nghệ thuật
GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

6

SVTH: Trương Bảo Trân


của họ, phục vụ đời sống tinh thần của xã hội. Chính bởi tầm quan trọng của các đối tượng
quyền liên quan đối với quyền tác giả mà luật về quyền tác giả của mỗi nước quy định việc
bảo hộ các quyền này khá chặt chẽ. Thậm chí, có nhiều quyền cũng được bảo hộ quốc tế. Các
hiệp định và công ước quốc tế như Công ước Rome 1961- công ước đầu tiên về quyền liên
quan, nền tảng bảo hộ trong lĩnh vực này, công ước Genève về bảo hộ nhà sản xuất, xuất bản,

ghi âm, chống lại việc sao chép bất hợp pháp các bản ghi âm, Công ước Brussels 1974 và
Công ước WCT năm1996 đã tạo ra sự thống nhất về các quyền sở hữu quốc tế như quyền tác
giả, các quyền liên quan và các quốc gia ký kết đều nhất trí bảo hộ tác phẩm trên phạm vi
quốc tế.
Quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình không đương nhiên dành cho mọi
chương trình truyền hình hay chương trình phát sóng, mà chỉ những đối tượng nào thoả mãn
những điều kiện nhất định mới được pháp luật bảo vệ bằng các quy định về quyền liên quan
đối với đối tượng này. Cụ thể thì các đối tượng này phải được “định hình hoặc thực hiện”,
mà không buộc phải được biểu hiện bằng một dạng vật chất. Đây là một điểm phân biệt với
đối tượng quyền tác giả: tác phẩm phải thỏa mãn yêu cầu “được thể hiện dưới một hình thức
vật chất nhất định”3.
Có nghĩa là các quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình được xác lập tự động
kể từ thời điểm tác phẩm truyền hình được các chủ thể quyền liên quan này định hình hay
thực hiện mà không cần bất kỳ một thủ tục công bố hay đăng ký nào với các cơ quan có thẩm
quyền4. Việc chủ sở hữu có đăng ký hay không nó không phải là căn cứ phát sinh quyền được
bảo hộ, mà chỉ có giá trị là chứng cứ chứng minh của đương sự khi có tranh chấp về bản
quyền.
Khái niệm về “bảo hộ” có nghĩa là giúp đỡ, che chở5. Bảo hộ bản quyền truyền hình
là việc giúp đỡ, che chở để bảo vệ cho các đối tượng có quyền lợi liên quan đến tác phẩm
chương trình truyền hình và những cá nhân, tổ chức sở hữu bản quyền các chương trình thuộc
quyền liên quan trước sự xâm phạm của người khác đối với chương trình phát sóng của mình,
bảo vệ quyền lợi của họ đối với thành quả lao động hoặc đầu tư của họ đối với tác phẩm
truyền hình đã được tạo ra.
Bảo hộ bản quyền truyền hình dựa trên nền tảng quyền liên quan được bảo hộ, do vậy
phải có một hệ thống pháp lý đầy đủ và hiệu lực từ văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất là
Hiến pháp cho tới các đạo luật chuyên ngành, các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành để
3

Khoản 2 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009.


4

Điều 49 luật Sở hữu trí tuệ quy định về đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên, điều này cũng ghi rõ, việc

đăng ký này nhằm mục đích để cơ quan Nhà nước ghi nhận các thông tin về tác giả hoặc chủ sở hữu và tác phẩm, không
phải thủ tục bắt buộc để được hưởng các quyền.
5

Nguyễn Như Ý (2010), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

7

SVTH: Trương Bảo Trân


tạo thành một hệ thống các quy định riêng thống nhất trong lĩnh vực này. Tại điều 60 của
Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh,
sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ
thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp”. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, chúng ta thể chế hóa cụ thể quy định trên
bằng các quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, luật chuyên ngành về sở hữu
trí tuệ, các đạo luật chuyên ngành có liên quan như Luật Báo chí, Luật Di sản văn hóa, Luật
Điện ảnh, Luật Xuất bản, Luật Hải quan... Tiếp đó là các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi
hành các đạo luật trên trong đó có liên qua đến lĩnh vực bản quyền về truyền hình nói riêng
và quyền liên quan nói chung.
1.2. Pháp luật quốc tế và một số quốc gia khác về bảo hộ quyền liên quan đối với bản
quyền truyền hình
1.2.1. Pháp luật quốc tế

Trên phạm vi quốc tế, quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình hay các chương
trình phát sóng đang được quan tâm nhiều hơn bởi sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa
học và nghệ thuật. Đến nay, đã có nhiều điều ước quốc tế về quyền liên quan trong đó có điều
chỉnh về quyền của các tổ chức, cá nhân liên quan đến chương trình phát sóng và chương
trình truyền hình mà đáng kể nhất là Công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng (Công ước Rome 1961), Công ước liên quan đến việc
phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (Công ước vệ tinh, ký tại Brussels
năm 1974).
Những điều ước quốc tế cơ bản nói trên đều là những điều ước mà Việt Nam đã tham
gia. Việc xem xét những nội dung chủ yếu nhất của chúng không chỉ cung cấp những nhận
thức về vấn đề bảo hộ quyền liên quan về vấn đề bản quyền truyền hình trên phạm vi toàn
cầu mà còn tạo cơ sở để so sánh, đánh giá mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam về
quyền liên quan so với sự bảo hộ các quyền này trên thế giới hiện nay.
1.2.1.1.

Công ước Rome 1961

Công ước bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng được
kí kết ngày 26-10-1961 tại Rome, vì vậy còn được gọi là Công ước Rome. Công ước mở cho
tất cả các quốc gia thành viên của Công ước Berne hoặc Công ước quyền tác giả toàn cầu
(UCC). Văn kiện phê chuẩn, chấp thuận hoặc gia nhập phải được gửi tới Tổng thư ký Liên
hiệp quốc. Các nước tham gia có thể đưa ra bảo lưu về việc áp dụng một số quy định cụ thể
tại Công ước. Công ước gồm 34 điều với các quy định bảo hộ tại các quốc gia thành viên, đối
với các cuộc biểu diễn của ngươi biểu diễn, các bản ghi âm của các nhà sản xuất bản ghi âm
và các chương trình phát sóng của các tổ chức phát sóng.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

8


SVTH: Trương Bảo Trân


Về tính chất, Công ước Rome được coi là một công ước “đóng” do sự ràng buộc với
các công ước về quyền tác giả: để trở thành thành viên công ước, một quốc gia không những
phải là thành viên Liên hiệp quốc, mà còn phải là thành viên của Công ước Berne hoặc là
thành viên của Công ước toàn cầu về quyền tác giả (Điều 24). Công ước Rome quy định
nguyên tắc đối xử quốc gia (Điều 2), đồng thời xác định cụ thể những tiêu chuẩn để được
hưởng sự bảo hộ của công ước cho từng loại chủ thể quyền liên quan mà chủ yếu là tiêu chuẩn
quốc tịch và tiêu chuẩn lãnh thổ, nơi thu ghi, lưu định hoặc nơi công bố…
Nội dung quan trọng của công ước là đặt ra những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu cho các
chủ thể quyền liên quan. Sự bảo hộ tối thiểu mà Công ước đảm bảo cho người biểu diễn được
quy định bằng “khả năng ngăn cấm những hành vi nhất định” được thực hiện mà không có sự
đồng ý của người biểu diễn, bao gồm: phát sóng hoặc truyền tới công chúng một buổi biểu
diễn “trực tiếp”; ghi lại buổi biểu diễn chưa được ghi thu, lưu định; tái tạo, nhân bản một bản
ghi thu, lưu định của buổi biểu diễn, trừ khi bản gốc được thực hiện mà không có sự đồng ý
của người biểu diễn hoặc việc tái tạo, nhân bản được thực hiện vì những mục đích mà Công
ước hoặc người biểu diễn không cho phép (Điều 7). Đối với nhà sản xuất bản ghi âm, Công
ước bảo đảm cho họ quyền cho phép hoặc ngăn cấm việc tái tạo, nhân bản trực tiếp hoặc gián
tiếp các bản ghi âm của họ (Điều 10); Công ước không quy định về quyền cho phép biểu diễn
các bản ghi âm và không dứt khoát ngăn cấm việc phân phối hoặc nhập khẩu những bản sao
ghi âm trái phép. Với tổ chức phát sóng, Công ước quy định họ có quyền cho phép hoặc ngăn
cấm: phát sóng lại đồng thời các buổi phát sóng của họ; thu ghi, lưu định các buổi phát sóng
của họ; tái tạo, nhân bản những bản ghi các buổi phát sóng mà chưa được cho phép hoặc tái
tạo, nhân bản những bản thu ghi, lưu định hợp pháp cho những mục đích bất hợp pháp, và
truyền tới công chúng các buổi phát sóng truyền hình thông qua những trạm thu mà công
chúng không phải trả tiền khi tiếp nhận; tuy nhiên, quyền truyền đạt trên không mở rộng cho
các buổi phát sóng thu âm, và Công ước không bảo hộ chống lại việc phân phối các buổi phát
sóng bằng cáp.
Bên cạnh những yêu cầu tối thiểu cho việc bảo hộ, Công ước Rome cũng quy định cho

phép luật pháp quốc gia điều chỉnh một số khía cạnh bảo hộ theo sự lựa chọn của họ. Công
ước Rome cho phép một số hạn chế nhất định về các quyền được cấp. Bất kỳ quốc gia thành
viên nào cũng có thể quy định những ngoại lệ đối với việc sử dụng cá nhân, sử dụng những
trích dẫn ngắn nhằm ghi lại sự kiện thời sự, bản thu ghi, lưu định tạm thời của một tổ chức
phát sóng được thực hiện bằng các phương tiện của họ và phục vụ cho các buổi phát sóng của
họ, và cho tất cả các hình thức sử dụng chỉ nhằm mục đích giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa
học (Điều 15).
Một điểm quan trọng của Công ước là quy định về thời hạn bảo hộ tối thiểu, đó là một
giai đoạn 20 năm tính từ khi kết thúc năm mà bản ghi thu, lưu định được thực hiện, đối với
cả bản ghi âm và đối với buổi biểu diễn được thu ghi trong đó, hay, tính từ năm kết thúc năm
GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

9

SVTH: Trương Bảo Trân


mà buổi biểu diễn diễn ra, đối với những buổi biểu diễn không được thu ghi trong các bản ghi
âm, hay tính từ khi kết thúc năm mà buổi phát sóng diễn ra, đối với các buổi phát sóng (Điều
14).
Công ước Rome có hiệu lực tại Việt Nam ngày 01-3-2009.
1.2.1.2.

Công ước Brussels 1974

Công ước liên quan đến việc phát các tín hiệu mang chương trình truyền hình qua vệ
tinh được làm tại Brussels ngày 21-5-1974, vì vậy còn được gọi là Công ước Brussels. Ngoài
phần mở đầu, Công ước Brussels có 12 điều, Công ước quy định nghĩa vụ của các quốc gia
thành viên phải thực hiện các biện pháp thích đáng để ngăn chặn việc phân phối không được
phép trên lãnh thổ của nước mình các tín hiệu mang chương trình được truyền qua vệ tinh.

Việc phân phối sẽ là bất hợp pháp khi không được tổ chức phát sóng giữ vai trò quyết định
chương trình phát sóng cấp phép. Nghĩa vụ xin phép là bắt buộc của tổ chức mang quốc tịch
của các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, các quy định của công ước không áp dụng đối với
việc phân phối các tín hiệu được thực hiện từ vệ tinh phát sóng trực tiếp.
Công ước mở rộng phạm vi bảo hộ các tổ chức phát sóng bằng cách không giới hạn
phạm vi phát sóng theo định nghĩa khái niệm này trong Công ước Rome và cung cấp sự bảo
hộ đối với cả tín hiệu nguồn được phân phối bằng dây cáp. Một điểm cần lưu ý là, Công ước
Brussels không bảo hộ chương trình đã được truyền phát, mà đối tượng bảo hộ là các tín hiệu
được truyền bởi trạm nguồn. Vấn đề thời hạn được Công ước trao cho luật pháp quốc gia ấn
định.
Công ước Brussels có hiệu lực tại Việt Nam ngày 12-01-20066.
1.2.2. Pháp luật của một số quốc gia khác
Trong phạm vi đề tài cũng như thời gian có hạn không cho phép tìm hiểu pháp luật của
nhiều quốc gia riêng lẻ, cho nên tác giả chỉ nghiên cứu Luật Bản quyền Thụy Sĩ hay chính
xác hơn là “Đạo luật Liên bang về quyền tác giả, quyền liên quan” của Liên bang Thụy Sĩ là
một đạo luật chuyên ngành về quyền tác giả, quyền liên quan. Thụy Sĩ trong những năm gần
đây đã có rất nhiều sự giúp đỡ đối với Việt Nam trong việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật về sở hữu trí tuệ nói chung và về quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng. Qua đó Việt
Nam học hỏi được nhiều điều và trong các quy định của pháp luật Việt Nam có nhiều điểm
tương đồng. Hệ thống pháp luật của Thụy Sĩ còn được biết tới là một trong những hệ thống
pháp luật điển hình của hệ thống pháp luật Civil Law.
Tại phần 3 quy định về “Quyền liên quan”, với 6 điều từ Điều 33 đến Điều 39. Trong
đó quy định về quyền của các chủ thể là người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm,

6

Công ước Rome năm 1961.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền


10

SVTH: Trương Bảo Trân


ghi hình và quyền của tổ chức phát sóng. Quy định về chuyển giao, thực thi, các giới hạn và
ngoại lệ, thời hạn bảo hộ, biện pháp bảo hộ quyền liên quan.
Đối với quy định về quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn liên liên quan
tới việc phát sóng chương trình của họ được quy định tại khoản 2 điều 32, điều 35 là các
quyền như:
- Trực tiếp hoặc thông qua bất kỳ phương tiện nào tại bất kỳ nơi nào, thu nhận mà
người khác có thể truy cập tại bất kỳ thời gian và địa điểm nào mà họ lựa chọn;
- Phát sóng bằng sóng phát thanh, truyền hình hoặc phương tiên tương tự kể cả mạng
máy tính, cũng như tái phát sóng cuộc biểu diễn đã phát sóng với sự hỗ trợ của thiết bị kỹ
thuật không do tổ chức phát sóng gốc vận hành;
- Định hình cuộc biểu diễn dưới hình thức bản ghi âm, ghi hình hoặc thiết bị lưu trữ
dữ liệu và sao chép các bản ghi đó;
- Thu nhận khi cuộc biểu diễn được phát sóng hoặc tái phát sóng hoặc truy cập.
Đối với các tổ chức phát sóng được pháp luật bảo hộ với các độc quyền như: tái phát
sóng chương trình phát sóng của mình; thu nhận chương trình phát sóng của mình; định hình
dưới dạng bản ghi âm, ghi hình hoặc thiết bị lưu trữ dữ liệu chương trình phát sóng của mình
và sao chép các bản ghi âm đó; chào hàng, bán hoặc phân phối khác đối với bản sao tác phẩm;
cho phép người khác truy cập vào chương trình phát sóng bằng bất kỳ phương tiện nào và vào
bất kỳ thời gian và địa điểm mà người đó lựa chọn.
Thời hạn bảo hộ quyền liên quan theo Luật bản quyền Thụy Sĩ quy định là 50 năm kể
từ khi cuộc biểu diễn tác phẩm do người biểu diễn thực hiện, bản ghi âm, ghi hình được sản
xuất hoặc truyền phát sóng. Thời hạn bảo hộ tính từ ngày 31 tháng 12 của năm mà sự kiện kể
trên xảy ra. Như vậy, nhìn về tổng quan thì pháp luật Việt Nam và Thụy Sĩ có nhiều điểm
chung và hiện nay Việt Nam với Thụy Sĩ đang có những hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
thông qua các Hiệp định hợp tác song phương trong vấn đề này.

1.3. Lịch sử phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền
truyền hình
1.3.1. Trên thế giới
Đồng thời với hệ thống pháp luật quốc gia đã được định hình, Hiệp định song phương
về thiết lập quan hệ quyền tác giả và quyền liên quan, Hiệp định thương mại giữa Việt Nam
và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ giữa Việt Nam và Liên
bang Thụy Sĩ cũng đang có hiệu lực thi hành.
Cùng với các điều ước quốc tế song phương trên, Việt Nam đã là thành viên của 5 điều
ước quốc tế đa phương gồm công ước Berne (1971) về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

11

SVTH: Trương Bảo Trân


và khoa học; công ước Rome (1961) bảo hộ người biểu diễn, nhà xuất bản ghi âm, tổ chức
phát sóng; công ước Brussel (1974) bảo hộ tính hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa;
công ước Geneve ( 1971) bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép bất hợp
pháp; Hiệp định Trips (1994) về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Các
công ước song phương và đa phương trên đã trở thành một bộ phận của pháp luật quốc gia về
quyền tác giả và quyền liên quan, trong đó nhưng quy định điều chỉnh về bản quyền truyền
hình cũng được điều chỉnh thông qua một số các điều luật chứa trong các văn bản trên.
1.3.2. Ở Việt Nam
Tại Việt Nam tư tưởng về quyền tự do sáng tạo nghệ thuật, khoa học đã được thể hiện
trong các văn bản pháp luật từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 1992. Tư tưởng này được tiếp
tục ghi nhận và đồng thời khẳng định việc Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền tác giả, điều 60
Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh,
sáng kiến, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lí hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ

thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp.”7 Văn bản pháp lì đầu tiên điều chỉnh quyền tác giả là Nghị định 142/CP ngày
14-11-1946.
Nghị định 142/CP không còn phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước. Vì vậy ngay
từ năm 1990 Bộ văn hóa thông tin nay là Bộ Văn hóa- Thể thao- Du lịch đã được giao soạn
thảo Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả để thay thế. Đến năm 1994 chúng ta đã hoàn thành xong
việc soạn thảo Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả và sau đó được Uỷ ban thường vụ Quốc hội
thông qua ngày 02-12-1994. Pháp lệnh gồm 7 chương 47 điều quy định khá chi tiết và phù
hợp với thông lệ quốc tế.
Pháp lệnh trên thi hành chưa được một năm thì năm 1995 Bộ luật dân sự được ban
hành, trong đó có dành riêng phần VI quy định về quyền sở hữu trí tuệ trong đó có quyền tác
giả và quyền liên quan. Tại Bộ luật dân sự năm 1995, các quy định về quyền tác giả, quyền
liên quan được tập trung tại phần VI “Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ”, chương
1 “Quyền tác giả”, Mục 4 “Quyền, nghĩa vụ của ngườ biểu diễn, của tổ chức sản xuất băng
âm thanh, đãi âm thanh, băng hình, đĩa hình, tổ chức phát thanh, truyền hình”. Nhìn chung,
các quy định này bao quát khá toàn diện các vấn đề, từ định nghĩa tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả, người biểu diễn, tổ chức sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát thanh truyền hình
tới quyền và nghĩa vụ của họ, địa vị pháp lí của họ.
Để hướng dẫn thi hành các quy định về quyền tác giả, quyền liên quan tại Bộ luật dân
sự, nhiều văn bản dưới luật đã được ban hành.

7

Quốc hội (1992), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

12

SVTH: Trương Bảo Trân



Cùng với nhu cầu cấp bách phải có một hành lang pháp lí về bảo hộ sở hữu trí tuệ đáp
ứng được các quy tắc chung của thế giới, đủ điều kiện gia nhập WTO của Việt Nam, Bộ
Khoa học và Công nghệ đã được Chính phủ giao chủ trì xây dựng Luật sở hữu trí tuệ. Trong
một thời gian rất ngắn, từ ngày 27-12-2004 thành lập Ban soạn thảo liên ngành đến ngay 0702-2005 thì bản Dự thảo luật sở hữu trí tuệ (lần 2) đã được hoàn chỉnh để gửi xin ý kiến. Dự
thảo điều chỉnh toàn diện quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền
đối với giống cây trồng mới.
Tại kỳ họp Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10, ngày 29-11-2005 luật Sở hữu trí tuệ (Luật
số 50/2005/QH10) với 222 điều đã được Quốc hội thông qua với số phiếu gần như tuyệt đối
(368/370) và có hiệu lực từ ngày 01-7-2006. Ngay sau khi Luật sở hữu trí tuệ 2005 ra đời và
đi vào thực tiễn điều chỉnh các quan hệ có liên quan trong xã hội, Chính phủ, các Bộ và Cơ
quan có liên quan đã ban hành các văn bản hướng dẫn về việc thực hiện các quy định của
Luật sở hữu trí tuệ 2005.
Trải qua hơn 3 năm kể từ ngày có hiệu lực, có một số quy định trong Luật sở hữu trí
tuệ 2005 không còn phụ hợp với thực tế. Chính các quy định đó gây cản trở cho hoạt động
của các chủ thể liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có quyền liên quan. Vì vậy, việc
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ 2005 là cần thiết. Do đó, ngày 19-6-2009
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ 2005 đã được Quốc hội thông qua
và có hiệu lực kể từ ngày 01-01-2010.
Về bản quyền truyền hình nói riêng, các quy định chung về quyền liên quan trong Luật
sở hữu trí tuệ đã điều chỉnh vấn đề này và nhiều văn bản dưới luật điều chỉnh cụ thể hơn (ví
dụ: Nghị định 131/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền
liên quan, Thông tư 15/2010/TT-BTTTT-BNV Quy định về điều kiện phát sóng quảng bá
trực tiếp các kênh chương trình truyền hình địa phương trên vệ tinh, Thông tư 19/2009/BTTT
quy định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình…),
ngoài ra cũng có khá nhiều văn bản chuyên ngành khác điều chỉnh một số vấn đề liên quan.
Cụ thể là Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản văn hóa, Luật Điện ảnh, Pháp lệnh Quảng
cáo cũng có một số điều khoản quy định về quyền tác giả và quyền liên quan. Luật Hải quan
quy định các biện pháp bảo hộ tại biên giới đối với hàng hóa xuất nhập khẩu liên quan đến sở

hữu trí tuệ.
Hệ thống các chế tài về hành chính, dân sự và hình sự đã được hình thành, đảm bảo
cho các quy định pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan thi hành dưới bộ máy cưỡng
chế của Nhà nước. tại Bộ luật hình sự sửa đổi tháng 6 năm 2009 có quy định mức phạt tối đa
là 200 triệu đồng và 3 năm tù giam đối với các hành vi thuộc tội phạm quyền tác giả. Pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2008 đã quy định mức phạt tối đa là 500 triệu đồng đối
với hành vi xâm hại quyền tác giả, quyền liên quan.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

13

SVTH: Trương Bảo Trân


1.4. Sự cần thiết quy định pháp luật về bảo hộ quyền liên quan đến bản quyền truyền
hình
Thực chất thì chúng ta có thể nói rằng bảo hộ quyền liên quan đến bản quyền truyền
hình là điều cần thiết để đảm bảo sự sáng tạo và truyền bá văn hóa- nghệ thuật trong xã hội.
Nhưng nếu việc bảo hộ bản quyền trong vấn đề này là quan trọng trong việc đạt được những
thành quả văn hóa thì đương nhiên việc ăn cắp những sản phẩm được bảo hộ - tức là việc sao
chép trái phép các sản phẩm văn hóa- nghệ thuật ấy với mục đích thương mại là mối nguy hại
cho lĩnh vực truyền hình và các lĩnh vực khác trong xã hội chúng ta. Nhiều tổ chức quốc tế
như Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) và thậm chí cả Tổ chức
Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đều thừa nhận mối liên hệ
này. Thực ra, nếu chúng ta truy cập trang web của UNESCO8 thì chúng ta sẽ thấy cả một phần
được dành cho vấn đề bản quyền và một danh sách các chương trình và ấn phẩm giải thích rõ
hơn cho chúng ta về lợi ích của bản quyền đối với những chính sách văn hóa, khoa học, giáo
dục và giúp ta có những phương thức chống lại nạn ăn cắp bản quyền.
Trên thực tế, bản quyền các chương trình truyền hình ngày càng được quan tâm không

chỉ bởi các yếu tố về giá trị văn hóa, nghệ thuật mà quan trọng nữa là giá trị thương mại của
các chương trình truyền hình. Việc quản lý thực hiện và bảo vệ các chủ thể bản quyền các
chương trình truyền hình gặp nhiều khó khăn, khó khăn về cơ sở pháp lý, khó khăn về sự phát
triển mạnh mẽ của các dịch vụ truyền thông, dịch vụ đa phương tiện, các kênh truyền hình.
Việc sử dụng các công nghệ cao trong lĩnh vực truyền hình càng tạo ra những điều kiện cho
việc khai thác trái phép bản quyền các chương trình truyền hình. Vấn đề bản quyền không chỉ
là tôn trọng về việc bảo đảm truyền dẫn nội dung đúng quy định mà còn là sự bảo đảm về
thời lượng, tần suất sử dụng các chương trình. Việc bảo đảm thực hiện bản quyền truyền hình
được thể hiện ở nhiều khía cạnh của vấn đề: tôn trọng nội dung, kết cấu chương trình; vấn đề
tiếp và phát sóng đối với các chương trình không do đơn vị mình sản xuất. Để đảm bảo được
những vấn đề nêu trên, ngoài cần những tổ chức sản xuất chương trình truyền hình quy định
điều lệ chặt chẽ thì hành lang pháp lí về vấn đề này cũng cần xây dựng phù hợp và khả thi
hơn.
Việc đăng ký quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình của tổ chức sản xuất và
phát sóng mặc dù không ảnh hưởng tới việc nó hiển nhiên được bảo hộ. Tuy nhiên, khi đăng
ký bản quyền tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Cục Sở Hữu Trí Tuệ) cũng mang lại
nhiều lợi ích cho tổ chức, cá nhân đang nắm giữ quyền sở hữu đối vớ bản quyền truyền hình.
Ngoài mục đích để các cơ quan quản lí nhà nước nắm được tình hình để dễ dàng trong công
tác quản lí thì việc đăng ký còn có các lợi ích như:

8



GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

14

SVTH: Trương Bảo Trân



Thứ nhất, trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, Giấy chứng nhận đăng ký này là
bằng chứng tốt nhất chứng minh quyền sở hữu đối với tác phẩm.
Thứ hai, giấy chứng nhận đăng ký bản quyền cũng là một loại giấy tờ chứng minh
quyền sở hữu tác phẩm được sử dụng khi định giá tài sản của công ty trong trường hợp cổ
phần hóa, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
Cuối cùng, việc đăng ký còn giúp cho chủ sở hữu tiến hành một số thủ tục hành chính
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ví dụ trong trường hợp chủ sở hữu muốn xin Giấy phép
phát hành một chương trình gameshow thì một trong những giấy tờ cần thiết đó là phải có
Giấy chứng nhận đăng ký bản quyền đối với gameshow đó.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

15

SVTH: Trương Bảo Trân


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN LIÊN QUAN
ĐỐI VỚI BẢN QUYỀN TRUYỀN HÌNH
2.1. Căn cứ phát sinh và điều kiện bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền truyền
hình
2.1.1. Căn cứ phát sinh quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình
Bản quyền là những quyền hợp pháp được cấp cho người sáng tác hoặc chủ sở hữu
một tác phẩm viết hoặc tác phẩm nghệ thuật. Những quyền này được chia thành quyền về
kinh tế (có thể chuyển cho người khác) và quyền về nhân thân (không được phép chuyển
nhượng). Những quyền liên quan được cấp cho người biểu diễn và nhà sản xuất tạo ra các
bản sao tác phẩm, nên về bản chất, đó là quyền về kinh tế. Những quyền này không phụ thuộc
vào bản quyền tác phẩm đã được trình diễn hoặc ghi lại.

Theo quy định tại khoản 2 điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì “Quyền liên quan phát
sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hoá được định hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại
đến quyền tác giả”, tức là kể từ khi tác phẩm được định hình hoặc được thực hiện thì quyền
được pháp luật bảo hộ sẽ tự động phát sinh mà không cần phải đăng ký. Cũng theo Điều 44
của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Việt Nam thực hiện bảo hộ cho chủ sở hữu chương trình biểu
diễn. Đó là những người hoặc tổ chức đứng ra tổ chức và tài trợ cho chương trình biểu diễn
trong thời gian của riêng họ. Điều này đồng nghĩa là khi chương trình truyền hình đã được
bắt đầu thực hiện hoặc đã định hình thì hiển nhiên được pháp luật bảo hộ mà không cần phải
có những thủ tục đăng kí bắt buộc hoặc phải công bố.
Cụ thể, quyền liên quan đối với bản ghi âm, ghi hình chỉ được xác định cho người tạo
ra bản ghi âm, ghi hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh,
hình ảnh khác phục vụ cho các chương trình truyền hình của họ; quyền liên quan đối với tổ
chức phát sóng chỉ được xác định cho tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng. Theo
đó, một tổ chức phát sóng đã đầu tư tài chính và các điều kiện cần thiết để làm một chương
trình truyền hình, hoặc đã mua bản quyền phát sóng trực tiếp một sự kiện văn hoá nào đó...
thì việc phát sóng các chương trình đó của họ được xác định là thoả mãn điều kiện về tính
nguyên gốc của đối tượng quyền liên quan và được bảo hộ kể từ thời điểm đó, vậy nếu tổ
chức phát sóng nào khác tiến hành tiếp sóng, phát sóng đồng thời, hoặc phát lại các chương
trình này thì việc phát sóng của tổ chức thứ hai này là không có tính nguyên gốc và cũng như
trường hợp trên,có thể bị xác định là hành vi xâm phạm quyền liên quan theo pháp luật sở
hữu trí tuệ.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

16

SVTH: Trương Bảo Trân



2.1.2. Điều kiện bảo hộ quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình
Bản quyền là hình thức bảo vệ hợp pháp, cung cấp cho những người sáng tạo và sản
xuất nội dung các quyền độc quyền để kiểm soát việc sử dụng nhất định đối với nội dung đó.
Ví dụ về các loại nội dung được bảo vệ bởi bản quyền bao gồm nhạc, tác phẩm nghệ thuật,
video, trò chơi video, sách và phim. Bảo vệ bản quyền nghĩa là chủ bản quyền có thể kiểm
soát việc sử dụng nhất định đối với tác phẩm của họ. Quan trọng nhất là việc bảo vệ này cung
cấp cho chủ bản quyền quyền kiểm soát việc sao chép nội dung của họ, điều chỉnh và truyền
tải nội dung đó.
Xét về những chủ thể liên quan đến bản quyền truyền hình được bảo hộ theo khía cạnh
quyền liên quan, thì những đối tượng này cũng thuộc nhóm các đối tượng quyền liên quan
được bảo hộ, cho nên điều kiện bảo hộ cũng có sự tương đồng. Các điều kiện bảo hộ của các
đối tượng liên quan đến bản quyền truyền hình như sau:
Thứ nhất, các tổ chức, cá nhân được bảo hộ:
“1. Diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác phẩm văn
học, nghệ thuật (sau đây gọi chung là người biểu diễn).
2. Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu cuộc biểu diễn quy định tại khoản 1 Điều 44 của
Luật này.
3. Tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc
các âm thanh, hình ảnh khác (sau đây gọi là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình).
4. Tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng (sau đây gọi là tổ chức phát sóng).”9
Thứ hai, các đối tượng được bảo hộ10:
-

Cuộc biểu diễn:

“1. Cuộc biểu diễn được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc nước ngoài;
b) Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam;
c) Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo quy định
tại Điều 30 của Luật này;

d) Cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà đã phát sóng
được bảo hộ theo quy định tại Điều 31 của Luật này;
9

Điều 16 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 Sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Đối với người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình thì đối tượng được bảo hộ trong phạm vi trong bài nghiên
cứu chỉ là gồm các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình được định hình hoặc thực hiện cho việc phát sóng trên chương
10

trình truyền hình.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

17

SVTH: Trương Bảo Trân


đ) Cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên.”11
Nghị định 100/2006/NĐ-CP cũng không giải thích thế nào là cuộc biểu diễn. Như vậy
pháp luật Việt Nam không quy định theo hướng định nghĩa “cuộc biểu diễn” mà chỉ liệt kê
các loại cuộc biểu diễn thuộc phạm vi bảo hộ của pháp luật về quyền liên quan. Theo quy
định tại Điều 16 Luật sở hữu trí tuệ thì biểu diễn có thể được hiểu ngắn gọn là sự “trình bày
tác phẩm văn học nghệ thuật”.
Nhìn chung, cuộc biểu diễn được bảo hộ với tư cách đối tượng quyền liên quan thường
được hiểu bao gồm: biểu diễn kịch (kể cả vũ kịch hay kịch câm); biểu diễn âm nhạc; đọc,
ngâm, trình bày một cách biểu cảm tác phẩm văn học; và những hành vi biểu diễn tương tự.
Như vậy, quyền liên quan được xem là đã phát sinh khi có sự trình diễn kịch, có thể là trực

tiếp trước khán giả hoặc trước máy quay, hay một màn biểu diễn balê; quyền liên quan cũng
phát sinh đối với những màn biểu diễn được xác định là mang tính âm nhạc, như việc trình
bày một bản nhạc cổ điển, hay phần biểu diễn một bản nhạc pop của một ban nhạc12 …
Quy định tại khoản 1 Điều 17 như trên cho thấy phạm vi các cuộc biểu diễn được bảo
hộ bởi pháp luật về quyền liên quan của Việt Nam là tương đối rộng, và xác định trên ba tiêu
chí cơ bản: quốc tịch của chủ thể; nơi thực hiện hành vi; và theo điều ước quốc tế. Nội dung
của điều khoản này cũng mang tính tương đồng với các quy định về cùng vấn đề của nhiều
nước cũng như thể hiện tinh thần tôn trọng các điều ước quốc tế mà chúng ta tham gia.
- Bản ghi âm, ghi hình:
“2. Bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quốc tịch Việt Nam;
b) Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang
chương trình được mã hoá chỉ được bảo hộ theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này
với điều kiện không gây phương hại đến quyền tác giả.”13
Khái niệm bản ghi âm, ghi hình trong pháp luật Việt Nam được đề cập đến trong Nghị
định 100/2006/NĐ-CP tại khoản 6 Điều 4: “Bản ghi âm, ghi hình là bản định hình các âm
thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác hoặc việc định hình sự
tái hiện lại các âm thanh, hình ảnh không phải dưới hình thức định hình gắn với tác phẩm điện

11

Khoản 1 Điều 17 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 Sửa đổi, bổ sung năm 2009.

12

L. Bently và B. Sherman, Luật Sở hữu trí tuệ (ấn bản thứ hai), trang 291.

13


Khoàn 2 Điều 17 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 Sửa đổi, bổ sung năm 2009

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

18

SVTH: Trương Bảo Trân


ảnh hoặc tác phẩm nghe nhìn khác”. Thuật ngữ “định hình” cũng được giải thích tại Nghị
định này là “sự thể hiện bằng chữ viết, các ký tự khác, đường nét, hình khối, bố cục, màu sắc,
âm thanh, hình ảnh hoặc sự tái hiện âm thanh, hình ảnh dưới dạng vật chất nhất định để từ đó
có thể nhận biết, sao chép hoặc truyền đạt”14. Tại Việt Nam, phạm vi bảo hộ của quyền liên
quan bao hàm cả bản ghi âm cũng như bản ghi hình, trong khi đó, trên thế giới, sự bảo hộ với
tư cách đối tượng quyền liên quan không dành cho bản ghi hình mà chỉ có bản ghi âm. Tại
nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, ngành công nghiệp điện ảnh đã trở thành một
ngành kinh doanh mang lại lợi nhuận khổng lồ nhưng đồng thời cũng là một lĩnh vực đặc biệt
phức tạp, bởi vậy các nước này đã ban hành các đạo luật riêng điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực điện ảnh mà trong đó tất yếu đã bao hàm cả vấn đề bản ghi hình các
tác phẩm nghệ thuật thứ bảy này. Tại Việt Nam, mặc dù đã có Luật Điện ảnh (thông qua ngày
29/6/2006, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007), nhưng đây là một đạo luật mới, ra đời sau Luật
sở hữu trí tuệ 2005 - luật này không cung cấp sự bảo hộ cho bản ghi hình tác phẩm điện ảnh
dưới góc độ một đối tượng quyền sở hữu trí tuệ mà cụ thể là đối tượng quyền liên quan. Do
vậy, việc bảo hộ bản ghi hình cùng với bản ghi âm bằng các quy định của pháp luật quyền
liên quan là cần thiết trong hoàn cảnh hiện nay của nước ta.
Một lưu ý là khi xem xét các điều kiện bảo hộ bản ghi âm, ghi hình (khoản 2 Điều 17)
trong sự so sánh với điều kiện bảo hộ đối với cuộc biểu diễn (khoản 1 Điều 17), ta thấy nhà
làm luật chỉ quy định hai tiêu chí là theo quốc tịch chủ thể và theo điều ước quốc tế, mà không
quy định tiêu chí nơi thực hiện hành vi (định hình) như một tiêu chí xác định điều kiện bảo

hộ cho đối tượng này. Trên thực tế có thể tồn tại trường hợp bản ghi âm, ghi hình được thực
hiện bởi nhà sản xuất mang quốc tịch nước ngoài và không thuộc phạm vi được bảo hộ theo
điều ước quốc tế Việt Nam tham gia, song việc định hình chúng được thực hiện tại Việt Nam
- những bản ghi này cũng nên được xem xét bảo hộ bởi pháp luật quyền liên quan Việt Nam.
- Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa:
“3. Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá được
bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá của tổ
chức phát sóng có quốc tịch Việt Nam;
b) Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá của tổ
chức phát sóng được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên.”15

Khoản 5 Điều 4 Nghị định 100/2006/NĐ-CP về quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật sở
hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.
14

15

Khoản 3 Điều 17 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 Sửa đổi, bổ sung năm 2009.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

19

SVTH: Trương Bảo Trân


Pháp luật Việt Nam cũng làm rõ loại đối tượng quyền liên quan này qua một số sự giải
thích. Theo quy định tại khoản 11 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005, “phát sóng là việc truyền

âm thanh hoặc hình ảnh của tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng đến công chúng bằng phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến, bao gồm cả việc truyền
qua vệ tinh để công chúng có thể tiếp nhận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa
chọn”. Khoản 10 Điều 4 Nghị định 100/2006/NĐ-CP giải thích về tín hiệu vệ tinh mang
chương trình mã hóa, đó là “tín hiệu mang chương trình được truyền qua vệ tinh dưới dạng
mà trong đó các đặc tính âm thanh hoặc các đặc tính hình ảnh hoặc cả hai đặc tính đó đã
được thay đổi nhằm mục đích ngăn cản việc thu trái phép chương trình”. Những giải thích
được đưa ra là khá rõ ràng, cho phép nắm bắt được thế nào là chương trình phát sóng, tín hiệu
vệ tinh mang chương trình được mã hóa thuộc đối tượng quyền liên quan mà pháp luật Việt
Nam bảo hộ.
Việc phát sóng theo quy định của pháp luật Việt Nam có thể được thực hiện bằng cả
phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến16. Trong khi đó, nhìn chung các quan điểm trên thế giới
đều chỉ xét tới việc phát sóng bằng phương tiện vô tuyến. WIPO giải thích, “phát sóng thường
được hiểu là hình thức truyền âm thanh và/hoặc hình ảnh bằng sóng radio tới công chúng.
Một chương trình phát sóng là bất kỳ chương trình nào được truyền bằng hình thức phát
sóng, hay nói cách khác truyền qua các phương tiện vô tuyến (kể cả truyền tín hiệu vệ tinh…)
để công chúng thu nhận âm thanh và hình ảnh”17. Công ước Rome cũng quy định tại Điều 3:
"Phát sóng được hiểu là việc truyền bằng phương tiện vô tuyến các âm thanh hoặc các hình
ảnh và âm thanh để công chúng thu”. Các hình thức phát sóng bằng phương tiện hữu tuyến
(thường được hiểu là thông qua mạng lưới cáp) không được đề cập tới như một đối tượng bảo
hộ của quyền liên quan. Tuy nhiên, sự bảo hộ quốc tế đối với phát sóng thực hiện bằng các
phương tiện hữu tuyến đã được đề cập đến trong Công ước liên quan đến việc phân phối các
tín hiệu chương trình truyền qua vệ tinh (ký tại Brussels năm 1974), thông qua việc mở rộng
phạm vi bảo hộ cho tổ chức phát sóng bằng cách ngăn chặn việc phân phối bất hợp pháp các
tín hiệu nguồn được truyền bằng dây cáp. Mặc dù vậy, Công ước Brussels không chính thức
trao quyền mới cho các tổ chức phát sóng, mà đưa ra yêu cầu đối với các quốc gia thành viên
về việc thực hiện các biện pháp thỏa đáng nhằm ngăn chặn sự phân phối bất hợp pháp này.
Như vậy, mặc dù đã được bảo hộ trên phạm vi quốc tế nhưng các chương trình được phát
sóng bằng phương tiện hữu tuyến vẫn chưa thể chính thức được coi là thuộc đối tượng bảo hộ
của quyền liên quan.

Ngoài điều nói trên, pháp luật Việt Nam cũng chính thức trao sự bảo hộ với tư cách
đối tượng quyền liên quan cho “tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa” trong khi

16

Theo định nghĩa “phát sóng” tại khoản 11 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ.

17

WIPO, Cẩm nang sở hữu trí tuệ: Chính sách, Pháp luật và Áp dụng, trang 49.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

20

SVTH: Trương Bảo Trân


các điều ước quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia về quyền liên quan không thể hiện quan
điểm này. Trong một điều ước mang tính chất nền tảng trong lĩnh vực quyền liên quan như
Công ước Rome cũng không có bất cứ sự đề cập nào tới đối tượng này. Công ước Brussels
1974 mặc dù xác định đối tượng bảo hộ của mình là các tín hiệu được truyền bởi trạm nguồn
tới hoặc qua vệ tinh, nhưng không thể hiện quan điểm coi tín hiệu vệ tinh mang chương trình
được mã hóa thuộc đối tượng bảo hộ của quyền liên quan. Đối với các quyền liên quan đến
chương trình, Công ước chỉ quy định đơn giản rằng công ước không hạn chế hay làm phương
hại tới việc bảo hộ dành cho tác giả, người biểu diễn, các nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ
chức phát sóng theo bất kỳ luật quốc gia hoặc điều ước quốc tế nào18.
Như vậy, thông thường trên thế giới, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa
không được coi là đối tượng quyền liên quan mà chỉ là một phương tiện chứa đựng trong nó
“chương trình” - đối tượng bảo hộ của quyền tác giả. Trong khi đó, pháp luật sở hữu trí tuệ

Việt Nam thể hiện rõ ràng quan điểm coi tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa là
một đối tượng được các quy định pháp luật về quyền liên quan bảo hộ.
Ngoài ra, theo Điều 6, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006, đã được sửa
đổi, bổ sung bằng Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 thì:
“1. Việc xác định đối tượng được bảo hộ được thực hiện bằng cách xem xét các tài
liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ phát sinh, xác lập quyền theo quy định tại Điều 6 của Luật
Sở hữu trí tuệ.
2. Đối với các loại quyền sở hữu trí tuệ đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền,
đối tượng được bảo hộ được xác định theo giấy chứng nhận đăng ký, văn bằng bảo hộ và các
tài liệu kèm theo giấy chứng nhận đăng ký, văn bằng bảo hộ đó.
3. Đối với quyền tác giả, quyền của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi
âm, ghi hình, quyền của tổ chức phát sóng không đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì các
quyền này được xác định trên cơ sở bản gốc tác phẩm, bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn,
bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và các tài liệu liên quan (nếu có).”
Trong trường hợp bản gốc tác phẩm, bản định hình đầu tiên của cuộc biểu diễn, bản
ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và các tài liệu liên quan không còn tồn tại, quyền
tác giả, quyền của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của
tổ chức phát sóng được xem là có thực trên cơ sở các thông tin về tác giả, người biểu diễn,
nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng và về đối tượng quyền tác giả, quyền
liên quan tương ứng, được thể hiện thông thường trên các bản sao được công bố hợp pháp.
Cuối cùng, một số trường hợp ngoại lệ có thể trích dẫn hợp lí hoặc sử dụng mà không
phải xin phép các chủ thể sở hữu các quyền liên quan bản quyền truyền hình được áp dụng
18

Điều 6, Công ước Brussels 1974.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

21


SVTH: Trương Bảo Trân


tương tự như đối với quyền liên quan đến quyền tác giả theo Điều 32, 33 Luật sở hữu trí tuệ
năm 2009 sửa đổi bổ sung năm 2009.
2.2. Chủ thể quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình
Chủ thể của quyền liên quan đối với bản quyền truyền hình được hiểu là các cá nhân,
tổ chức có các quyền nhất định đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình được định hình
hoặc thực hiện cho việc sản xuất hay phát sóng chương trình truyền hình, chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Trên cơ sở nội dung Điều 16 cũng
như các quy định cụ thể khác về quyền liên quan, có thể thấy pháp luật Việt Nam phân biệt
chủ thể quyền liên quan thành ba loại cơ bản và các chủ thể của quyền liên quan đối với bản
quyền truyền hình cũng thuộc ba loại cơ bản như sau:
2.2.1. Người biểu diễn
Ban đầu, chỉ người biểu diễn tác phẩm âm nhạc mới được bảo hộ, và cũng không phải
với tư cách chủ thể quyền liên quan mà được coi như một loại tác giả đối với phần trình diễn
của mình và do đó chịu sự điều chỉnh bởi các quy định pháp luật về quyền tác giả. Tại Cộng
hòa liên bang Đức, nước đầu tiên trên thế giới quy định bảo hộ người biểu diễn, pháp luật coi
người biểu diễn một tác phẩm âm nhạc tương tự như tác giả cải biên, chuyển thể một tác phẩm
gốc19. Tuy nhiên, với đặc thù riêng của mình, những người biểu diễn đã tách khỏi bộ phận
pháp luật quyền tác giả. Hiện nay, phạm vi của khái niệm “người biểu diễn” đã được mở rộng
hơn rất nhiều. Công ước Rome 1961, tại điểm a điều 3 xác định: “Những người biểu diễn là
các diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và các người khác nhập vai, hát, đọc, ngâm, trình
bày, hoặc biểu diễn các tác phẩm văn học và nghệ thuật”. Sau đó, Hiệp ước WPPT và Hiệp
định TRIPS cũng quy định tương tự và bổ sung thêm những người thể hiện tác phẩm văn học
dân gian.
Pháp luật một số quốc gia còn có sự mở rộng nhất định so với các điều ước quốc tế
này. Tại Nhật Bản, người biểu diễn được quy định bao gồm diễn viên, vũ công, nhạc công,
ca sĩ và những người khác đóng góp vào buổi biểu diễn cũng như những người chỉ đạo hoặc
đạo diễn buổi biểu diễn20.

Trước đây, pháp luật Việt Nam cũng định nghĩa trực tiếp người biểu diễn với nội dung
tương tự. Cụ thể, điều 773 Bộ luật Dân sự 1995 quy định: “Người biểu diễn bao gồm các cá
nhân, tổ chức biểu diễn, người dàn dựng, đạo diễn chương trình ca, múa nhạc, chương trình
phát thanh - truyền hình, đạo diễn, diễn viên sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật
khác”. Tuy nhiên, hiện nay, Luật sở hữu trí tuệ 2005 không có quy định nào nêu ra khái niệm
người biểu diễn với tư cách chủ thể quyền liên quan, cũng không chỉ rõ người đạo diễn, dàn
19

Điều 22 Luật quyền tác giả Đức năm 1910.

20

Điều 1 Luật bản quyền Nhật Bản năm 1970.

GVHD: ThS.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

22

SVTH: Trương Bảo Trân


×