Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Ôn thi đại học môn lịch sử (tài liệu chuẩn) 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 56 trang )

Đề 1: Trình bày chơng trình
khai thác thuộc địa lần thứ hai
của Pháp ở Đông Dơng.
Bài làm
Sau CTTG lần thứ nhất Pháp bớc
ra khỏi cuộc chiến tranh với t cách
là ngời thắng cuộc nhng đồng thời
cũng là nớc bị tổn thất nặng nề: các
ngành sản xuất giảm sút, đồng
franc bị mất giá và nợ nớc ngoài
tăng, việc đầu t vào nớc Nga trớc đó
bị mất trắng, cuộc 12 khủng hoảng
thiếu trong các nớc t bản càng gây
nên khó khăn cho nền kinh tế.
Pháp trở thành con nợ lớn trớc hết
là nợ Mỹ (năm 1920 số nợ quốc gia
lên tới 300 tỉ franc). Để khắc phục
hậu quả nặng nề của cuộc chiến
tranh và để vực dậy nền kinh tế của
nớc Pháp đa Pháp trở thành nớc t
bản phát triển nh trớc đây, t bản
độc quyền Pháp vừa tăng cờng bóc
lột nhân dân lao động ở trong nớc
vừa đẩy mạnh khai thác thuộc địa.
Đông Dơng trong đó chủ yếu là
Việt Nam có khả năng tiềm tàng
(một mình gắn đến phân nửa của
cải vật chất cho chính quốc trong
thời gian chiến tranh) cung cấp
những sản phẩm đang đợc giá cao
trên thị trờng nh: lúa gạo, cao su,


quặng mỏ... đã trở thành miếng mồi
béo bở đối với t bản độc quyền
Pháp.
Nh đã nói ở trên, năm 1918 khi
CTTG thứ nhất kết thúc, Pháp tuy
thắng trận nhng bị tàn phá nặng
nề, kinh tế kiệt quệ. Chúng đã ráo
riết đẩy mạnh khai thác thuộc địa ở
Đông Dơng trong đó có Việt Nam
nhằm lấp đầy quốc khố của mình.
Đó mới chỉ là nguyên nhân khách
quan, còn nguyên nhân chủ quan
vẫn là ở bản chất của CNTD.
Chẳng vậy mà HCT đã từng nhận
xét về CNTD: CNTD là một con đỉa
có hai cái vòi - một cái vòi nó hút
máu của giai cấp vô sản ở chính
quốc và một cái vòi nó hút máu của
giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nh vậy
là bản chất bóc lột của CNTD thì
mãi mãi không thể nào thay đổi.
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
hai của TDP đợc tiến hành với một
phạm vi, quy mô rộng lớn, tính chất
của nó cũng khắc nghiệt hơn. TDP
đã tăng cờng đầu t mở rộng sản
xuất để bóc lột đợc nhiều hơn. Nếu
nh trớc chiến tranh Đông Dơng chủ
yếu là thị trờng tiêu thụ hàng hóa
thì sau chiến tranh t bản Pháp đã


tăng cờng đầu t vào Đông Dơng với
quy mô lớn, tốc độ nhanh nhằm mở
rộng một số ngành sản xuất có khả
năng kiếm lợi nhiều nhất. Riêng
năm 1920 vốn đầu t của t bản Pháp
vào Việt Nam đã đạt đến 255 triệu
franc và tính trong 6 năm (1924
-1929) số vốn đầu t của Pháp tăng
gấp 6 lần so với trớc chiến tranh
trọng tâm là tập trung vào nông
nghiệp và công nghiệp.
Về nông nghiệp, Pháp đầu t lớn
nhất vào mở rộng đồn điền chủ yếu
là đồn điền cao su, ngời ta ớc tính
đến năm 1927 vốn đầu t vào nông
nghiệp đạt 400 triệu franc để lập
đồn điền, chúng ra sức cớp đất đai
của nông dân. Năm 1918 diện tích
trồng cao su là 15.000 ha thì đến
năm 1930 lên tới 120 nghìn ha.
Nhiều công ty cao su lớn ra đời nh
công ty Đất Đỏ, Công Ty
Misơlanh...
Sau nông nghiệp khai thác mỏ là
ngành đợc Pháp chú trọng đầu t vì
đây là ngành kiếm lợi nhanh nhất.
Nớc ta là một nớc giàu tài nguyên
thiên nhiên, khoáng sản đặc biệt là
than đá. Nhiều công ty than đã có

từ trớc nay đợc đầu t vốn để hoạt
động mạnh hơn đồng thời cũng có
nhiều công ty mới ra đời: công ty
than Hạ Long - Đồng Đăng, công
ty than Đông Triều... Bên cạnh đó
chúng còn mở một số ngành kinh tế
mới chủ yếu là công nghiệp nhẹ,
công nghiệp chế biến nh các nhà
máy sợi, nhà máy rợu, diêm, đờng
sữa, sửa chữa ô tô, dệt... bởi những
ngành này có khả năng cạnh tranh
với công nghiệp Pháp và các công
ty ở chính quốc không có điều kiện
với tới đợc.
Sở dĩ Pháp đầu t vào hai ngành này
vì cao su và than là hai mặt hàng
mà thị trờng thế giới đang cần. Tuy
vậy ngoài hai lĩnh vực trên TDP
cũng chú trọng phát triển một số
ngành khác nh thơng nghiệp,
GTVT...
Về thơng nghiệp cũng đã phát triển
hơn nhng hoàn toàn phụ thuộc vào
TDP. Chúng đã ban hành nhiều
đạo luật đánh thuế nặng những
mặt hàng ngoại nhập. TDP độc
chiếm thị trờng Đông Dơng nhằm
độc quyền XNK, nắm nguồn thuế
và đánh thuế nặng vào hàng ngoại
để hàng ngoại không đủ sức cạnh

tranh với hành Pháp ở ĐD. Trớc
chiến tranh hàng Pháp nhập vào

ĐD là 37% thì đến năm 1929 đã
xấp xỉ là 62%. Ngoại thơng của
Việt Nam thể hiện rất rõ tính chất
thuộc địa kém phát triển (XK
những mặt hàng nh lúa gạo, than
đá, cao su khối lợng nhiều, giá trị
thấp còn NK chủ yếu là sản phẩm
CN nh vải lụa, len dạ, cơ khí... khối
lợng ít giá trị cao).
Về GTVT Pháp chú trọng phát
triển đờng bộ, đờng thuỷ và đẩy
mạnh xây dựng các tuyến đờng sắt
xuyên ĐD nh Đồng Đăng - Na
Sầm, Vinh - Đông Hà... để phục vụ
đắc lực cho khai thác và chuyên
chở nguyên vật liệu cũng nh lu
thông hàng hóa. Về tài chính, ngân
hàng ĐD có cổ phần khắp các công
ty xí nghiệp lớn vì vậy Pháp nắm
quyền chỉ huy các ngành kinh tế
ĐD. Bên cạnh đó thì TDP còn thực
hiện tăng thuế, đánh thuế nặng để
tăng cờng bóc lột nhân dân ta.
Về văn hoá, giáo dục để phục vụ
cho chính sách khai thác bóc lột về
kinh tế, Pháp đã tăng cờng chính
sách cai trị thâm độc (chia để trị),

bên cạnh đó chúng còn thi hành
chính sách khủng bố đàn áp bằng
quân sự, vừa mua chuộc dụ dỗ
bằng chính trị và thi hành chính
sách văn hóa giáo dục nô dịch ngu
dân để dễ bề cai trị.
Đứng trên một góc độ nào đó thì
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
hai của TDP đã làm cho nền kinh
tế Việt Nam phát triển không tự
nhiên và mất cân đối. Việt Nam ta
là một nơi "rừng vàng biển bạc",
tài nguyên thiên nhiên phong phú
với nguồn lao động dồi dào bao đời
nay vẫn là miếng mồi ngon trớc mắt
của bọn thực dân. Chính sách kinh
tế của Pháp nhằm thu lợi cho Pháp
chứ không phải vì ngời dân ĐD nói
chung, Việt Nam nói riêng nhng lại
có tác động tới Việt Nam theo hai
mặt cả tiêu cực và tích cực.
Về kinh tế, chính sách khai thác
của Pháp đã làm kiệt quệ tài
nguyên thiên nhiên của đất nớc,
làm kiệt quệ sức lực của nhân dân
làm cho nớc yếu dân nghèo. Với
chính sách kinh tế của Pháp đã làm
cho kinh tế ĐD không có khả năng
cạnh tranh với chính quốc nhất là
về mặt CN nặng: cột chặt kinh tế

ĐD trong mối lệ thuộc vào kinh tế
Pháp kìm hãm kinh tế ĐD trong
tình trạng nông nghiệp lạc hậu què
quặt (duy trì quan hệ sản xuất

phong kiến mở rộng bộ phận kinh
tế thực dân. Đây là trở ngại lớn đã
kìm hãm sự phát triển của nền kinh
tế Việt Nam nói riêng, ĐD nói
chung).
Về mặt khách quan với chính sách
kinh tế của Pháp đã phần nào tác
động thúc đẩy kinh tế ĐD phát
triển theo hớng TBCN do đợc đầu t
vốn vào các ngành kinh tế và đa
KHKT vào sản xuất. Bên cạnh những
độc quyền của Pháp thành phần kinh
tế t sản Việt Nam cũng len lỏi vơn lên
nhng nhỏ bé yếu ớt (khai mỏ có Bạch
Thái Bởi, Nguyễn Hữu Thu....)
Về mặt xã hội, chính sách của
Pháp có ảnh hởng trực tiếp đến đời
sống nhân dân làm tăng thêm sự
nghèo đói của tầng lớp lao động
nhất là bần cùng hoá ngời nông
dân. Tuy nhiên, chính sách khai
thác lần thứ hai cũng đem đến cho
xã hội Việt Nam những mặt tích
cực. Chính sách khai thác của
Pháp đã làm nảy sinh những g/c

mới và làm cho sự phân hoá xã hội
thêm sâu sắc. Việc tạo ra các g/c
mới đã làm tăng thêm lực lợng cho
CM tạo ra ngời đào mồ chôn
CNTD. Chính sách khai thác bóc
lột của Pháp làm tăng thêm mâu
thuẫn vốn có giữa dân tộc Việt
Nam với bọn đế quốc Pháp từ đó
làm tăng thêm phong trào đấu
tranh CM của nhân dân.
Thực tế xuất phát từ yếu tố nội tại:
Việt Nam không trải qua cuộc CM
t sản và nền văn minh công nghiệp
đáng lẽ phải có, cho nên nền kinh
tế nớc ta không mang tính công
nghiệp. Và hơi thở của nền công
nghiệp mà TDP mang lại xét đến
cùng càng làm cho nền kinh tế Việt
Nam trở nên què quặt. Song song
với sự thay đổi của nền kinh tế là sự
chuyển biến của xã hội Việt Nam so
với các thời kỳ trớc. Và cuộc khai
thác lần 2 đã làm cho trong lòng xã
hội Việt Nam thuộc địa nửa phong
kiến có cơ cấu g/c hết sức phức
tạp.Có những g/c mới xuất hiện sẽ
là lực lợng chủ chốt cho CMVN sau
này.

Đầu tiên là sự thay đổi về tính chất,

Việt Nam thực chất là một xã hội
phong kiến thuần tuý trở thành xã
hội thuộc địa nửa phong kiến. Mối
quan hệ sản xuất cũng có sự thay
đổi. Lúc này có hai mối quan hệ
cùng song song tồn tại: quan hệ
phong kiến lạc hậu và quan hệ xã
hội chủ nghĩa t bản đợc du nhập từ
bên ngoài vào một cách hạn chế.
Cơ cấu g/c trong lòng xã hội là do
trình độ kinh tế quyết định, mà
trong đó, mỗi một mối quan hệ sản
xuất đều tơng ứng với sự ra đời và
phát triển của một lực lợng sản
xuất mới. Chính vì thế, ảnh hởng
của cuộc khai thác lần 2 đã làm
cho trong lòng xã hội Việt Nam
thuộc địa nửa phong kiến có cơ cấu
g/c hết sức phức tạp. Các g/c cũ tiếp
tục bị phân hoá mạnh, các g/c mới
tơng ứng với quan hệ sản xuất
TBCN ra đời.
Trớc khi TDP xâm lợc đất nớc ta, nớc ta là một nớc phong kiến độc lập
với hai g/c cơ bản là: g/c địa chủ
phong kiến và g/c nông dân. Sau
khi TDP xâm lợc đặc biệt là sau
CTTG 1 thì xã hội Việt Nam có
nhiều chuyển biến ngoài hai g/c cũ,
xã hội Việt Nam còn xuất hiện 3 g/c
mới : công nhân, tiểu t sản, t sản.

Các g/c này không ngừng phát
triển nên số lợng và mâu thuẫn
càng phân hoá sâu sắc. Hơn bao
giờ hết, trên "sân khấu" của nền
chính trị xã hội Việt Nam những
năm đầu của thế kỷ này lại tập hợp
một lúc nhiều thành phần giai tầng
khác nhau cả về tính chất lẫn t tởng.
Và chính vì lẽ đó đã làm cho nó trở
nên sôi động và đa dạng, làm cho bộ
mặt xã hội nớc ta trở nên phức tạp và
hỗn độn hơn.
Hình thành từ hàng chục thế kỷ trớc, g/c phong kiến đã từng g/c tiến
bộ. Đây là g/c có nhiều ruộng đất,
có địa vị ở nông thôn, đã từng lãnh
đạo nhân dân đấu tranh chống
xâm lợc và giành đợc nhiều chiến
Đề 2: Dới tác động của đợt công hiển hách. Từ TK XIX trở đi
khai thác thuộc địa lần thứ chính quyền phong kiến lâm vào
tình trạng khủng hoảng, phản
hai của TDP, tình hình động (nhà Nguyễn). Khi Pháp xâm
phân hoá g/c của xã hội lợc triều đình nhà Nguyễn chống
Việt Nam có những gì thay đỡ một cách yếu ớt và sau đó là đầu
đổi?.
hàng Pháp vô điều kiện, chấp nhận
Bài làm.
là một nớc phong kiến lệ thuộc
Song song với sự thay đổi của nền (thuộc địa nửa phong kiến). G/c
kinh tế là sự chuyển biến của xã phong kiến đã mất hết vai trò lịch
hội Việt Nam so với các thời kỳ trớc. sử của mình TDP áp dụng chính


1

sách dung dỡng để làm chỗ dựa
cho nền thống trị của chúng. Vì vậy
sau CTTG lần thứ nhất địa chủ
phong kiến Việt Nam vừa phát triển
cả về số lợng và thế lực. Tuy nhiên
một bộ phận bị chèn ép về quyền lợi
kinh tế nên có mâu thuẫn với TDP
và tham gia phong trào đấu tranh
chống Pháp. Nh vậy, g/c địa chủ
phong kiến có sự phân hoá rõ ràng
đa số trở thành tay sai của Pháp.
Qua thái độ chính trị của g/c địa
chủ phong kiến thì rất dễ nhận thấy
đây là lực lợng phản động trong xã
hội và là đối tợng mà CM cần loại
bỏ vì vậy CM cần có chính sách
phân biệt cụ thể.
Đất nớc ta là một đất nớc thuần
nông vì vậy mà g/c nông dân hình
thành cùng một lúc với g/c địa chủ
đó là lực lợng lao động ở nông thôn
chiếm một tỷ lớn, hơn 90% dân số.
Họ là ngời dân của một nớc có
truyền thống chống ngoại xâm bị
đế quốc phong kiến áp bức bóc lột
nặng nề, là g/c nghèo khổ không
kém g/c CN. Có thể nói những ngời

nông dân Việt Nam một cổ hai
tròng, su cao thuế nặng, phu phen
tạp dịch vất vả, bị đẩy vào con đờng
bần cùng hoá. Họ là nạn nhân của
chính sách khai thác bị xô đẩy vào
quá trình bần cùng hoá phá sản hàng
loạt. Vì vậy g/c nông dân giàu lòng
yêu nớc có tinh thần CM cao, là lực lợng chính trị to lớn, là động lực cơ bản
của CM, có liên hệ máu thịt với công
nhân cho nên dễ dàng liên minh với
công nhân và chịu sự lãnh đạo của g/c
công nhân.
Bên cạnh việc tồn tại những giai
cấp cũ thì cũng có những g/c mới
ra đời nh g/c t sản Việt Nam. Ra đời
sau CTTG lần thứ nhất và trong
cuộc khai thác thuộc địa lần hai,
sau chiến tranh t sản Việt Nam
cũng muốn nhân đà phát triển
trong 4 năm chiến tranh mà vơn
lên, họ có mặt ở nhiều lĩnh vực sản
xuất kinh doanh khác nhau, một số
chạy theo t bản Pháp lập đồn điền
hùn vốn vào khai mỏ để kiếm lời,
còn số đông thành lập các công ty,
hãng buôn các xí nghiệp hoạt động
tơng đối mạnh và tập trung vào các
ngành dịch vụ hoặc CN nhẹ sửa
chữa ô tô, xay sát gạo... Song ra đời
ở một nớc vốn phong kiến lạc hậu

tiếp đó là thuộc địa bị chính sách
thuộc địa của Pháp kìm hãm cho
nên g/c t sản Việt Nam nhỏ bé, yếu

kém về kinh tế. Vốn liếng chỉ bằng
5% vốn của t sản nớc ngoài. Có trờng hợp bị t sản Pháp cạnh tranh
làm cho phá sản. Sinh ra trong một
xã hội thuộc địa phong kiến g/c t
sản Việt Nam không chỉ yếu kém về
kinh tế mà còn bạc nhợc về tinh
thần và chính trị, họ phát triển đến
một chừng mực nhất định thì phân
hoá thành hai bộ phận.
T sản mại bản là lớp t sản có quan
hệ, lợi ích gắn bó mật thiết với TDP.
Vì vậy mà chúng là tầng lớp theo
chân thực dân và là đối tợng của
CM. T sản dân tộc bị đế quốc và t
sản mại bản chèn ép nên có mâu
thuẫn với chúng. Họ có xu hớng
kinh doanh độc lập ít nhiều có tinh
thần dân tộc dân chủ yêu nớc
chống đế quốc và tay sai. Nhng họ
là một g/c yếu hèn chỉ tham gia đấu
tranh trong một chừng mực khi kẻ
thù nhân nhợng ban cho một số
quyền lợi nhất định thì không tiếp
tục đấu tranh. Đây là thái độ không
kiên định dễ thoả hiệp cải lơng.
Nh vậy sau CTTG lần thứ nhất hai

mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt
Nam phát triển sâu sắc đó là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với TDP và mâu thuẫn giữa các g/c
trong xã hội. Vì Pháp tăng cờng áp
bức bóc lột với chính sách khai thác
lần 2 có ảnh hởng tới toàn thể dân tộc
Việt Nam.
Khi cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ hai của TDP cùng ra đời với g/c
tiểu t sản còn có g/c tiểu t sản. G/c
tiểu t sản bao gồm nhiều tầng lớp
nhng chủ yếu là trí thức, học sinh,
sinh viên, viên chức, dân nghèo
thành thị, ngời làm ăn tự do chủ
yếu sống tập trung ở thành thị. Ra
đời ở một nớc thuộc địa có truyền
thống yêu nớc lâu đời đang bị một
nớc đế quốc áp bức bóc lột, họ sống
nghèo khổ. Cùng với công nhân và
nông dân họ là g/c có tinh thần yêu
nớc, tinh thần chống đế quốc
phong kiến tinh thần dân tộc cao.
G/c này có số lợng ngày càng phát
triển và ngày càng trởng thành về
chính trị, họ là lực lợng CM to lớn
đặc biệt nhiều ngời trong trí thức
đã trở thành lực lợng tiên phong
của các phong trào CM.
Hình thành trong cuộc khai thác

thuộc địa lần thứ nhất và phát triển
mạnh trong cuộc khai thác lần 2 do
nhu cầu sử dụng sức lao động của
TDP trong các ngành công nghiệp,

g/c CNVN phát triển dần cả về mặt
số lợng và chất lợng nhất là trình
độ chính trị, ý thức g/c (trớc CTTG
g/c CN có hơn 10 vạn trong tổng số
20 triệu dân đến 1929 lên đến 22
vạn). CN trởng thành từ đấu tranh
tự phát lên tự giác khi có ánh sáng
của CN M- L soi rọi và hoàn toàn
trở thành g/ c tự giác khi ĐCSVN
ra đời.
Giai cấp CNVN từ khi ra đời đã
mang những đặc điểm chung của
công nhân quốc tế, là ngời lao động
bị áp bức hàng ngày sống nghèo
khổ và tập trung ở các thành phố
lớn, trong các ngành kinh tế chủ
yếu, là lực lợng tiến bộ nhất và có
hệ t tởng riêng đó là CN M- L. Bên
cạnh đó CNVN lại có đặc điểm
riêng: ra đời trớc g/c t sản Việt
Nam, ra đời ở một nớc có truyền
thống chống ngoại xâm phải chịu 3
tầng áp bức bóc lột (đế quốc phong kiến - t sản) xuất thân phần
lớn từ nông dân nên có quan hệ
mật thiết với nông dân, đặc biệt

CNVN xuất thân từ một đất nớc có
truyền thống yêu nớc và sớm chịu
ảnh hởng của CN M - L. Do đó họ
là g/c yêu nớc sớm liên minh với
nông dân để phát triển sức mạnh,
là lực lợng CM, là g/c duy nhất
lãnh đạo CMVN. Tổng bí th Lê Khả
Phiêu đã nhận định về sự ra đời
của g/c công nhân :"Chơng trình
khai thác thuộc địa mà TDP tiến
hành ở Việt Nam từ cuối TK XIX đợc đẩy mạnh sau CTTG lần 1 nhằm
xiết chặt ách thống trị của chúng, tởng có thể bảo vệ và nuôi béo mãi
chế độ thực dân, nhng khách quan
lại tạo ra một lớp ngời nô lệ mới, đó
là g/c CNVN, những ngời làm thuê
mất nớc qua đấu tranh mà giác
ngộ, sẵn sàng đảm đơng sứ mệnh
lịch sử".
Nh vậy, sau cuộc khai thác thuộc
địa lần 2 của TDP xã hội Việt Nam
xuất hiện hai mâu thuẫn: mâu
thuẫn giữa nông dân với địa chủ và
mâu thuẫn của dân tộc với đế quốc.
Mâu thuẫn giữa nông dân với địa
chủ phong kiến là mâu thuẫn có từ
trớc nhng sau chính sách khai thác
càng sâu sắc hơn vì địa chủ phong
kiến đợc Pháp dung dỡng ra sức áp
bức bóc lột nông dân. Hai mâu
thuẫn này là nguồn gốc động lực

dẫn tới phong trào CMVN phát
triển mạnh mẽ. Trong hai mâu
thuẫn này thì mâu thuẫn giữa toàn


thể dân tộc Việt Nam với đế quốc
Pháp là mâu thuẫn chủ yếu đang
diễn ra ngày càng quyết liệt đòi hỏi
phải giải quyết.
Để giải quyết hai mâu thuẫn này
CMVN phải thực hiện hai nhiệm vụ
cơ bản có tính chất chiến lợc quan
hệ khăng khít với nhau là đánh đổ
đế quốc, tay sai phản động để
giành độc lập dân tộc, là nhiệm vụ
chủ yếu hàng đầu của CM. Căn cứ
vào tình hình các g/c trong xã hội
Việt Nam chúng ta thấy lực lợng
CM bao gồm công nhân, nông dân,
tiểu t sản và t sản dân tộc, các cá
nhân yêu nớc trong đó g/c CN là
g/c có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo CM
Việt Nam.

Đề 3: Trình bày hoàn cảnh
lịch sử, nội dung và ý
nghĩa lịch sử của phong
trào yêu nớc của khuynh hớng dân chủ t sản giai
đoạn 1919 -1930.


Bài làm.
Giai đoạn 1919 - 1939 là giai đoạn
phát triển của các phong trào yêu
nớc. Nhiều phong trào yêu nớc đã
diễn ra với nhiều khuynh hớng
khác nhau, trong đó có các phong
trào yêu nớc theo khuynh hớng dân
chủ t sản. Mặc dù còn rất nhiều
hạn chế nhng các phong trào trong
khuynh hớng này vẫn mang những
ý nghĩa lịch sử quan trọng trong
cuộc đấu tranh lâu dài của dân tộc.
Từ sau CTTG lần thứ nhất tình
hình TG ảnh hởng rất sâu sắc đến
CMVN, t tởng t sản tiếp tục du
nhập vào Việt Nam đặc biệt là t tởng CM của Tôn Trung Sơn với CN
tam dân (dân tộc độc lập, dân tộc tự
do, dân sinh hạnh phúc). CMT10
Nga thành công đã xóa bỏ chế độ
Nga hoàng lập Nhà nớc vô sản đầu
tiên trên TG. Lần đầu tiên trong
lịch sử loài ngời một nớc chiếm 1/6
diện tích TG: công nhân và nông
dân đã nắm chính quyền và bắt tay
xây dựng chế độ mới, chế độ XHCN
có ảnh hởng to lớn đối với CMTG.
Dới ảnh hởng của CMT10 phong
trào gpdt ở phơng Đông và phong
trào CN ở các nớc t bản đế quốc phơng Tây đã có sự gắn bó mật thiết
với nhau trong cuộc đấu tranh

chống kẻ thù chung là CNĐQ. Làn
sóng CM đã dâng cao trên toàn TG,
lan rộng từ Âu sang á, từ Mĩ sang
Phi. G/c vô sản trẻ tuổi các nớc bắt
đầu bớc lên vũ đài chính trị. Điều

này đã thúc đẩy sự ra đời của
QTCS (tháng 3/1919). QTCS đã giơng cao ngọn cờ CN M-L
trên
toàn TG và trở thành cơ quan tối
cao của phong trào CMVS, phong
trào gpdt ở các nớc thuộc địa. Dới
sự lãnh đạo của Lênin, QTCS đã
kết hợp vấn đề dân tộc với vấn đề
thuộc địa kiên quyết ủng hộ cuộc
đấu tranh của nhân dân thuộc địa.
Chính sự cổ vũ của CMT10, của
QTCS đã làm cho phong trào
CMTG phát triển dẫn tới sự ra đời
của Đảng cộng sản Pháp (1920) và
Đảng cộng sản Trung Quốc (1921).
CMT10 Nga và sự phát triển của
phong trào CMVSTG là các điều kiện
khách quan thuận lợi cho bớc phát
triển mới của CMVN sau CTTG 1.
Đặc biệt nó tác động mạnh mẽ tới sự
lựa chọn con đờng gpdt của NAQ. Ngời khẳng định "muốn gpdt không có
con đờng nào khác ngoài con đờng
CMVS". Ngời đã đi theo QTCS tham
gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, tích

cực truyền bá t tởng CM của CN M - L
vào Việt Nam mở đờng giải quyết cuộc
khủng hoảng về đờng lối gpdt của
Việt Nam.
Sau CTTG 1 (1914 - 1918) phong
trào DTDC ở Việt Nam bớc vào thời
kỳ phát triển mạnh mẽ lôi cuốn mọi
tầng lớp nhân dân tham gia với
nhiều hình thức đấu tranh phong
phú, sôi nổi trong đó g/c TSDT và
TTS thành thị có hoạt động chống
Pháp theo khuynh hớng DCTS.
Trớc hết phải kể đến các hoạt động
của t sản dân tộc, đây là một bộ
phận của g/c t sản. T sản dân tộc bị
đế quốc, phong kiến và t sản mại
bản chèn ép nên có mâu thuẫn với
chúng. Họ có xu hớng kinh doanh
độc lập ít nhiều có tinh thần dân
tộc dân chủ yêu nớc chống đế quốc
và tay sai. Nhng họ là một g/c yếu
hèn chỉ tham gia đấu tranh trong
một chừng mực nhất định khi kẻ
thù nhân nhợng ban cho quyền lợi
nhất định thì không đấu tranh. Đây
là thái độ không kiên định dễ thoả
hiệp cải lơng.
Giai cấp t sản dân tộc Việt Nam
tiến hành các cuộc đấu tranh vì
muốn vơn lên giành lấy vị trị khá

hơn trong nền kinh tế Việt Nam nhng họ vấp phải sự chèn ép của
TDP, vì cha đủ sức cạnh tranh với t
bản Pháp nên t sản Việt Nam đã tổ
chức những phong trào đấu tranh.

Họ đã phát động phong trào chấn
hng nội hoá, bài trừ ngoại hoá chủ
yếu là hàng Trung Quốc. Năm
1919 bùng nổ phong trào tẩy chay
các thơng gia Hoa kiều từ Sài Gòn
ra các thành phố lớn trong Nam
ngoài Bắc. Năm 1923 cuộc đấu
tranh chống độc quyền thơng cảng
Gài Gòn, độc quyền xuất cảng lúa
gạo Nam Kỳ của t bản Pháp. Cùng
với các hoạt động kinh tế, g/c t sản
dân tộc cũng dùng báo chí để bênh
vực quyền lợi cho mình. Năm 1923
một số t sản và địa chủ lớn trong
Nam nh Bùi Quang Chiêu, Nguyễn
Phan Long... đã tổ chức ra Đảng
Lập hiến để tập hợp lực lợng rồi đa
ra một số khẩu hiệu đòi dân chủ
nhằm tranh thủ sự ủng hộ của
quần chúng làm áp lực đối với
Pháp.
Nh vậy do có mâu thuẫn với CN đế
quốc Pháp đang thống trị nên t sản
dân tộc đã bớc lên vũ đài chính trị
và g/c VSVN cũng bắt đầu có ý thức

nên g/c t sản Việt Nam không thể
có thái độ CM triệt để. Các hoạt
động của họ chỉ mang tính chất cải
lơng giới hạn trong khuôn khổ của
chế độ thực dân phục vụ quyền lợi
của các tầng lớp trên và nhanh
chóng bị phong trào quần chúng vợt qua.
Vậy là g/c t sản dân tộc dù đa ra cơng lĩnh hoạt động rất đúng đắn và
tiến bộ song do còn có những hạn
chế về mặt t tởng, tổ chức mà dần
dần họ đánh mất lòng tin và sự ủng
hộ của quần chúng nhân dân. Đối
với việc này thì cũng coi nh sự lãnh
đạo của g/c t sản dân tộc bị thất
bại.
Khi cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ hai của TDP cùng ra đời với g/c
TSDT còn có g/c TTS. G/c tiểu t sản
bao gồm nhiều tầng lớp nhng chủ
yếu là những trí thức, học sinh,
sinh viên, nhà báo... Nhìn chung
g/c tiểu t sản cũng bị đế quốc và
phong kiến áp bức, bóc lột, khinh
rẻ. Họ có điều kiện sống tập trung ở
các đô thị và các trung tâm văn hóa
chính trị nên họ rất nhạy cảm với
thời cuộc. Vốn xuất thân là những bộ
phận trí thức nên họ có điều kiện tiếp
xúc với các phong trào, có tinh thần
hăng hái CM và là một lực lợng quan

trọng của CM. Trong khi t sản và đại
địa chủ đấu tranh chống độc quyền,
đòi quyền tự do dân chủ thích ứng với
lợi ích g/c và địa vị xã hội của họ thì

tiểu t sản vì bị áp bức bóc lột nặng nề
cũng sôi nổi đấu tranh chống lại cờng
quyền áp bức để đòi các quyền tự do
dân chủ.
Và ở phong trào yêu nớc đấu tranh
theo khuynh hớng dân chủ t sản thì
đây cũng là lực lợng quan trọng
nhất. Họ đã có rất nhiều hoạt động
khác nhau nh tập hợp nhau lại
trong các tổ chức chính trị nh Tâm
tâm xã (1924), Việt Nam nghĩa
đoàn (1925), Phục Việt (1925), hội
Hng Nam, đảng Thanh niên... với
nhiều hoạt động phong phú sôi nổi.
Bên cạnh đó cũng giống nh g/c t
sản dân tộc, họ cũng tiến hành đấu
tranh trên mặt trận báo chí. Họ cho
ra các tờ báo tiến bộ để tuyên
truyền t tởng dân tộc dân chủ bằng
tiếng Pháp nh Chuông rè, An Nam
trẻ, Ngời nhà quê và bằng tiếng
Việt nh "Tiếng dân tập thế kỷ". Họ
lập ra các Nxb tiến bộ nh Nam
Đồng th xã, Cờng học th xã ở Sài
Gòn và Quan hải tùng th ở Huế...

để cổ động tinh thần yêu nớc, đòi
các quyền tự do dân chủ và nêu
quan điểm lập trờng chính trị của
mình.
Trong cao trào yêu nớc dân chủ
công khai do g/c tiểu t sản lãnh đạo
có hai sự kiện nổi bật. Đỉnh cao
của những sự kiện nổi bật là tiếng
bom của liệt sĩ Phạm Hồng Thái
(1924) ở Quảng Châu - Trung
Quốc gây một tiếng vang lớn ở
trong nớc và ngoài nớc. Tiếng bom
này có ý nghĩa mở màn cho thời đại
đấu tranh mới của dân tộc, vừa có
tác dụng cổ vũ, thúc đẩy phong trào
tiến lên. Tuy vụ ám sát không thành
nhng hơn bao giờ hết tiếng bom Sa
Diện của Phạm Hồng Thái vang
lên có ý nghĩa vô cùng to lớn nh
HCT đánh giá: "Việc đó tuy nhỏ
nhng nó báo hiệu bắt đầu thời đại
đấu tranh dân tộc nh chim én nhỏ
báo hiệu mùa xuân". Tiếp đó là
cuộc đấu tranh đòi thả nhà yêu nớc
PBC tháng 11/1925. Việc PBC bị
bắt đa về nớc đã kích động lòng yêu
nớc trong nhân dân đặc biệt là
những lời lẽ đanh thép của ông trớc
vành móng ngựa đã làm cho làn
sóng đấu tranh đòi thả PBC sôi nổi

khắp nơi buộc TDP phải tha bổng
PBC và đa về giam lỏng ở Huế.
Tiếp đến họ tổ chức lễ đa tang và
truy điệu PCT (3/1926) có 14 vạn
ngời gồm đủ các tầng lớp đã đa
tang ông và sau lễ đa tang khắp nơi

ở Bắc - Trung - Nam đều tổ chức lễ
truy điệu.
Nh vậy, có thể thấy phong trào yêu
nớc dân chủ của tiểu t sản có một vị
trí quan trọng trong cuộc vận động
dân chủ nói riêng và phong trào
dân tộc nói chung. Về tổ chức chủ
yếu do tiểu t sản lãnh đạo nhng bị t
tởng t sản chi phối điều này là điều
tất yếu vì lúc đó CN M - L cha có
điều kiện xâm nhập vào phong
trào. Tuy vậy, tổ chức yêu nớc dân
chủ rõ nét các hoạt động này đã
chuẩn bị hỗ trợ cho phong trào
công nhân và Hội VNCMTN.
Phong trào đấu tranh này thể hiện
lòng yêu nớc của thanh niên tiểu t
sản. Mặc dù họ cha đợc tổ chức
thành chính đảng nên đấu tranh
mang tính chất ấu trĩ nhng có ý
nghĩa to lớn trong việc thức tỉnh
lòng yêu nớc reo rắc t tởng tự do
dân chủ trong dân. Những thanh

niên yêu nớc ấy sau này bằng nhiều
con đờng khác nhau đã đến với
Đảng ta vì vậy khi nói về các điều
kiện thành lập Đảng, Đảng ta coi
phong trào yêu nớc là một trong 3
yếu tố.
Các phong trào theo khuynh hớng
dân chủ t sản còn kéo dài với hoạt
động của tổ chức VNQDĐ và cuộc
khởi nghĩa Yên Bái. Cho đến năm
1930 cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất
bại đồng thời các cuộc đấu tranh
theo khuynh hớng dân chủ t sản
cũng kết thúc và mở ra một giai
đoạn đấu tranh phát triển mới của
CMVN.
Xét đến cùng các phong trào yêu nớc theo khuynh hớng dân chủ t sản
giai đoạn 1919 - 1930 bị thất bại là
lẽ tất nhiên. Nếu nh các phong trào
yêu nớc do g/c t sản dân tộc bị thất
bại là do những hạn chế về mặt tổ
chức, tầm nhìn thì các phong trào
do g/c tiểu t sản lại có những hạn
chế nhất định. Đó là g/c này vẫn cha đợc tiếp cận với CN M - L. Tuy
vậy chúng ta cũng không thể phủ
nhận đợc những đóng góp quan
trọng của các phong trào theo
khuynh hớng này bởi lẽ nó cũng
góp phần thúc đẩy quá trình đấu
tranh giải phóng dân tộc nớc ta tiến

lên một bớc mới và là một bài học
kinh nghiệm quý báu cho các
phong trào ở giai đoạn sau.

Đề 4: Phân tích hoàn cảnh
ra đời, diễn biến cuộc đấu
tranh và ý nghĩa lịch sử

2

của cuộc khởi nghĩa Yên
Bái.
Bài làm.
Trong phong trào đấu tranh theo
khuynh hớng dân chủ t sản thì vai
trò của tổ chức VNQDĐ khá quan
trọng. Cùng với sự ra đời của tổ
chức VNQDĐ thì đã có nhiều hoạt
động đấu tranh diễn ra sôi nổi, nổi
bật là cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm
1930. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại
nhng nó lại có ý nghĩa lịch sử rất
quan trọng đối với CMVN.
Do ảnh hởng của t tởng CM t sản
từ bên ngoài dội vào, lúc này g/c
tiểu t sản ngày càng phát triển
đồng thời phong trào yêu nớc dân
chủ ở nớc ta lúc đó phát triển mạnh
mẽ đã dẫn tới sự ra đời của
VNQDĐ ngày 25/12/1927. Đây là

một Đảng CM theo khuynh hớng
DCTS đại diện cho quyền lợi của t
sản dân tộc và tiểu t sản lớp trên.
Cơ sở hạt nhân đầu tiên của
VNQDĐ là Nam Đồng th xã một
nhà xuất bản tiến bộ do Phạm
Tuấn Tài lập ra đầu năm 1927. Lúc
đầu Nam Đồng th xã chỉ là một
nhóm thanh niên trí thức yêu nớc
nhng cha có đờng lối chính trị rõ
rệt do đó sự phát triển mạnh của
phong trào dân tộc dân chủ và ảnh
hởng của các trào lu từ bên ngoài
(chủ yếu là CMTQ) VNQDĐ đã lấy
CN tam dân của Tôn Trung Sơn
(dân tộc độc lập, dân tộc t do, dân
sinh hạnh phúc) một t tởng dân chủ
t sản thịnh hành ở Trung Quốc làm
nền tảng t tởng chính trị nhng
những nguyên tắc và chính sách có
tính CM đã bị loại bỏ (liên Nga,
liên cộng, phù trợ công nông).
VNQDĐ là một chính đảng theo xu
hớng cách mạng dân chủ t sản và
tiêu biểu cho tầng lớp t sản dân tộc
Việt Nam. Lúc mới hình thành
Đảng cha có mục đích tôn chỉ rõ rệt
mà chỉ nêu ra cơng lĩnh hoạt động
chung chung đó là: trớc làm CMDT
sau là TGCM. Đến bản điều lệ năm

1928 mới nêu lên chủ nghĩa của
Đảng là "chủ nghĩa xã hội dân
chủ". Mục đích là đoàn kết lực lợng để đẩy mạnh CMDT, xây dựng
nền dân chủ trực tiếp, giúp đỡ các
dân tộc bị áp bức. Nhng một điểm
hạn chế là tổ chức này mới chỉ nêu
ra chứ cha trực tiếp giúp đỡ các g/c
đấu tranh và nó cũng không trực
tiếp đấu tranh giải quyết các vấn đề
về mâu thuẫn giai cấp. Đến chơng

trình hành động năm 1929 nêu
nguyên tắc của Đảng là tự do, bình
đẳng, bác ái. Mục đích làm CMDT,
CM chính trị, CMXH. Chơng trình
hoạt động chia làm 4 thời kỳ, thời
kỳ cuối cùng là bất hợp tác với
Chính phủ Pháp và triều đình
Nguyễn, cổ động bãi công đánh
đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua,
thiết lập dân quyền. Tuy vậy, đây
cũng chỉ là cơng lĩnh chính trị
chung chung không thể hiện rõ
mục đích lập trờng g/c của mình.
Lãnh tụ của VNQDĐ là những trí
thức yêu nớc nh Nguyễn Thái Học,
Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc
Nhu, Phó Đức Chính... Đảng chủ
trơng xây dựng thành 4 cấp từ TW
đến chi bộ cơ sở song cha bao giờ

thành hệ thống trong cả nớc. Địa
bàn hoạt động chỉ bó hẹp trong một
số địa phơng ở Bắc Kỳ nh Yên Bái,
Phú Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Giang... cơ
sở ở Nam Kỳ và Trung Kỳ không
đáng kể. Về tổ chức đáng chú ý là
Đảng chú trọng lấy binh lính ngời
Việt trong quân đội Pháp làm lực lợng chủ yếu nên tổ chức cơ sở đảng
trong quần chúng rất ít.
Nếu nh trong thời đại ngày nay việc
đợc kết nạp vào Đảng luôn đợc lựa
chọn và xem xét rất nghiêm túc thì
VNQDĐ không đặt vấn đề kết nạp
đảng viên lên hàng đầu. Do đó mà
thành phần đảng viên của tổ chức
này rất "ô hợp", phức tạp, tổ chức
lỏng lẻo, đảng viên bao gồm học
sinh, sinh viên, công chức, t sản
dân tộc, tiểu chủ, thân hào, phú
nông địa chủ, binh lính ngời Việt
trong quân đội Pháp. Kết nạp thiếu
thận trọng là cơ sở để mật thám và
tay sai xâm nhập, kẻ thù theo dõi
rất sát hoạt động của Đảng chỉ chờ
có dịp ra tay khủng bố, đàn áp. Về
phơng pháp CM, Đảng chủ trơng
tiến hành CM bằng sắt và máu tức
là bạo động vũ trang, nặng về ám
sát khủng bố cá nhân ít chú ý đến
tuyên truyền vận động quần chúng

không có cơ quan ngôn luận hoặc
tài liệu văn kiện chính thức để giải
thích tôn chỉ mục đích của mình.
Trong quá trình hoạt động của
mình thì phong trào nổi bật nhất
của tổ chức VNQDĐ chính là cuộc
khởi nghĩa Yên Bái. Do không có lý
luận làm cơ sở cho đờng lối và phơng pháp đấu tranh của VNQDĐ
nên tổ chức này hoạt động thiên về
quân sự, nặng về ám sát cá nhân.

Ngày 9/2/1929 tại Hà Nội VNQDĐ
đã tổ chức ám sát tên trùm mộ phu
Bazanh. Sau sự kiện này TDP đã
tiến hành khủng bố trắng rất ác
liệt, tổ chức nhiều cuộc vây bắt lớn,
bắt bớ những ngời của các tổ chức
chính trị bí mật. VNQDĐ bị thiệt
hại nặng nề hơn cả, cơ sở của Đảng
bị phá vỡ do sự chỉ điểm của bọn
phản động mật thám. Trớc tình
hình nguy khốn đó các lãnh tụ của
Đảng còn cha bị bắt đã quyết định
dồn sức để thực hiện một cuộc bạo
động cuối cùng may ra thì thành
công nếu không thì cũng thành
nhân.
VNQDĐ định mở một cuộc tấn
công từ nhiều nơi cùng một lúc nhng hành động trong thế đối phó bị
động, mệnh lệnh không thống nhất.

Việc chuẩn bị vội vã nên các nơi
nổi lên không đều tuy vậy quân
khởi nghĩa đã nổi dậy ở một số nơi
nh Yên Bái đêm 9/2/1930 sau đó là
Phú Thọ, Hải Dơng, Thái Bình, ở
Hà Nội cũng có ném bom để phối
hợp. Tại Yên Bái quân khởi nghĩa
đã chiếm đợc trại lính, giết và làm
bị thơng một số hạ sĩ quan, sĩ quan
Pháp. Nhng do không làm chủ đợc
tỉnh lị nên chỉ đến hôm sau cuộc
khởi nghĩa đã bị TDP đa quân đến
đàn áp và bị dập tắt. Còn ở các nơi
khác nghĩa quân cũng chỉ tạm thời
làm chủ vài huyện nhỏ nhng đã
nhanh chóng bị địch chiếm lại.
Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, số
đảng viên còn lại cùng các lãnh tụ
Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí
lãnh đạo Đảng bị bắt chém đầu ở
Yên Bái ngày 17/6/1930. Trớc khi
lên máy chém Nguyễn Thái Học và
12 đồng chí đã hiên ngang hô vang
"Việt Nam vạn tuế".
Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa
Yên Bái do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Lúc này vai trò của g/c
t sản trên trờng quốc tế đã giảm. Về
khách quan thì TDP lúc đó còn
mạnh, đủ thế và lực để đàn áp một

cuộc khởi nghĩa vừa đơn lẻ, vừa
non kém. Về chủ quan khởi nghĩa
Yên Bái thất bại là do VNQDĐ còn
non yếu, không vững chắc về tổ
chức và lãnh đạo. Cơ sở Đảng yếu
lại bị tan rã ở nhiều nơi trớc khi nổ
ra cuộc khởi nghĩa. Nội bộ của
Đảng không thống nhất về chủ trơng khởi nghĩa, tổ chức không
nghiêm ngặt, hàng ngũ phức tạp do
có nhiều thành phần tham gia vì


vậy mà bọn mật thám và tay sai của
Pháp có thể lọt vào tổ chức phá
hoại từ bên trong. Thất bại của
cuộc khởi nghĩa kéo theo sự tan rã
của chính đảng của g/c t sản chứng
tỏ phong trào dân tộc dân chủ theo
khuynh hớng dân chủ t sản đã
không đáp ứng đợc yêu cầu khách
quan của sự nghiệp giải phóng dân
tộc của nhân dân Việt Nam, không
đủ sức vợt qua sự đánh phá của kẻ
thù để tồn tại và phát triển. Đánh
dấu sự phá sản hoàn toàn của đờng
lối chính trị t sản: "Sau cuộc bạo
động Yên Bái ngọn cờ phản đế
phản phong, ngọn cờ giải phóng
dân tộc đã chuyển hẳn qua tay g/c
vô sản" (Lê Duẩn).

Tuy cuộc khởi nghĩa thất bại nhng
nó vẫn có ý nghĩa cổ vũ lòng yêu nớc và chí căm thù của nhân dân
Việt Nam đối với TDP và tay sai.
Hành động yêu nớc và tấm gơng hy
sinh của các chiến sỹ Yên Bái là sự
nối tiếp truyền thống yêu nớc bất
khuất của dân tộc Việt Nam. Cuộc
khởi nghĩa là sự biểu thị tinh thần
phản kháng dân tộc quyết liệt của
bộ phận tiến bộ nhất trong g/c t
sản, chống lại ách áp bức và sự chà
đạp lên các quyền tự do của con
ngời. Mặc dù thế ta cũng không thể
phủ nhận vai trò lịch sử của Việt
Nam quốc dân đảng trong phong
trào dân chủ công khai vừa mới
xuất hiện đã tan rã và nhanh
chóng kết thúc cùng với sự thất bại
của cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Và sự
thất bại này là một bài học kinh
nghiệm về mọi mặt tổ chức, đờng lối, t
tởng cho sự ra đời của các đảng sau
này.
Các phong trào trên chứng tỏ tinh
thần yêu nớc, tính năng động tích
cực của các lực lợng xã hội mới mà
trớc hết ở các đô thị. Phong trào đã
đem lại nhiều nét mới trong hình
thức đấu tranh (nh báo chí, gây
phong trào quần chúng) tạo ra một

cao trào yêu nớc và dân chủ có lợi
cho sự phát triển CM nói chung.
Song phong trào cũng thể hiện sự
thiếu thống nhất, bồng bột và đặc
biệt các đảng phái chính trị tiểu t
sản vẫn còn thiếu một đờng lối CM
đúng đắn toàn diện trong khi TDP
đang ở thời kỳ ổn định.

Đề 5: Phong trào CNVN từ
1919 - 1929, ý nghĩa đối
với sự ra đời của ĐCSVN.
Bài làm.

Giai đoạn 1919 - 1930 là giai đoạn
phát triển của các phong trào yêu
nớc. Nhiều phong trào yêu nớc diễn
ra với nhiều khuynh hớng khác
nhau. Cùng song song tồn tại với
các phong trào yêu nớc theo
khuynh hớng dân chủ t sản còn có
các phong trào yêu nớc của g/c
công nhân. Có thể nói nếu theo dõi
sự ra đời và quá trình phát triển
của phong trào công nhân giai
đoạn 1919 - 1930 thì ta thấy có
những bớc tiến quan trọng cho
CMVN sau này.
Sau CTTG 1 thắng lợi của CMT10
Nga đã thức tỉnh các dân tộc phơng

Đông trong đó có Việt Nam. Nó mở
ra thời đại chống đế quốc gpdt.
Tiếp đó là sự thành lập QTCS đã
tạo điều kiện thuận lợi cho CM
thuộc địa, hoạt động của QTCS đặc
biệt là Ban Phơng Đông và các tổ
chức quốc tế nh quốc tế nông dân,
quốc tế thanh niên... có ảnh hởng
to lớn tới CM nớc ta. ảnh hởng của
CMT10 và hoạt động của QTCS đã
thúc đẩy phong trào CMTG phát
triển dẫn tới sự ra đời của Đảng
cộng sản Pháp trong đó có sự đóng
góp của NAQ đã tạo điều kiện cho
CN M - L đợc truyền bá vào Việt
Nam. Năm 1921 Đảng cộng sản
Trung Quốc ra đời cùng với sự phát
triển của CMTQ đã tạo điều kiện
cho những ngời yêu nớc có thể
đứng chân.
Những nét mới này của tình hình
TG có ảnh hởng to lớn tới phong
trào CMVN nói chung và phong
trào công nhân nói riêng đồng thời
lúc đó ở trong nớc g/c CN trởng
thành trong cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ hai của TDP. Phong
trào đấu tranh của CNVN từ sau
CTTG 1 trong điều kiện lịch sử mới
đó đã chuyển dần từ tự phát lên tự

giác. Mặt khác đây cũng là quá
trình từng bớc xác lập vai trò lãnh
đạo của g/c CN trong CMVN và
chứng tỏ sự thắng thế của khuynh
hớng vô sản mà CN là đại diện.
Sau khi đạt đợc ách thống trị ở ĐD,
TDP bắt tay thực hiện cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất nhằm
biến ĐD thành một nơi khai thác
tài nguyên bóc lột nhân công rẻ
mạt và tiêu thụ hàng hóa. Với cuộc
khai thác này phơng thức sản xuất
TBCN du nhập vào Việt Nam và
dần dần giữ vị trí chủ đạo. Tuy vậy
TDP vẫn duy trì quan hệ sản xuất

phong kiến để làm chỗ dựa vì vậy
đến lúc này nớc ta trở thành một nớc thuộc địa nửa phong kiến.
Chính nền công nghiệp thuộc địa
vừa hình thành đã làm nảy sinh g/c
CNVN. Đó là lớp thợ thuyền đầu
tiên làm việc ở đồn điền, hầm mỏ, xí
nghiệp.
Sau chính sách khai thác thuộc địa
là 2 thì g/c CNVN trởng thành
nhanh chóng. Trớc chiến tranh có
khoảng 10 vạn ngời sau chiến
tranh phát triển nhanh đến năm
1929 là 22 vạn sống tập trung ở Hà
Nội, Hòn Gai, Nam Định, Sì Gòn Chợ Lớn. CNVN có những đặc

điểm chung của CN quốc tế và đặc
điểm riêng của mình: đại diện cho
lực lợng sản xuất tiên tiến, sống tập
trung nằm trong các ngành kinh tế
chủ yếu của t bản Pháp và Việt
Nam. Họ bị g/c phong kiến, t sản
bản xứ bóc lột nặng nề, phần lớn từ
nông dân mà ra vì vậy có mối liên
hệ tự nhiên với nông dân, có truyền
thống yêu nớc bất khuất. Hơn nữa
họ ra đời và lớn lên giữa lúc
CMT10 Nga thành công nên sớm
chịu ảnh hởng của CN M - L...
Do điều kiện kinh tế, chính trị và
lịch sử cụ thể của Việt Nam g/c CN
là g/c duy nhất đại diện cho sự tiến
hoá của xã hội Việt Nam ngời duy
nhất có khả năng nắm ngọn cờ
gpdt, giải phóng lao động ở nớc ta.
Bởi họ là lực lợng sản xuất tiến bộ
nhất và là g/c CM nhất vì vậy trong
các cuộc đấu tranh họ luôn hăng
hái. Có lẽ ý thức đợc rằng nếu mất
thì họ chỉ mất đi xiềng xích trói
buộc mình còn nếu đợc thì họ đợc
cả thế giới trong tay. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng đánh giá về g/c
CN :"chỉ có g/c công nhân là dũng
cảm nhất, luôn luôn gan góc đơng
đầu với bọn đế quốc thực dân, là

lực lợng CM tiên phong và kinh
nghiệm của phong trào vô sản quốc
tế, g/c CN của ta đã tỏ ra là ngời
xứng đáng nhất và đáng tin cậy
nhất của nhân dân Việt Nam". Đây
chính là minh chứng hùng hồn
nhất về sự ra đời rất quan trọng
của g/c CNVN.
Ngay từ khi mới ra đời g/c CN bị áp
bức bóc lột nặng nề đặc biệt là từ
sau CTTG 1. Điều kiện sống và làm
việc của CNVN hết sức thấp kém:
thời gian làm việc từ 9 - 10 giờ một
ngày, CN dệt Nam Định là 12 giờ/
ngày tuy vậy tiền lơng rất rẻ mạt:

dệt Nam Định là 0,25 đồng đến
0,35 đồng/ ngày, mỏ than Hòn Gai
là 0,30 đến 0,40 đồng/ngày. Bị
đánh đập ngợc đãi, cuộc sống khổ
cực cùng quẫn, bị áp bức đói khổ
cộng với truyền thống yêu nớc đã
thôi thúc CNVN đứng dậy đấu
tranh và đấu tranh ngày càng
mạnh mẽ.
Cũng nh gắn liền với sự ra đời của
g/c t sản là các phong trào yêu nớc
theo khuynh hớng dân chủ t sản thì
sự ra đời của g/c CNVN là các
phong trào yêu nớc do g/c CN lãnh

đạo. Phong trào đấu tranh của
công nhân Việt Nam bắt đầu ngay
từ khi g/c CN mới hình thành. Và
hình thức đấu tranh của g/c CNVN
cũng thay đổi theo thời gian.
ở thời kỳ đầu g/c CN cha trở thành
lực lợng chính trị độc lập vẫn còn
là một bộ phận của phong trào yêu
nớc, họ đã tham gia nhiều cuộc đấu
tranh của các phong trào yêu nớc
khác (nh khởi nghĩa Thái Nguyên,
Duy Tân và những vụ đấu tranh
đòi tự do dân chủ do thanh niên
tiểu t sản trí thức phát động). Bên
cạnh đó đã có các cuộc đấu tranh
riêng chống chế độ hà khắc đòi cải
thiện đời sống của mình. Điều này
dẫn đến các hình thức đấu tranh
mới chỉ ở những hình thức thấp nh
phá máy móc, đánh cai ký bởi họ
cho rằng nguyên nhân chính dẫn
đến cuộc sống khổ cực của mình là
máy móc chứ cha nhìn ra rằng các
chủ t bản mới là kẻ thù của g/c
mình. Hay cao hơn nữa là họ tổ
chức các cuộc bỏ trốn tập thể, tự ý
phá giao kèo.
Sau CTTG 1, thời kỳ 1919 - 1925
phong trào CNVN chịu nhiều tác
động từ bên ngoài nh sách báo tiến

bộ, hoạt động của CN tiến bộ từ
Pháp về. Đặc biệt là hoạt động của
"Công hội đỏ" do Tôn Đức Thắng
thành lập ở Sài Gòn năm 1920. Các
cuộc đấu tranh của CN thuỷ thủ
Pháp trên các tàu chiến Pháp ở các
cảng Hải Phòng, Sài Gòn, công
nhân của TQ tại các cảng lớn... Tất
cả những điều đó đã cổ vũ CNVN
hăng hái đấu tranh vì vậy các cuộc
đấu tranh của CN nổ ra nhiều hơn
và bớc đầu đi vào con đờng có tổ
chức CM.
Từ đầu 1919 - 1925 phong trào
công nhân có tới 25 cuộc bãi công.
Năm 1919 cuộc bãi công của CN
tàu Sácnô ở Hải Phòng đòi tăng lơng phản đối việc đa binh lính Việt
Nam sang đàn áp CM Xiri. Năm

1920 công nhân và thuỷ thủ cảng
Sài Gòn đấu tranh đòi phụ cấp đắt
đỏ. Từ năm 1921 do ảnh hởng của
phong trào công nhân TG một số
công nhân và thuỷ thủ Việt Nam đã
ra nhập Liên đoàn công nhân tàu
biển Viễn Đông vì vậy tính chất liên
hiệp đấu tranh của CNVN xuất
hiện. Năm 1922 600 CN Sài Gòn Chợ Lớn đấu tranh đã đợc NAQ
đánh giá là dấu hiệu của thời đại
mới. Năm 1924 là cuộc bãi công

của CN các nhà máy dệt, rợu, xay
xát gạo ở Nam Định, Hà Nội đã
liên tiếp nổ ra.
Quan trọng hơn cả là cuộc bãi
công của hơn 1000 CN thợ máy xởng đóng tàu - sửa chữa Ba Son
(tháng 8/1925). CN không chịu sửa
chữa chiến hạm Mitsơlê của Pháp
vì chiến hạm này đang trên đờng
chở lính Pháp sang đàn áp phong
trào đấu tranh của nhân dân và
thuỷ thủ TQ ở tô giới của Pháp và
đòi tăng 20% lơng, đòi tất cả CN có
việc làm. Cuộc bãi công thắng lợi
đánh dấu bớc tiến mới của phong
trào CNVN. Qua cuộc bãi công này
thấy rõ t tởng CMT10 Nga 1917 đã
thâm nhập vào g/c CNVN và bắt
đầu biến thành hành động có ý
thức. Nó thể hiện sự trởng thành
quan trọng của CNVN và bắt đầu
biến thành hành động có ý thức.
Đấu tranh không chỉ vì mục tiêu
kinh tế mà còn vì mục tiêu chính trị
và có tổ chức lãnh đạo. Họ đã tỏ rõ
sức mạnh giai cấp của mình và tinh
thần QTVS. Điều đó đánh dấu
CNVN bắt đầu đi vào đấu tranh tự
giác.
Có thể thấy rằng, các cuộc đấu
tranh trong thời kỳ này của CN sôi

nổi từ Bắc chí Nam. Họ đã sử dụng
hình thức đấu tranh riêng biệt của
CN là bãi công, có yêu cầu riêng về
quyền lợi cụ thể của g/c mình. Bớc
đầu xuất hiện tính chất tổ chức
lãnh đạo và ý thức chính trị song về
cơ bản phong trào còn trong thời
kỳ đấu tranh tự phát cha tỏ rõ đợc
là một lực lợng chính trị độc lập,
cha có ý thức rõ rệt về sứ mệnh lịch
sử của g/c mình. Họ mới đấu tranh
chủ yếu nhằm đòi cải thiện đời
sống hàng ngày chống lại bọn chủ
bóc lột trực tiếp chứ cha nhằm
chống lại chính phủ thuộc địa, đòi
thủ tiêu chế độ thống trị. Tức là
phong trào đấu tranh của CN cha
gắn liền với phong trào giải phóng
giai cấp và giải phóng dân tộc.
Thực tế lịch sử đã chứng minh các
phong trào của giai cấp công nhân

3

chỉ thực sự phát triển theo một đờng lối mới ở giai đoạn 1926 1930. Trong giai đoạn này ngoài
vai trò lãnh đạo của lãnh tụ NAQ
thì những sự kiện chính trị ở bên
ngoài dội vào CMVN có ảnh hởng
rất lớn đến CM nớc ta. Sự phát
triển của cuộc CM DTDC ở TQ mà

trung tâm là ở Quảng Châu, công
xã Quảng Châu bùng nổ (1927)
tiếp đến là sự phản biến của TGT
đã cung cấp một bài học kinh
nghiệm nóng hổi về vai trò CM của
g/c CN trong CM dân tộc dân chủ ở
một nớc thuộc địa, nửa thuộc địa và
về tính hai mặt của g/c t sản. Đại
hội 5 (1924) tiếp đó Đại hội 6
(1928) của QTCS đã ra Nghị quyết
quan trọng về phong trào CM ở các
nớc thuộc địa. Tình hình trên đã
tác động mạnh đến tổ chức CM tiên
tiến của nớc ta là Hội VNCMTN do
NAQ sáng lập năm 1925 và thông
qua hoạt động sôi nổi của tổ chức
này ảnh hởng của CMTG đã tác
động mạnh đến phong trào CMVN
và CN M - L đợc truyền bá vào Việt
Nam trớc hết là phong trào CN.
Do vận động của Hội VNCMTN và
ảnh hởng của CM bên ngoài mà
phong trào công nhân Việt Nam đã
có những chuyển biến mới. Trong
hai năm từ 1926 - 1927 ở nớc ta đã
liên tiếp nổ ra 27 cuộc bãi công của
CN tiêu biểu là cuộc bãi công của
1000 CN nhà máy sợi Nam Định,
500 CN đồn điền cao su Cam Tiên
tiếp đó là CN đồn điền cà phê

Rayna (Thái Nguyên), cao su Phú
Riềng... Các cuộc đấu tranh này
đều nhằm vào hai mục tiêu chung:
tăng lơng từ 20 - 40% và ngày làm
8 giờ. Trong phong trào đấu tranh
đáng chú ý là CN đồn điền đấu
tranh sôi nổi dài ngày.
Cuối 1928 sau khi có chủ trơng "vô
sản hoá" nhiều cán bộ của Hội
VNCMTN đã đi vào hầm mỏ, nhà
máy, đồn điền... để tuyên truyền, cổ
động CM và nâng cao ý thức chính
trị cho g/c CN. Phong trào CN càng
phát triển mạnh mẽ hơn và trở
thành nòng cốt của phong trào CM
cả nớc. Đấu tranh của CN đã nổ ra
tại các trung tâm kinh tế - chính trị
nh bãi công của CN mỏ than Mạo
Khê (Quảng Ninh), nớc đá Laruy
(Sài Gòn), Ca - diêm Bến Thuỷ,
ximăng Hải Phòng, tơ Nam Định...
Năm 1929 bãi công của CN nhà
máy chai Hải Phòng, sửa chữa xe
lửa Trờng Thi, nhà máy sửa chữa ô
tô Avia Hà Nội, hãng buôn Sácne
(Sài Gòn)... Số lợng các cuộc đấu

tranh trong các năm 1928 - 1929
lên tới 40 cuộc đấu tranh.
Đứng trên một góc độ lịch sử ta

thấy phong trào công nhân ở giai
đoạn 1919 - 1930 đã có những biến
đổi cả về chất và lợng, quy mô các
cuộc đấu tranh ngày càng lớn.
Phong trào đấu tranh của CN thời
kỳ này đã có sự chuyển biến về
chất. Tại nhiều nhà máy xí nghiệp
sự lãnh đạo của Thanh niên, của
Tân Việt đợc củng cố, công hội
Nam Kỳ đã liên lạc đợc với Tổng
liên đoàn lao động Pháp để tranh
thủ sự ủng hộ của quốc tế. Hình
thức bãi công, vũ khí lợi hại của
CN đợc sử dụng phổ biến, khẩu
hiệu đấu tranh không giới hạn ở
mục đích kinh tế mà đã kết hợp với
mục đích chính trị.
Phong trào đấu tranh nổ ra liên
tiếp đều khắp cả 3 kỳ có sự lãnh
đạo, chỉ huy phối hợp. Nó đã vợt
khỏi phạm vi một xởng, một địa phơng, một ngành và bắt đầu có sự
liên kết thành phong trào chung.
Cuộc đấu tranh sôi nổi quyết liệt
hơn, tính chất tự phát giảm đi thay
bằng những cuộc đấu tranh có ý
thức tổ chức với quy mô ngày càng
lớn và trong phong trào đấu tranh
tinh thần quốc tế đã đợc biểu lộ
(nh các cuộc đấu tranh kỷ niệm
ngày 1/5, kỷ niệm CMT10 Nga

7/11/1929). Điều đó chứng tỏ trình
độ giác ngộ chính trị của g/c CN từ
chỗ chỉ là một lực lợng trong phong
trào yêu nớc g/c CN dần dần vơn
lên vị trí chủ thể của lịch sử, dần
dần trở thành một lực lợng chính
trị độc lập có tác dụng lôi cuốn quy
tụ và dẫn đầu phong trào yêu nớc
nói chung. Chính sự phát triển của
phong trào CN đã dẫn tới sự ra đời
của ba tổ chức cộng sản tiền thân
của Đảng cộng sản ở Việt Nam.
Trớc tình hình phong trào CN và
phong trào yêu nớc phát triển yêu
cầu thành lập một chính đảng của
g/c CN đặt ra gay gắt. Hội
VNCMTN đã bộc lộ rõ tính hạn chế
lịch sử của mình nên không đủ sức
để giơng cao ngọn cờ tiên phong
lãnh đạo DTDC đợc nữa. Cuối
tháng 3/1929 với sự nhạy bén về
chính trị một số hội viên tiên tiến
của Hội VNCMTN ở Bắc Kỳ đã lập
ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt
Nam gồm 7 ngời tiêu biểu là Ngô
Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh. Tại
Đại hội lần 1 (tháng 5/1929) của
Hội VNCMTN họp tại Hơng Cảng
đoàn đại biểu Bắc Kỳ đã đặt vấn đề
là phải thành lập ngay Đảng cộng


sản để thay thế Hội VNCMTN nhng
không đợc chấp nhận. Điều này
dẫn tới sự tan rã của Hội
VNCMTN. Tháng 6/1929 đại biểu
các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền
Bắc đã họp đại hội ở số nhà 312
phố Khâm Thiên - Hà Nội quyết
định thành lập ĐDCSĐ.
Đại hội đã thông qua tuyên ngôn,
điều lệ của Đảng, ra báo "Búa
liềm" làm cơ quan ngôn luận và cử
ra BCHTW Đảng. ĐDCSĐ tiếp tục
mở rộng tổ chức cơ sở Đảng trong
nhiều địa phơng ở Bắc Kỳ, Trung
Kỳ và Nam Kỳ.
Tổ chức "Công hội đỏ" cũng đợc
mở rộng, một số nơi đã thành lập đợc tổ chức cấp tỉnh, thành phố nh
Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng,
Hòn Gai... Ngày 28/7/1929 Hội
nghị đại biểu Công hội đỏ Bắc Kỳ
lần 1 đã họp ở Hà Nội. Nguyễn Đức
Cảnh đứng đầu BCH của hội. Do
ảnh hởng của Đảng nhiều cuộc bãi
công đã nổ ra ở Hải Phòng, Hà
Nội, Nam Định đòi tăng lơng, bớt
giờ làm, cấm đánh đập v.v...
Sau khi ĐDCSĐ ra đời tháng
7/1929 các cán bộ lãnh đạo tiên
tiến trong Tổng bộ và kỳ bộ của Hộ

VNCMTN ở Nam Kỳ cũng quyết
định thành lập ANCSĐ ra tờ báo
"Đỏ" ở Hơng Cảng để tuyên truyền
về trong nớc. Đảng đã tích cực vận
động để thống nhất với ĐDCSĐ rồi
liên lạc với QTCS và một số Đảng
cộng sản trên TG. Đảng đã đẩy
mạnh cuộc vận động phát triển tổ
chức Đảng, tổ chức công hội, nông
hội, đoàn thanh niên, nhiều cuộc
bãi công đã nổ ra ở Nam Kỳ vào
cuối 1929.
Khi ĐDCSĐ và ANCSĐ ra đời
trong TVCMĐ đã diễn ra cuộc đấu
tranh gay gắt giữa hai khuynh hớng t tởng là CM và cải lơng. Bộ
phận tích cực nhất trong Tân Việt
đã quyết định li khai khỏi Tổng bộ
rồi tuyên bố thành lập ĐDCSLĐ
vào tháng 9/1929. ĐDCSLĐ ra đời
đã thể hiện tinh thần yêu nớc và
nguyện vọng cứu nớc của thanh
niên trí thức tiểu t sản Việt Nam .
Đánh dấu một bớc ngoặt trên con đờng phát triển của Tân Việt từ một
đảng tiểu t sản khuynh "tả" đã
phân hoá chuyển thành một tổ chức
cộng sản. Sự chuyển hoá của Tân
Việt theo Hội VNCMTN phù hợp
với xu thế phát triển khách quan
của phong trào yêu nớc lúc đó, nó
góp phần làm suy yếu và đánh bại

chủ nghĩa cải lơng, chủ nghĩa dân
tộc hẹp hòi và tăng cờng sức mạnh


cho g/c VS trong cuộc đấu tranh
giành quyền lãnh đạo CMVN.
Nh vậy là chỉ trong vòng 6 tháng ở
Việt Nam đã xuất hiện 3 tổ chức
cộng sản. Sự ra đời của 3 t/c cộng
sản lúc bấy giờ là một xu thế khách
quan của CM gpdt ở Việt Nam đã
đáp ứng đúng nguyện vọng của g/c
CN, của các tầng lớp nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Khẳng
định bớc phát triển nhảy vọt của
CM nớc ta chứng tỏ t tởng cộng sản
đang ảnh hởng và phát triển trong
phong trào dân tộc chiếm u thế.
Chứng tỏ những điều kiện để ra đời
Đảng cộng sản ở Việt Nam đã chín
muồi.
Các tổ chức cộng sản trên đã
nhanh chóng phát triển tổ chức cơ
sở Đảng trong phong trào CN, trực
tiếp tổ chức lãnh đạo các cuộc đấu
tranh của CN do đó đã thúc đẩy
phong trào CN phát triển mạnh mẽ.
Song ba tổ chức đó đều hoạt động
riêng rẽ, tranh giành ảnh hởng
thậm chí còn phê bình công kích

lẫn nhau gây nên một trở ngại lớn
cho sự phát triển của phong trào
CN và phong trào CM cả nớc. Yêu
cầu cấp bách lúc đó của CMVN là
phải có một Đảng thống nhất trong
cả nớc. NAQ đã thực hiện vai trò
lịch sử là thống nhất các tổ chức
cộng sản lại thành ĐCSVN tại Hội
nghị Hơng Cảng 3/2/1930. Từ đây,
g/c CNVN đã có một chính đảng
của g/c mình, có đờng lối, cơng lĩnh
chính trị đúng đắn vì vậy sự kiện
trọng đại này đã đánh dấu g/c
CNVN hoàn toàn trở thành g/c tự
giác, đủ sức đảm nhận sứ mệnh lịch
sử vẻ vang là lãnh đạo CMVN.
Nh vậy, chính phong trào CN là
miếng đất tốt để CN M - L ăn sâu
bám rễ khi NAQ truyền bá vào nớc
ta và từ đó làm cho phong trào CN
phát triển mạnh mẽ, có ý thức chính
trị rõ rệt, cùng với sự phát triển của
phong trào yêu nớc nói chung đòi
hỏi phải có sự lãnh đạo của tổ chức
Đảng, CM tiên phong. Các tổ chức
cộng sản lần lợt ra đời là sản phẩm
của sự kết hợp giữa CN M - L với
phong trào CN và phong trào yêu
nớc của nhân dân Việt Nam trong
đó phong trào công nhân là một

nhân tố quan trọng nhất để hình
thành ĐCSVN. Và sự ra đời của
ĐCSVN là sự "thăng hoa" của
phong trào đấu tranh do g/c công
nhân lãnh đạo.

Đề 6: Hoàn cảnh NAQ ra
đi tìm đờng cứu nớc và
chọn con đờng cứu nớc.
Bài làm.
CN M- L khẳng định rằng quần
chúng là ngời sáng tạo ra lịch sử
nhng đồng thời cũng chỉ rõ vai trò
và tác dụng của cá nhân, của lãnh
tụ, những nhà lãnh đạo, những
nhân vật kiệt xuất trong sự phát
triển của xã hội. ĐCSVN ra đời do
sự đóng góp của nhiều ngời nhng
NAQ là ngời có công lao to lớn
nhất.
Vào cuối TK XIX phong trào chống
Pháp diễn ra sôi nổi điển hình là
phong trào Cần Vơng do các sĩ phu
văn thân yêu nớc lãnh đạo nhng
đều thất bại. Sang đầu TK XX cùng
với những biến chuyển của nền
kinh tế và xã hội là những ảnh hởng của t tởng dân chủ t sản từ
Trung Quốc và cuộc vận động Duy
Tân ở Nhật dội vào. Phong trào
CMVN lại bùng lên mạnh mẽ với

nhiều hình thức phong phú. Mặc
dù vẫn do những sĩ phu phong kiến
lãnh đạo nhng đã mang nội dung t
sản, dới ảnh hởng của hệ t tởng t
sản các phong trào đấu tranh của
dân tộc ta so với thời kỳ trớc đã tiến
bộ hơn (Cần Vơng đấu tranh gpdt
theo hệ t tởng phong kiến sang đến
Duy Tân đấu tranh để lập ra chính
quyền t sản) nhng vẫn cha kết hợp
việc giải quyết hai mâu thuẫn của
xã hội Việt Nam. Họ không hiểu
rằng nội dung đấu tranh để thực
hiện dân chủ ở một nớc nông
nghiệp lạc hậu nh Việt Nam là làm
cho ngời cày có ruộng. Họ chỉ
chống đế quốc đến một mức độ
nhất định chứ cha nhằm xóa bỏ
quan hệ sản xuất phong kiến, cha
nhận thức rõ đối tợng của CMVN
là đế quốc và phong kiến. Cho nên,
có ngời dựa vào đế quốc này để
đánh đế quốc kia, có ngời dựa vào
đế quốc để canh tân đất nớc nh hai
cụ Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh, tuy có khác nhau về phơng
pháp, đờng đi, nớc bớc nhng cả hai
sau lần ấy đều tập trung phản ánh
một vấn đề cơ bản là sự bế tắc về đờng lối, muốn tìm lối thoát cho dân tộc
mà không đợc nên rơi vào mâu thuẫn,

lúng túng.
Hoàn cảnh trên chỉ rõ rằng cứu nớc
gpdt đã trở thành yêu cầu bức thiết
nhất của toàn thể dân tộc song lúc này

CMVN đang đứng trớc một cuộc
khủng hoảng về đờng lối lãnh đạo.
NAQ sinh ra và lớn lên trong hoàn
cảnh đất nớc bị thực dân Pháp xâm
lợc và thống trị, nhân dân ta trở
thành nô lệ, cuộc sống đói khổ lầm
than, lại xuất thân trong một gia
đình nhà nho yêu nớc, ở một quê hơng có truyền thống yêu nớc và đấu
tranh điều đó đã nung nấu lòng
yêu nớc thơng dân của ngời thanh
niên Nguyễn Tất Thành về quyết
tâm ra đi tìm đờng cứu nớc. Rút
kinh nghiệm thất bại của các sĩ phu
yêu nớc đơng thời NAQ không đi về
phơng Đông mà đi sang phơng Tây
- nơi có khoa học kỹ thuật phát
triển với một nhận thức đúng đắn
là muốn đánh đuổi kẻ thù phải biết
rõ kẻ thù đó. Điều này có tầm quan
trọng to lớn để NAQ đi đến với CN
M - L sau này.
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành
dới tên Văn Ba bắt đầu đi vào cuộc
sống mới trên tàu LatutsơTrêvin
bằng nghề làm phụ bếp, quá trình

lao động đó đã biến NAQ trở thành
ngời công nhân. Trong quá trình
tìm đờng cứu nớc từ 1911 - 1918,
NAQ đã đi nhiều nơi ở châu á,
châu Âu, châu Mỹ và làm nhiều
nghề lao động khác nhau để kiếm
sống và hoạt động CM vì vậy Ngời
có dịp tiếp xúc với phong trào quần
chúng ở những nớc đó, để từ đó
thấy rõ cảnh bất công tàn bạo của
xã hội t bản, và vô cùng xúc động
trớc đời sống khổ cực của g/c công
nhân và nhân dân lao động các nớc
không kể da trắng, da vàng hay da
đen; đồng thời thấy rõ ở đâu ngời
dân mất nớc cũng bị khổ nhục nh
nhau, ở đâu g/c công nhân và nhân
dân lao động cũng bị áp bức bóc lột
dã man. Các dân tộc thuộc địa đều
có một kẻ thù không đội trời chung
là bọn đế quốc thực dân...Ngời rút
ra kết luận quan trọng về bạn và
thù: ở đâu nhân dân lao động cũng
là bạn và ở đâu bọn đế quốc cũng
là kẻ thù. Đây là những vấn đề có ý
nghĩa chiến lợc không những đối
với CMVN mà còn đối với CM ở các
nớc thuộc địa khác.
Cùng thời gian này Ngời còn tham
gia vào cuộc đấu tranh đòi cho

binh lính và thợ thuyền Việt Nam
sớm đợc hồi hơng. Bác tham gia
hoạt động trong phong trào CN
Pháp. Năm 1919 Ngời ra nhập
Đảng xã hội Pháp - một Đảng tiến

bộ chủ trơng chống lại các chính
sách áp bức bóc lột của TDP ở
thuộc địa.
Hoạt động có tiếng vang mạnh mẽ
và ảnh hởng sâu rộng hơn nữa là
sau chiến tranh TG 1 các nớc đế
quốc thắng trận đã họp Hội nghị để
phân chia lại thị trờng TG ở
Vecxay. Thay mặt những ngời Việt
Nam yêu nớc ngày 18/6/1919 NAQ
đã đa Bản yêu sách 8 điểm đòi
quyền lợi cho nhân dân Việt Nam,
đòi quyền tự do ngôn luận, đi lại,
tín ngỡng, hội họp, bình đẳng,
quyền tự quyết... Ngời đã gửi đăng
Bản yêu sách trên báo "Dân
chúng" của Đảng xã hội Pháp và
in thành truyền đơn gửi đến các
đoàn đại biểu các nớc. Tất nhiên
bọn đế quốc không thể nào đáp
ứng những yêu cầu của NAQ. Song
bản yêu sách là lời nói chính nghĩa
của đại biểu đầu tiên cho phong
trào gpdt Việt Nam trên diễn đàn

quốc tế. Ngời đã dũng cảm đứng
lên đấu tranh đòi những quyền lợi
chính đáng của nhân dân ta ngay
tại sào huyệt của bọn TDP. Bản yêu
sách đã bớc đầu vạch ra cho toàn
TG biết những tội ác của bọn đế
quốc Pháp ở Việt Nam, đồng thời
đã làm cho g/c công nhân, các tổ
chức bắt đầu chú ý đến tình hình
Việt Nam dới ách thống trị của đế
quốc Pháp.
Cuộc đấu tranh của NAQ tại Hội
nghị Vecxay là đòn tấn công trực
diện đầu tiên của nhà CM trẻ tuổi
Việt Nam vào bọn trùm đế quốc. Từ
đây Ngời rút ra một bài học quan
trọng đó là: những tuyên bố về tự
do, dân chủ của bọn đế quốc chỉ là
những lời đờng mật cốt để lừa bịp
các dân tộc bị áp bức. Vì vậy, muốn
đợc độc lập và tự do, các dân tộc bị
áp bức phải trông cậy trớc hết vào
lực lợng của bản thân mình, ngời
Việt Nam phải tự giải phóng lấy
mình. Và "chỉ có giải phóng g/c vô
sản thì mới giải phóng đợc dân tộc,
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản của cách mạng thế giới".
Kết luận ấy có giá trị lý luận và

thực tiễn rất lớn, nó soi sáng con đờng đấu tranh cách mạng của nhân
dân ta và nhân dân các nớc thuộc
địa khác.
Sau CMT10 Nga thành công,
phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu

năm 1919, Lênin và những ngời
theo chủ nghĩa Mác họp đại hội ở
Matxcơva, thành lập Quốc tế ba tức
là Quốc tế cộng sản. Đây là những
sự kiện trọng đại có tác động mạnh
mẽ tới phong trào CMTG và tới các
chiến sĩ chống áp bức trong đó có
NAQ.
Tháng 7/1920 NAQ đọc đợc "Sơ
thảo lần thứ nhất luận cơng về vấn
đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin
trong đó khẳng định lập trờng kiên
quyết ủng hộ phong trào gpdt ở các
nớc phơng Đông của QTCS. Luận
cơng của Lênin đã mang đến cho
Ngời một nguồn ánh sáng chói lọi.
Ngời rất đỗi cảm động và vui mừng
khôn xiết, thấy đó là "cái cần thiết
cho chúng ta, là con đờng giải
phóng cho chúng ta". Ngời khẳng
định "chủ nghĩa M - L... không
những là cái "cẩm nang" thần kỳ,
không những là cái kim chỉ nam,

mà còn là mặt trời soi sáng con đờng chúng ta đi tới thắng lợi cuối
cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản". Có thể nói
Luận cơng của Lênin đã chỉ rõ cho
NAQ con đờng dành độc lập và tự
do cho đồng bào đã có tác động
mạnh mẽ tới nhận thức và chuyển
biến t tởng của NAQ. Từ đây Ngời
hoàn toàn tin theo Lênin và QTCS niềm tin ấy là cơ sở t tởng để Ngời
vững bớc đi theo con đờng CM triệt
để của CN M - L.
Ngày 25/12/1920, tại đại hội của
Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, với cơng vị là đại biểu chính thức và duy
nhất của các nớc thuộc địa và cũng
là ngời Việt Nam đầu tiên tham dự
đại hội của một chính đảng Pháp.
NAQ đã bỏ phiếu tán thành gia
nhập Quốc tế ba và trở thành một
trong những ngời tham gia sáng
lập Đảng cộng sản Pháp.
Sự kiện NAQ tham gia sáng lập
ĐCSP và là ngời cộng sản Việt
Nam đầu tiên đã đánh dấu bớc
nhảy vọt về chất trong quá trình
chuyển biến t tởng của NAQ. NAQ
đã đến với CN M - L, đọc nó, tiếp
thu nó và biến nó thành lẽ sống, lý
tởng của bản thân và của dân tộc.
Từ một ngời yêu nớc chân chính
Ngời đã trở thành một ngời cộng

sản, Ngời đã tìm ra con đờng CM
đúng đắn cho nhân dân Việt Nam:
con đờng theo CN M - L, con đờng
kết hợp đấu tranh gpdt với giải
phóng ngời lao động: "muốn cứu

4

nớc và giải phóng dân tộc không có
con đờng nào khác, con đờng
CMVS".
Nếu nh cuộc đấu tranh của Ngời
trong Hội nghị Vec xay năm 1919
mới là phát pháo hiệu thức tỉnh
nhân dân ta trong sự nghiệp đấu
tranh chống thực dân Pháp thì sự
kiện Ngời đọc bản Sơ thảo của
Lênin và trở thành ngời cộng sản
đầu tiên đã cắm mốc mở đờng giải
quyết cuộc khủng hoảng về đờng
lối giải phóng dân tộc Việt Nam.
Mở ra một bớc ngoặt mới cho
CMVN.

Đề 7: Trình bày quá trình
truyền bá CN M - L vào
Việt Nam của NAQ ( quá
trình chuẩn bị về t tởng,
chính trị và tổ chức cho
việc thành lập ĐCSVN).


Bài làm.
CN M- L khẳng định rằng quần
chúng là ngời sáng tạo ra lịch sử
nhng đồng thời cũng chỉ rõ vai trò
và tác dụng của cá nhân, của lãnh
tụ, những nhà lãnh đạo, những
nhân vật kiệt xuất trong sự phát
triển của xã hội. ĐCSVN ra đời do
sự đóng góp của nhiều ngời nhng
NAQ là ngời có công lao to lớn
nhất.
Từ khi trở thành chiến sĩ cộng sản
và tìm ra con đờng cứu nớc đúng
đắn cho dân tộc đó là con đờng đi
theo học thuyết Mác - Lênin, NAQ
đã tích cực truyền bá CN M - L vào
Việt Nam kết hợp với phong trào
CN, phong trào yêu nớc để chuẩn
bị về t tởng, chính trị và tổ chức cho
việc thành lập ĐCSVN.
Năm 1921 đợc sự giúp đỡ của
ĐCSP Ngời đã cùng với những nhà
yêu nớc thuộc địa Pháp đã lập ra
"Hội liên hiệp các dân tộc thuộc
địa" để đoàn kết các lực lợng CM
chống CNTD, thông qua tổ chức đó
mà đem CN M - L đến với các dân
tộc thuộc địa. Đây là một hình thức
mặt trận thống nhất của nhân dân

các nớc thuộc địa, nhằm đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc, vì độc
lập và tự do của các dân tộc bị áp
bức.
Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
năm 1922, tờ báo "Ngời cùng khổ"
do Ngời làm chủ nhiệm kiêm chủ
bút đã vạch trần chính sách đàn áp,
bóc lột dã man của chủ nghĩa đế
quốc nói chung và của đế quốc
Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân
tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự
giải phóng. Ngời còn viết nhiều bài
cho các báo "Nhân đạo" (của
ĐCSP), báo "Đời sống công nhân"
(của Tổng liên đoàn lao động

Pháp)... Đặc biệt, trong thời gian
này, Ngời đã viết tác phẩm nổi tiếng
"Bản án chế độ thực dân Pháp".
Các hoạt động của Ngời đã xây
dựng mối quan hệ gắn bó giữa
những ngời cộng sản và nhân dân
lao động Pháp với các nớc thuộc
địa và phụ thuộc.
Các sách báo này mặc dù bị nhà
cầm quyền Pháp cấm nhng vẫn bí
mật đợc đa về Việt Nam gây ảnh hởng to lớn. Nhân dân ta trớc hết là
những ngời tiểu t sản trí thức yêu nớc tiến bộ nhờ đọc sách báo đó hiểu
rõ hơn bản chất của CNĐQ nói

chung, đế quốc Pháp nói riêng,
hiểu đợc CMT10 Nga và đã hớng về
CN M- L. Những sách báo ấy đợc đa về Việt Nam đúng lúc phong trào
dân tộc dân chủ ở Việt Nam đang
trên đà phát triển mạnh càng có
thêm điều kiện thuận lợi để đi sâu
vào các tầng lớp nhân dân, phát
huy ảnh hởng tích cực sâu rộng.
Giữa năm 1923 Ngời từ Pháp sang
Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông
dân (10/1923) và đợc bầu vào Ban
chấp hành hội. Sau đó, Ngời ở lại
Liên Xô một thời gian vừa nghiên
cứu học tập, làm việc ở Quốc tế
cộng sản, viết bài cho báo "Sự
thật" của ĐCSLX, "Tạp chí th tín
quốc tế" - cơ quan ngôn luận của
QTCS. Ngời tìm hiểu chế độ Xô
Viết nghiên cứu kinh nghiệm tổ
chức Đảng kiểu mới của Lênin về
các vấn đề dân tộc và thuộc địa đặc
biệt tại Đại hội QTCS lần V (1924)
NAQ đã trình bày bản tham luận về
vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã nêu
lên những quan điểm cơ bản về
chiến lợc CM gpdt. Thời kỳ này Ngời còn tiếp tục phát triển thêm về t tởng CM gpdt. Tất cả các bài viết
của Ngời đã vũ trang cho những ngời yêu nớc Việt Nam nhiều quan
điểm.Thấm nhuần quan điểm của
Lênin, Ngời khẳng định cách mạng
thuộc địa phải đợc đặt ngang với cách

mạng vô sản ở chính quốc.
Về chiến lợc CM gpdt ở các nớc
thuộc địa phải gắn liền với giải
phóng g/c, độc lập dân tộc phải gắn
liền với CNXH.
Về vị trí của CM: CM gpdt ở các bớc thuộc địa là một bộ phận khăng
khít của CMVS ở chính quốc có
quan hệ với CMVS ở chính quốc
song không phụ thuộc vào CMVS ở
chính quốc, không ỷ lại trông chờ
vào CMVS của chính quốc.
Về nhiệm vụ CM: Ngời khẳng định
CM của các nớc thuộc địa là một
cuộc "dân tộc cách mệnh" có
nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai
thực hiện độc lập dân tộc từng bớc

thực hiện khẩu hiệu "ngời cày có
ruộng".
Về động lực cách mạng: Ngời
khẳng định g/c nông dân là một lực
lợng CM to lớn, một động lực mạnh
của CM. Nông dân và công nhân là
hai bạn đồng minh tự nhiên phải
giải phóng cho nông dân. Song g/c
nông dân muốn giải phóng phải
đặt dới sự lãnh đạo của g/c công
nhân.
Về lực lợng CM: Ngời chỉ rõ công nông là gốc CM cần phải tập hợp
bầu bạn CM của công nông nh học

trò, nhà buôn nhỏ, địa chủ nhỏ... và
phải thực hiện đoàn kết quốc tế.
Về phơng pháp cách mạng: phải lãnh
đạo tổ chức quần chúng đấu tranh để
tiến lên lật đổ g/c thống trị. CM là việc
chung của cả dân chúng chứ không
phải việc của một vài ngời.
Về lãnh đạo CM: Ngời chỉ rõ sự
lãnh đạo của một Đảng CM là điểm
cốt tử đầu tiên của Đảng CM, Đảng
đó phải theo CN M - L.
Những quan điểm trên của NAQ đợc hình thành dới ánh sáng của CN
M - L, đợc truyền bá vào Việt Nam
đã chuẩn bị về t tởng và chính trị
cho việc thành lập ĐCSVN.
Sau một thời gian ở Liên Xô học
tập cuối 1924 NAQ về Quảng Châu
(Trung Quốc). Đây là thời kỳ Ngời
chuẩn bị toàn diện, tích cực, trực
tiếp cho việc thành lập đảng mà
trong đó nổi bật là về tổ chức. ở
đây Ngời đã tìm hiểu hoạt động của
các tổ chức CMVN. Ngời đã thấy rõ
nhợc điểm của những ngời lãnh
đạo các tổ chức ấy là không hiểu
chính trị lại càng không hiểu về tổ
chức quần chúng. Ngời đã chọn
một số thanh niên trong các tổ chức
ấy và thanh niên từ trong nớc sang
thành lập ra Hội VNCMTN (tháng

6/1925). Việc thành lập Hội
VNCMTN đã mở ra một thời kỳ
hoạt động cao hơn của NAQ nhằm
đào tạo một đội ngũ cán bộ đem CN
M - L về truyền bá vào trong nớc
gây dựng cơ sở cho việc thành lập
Đảng của g/c CNVN. Cùng thời
gian này tháng 7/1925 Ngời còn
sáng lập ra "Hội liên hiệp các dân
tộc bị áp bức ở á Đông" có quan hệ
chặt chẽ với Hội VNCMTN.
Đầu năm 1927, những bài giảng
của NAQ tại các lớp huấn luyện
chính trị ở Quảng Châu đợc xuất
bản thành sách "Đờng Kách
mệnh". Mục đích của sách là để nói
cho đồng bào ta biết rõ :"Vì sao
chúng ta muốn sống thì phải cách
mệnh. Vì sao cách mệnh là việc
chung của dân chúng chứ không
phải việc của một hai ngời. Đem


lịch sử cách mệnh các nớc làm gơng cho chúng ta soi. Đem phong
trào thế giới nói cho đồng bào ta
rõ. Ai là bạn ta? Ai là thù ta? Cách
mệnh thì phải làm thế nào?".
Thông qua tác phẩm này cũng thể
hiện mục đích giáo dục của Ngời.
Tác phẩm còn chỉ rõ về động lực

của cách mạng Việt Nam: công
nông là gốc cách mạng, còn học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là
bầu bạn của công nông. Tác phẩm
nhấn mạnh tầm quan trọng của đại
đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung và mối
quan hệ giữa cách mạng thuộc địa
với cách mạng vô sản thế giới.
Nhân tố quyết định thắng lợi của
CMVN là sự lãnh đạo của Đảng
theo CN M - L.
Báo "Thanh niên" và sách "Đờng
cách mệnh" là cơ sở lý luận cách
mạng đồng thời đã vũ trang lý luận
CM cho các cán bộ của Hội
VNCMTN có giá trị giáo dục lòng
yêu nớc sâu sắc đối với thanh niên,
đối với CM quần chúng nớc ta thời
kỳ đó theo nội dung mới: cứu nớc
gắn liền với CM. Vì vậy mà tổ chức
VNCMTN phát triển rất nhanh
chóng. Năm 1928 có gần 300 hội
viên đến năm 1929 đã tăng lên
1700 hội viên.
Hội VNCMTN là một tổ chức CM
theo t tởng CMVS đây là một tổ
chức có tính quá độ nhằm chuẩn bị
cho việc thành lập Đảng cộng sản
về sau. Từ việc nắm vững đặc trng

của lớp thanh niên nhất là thanh
niên học sinh - sinh viên, tiểu t sản,
trí thức - một lực lợng yêu nớc nhiệt
tình tha thiết với độc lập tự do của
dân tộc và nhạy cảm với các trào lu
t tởng tiến bộ của thời đại. Ngời đã
tuyên truyền giáo dục, vận động họ
đi từ CN yêu nớc đến CN cộng sản.
Từ một hội thanh niên yêu nớc và
CM tiến lên tổ chức thành Đảng
cộng sản là một sáng tạo độc đáo
trong công cuộc tuyên truyền, tổ
chức CM của NAQ.
Sau thời gian ở Trung Quốc, từ
1927 - 1929 Bác từ Trung Quốc trở
lại Nga sang Đức rồi về Thái Lan.
Ngời đã xây dựng cơ sở CM trong
kiều bào nhng Ngời vẫn tiếp tục
chuẩn bị ở trong nớc. Từ cuối năm
1928, với phong trào "vô sản hóa"
Hội VNCMTN đã đa hội viên vào
các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền...
để tự rèn luyện và truyền bá CN M L vào Việt Nam đã góp phần kết
hợp CN M - L vào phong trào CN
và phong trào yêu nớc. Một đội ngũ
những ngời CM kiểu mới do NAQ
đào tạo đã trởng thành. Hoạt động
của Hội VNCMTN đã gây tiếng

vang to lớn, ảnh hởng tới cả các tổ

chức yêu nớc khác (Tân Việt
chuyển dần hoạt động của mình
theo khuynh hớng cộng sản chủ
nghĩa) làm cho phong trào CN,
nông dân, tiểu t sản và các tầng lớp
nhân dân khác phát triển mạnh mẽ.
Những điều kiện để thành lập
chính đảng Mác xít ở ĐD đã dần
dần hình thành đó là sự ra đời của
ba tổ chức cộng sản.
Nh vậy, NAQ là ngời Việt Nam đầu
tiên du nhập CN M - L vào sự
nghiệp của nhân dân ta. Ngời đã
mở ra kỉ nguyên mới trong phong
trào gpdt Việt Nam: kỉ nguyên của
CN yêu nớc kết hợp với CNXH. Ngời đã chấm dứt thời kỳ mò mẫm
chân lý cứu nớc và mở ra thời kỳ
CMVN đi vào phơng hớng đúng
đắn, hòa nhịp với phong trào
CMTG. Xu hớng của CMTG từ sau
CMT10 là CMVS đồng thời mở ra
thời kỳ phát triển nhảy vọt trong
cuộc vận động gpdt của nhân dân
ta trực tiếp chuẩn bị về t tởng chính
trị, tổ chức cho việc thành lập
ĐCSVN.

Đề 8: Vai trò của lãnh tụ
NAQ trong việc thành lập
ĐCSVN.

Bài làm.
CN M- L khẳng định rằng quần
chúng là ngời sáng tạo ra lịch sử
nhng đồng thời cũng chỉ rõ vai trò
và tác dụng của cá nhân, của lãnh
tụ, những nhà lãnh đạo, những
nhân vật kiệt xuất trong sự phát
triển của xã hội. ĐCSVN ra đời do
sự đóng góp của nhiều ngời nhng
NAQ là ngời có công lao to lớn
nhất.
Vào cuối TK XIX phong trào chống
Pháp diễn ra sôi nổi điển hình là
phong trào Cần Vơng do các sĩ phu
văn thân yêu nớc lãnh đạo nhng
đều thất bại. Sang đầu TK XX cùng
với những biến chuyển của nền
kinh tế và xã hội là những ảnh hởng của t tởng dân chủ t sản từ
Trung Quốc và cuộc vận động Duy
Tân ở Nhật dội vào. Phong trào
CMVN lại bùng lên mạnh mẽ với
nhiều hình thức phong phú. Mặc
dù vẫn do những sĩ phu phong kiến
lãnh đạo nhng đã mang nội dung t
sản, dới ảnh hởng của hệ t tởng t
sản các phong trào đấu tranh của
dân tộc ta so với thời kỳ trớc đã tiến
bộ hơn (Cần Vơng đấu tranh gpdt
theo hệ t tởng phong kiến sang đến
Duy Tân đấu tranh để lập ra chính

quyền t sản) nhng vẫn cha kết hợp

việc giải quyết hai mâu thuẫn của
xã hội Việt Nam. Họ không hiểu
rằng nội dung đấu tranh để thực
hiện dân chủ ở một nớc nông
nghiệp lạc hậu nh Việt Nam là làm
cho ngời cày có ruộng. Họ chỉ
chống đế quốc đến một mức độ
nhất định chứ cha nhằm xóa bỏ
quan hệ sản xuất phong kiến, cha
nhận thức rõ đối tợng của CMVN
là đế quốc và phong kiến. Cho nên,
có ngời dựa vào đế quốc này để
đánh đế quốc kia, có ngời dựa vào
đế quốc để canh tân đất nớc nh hai
cụ Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh, tuy có khác nhau về phơng
pháp, đờng đi, nớc bớc nhng cả hai
sau lầm ấy đều tập trung phản ánh
một vấn đề cơ bản là sự bế tắc về đờng lối, muốn tìm lối thoát cho dân tộc
mà không đợc nên rơi vào mâu thuẫn,
lúng túng.
Hoàn cảnh trên chỉ rõ rằng cứu nớc gpdt
đã trở thành yêu cầu bức thiết nhất của
toàn thể dân tộc song lúc này CMVN
đang đứng trớc một cuộc khủng hoảng về
đờng lối lãnh đạo.
NAQ sinh ra và lớn lên trong hoàn
cảnh đất nớc bị thực dân Pháp xâm

lợc và thống trị, nhân dân ta trở
thành nô lệ, lại xuất thân trong một
gia đình nhà nho yêu nớc, ở một
quê hơng có truyền thống yêu nớc
và đấu tranh điều đó đã nung nấu
lòng yêu nớc thơng dân của ngời
thanh niên Nguyễn Tất Thành về
quyết tâm ra đi tìm đờng cứu nớc.
Rút kinh nghiệm thất bại của các sĩ
phu yêu nớc đơng thời NAQ không
đi về phơng Đông mà đi sang phơng Tây - nơi có khoa học kỹ thuật
phát triển với một nhận thức đúng
đắn là muốn đánh đuổi kẻ thù phải
biết rõ kẻ thù đó. Điều này có tầm
quan trọng to lớn để NAQ đI đến
với CN M - L sau này.
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành
dới tên Văn Ba bắt đầu đi vào cuộc
sống mới trên tàu LatutsơTrêvin
bằng nghề làm phụ bếp, quá trình
lao động đó đã biến ngời thành
công nhân. Trong quá trình tìm đờng cứu nớc từ 1911 - 1918, NAQ
đã đi nhiều nơi ở châu á, châu Âu,
châu Mỹ và làm nhiều nghề lao
động khác nhau để kiếm sống và
hoạt động CM vì vậy Ngời có dịp
tiếp xúc với phong trào quần chúng
ở những nớc đó, để từ đó thấy rõ
cảnh bất công tàn bạo của xã hội t
bản, và vô cùng xúc động trớc đời


sống khổ cực của g/c công nhân và
nhân dân lao động các nớc không
kể da trắng, da vàng hay da đen;
đồng thời thấy rõ ở đâu ngời dân
mất nớc cũng bị khổ nhục nh nhau,
ở đâu g/c công nhân và nhân dân
lao động cũng bị áp bức bóc lột dã
man. Các dân tộc thuộc địa đều có
một kẻ thù không đội trời chung là
bọn đế quốc thực dân...Ngời rút ra
kết luận quan trọng về bạn và thù:
ở đâu nhân dân lao động cũng là
bạn và ở đâu bọn đế quốc cũng là
kẻ thù. Đây là những vấn đề có ý
nghĩa chiến lợc không những đối
với CMVN mà còn đối với CM ở các
nớc thuộc địa khác.
Cùng thời gian này Ngời còn tham
gia vào cuộc đấu tranh đòi cho
binh lính và thợ thuyền Việt Nam
sớm đợc hồi hơng. Bác tham gia
hoạt động trong phong trào CN
Pháp. Năm 1919 Ngời ra nhập
Đảng xã hội Pháp - một Đảng tiến
bộ chủ trơng chống lại các chính
sách áp bức bóc lột của TDP ở
thuộc địa.
Hoạt động có tiếng vang mạnh mẽ
và ảnh hởng sâu rộng hơn nữa là

sau chiến tranh TG 1 các nớc đế
quốc thắng trận đã họp Hội nghị để
phân chia lại thị trờng TG ở
Vecxay. Thay mặt những ngời Việt
Nam yêu nớc ngày 18/6/1919 NAQ
đã đa Bản yêu sách 8 điểm đòi
quyền lợi cho nhân dân Việt Nam,
đòi quyền tự do ngôn luận, đi lại,
tín ngỡng, hội họp, bình đẳng,
quyền tự quyết... Ngời đã gửi đăng
Bản yêu sách trên báo "Dân
chúng" của Đảng xã hội Pháp và
in thành truyền đơn gửi đến các
đoàn đại biểu các nớc. Tất nhiên
bọn đế quốc không thể nào đáp
ứng những yêu cầu của NAQ. Song
bản yêu sách là lời nói chính nghĩa
của đại biểu đầu tiên cho phong
trào gpdt Việt Nam trên diễn đàn
quốc tế. Ngời đã dũng cảm đứng
lên đấu tranh đòi những quyền lợi
chính đáng của nhân dân ta ngay
tại sào huyệt của bọn TDP. Bản yêu
sách đã bớc đầu vạch ra cho toàn
TG biết những tội ác của bọn đế
quốc Pháp ở Việt Nam, đồng thời
đã làm cho g/c công nhân, các tổ
chức bắt đầu chú ý đến tình hình
Việt Nam dới ách thống trị của đế
quốc Pháp.

Cuộc đấu tranh của NAQ tại Hội
nghị Vecxay là đòn tấn công trực

diện đầu tiên của nhà CM trẻ tuổi
Việt Nam vào bọn trùm đế quốc. Từ
đây Ngời rút ra một bài học quan
trọng đó là: những tuyên bố về tự
do, dân chủ của bọn đế quốc chỉ là
những lời đờng mật cốt để lừa bịp
các dân tộc bị áp bức. Vì vậy, muốn
đợc độc lập và tự do, các dân tộc bị
áp bức phải trông cậy trớc hết vào
lực lợng của bản thân mình, ngời
Việt Nam phải tự giải phóng lấy
mình. Và "chỉ có giải phóng g/c vô
sản thì mới giải phóng đợc dân tộc,
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản của cách mạng thế giới".
Kết luận ấy có giá trị lý luận và
thực tiễn rất lớn, nó soi sáng con đờng đấu tranh cách mạng của nhân
dân ta và nhân dân các nớc thuộc
địa khác.
Sau CMT10 Nga thành công,
phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu
năm 1919, Lênin và những ngời
theo chủ nghĩa Mác họp đại hội ở
Matxcơva, thành lập Quốc tế ba tức
là Quốc tế cộng sản. Đây là những

sự kiện trọng đại có tác động mạnh
mẽ tới phong trào CMTG và các
chiến sĩ chống áp bức trong đó có
NAQ.
Tháng 7/1920 NAQ đọc đợc "Sơ
thảo lần thứ nhất luận cơng về vấn
đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin
trong đó khẳng định lập trờng kiên
quyết ủng hộ phong trào gpdt ở các
nớc phơng Đông của QTCS. Luận
cơng của Lênin đã mang đến cho
Ngời một nguồn ánh sáng chói lọi.
Ngời rất đỗi cảm động và vui mừng
khôn xiết, thấy đó là "cái cần thiết
cho chúng ta, là con đờng giải
phóng cho chúng ta". Ngời khẳng
định "chủ nghĩa M - L... không
những là cái "cẩm nang" thần kỳ,
không những là cái kim chỉ nam,
mà còn là mặt trời soi sáng con đờng chúng ta đi tới thắng lợi cuối
cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản". Có thể nói
Luận cơng của Lênin đã chỉ rõ cho
NAQ con đờng dành độc lập và tự
do cho đồng bào đã có tác động
mạnh mẽ tới nhận thức và chuyển
biến t tởng của NAQ. Từ đây Ngời
hoàn toàn tin theo Lênin và QTCS niềm tin ấy là cơ sở t tởng để Ngời
vững bớc đi theo con đờng CM triệt
để của CN M - L.


5

Ngày 25/12/1920, tại đại hội của
Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, với cơng vị là đại biểu chính thức và duy
nhất của các nớc thuộc địa và cũng
là ngời Việt Nam đầu tiên tham dự
đại hội của một chính đảng Pháp.
NAQ đã bỏ phiếu tán thành gia
nhập Quốc tế ba và trở thành một
trong những ngời tham gia sáng
lập Đảng cộng sản Pháp.
Sự kiện NAQ tham gia sáng lập
ĐCSP và là ngời cộng sản Việt
Nam đầu tiên đã đánh dấu bớc
nhảy vọt về chất trong quá trình
chuyển biến t tởng của NAQ. NAQ
đã đến với CN M - L, đọc nó, tiếp
thu nó và biến thành lẽ sống, lý tởng của bản thân và của dân tộc.
Từ một ngời yêu nớc chân chính
Ngời đã trở thành một ngời cộng
sản, Ngời đã tìm ra con đờng CM
đúng đắn cho nhân dân Việt Nam:
con đờng theo CN M - L, con đờng
kết hợp đấu tranh gpdt với giải
phóng ngời lao động: "muốn cứu
nớc và giải phóng dân tộc không có
con đờng nào khác, con đờng
CMVS".
Nếu nh cuộc đấu tranh của Ngời

trong Hội nghĩ Vec xay năm 1919
mới là phát pháo hiệu thức tỉnh
nhân dân ta trong sự nghiệp đối tợng chống thực dân Pháp thì sự
kiện Ngời đọc bản Sơ thảo của
Lênin và trở thành ngời cộng sản
đầu tiên đã cắm mốc mở đờng giải
quyết cuộc khủng hoảng về đờng
lối giải phóng dân tộc Việt Nam.
Từ khi trở thành chiến sĩ cộng sản
và tìm ra con đờng cứu nớc đúng
đắn cho dân tộc đó là con đờng đi
theo học thuyết Mác - Lênin, NAQ
đã tích cực truyền bá CN M - L vào
Việt Nam kết hợp với phong trào
CN, phong trào yêu nớc để chuẩn
bị về t tởng, chính trị và tổ chức cho
việc thành lập ĐCSVN.
Năm 1921 đợc sự giúp đỡ của
ĐCSP Ngời đã cùng với những nhà
yêu nớc thuộc địa Pháp đã lập ra
"Hội liên hiệp các dân tộc thuộc
địa" để đoàn kết các lực lợng CM
chống CNTD, thông qua tổ chức đó
mà đem CN M - L đến với các dân
tộc thuộc địa. Đây là một hình thức
mặt trận thống nhất của nhân dân
các nớc thuộc địa, nhằm đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc, vì độc
lập và tự do của các dân tộc bị áp
bức.


Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
năm 1922, tờ báo "Ngời cùng khổ"
do Ngời làm chủ nhiệm kiêm chủ
bút đã vạch trần chính sách đàn áp,
bóc lột dã man của chủ nghĩa đế
quốc nói chung và của đế quốc
Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân
tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự
giải phóng. Ngời còn viết nhiều bài
cho các báo "Nhân đạo" (của
ĐCSP), báo "Đời sống công nhân"
(của Tổng liên đoàn lao động
Pháp)... Đặc biệt, trong thời gian
này, Ngời đã viết tác phẩm nổi tiếng
"Bản án chế độ thực dân Pháp".
Các hoạt động của Ngời đã xây
dựng mối quan hệ gắn bó giữa
những ngời cộng sản và nhân dân
lao động Pháp với các nớc thuộc
địa và phụ thuộc.
Các sách báo này mặc dù bị nhà
cầm quyền Pháp cấm nhng vẫn bí
mật đợc đa về Việt Nam gây ảnh hởng to lớn. Nhân dân ta trớc hết là
những ngời tiểu t sản trí thức yêu nớc tiến bộ nhờ đọc sách báo đó hiểu
rõ hơn bản chất của CNĐQ nói
chung, đế quốc Pháp nói riêng,
hiểu đợc CMT10 Nga và đã hớng về
CN M- L. Những sách báo ấy đợc đa về Việt Nam đúng lúc phong trào
dân tộc dân chủ ở Việt Nam đang

trên đà phát triển mạnh càng có
thêm điều kiện thuận lợi để đi sâu
vào các tầng lớp nhân dân, phát
huy ảnh hởng tích cực sâu rộng.
Giữa năm 1923 Ngời từ Pháp sang
Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông
dân (10/1923) và đợc bầu vào Ban
chấp hành hội. Sau đó, Ngời ở lại
Liên Xô một thời gian vừa nghiên
cứu học tập, làm việc ở Quốc tế
cộng sản, viết bài cho báo "Sự
thật" của ĐCSLX, "Tạp chí th tín
quốc tế" - cơ quan ngôn luận của
QTCS. Ngời tìm hiểu chế độ Xô
Viết nghiên cứu kinh nghiệm tổ
chức Đảng kiểu mới của Lênin về
các vấn đề dân tộc và thuộc địa đặc
biệt tại ĐạI hội QTCS lần V (1924)
NAQ đã trình bày bản tham luận về
vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã nêu
lên những quan điểm cơ bản về
chiến lợc CM gpdt. Thời kỳ này Ngời còn tiếp tục phát triển thêm về t tởng CM gpdt. Tất cả các bài viết
của Ngời đã vũ trang cho những
ngời yêu nớc Việt Nam nhiều quan
điểm.Thấm nhuần quan điểm của
Lênin, Ngời khẳng định cách mạng
thuộc địa phải đợc đặt ngang với cách

mạng vô sản ở chính quốc. Những
quan điểm đó của NAQ đợc hình

thành dới ánh sáng của CN M - L,
đợc truyền bá vào Việt Nam đã
chuẩn bị về t tởng và chính trị cho
việc thành lập ĐCSVN.
Sau một thời gian ở Liên Xô học
tập cuối 1924 NAQ về Quảng Châu
(Trung Quốc). Đây là thời kỳ Ngời
chuẩn bị toàn diện, tích cực, trực
tiếp cho việc thành lập đảng mà
trong đó nổi bật là về tổ chức. ở
đây Ngời đã tìm hiểu hoạt động của
các tổ chức CMVN. Ngời đã thấy rõ
nhợc điểm của những ngời lãnh
đạo các tổ chức ấy là không hiểu
chính trị lại càng không hiểu về tổ
chức quần chúng. Ngời đã chọn
một số thanh niên trong các tổ chức
ấy và thanh niên từ trong nớc sang
thành lập ra Hội VNCMTN (tháng
6/1925). Việc thành lập Hội
VNCMTN đã mở ra một thời kỳ
hoạt động cao hơn của NAQ nhằm
đào tạo một đội ngũ cán bộ đem CN
M - L về truyền bá vào trong nớc
gây dựng cơ sở cho việc thành lập
Đảng của g/c CNVN. Cùng thời
gian này tháng 7/1925 Ngời còn
sáng lập ra "Hội liên hiệp các dân
tộc bị áp bức ở á Đông" có quan hệ
chặt chẽ với Hội VNCMTN.

Đầu năm 1827, những bài giảng
của NAQ tại các lớp huấn luyện
chính trị ở Quảng Châu đợc xuất
bản thành sách "Đờng Kách
mệnh". Mục đích của sách là để nói
cho đồng bào ta biết rõ :"Vì sao
chúng ta muốn sống thì phải cách
mệnh. Vì sao cách mệnh là việc
chung của dân chúng chứ không
phải việc của một hai ngời. Đem
lịch sử cách mệnh các nớc làm gơng cho chúng ta soi. Đem phong
trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ.
Ai là bạn ta? Ai là thù ta? Cách
mệnh thì phải làm thế nào?".
Thông qua tác phẩm này cũng thể
hiện mục đích giáo dục của Ngời.
Tác phẩm còn chỉ rõ về động lực
của cách mạng Việt Nam: công
nông là gốc cách mạng, còn học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là
bầu bạn của công nông. Tác phẩm
nhấn mạnh tầm quan trọng của đại
đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung và mối
quan hệ giữa cách mạng thuộc địa
với cách mạng vô sản thế giới.
Nhân tố quyết định thắng lợi của


CMVN là sự lãnh đạo của Đảng

theo CN M - L.
Báo "Thanh niên" và sách "Đờng
cách mệnh" là cơ sở lý luận cách
mạng đồng thời đã vũ trang lý luận
CM cho các cán bộ của Hội
VNCMTN có giá trị giáo dục lòng
yêu nớc sâu sắc đối với thanh niên,
đối với CM quần chúng nớc ta thời
kỳ đó theo nội dung mới: cứu nớc
gắn liền với CM. Vì vậy mà tổ chức
VNCMTN phát triển rất nhanh
chóng. Năm 1928 có gần 300 hội
viên đến năm 1929 đã tăng lên
1700 hội viên.
Hội VNCMTN là một tổ chức CM
theo t tởng CMVS đây là một tổ
chức có tính quá độ nhằm chuẩn bị
cho việc thành lập Đảng cộng sản
về sau. Từ việc nắm vững đặc trng
của lớp thanh niên nhất là thanh
niên học sinh - sinh viên, tiểu t sản,
trí thức - một lực lợng yêu nớc nhiệt
tình tha thiết với độc lập tự do của
dân tộc và nhạy cảm với các trào lu
t tởng tiến bộ của thời đại. Ngời đã
tuyên truyền giáo dục, vận động họ
đi từ CN yêu nớc đến CN cộng sản.
Từ một hội thanh niên yêu nớc và
CM tiến lên tổ chức thành Đảng
cộng sản là một sáng tạo độc đáo

trong công cuộc tuyên truyền, tổ
chức CM của NAQ.
Sau thời gian ở Trung Quốc, từ
1927 - 1929 Bác từ Trung Quốc trở
lại Nga sang Đức rồi về Thái Lan.
Ngời đã xây dựng cơ sở CM trong
kiều bào nhng Ngời vẫn tiếp tục
chuẩn bị ở trong nớc. Từ cuối năm
1928, với phong trào "vô sản hóa"
Hội VNCMTN đã đa hội viên vào
các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền...
để tự rèn luyện và truyền bá CN M L vào Việt Nam đã góp phần kết
hợp CN M - L vào phong trào CN
và phong trào yêu nớc. Một đội ngũ
những ngời CM kiểu mới do NAQ
đào tạo đã trởng thành. Hoạt động
của Hội VNCMTN đã gây tiếng
vang to lớn, ảnh hởng tới cả các tổ
chức yêu nớc khác (Tân Việt
chuyển dần hoạt động của mình
theo khuynh hớng cộng sản chủ
nghĩa) làm cho phong trào CN,
nông dân, tiểu t sản và các tầng lớp
nhân dân khác phát triển mạnh mẽ.
Những điều kiện để thành lập
chính đảng Mác xít ở ĐD đã dần
dần hình thành đó là sự ra đời của
ba tổ chức cộng sản.

Nh vậy, NAQ là ngời Việt Nam đầu

tiên du nhập CN M - L vào sự
nghiệp của nhân dân ta. Ngời đã
mở ra kỉ nguyên mới trong phong
trào gpdt Việt Nam: kỉ nguyên của
CN yêu nớc kết hợp với CNXH. Ngời đã chấm dứt thời kỳ mò mẫm
chân lý cứu nớc và mở ra thời kỳ
CMVN đi vào phơng hớng đúng
đắn, hòa nhịp với phong trào
CMTG. Xu hớng của CMTG từ sau
CMT10 là CMVS đồng thời mở ra
thời kỳ phát triển nhảy vọt trong
cuộc vận động gpdt của nhân dân
ta trực tiếp chuẩn bị về t tởng chính
trị, tổ chức cho việc thành lập
ĐCSVN.
Có thể nói hoạt động truyền bá CN
M - L của lãnh tụ NAQ về Việt Nam
đã làm cho phong trào CMVN đặc
biệt là phong trào công nhân phát
triển mạnh mẽ. Bọn đế quốc và tay
sai điên cuồng chống phá CM:
chúng cho mở toà đại hình để xử
những ngời CM (tháng 10/1929)
phiên toà đặc biệt tại Vinh đã xử 45
chiến sĩ của Hội VNCMTN và tuyên
bố tử hình vắng mặt NAQ, Trần
Phú.
Cùng lúc đó ở nớc ta đã xuất hiện 3
tổ chức cộng sản hoạt động riêng
rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành

quần chúng nếu kéo dài sẽ ảnh hởng tới sự phát triển chung của
phong trào và có nguy cơ dân tới sự
chia rẽ lớn. Yêu cầu khách quan
bức thiết lúc bấy giờ là lập ra một
Đảng duy nhất của g/c CN để lãnh
đạo phong trào.
NAQ đã chăm chú theo dõi tình
hình và đợc sự ủy nhiệm của QTCS
Ngời từ Thái Lan trở về Trung
Quốc triệu tập hội nghị đại biểu các
tổ chức cộng sản để thành lập một
Đảng duy nhất ở Việt Nam. Từ
ngày 3/2 đến 7/2/1930 tại Cửu
Long gần Hơng Cảng (Trung
Quốc) đã diễn ra Hội nghị bàn về
việc hợp nhất thành lập ĐCSVN. Dới sự chủ trì của NAQ và trớc
những lý lẽ đầy sức thuyết phục của
Ngời các đại biểu đã nhất trí bỏ mọi
thành kiến xung đột thành thật hợp
tác để thống nhất các tổ chức cộng
sản thành một Đảng duy nhất là
ĐCSVN. Đồng thời Hội nghị cũng
thảo luận và thông qua "Chính cơng vắn tắt", "Sách lợc vắn tắt",
Điều lệ, chơng trình tóm tắt của
Đảng do NAQ soạn thảo. Cuối Hội
nghị NAQ ra lời kêu gọi nhân việc
thành lập ĐCSVN. Những tài liệu
đó hợp thành Cơng lĩnh chính trị
đầu tiên của ĐCSVN. Tuy còn vắn
tắt song đây là một cơng lĩnh gpdt

đúng đắn và sáng tạo.

Hội nghị hợp nhất mang tầm vóc
lịch sử của một đại hội thành lập
Đảng. Thắng lợi của Hội nghị đã tỏ
rõ tài trí thông minh, năng lực tổ
chức, uy tín to lớn của lãnh tụ NAQ
đối với những ngời cộng sản và
toàn thể dân tộc Việt Nam. Sự ra
đời của Đảng là một sự chuẩn bị tất
yếu có tính chất quyết định cho
những bớc phát triển nhảy vọt mới
trong lịch sử tiến hóa của dân tộc
Việt Nam.
Nh vậy, những dữ kiện trên đây đã
giúp chúng ta khẳng định rằng
NAQ là ngời có công lao to lớn
trong việc sáng lập ra Đảng ta. Ngời không chỉ tìm ra con đờng cứu nớc đúng đắn, ra sức truyền bá Cn
M - L vào Việt Nam kết hợp với
phong trào CN, phong trào yêu nớc
để chuẩn bị mọi mặt về t tởng,
chính trị, tổ chức cho việc thành lập
Đảng mà còn đứng ra triệu tập Hội
nghị thống nhất thành công và
vạch ra đờng lối CM đúng đắn cho
dân tộc ta.

Đề 9: Khái quát phong trào
yêu nớc ở Việt Nam trong
những năm 1919 - 1929. Rút

ra nhận xét.

Bài làm.
Pháp tiến hành khai thác thuộc địa
lần thứ hai với quy mô lớn, tốc độ
đầu t nhanh đã thúc đẩy nhanh
chóng quá trình phân hóa của các
g/c cơ bản trong xã hội cũ và ra đời
các g/c mới. G/c CNVN trởng thành
nhanh chóng, t sản, tiểu t sản trở
thành g/c, các lực lợng xã hội mới
này là điều kiện vật chất bên trong
để tiếp thu ảnh hởng của phong
trào CMTG và sự du nhập của các
khuynh hớng t tởng mới vào Việt
Nam.
Sau CTTG 1 t tởng t sản tiếp tục du
nhập vào Việt Nam đặc biệt là t tởng CM của Tôn Trung Sơn. Tác
động của CMT10 Nga 1917 và các
sự kiện nh sự ra đời của QTCS
(1919), sự thành lập ĐCSP (1920),
ĐCSTQ (1921) đặc biệt là sự nỗ lực
hoạt động của lãnh tụ NAQ CN M L đã từng bớc đợc truyền bá vào
Việt Nam. Những sự kiện lịch sử
mới này đã quy định tính chất quy mô
của phong trào yêu nớc ở Việt Nam từ
1919 - 1929.
Sau CTTG 1 (1914 - 1918) phong
trào DTDC ở Việt Nam bớc vào thời
kỳ phát triển mạnh mẽ lôi cuốn mọi

tầng lớp nhân dân tham gia với
nhiều hình thức đấu tranh phong
phú, sôi nổi trong đó g/c TSDT và
TTS thành thị có hoạt động chống
Pháp theo khuynh hớng DCTS.

Trớc hết phải kể đến các hoạt động
của t sản dân tộc, đây là một bộ
phận của g/c t sản. T sản dân tộc bị
đế quốc, phong kiến và t sản mại
bản chèn ép nên có mâu thuẫn với
chúng. Họ có xu hớng kinh doanh
độc lập ít nhiều có tinh thần dân
tộc dân chủ yêu nớc chống đế quốc
và tay sai. Nhng họ là một g/c yếu
hèn chỉ tham gia đấu tranh trong
một chừng mực nhất định khi kẻ
thù nhân nhợng ban cho quyền lợi
nhất định thì không đấu tranh. Đây
là thái độ không kiên định dễ thoả
hiệp cải lơng.
Giai cấp t sản dân tộc Việt Nam
tiến hành các cuộc đấu tranh vì
muốn vơn lên giành lấy vị trị khá
hơn trong nền kinh tế Việt Nam nhng họ vấp phải sự chèn ép của
TDP, vì cha đủ sức cạnh tranh với t
bản Pháp nên t sản Việt Nam đã tổ
chức những phong trào đấu tranh.
Họ đã phát động phong trào chấn
hng nội hoá, bài trừ ngoại hoá chủ

yếu là hàng Trung Quốc. Năm
1919 bùng nổ phong trào tẩy chay
các thơng gia Hoa kiều từ Sài Gòn
ra các thành phố lớn trong Nam
ngoài Bắc. Năm 1923 cuộc đấu
tranh chống độc quyền thơng cảng
Gài Gòn, độc quyền xuất cảng lúa
gạo Nam Kỳ của t bản Pháp. Cùng
với các hoạt động kinh tế, g/c t sản
dân tộc cũng dùng báo chí để bênh
vực quyền lợi cho mình. Năm 1923
một số t sản và địa chủ lớn trong
Nam nh Bùi Quang Chiêu, Nguyễn
Phan Long... đã tổ chức ra Đảng
Lập hiến để tập hợp lực lợng rồi đa
ra một số khẩu hiệu đòi dân chủ
nhằm tranh thủ sự ủng hộ của
quần chúng làm áp lực đối với
Pháp.
Nh vậy do có mâu thuẫn với CN đế
quốc Pháp đang thống trị nên t sản
dân tộc đã bớc lên vũ đài chính trị
và g/c VSVN cũng bắt đầu có ý thức
nên g/c t sản Việt Nam không thể
có thái độ CM triệt để. Các hoạt
động của họ chỉ mang tính chất cải
lơng giới hạn trong khuôn khổ của
chế độ thực dân phục vụ quyền lợi
của các tầng lớp trên và nhanh
chóng bị phong trào quần chúng vợt qua.

Vậy là g/c t sản dân tộc dù đa ra cơng lĩnh hoạt động rất đúng đắn và
tiến bộ song do còn có những hạn
chế về mặt t tởng, tổ chức mà dần
dần họ đánh mất lòng tin và sự ủng
hộ của quần chúng nhân dân. Đối
với việc này thì cũng coi nh sự lãnh

đạo của g/c t sản dân tộc bị thất
bại.
Khi cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ hai của TDP cùng ra đời với g/c
TSDT còn có g/c TTS. G/c tiểu t sản
bao gồm nhiều tầng lớp nhng chủ
yếu là những trí thức, học sinh,
sinh viên, nhà báo... Nhìn chung
g/c tiểu t sản cũng bị đế quốc và
phong kiến áp bức, bóc lột, khinh
rẻ. Họ có điều kiện sống tập trung ở
các đô thị và các trung tâm văn hóa
chính trị nên họ rất nhạy cảm với
thời cuộc. Vốn xuất thân là những
bộ phận trí thức nên họ có điều
kiện tiếp xúc với các phong trào, có
tinh thần hăng hái CM và là một
lực lợng quan trọng của CM. Trong
khi t sản và đại địa chủ đấu tranh
chống độc quyền, đòi quyền tự do
dân chủ thích ứng với lợi ích g/c và
địa vị xã hội của họ thì tiểu t sản vì
bị áp bức bóc lột nặng nề cũng sôi

nổi đấu tranh chống lại cờng quyền
áp bức để đòi các quyền tự do dân
chủ.
Và ở phong trào yêu nớc đấu tranh
theo khuynh hớng dân chủ t sản thì
đây cũng là lực lợng quan trọng
nhất. Họ đã có rất nhiều hoạt động
khác nhau nh tập hợp nhau lại
trong các tổ chức chính trị nh Tâm
tâm xã (1924), Việt Nam nghĩa
đoàn (1925), Phục Việt (1925), hội
Hng Nam, đảng Thanh niên...
trong đó đặc biệt là các tổ chức Hội
VNCMTN, TVCMĐ và VNQDĐ với
nhiều hoạt động phong phú sôi nổi.
Các tổ chức CM này hoạt động theo
những khuynh hớng khác nhau.
Hội VNCMTN do NAQ sáng lập ra
chịu ảnh hởng của CN M - L nên
hoạt động trên lập trờng vô sản.
VNQDĐ do Nguyễn Thái Học,
Phạm Tuấn Tài... lập ra lại chịu
ảnh hởng của lập trờng t sản. Đứng
giữa hai xu hớng chính trị ấy các
hội viên của tổ chức TV đã dần dần
ngả theo HộiVNCMTN và hoạt
động theo xu hớng CMVS. Tuy
hoạt động trên những lập trờng
khác nhau nhng sự ra đời của ba tổ
chức đã có tác dụng thúc đẩy

phong trào yêu nớc của Việt Nam
phát triển mạnh mẽ.
Bên cạnh đó cũng giống nh g/c t
sản dân tộc, họ cũng tiến hành đấu
tranh trên mặt trận báo chí. Họ cho
ra các tờ báo tiến bộ để tuyên
truyền t tởng dân tộc dân chủ bằng
tiếng Pháp nh Chuông rè, An Nam
trẻ, Ngời nhà quê và bằng tiếng
Việt nh "Tiếng dân tập thế kỷ". Họ
lập ra các Nxb tiến bộ nh Nam

6

Đồng th xã, Cờng học th xã ở Sài
Gòn và Quan hải tùng th ở Huế...
để cổ động tinh thần yêu nớc, đòi
các quyền tự do dân chủ và nêu
quan điểm lập trờng chính trị của
mình.
Trong cao trào yêu nớc dân chủ
công khai do g/c tiểu t sản lãnh đạo
có hai sự kiện nổi bật. Đỉnh cao
của những sự kiện nổi bật là tiếng
bom của liệt sĩ Phạm Hồng Thái
(1924) ở Quảng Châu - Trung
Quốc gây một tiếng vang lớn ở
trong nớc và ngoài nớc. Tiếng bom
này có ý nghĩa mở màn cho thời đại
đấu tranh mới của dân tộc, vừa có

tác dụng cổ vũ, thúc đẩy phong trào
tiến lên. Tuy vụ ám sát không thành
nhng hơn bao giờ hết tiếng bom Sa
Diện của Phạm Hồng Thái vang
lên có ý nghĩa vô cùng to lớn nh
HCT đánh giá: "Việc đó tuy nhỏ
nhng nó báo hiệu bắt đầu thời đại
đấu tranh dân tộc nh chim én nhỏ
báo hiệu mùa xuân". Tiếp đó là
cuộc đấu tranh đòi thả nhà yêu nớc
PBC tháng 11/1925. Việc PBC bị
bắt đa về nớc đã kích động lòng yêu
nớc trong nhân dân đặc biệt là
những lời lẽ đanh thép của ông trớc
vành móng ngựa đã làm cho làn
sóng đấu tranh đòi thả PBC sôi nổi
khắp nơi buộc TDP phải tha bổng
PBC và đa về giam lỏng ở Huế.
Tiếp đến họ tổ chức lễ đa tang và
truy điệu PCT (3/1926) có 14 vạn
ngời gồm đủ các tầng lớp đã đa
tang ông và sau lễ đa tang khắp nơi
ở Bắc - Trung - Nam đều tổ chức lễ
truy điệu.
Nh vậy, có thể thấy phong trào yêu
nớc dân chủ của tiểu t sản có một vị
trí quan trọng trong cuộc vận động
dân chủ nói riêng và phong trào
dân tộc nói chung. Về tổ chức chủ
yếu do tiểu t sản lãnh đạo nhng bị t

tởng t sản chi phối điều này là điều
tất yếu vì lúc đó CN M - L cha có
điều kiện xâm nhập vào phong
trào. Tuy vậy, tổ chức yêu nớc dân
chủ rõ nét các hoạt động này đã
chuẩn bị hỗ trợ cho phong trào
công nhân và Hội VNCMTN.
Phong trào đấu tranh này thể hiện
lòng yêu nớc của thanh niên tiểu t
sản. Mặc dù họ cha đợc tổ chức
thành chính đảng nên đấu tranh
mang tính chất ấu trĩ nhng có ý
nghĩa to lớn trong việc thức tỉnh
lòng yêu nớc reo rắc t tởng tự do
dân chủ trong dân. Những thanh
niên yêu nớc ấy sau này bằng nhiều
con đờng khác nhau đã đến với
Đảng ta vì vậy khi nói về các điều

kiện thành lập Đảng, Đảng ta coi
phong trào yêu nớc là một trong 3
yếu tố để thành lập ĐCSVN.
Phong trào đã thu hút đợc đông
đảo các g/c tầng lớp tham gia qua
phong trào thể hiện rõ tính năng
động và vai trò của g/c TTS.
Phong trào yêu nớc những năm từ
1919 - 1929 diễn ra với nhiều hình
thức đấu tranh phong phú: báo chí,
biểu tình, mít tinh, khởi nghĩa...

Phong trào yêu nớc của Việt Nam
trong giai đoạn này diễn ra trên hai
khuynh hớng chính trị là t sản và
vô sản trong đó phong trào yêu nớc
trên lập trờng vô sản ngày càng
chiếm u thế.
Phong trào yêu nớc ở Việt Nam
những năm 1919 - 1929 chính là
nguyên nhân của quá trình chuyển
hóa của VNCMTN, sự phân hóa
của TVCMĐ và sự thất bại tan rã
của VNQDĐ.
Quá trình truyền bá CN M - L vào
Việt Nam cũng là quá trình tuyên
truyền những quan điểm của NAQ
về con đờng gpdt trên lập trờng vô
sản ở Việt Nam. Con đờng CM trên
lập trờng vô sản đáp ứng đợc các
yêu cầu cơ bản của dân tộc và nhân
dân Việt Nam. Vì vậy các tổ chức
CM đứng trên lập trờng vô sản đợc
quần chúng nhân dân làm hậu
thuẫn ngày càng chiếm u thế và đã
giữ vai trò chủ đạo trong phong
trào CMVN. Ngợc lại con đờng CM
và tổ chức CM nào đứng trên lập trờng t sản không đề cập đầy đủ các
yêu cầu cơ bản của dân tộc và của
nhân dân thì ngày càng mất vị thế,
lúng túng, thất bại và tan rã mà
VNQDĐ là một điển hình.


Đề 10: Hoàn cảnh, nội
dung và ý nghĩa của Hội
nghị thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam (3/2/1930).
Bài làm.
Lịch sử CMVN hay lịch sử bất cứ
dân tộc nào cũng vậy, đều phải trải
qua những bớc thăng trầm đợc ghi
dấu bằng những sự kiện lịch sử.
Song chỉ những sự kiện nào đánh
dấu một bớc thắng lợi lớn, kết thúc
một thời kỳ lịch sử đã qua, mở ra
một bớc phát triển mới đi lên cho
lịch sử thì sự kiện đó đợc coi là bớc
ngoặt lịch sử. Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời chính là bớc ngoặt lịch
sử của CMVN và đây là sự đóng
góp to lớn của lãnh tụ NAQ.
Đứng trớc sự đòi hỏi của phong
trào CN và phong trào yêu nớc năm

1929 Hội VNCMTN đã chuyển hóa
thành hai tổ chức cộng sản:
ĐDCSĐ (6/1929) và ANCSĐ
(7/1929). TVCMĐ bị phân hóa, bộ
phận tiên tiến đã thành lập ra
ĐDCSLĐ (9/1929). Nh vậy chỉ
trong vòng 4 tháng đã có 3 tổ chức
cộng sản ở Việt Nam đợc thành lập.

Đây là xu thế khách quan của lịch
sử. Nó đã khẳng định bớc phát
triển nhảy vọt của CMVN chứng tỏ
hệ t tởng cộng sản đã giành đợc u
thế trong phong trào đấu tranh của
dân tộc và chỉ rõ điều kiện thành
lập Đảng cộng sản ở Việt Nam đã
chín muồi. Các tổ chức cộng sản đã
nhanh chóng xây dựng cơ sở Đảng
trong nhiều địa phơng và trực tiếp
tổ chức lãnh đạo nhiều cuộc đấu
tranh của công nhân, nông dân. Vì
vậy, phong trào đấu tranh của g/c
công nhân phát triển mạnh, ý thức
g/c, chính trị ngày càng rõ rệt: có
hàng chục cuộc đấu tranh của công
nhân suốt từ Bắc chí nam và nổ ra
ở các trung tâm kinh tế chính trị
của thực dân Pháp, bãi công không
giới hạn trong phạm vi một xí
nghiệp, một địa phơng, một ngành
mà đã liên kết thành phong trào
chung đồng thời công nhân cũng
kết hợp với nông dân đấu tranh
chống lại bọn quan lại địa chủ, cờng hào, tăng thuế, cớp ruộng, kết
hợp với phong trào bãi khóa của
học sinh, bãi thị của tiểu thơng đòi
dân sinh dân chủ. Tất cả kết thành
một làn sóng đấu tranh khắp cả nớc trong đó g/c công nhân thực sự
trở thành lực lợng tiên phong cho

CMVN.
Trớc sự phát triển của phong trào
bọn đế quốc phong kiến tay sai điên
cuống chống phá. Tháng 7/1929
chúng cho mở tòa đại hình để xử
những ngời CM, tháng 10/1929
phiên toà đặc biệt mở tại Vinh đã
xử 45 chiến sĩ yêu nớc của Hội
VNCMTN và tuyên bố tử hình vắng
mặt NAQ, Trần Phú. Song việc xuất
hiện ba tổ chức cộng sản hoạt động
riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh
giành quần chúng. Việc kéo dài
cuộc tranh chấp giữa ba tổ chức
cộng sản sẽ ảnh hởng đến sự phát
triển chung của phong trào và nguy
cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu
khách quan bức thiết là phải lập ra
một Đảng duy nhất của g/c CNVN
để lãnh đạo phong trào. Trớc tình


hình ấy QTCS đã gửi th cho những
ngời cộng sản ĐD vạch ra sự cần
thiết phải chấm dứt chia rẽ bè phái
và hợp lại thành một Đảng cộng
sản thống nhất. Đợc sự ủy nhiệm
của QTCS NAQ đã triệu tập hội
nghị đại biểu các tổ chức cộng sản

họp ở Cửu Long (Hơng Cảng Trung Quốc) từ 3/2 đến 7/21930 để
hợp nhất thành một Đảng duy nhất.
Hội nghị gồm hai đoàn đại biểu
của ĐDCSĐ là Nguyễn Đức Cảnh,
Trịnh Đình Cửu, hai đạI biểu của
ANCSĐ là Châu Văn Liêm, Nguyễn
Thiệu dới sự chủ trì của NAQ, hai
đại biểu hải ngoại là Lê Hồng Sơn
và Hồ Tùng Mậu cũng tham dự.
Trong hội nghị, trớc tiên NAQ đã
phân tích tình hình trong và ngoài
nớc, phê bình những điểm sai lầm
thiếu thống nhất giữa các tổ chức
cộng sản, đề nghị các tổ chức cộng
sản đoàn kết thống nhất lại thành
một Đảng duy nhất. Đồng thời nêu
lên chơng trình của Hội nghị. Các
đại biểu dự Hội nghị đã nhất trí bỏ
mọi thành kiến xung đột, thành
thật hợp tác để thống nhất các tổ
chức cộng sản thành một Đảng duy
nhất là Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị cũng thông qua "chính cơng vắn tắt", "Sách lợc vắn tắt",
"Điều lệ vắn tắt" của Đảng do
NAQ khởi thảo. Đồng thời cũng
vạch kế hoạch tiến hành hợp nhất
các tổ chức cộng sản ở trong nớc và
cử ra Ban chấp hành TW lâm thời
của Đảng. Đấy là những nội dung
của Hội nghị hợp nhất thành lập

Đảng.
Vậy là, với uy tín to lớn của NAQ
hội nghị đã thành công nhanh
chóng, nhân dịp Đảng ra đời NAQ
thay mặt Đảng cộng sản Việt Nam
đã ra lời kêu gọi "gửi công nhân,
nông dân, binh lính và những ngời
bị áp bức bóc lột. Văn kiện lịch sử
có ý nghĩa nhất trong hội nghị phải
kể tới đó là Chính cơng, sách lợc
vắn tắt do NAQ soạn thảo.
Chính cơng đã nêu rõ hai giai đoạn
của CMVN là cuộc CMTS dân
quyền và CM ruộng đất để đi tới xã
hội cộng sản. hai giai đoạn đó kế
tiếp nhau. Nhiệm vụ của CMTS dân
quyền là đánh đổ để quốc Pháp,
bọn phong kiến và t sản phản CM
làm cho nớc Việt Nam đợc độc lập
dựng lên chính phủ công - nông binh; tịch thu hết sản nghiệp lớn
của bọn đế quốc, tịch thu ruộng đất

của đế quốc và bọn phản CM đem
chia cho dân cày nghèo tiến hành
CM ruộng đất, đem lại ruộng đất
cho nông dân. Các nhiệm vụ đó
bao gồm nội dung dân tộc dân chủ
song nổi bật là nhiệm vụ chống đế
quốc và tay sai phản động làm cho
nớc Việt Nam độc lập, dân tộc Việt

Nam đợc tự do.
Đồng thời, Chính cơng cũng nêu rõ
lực lợng đánh đổ đế quốc và phong
kiến là công nhân và nông dân
đông đảo đồng thời phải hết sức lôi
kéo tiểu t sản, trí thức, trung nông
đi về phía g/c công nhân. Đối với
phú nông, trung - tiểu địa chủ, t
sản Việt Nam cha lộ rõ mặt phản
CM phải lợi dụng hoặc ít nhất là
trung lập trong khi liên minh giữ
vững nguyên tắc CM không sa vào
đờng lối thoả hiệp g/c.
Vị trí của CMVN là một bộ phận
của CMTG Đảng phải liên kết với
các dân tộc bị áp bức và g/c vô sản
TG nhất là g/c vô sản Pháp.
Cuối cùng đó là nhân tố đảm bảo
thắng lợi của CM đó là Đảng cộng
sản Việt Nam là đội tiên phong của
g/c công nhân lấy CN M - L làm
nền tảng, là ngời lãnh đạo CMVN,
là nhân tố quyết định thắng lợi
CMVN. Đảng phải có trách nhiệm
thu phục đợc đại bộ phận g/c mình,
phải làm cho g/c mình lãnh đạo đợc
dân chúng, phải thu phục cho đợc
đại đa số dân cày, phải dựa vững
vào dân cày nghèo. Đồng thời phải
liên minh với các g/c CM, các tầng

lớp yêu nớc khác, đoàn kết họ, tổ
chức họ đấu tranh.
Có thể nói Cơng lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng cộng sản Việt Nam
do NAQ soạn thảo tuy còn vắn tắt
song đây còn là một Cơng lĩnh gpdt
đúng đắn và sáng tạo. Đã vạch ra
phơng hớng phát triển cơ bản của
CM nớc ta đi từ CM gpdt lên CM
XHCN. Đờng lối đó đã sớm kết hợp
đúng đắn vấn đề dân tộc và giai
cấp thấm đợm tinh thần dân tộc
trong đó độc lập tự do là t tởng chủ
yếu của Cơng lĩnh này.
Hội nghị hợp nhất mang tầm vóc
lịch sử của một Đại hội thành lập
Đảng, thắng lợi của Hội nghị là
thắng lợi về ý thức giác ngộ về
quyền lợi căn bản và lâu dài của
g/c công nhân và của toàn thể dân
tộc, là thắng lợi của cuộc đấu tranh
gian khổ chống mọi âm mu thủ
đoạn của kẻ thù. Là thắng lợi của

hệ t tởng và đờng lối chính trị của
g/c công nhân. Thắng lợi của hội
nghị cũng tỏ rõ tài trí thông minh,
năng lực tổ chức và uy tín to lớn
của lãnh tụ NAQ đối với những ngời cộng sản và toàn thể dân tộc Việt
Nam. Sau hội nghị hợp nhất

ĐDCSLĐ đã yêu cầu ra nhập
ĐCSVN, ngày 24/2/1930 yêu cầu đợc chấp nhận.

Đề 11: Tại sao nói Đảng ra
đời là một bớc ngoặt lịch
sử của CMVN.

Bài làm.
Lịch sử CMVN hay lịch sử bất cứ
dân tộc nào cũng vậy, đều phải trải
qua những bớc thăng trầm đợc ghi
dấu bằng những sự kiện lịch sử.
Song chỉ những sự kiện nào đánh
dấu một bớc thắng lợi lớn, kết thúc
một thời kỳ lịch sử đã qua, mở ra
một bớc phát triển mới đi lên cho
lịch sử thì sự kiện đó đợc coi là bớc
ngoặt lịch sử. Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời chính là bớc ngoặt lịch
sử của CMVN.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
ngày 3/2/1930 là thành quả của
cuộc đấu tranh dân tộc và g/c quyết
liệt của nhân dân Việt Nam, là sự
sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử
trên trờng đấu tranh quyết liệt ở
Việt Nam trong mấy chục năm đầu
TK XX.
Đảng ra đời là sản phẩm của sự kết
hợp giữa 3 yếu tố: CN M - L kết hợp

với phong trào công nhân và phong
trào yêu nớc trong thời đại mới của
nhân dân Việt Nam. Đảng ra đời đã
tạo ra một bớc phát triển nhảy vọt
đối với CMVN.
Đảng ra đời là một bớc ngoặt lịch
sử vĩ đại của CMVN bởi Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời đã mở ra một
thời đại mới trong lịch sử dân tộc.
Từ đây CMVN đã đặt dới sự lãnh
đạo duy nhất của ĐCSVN, một
Đảng theo học thuyết M - L có đờng
lối CM khoa học và sáng tạo, có tổ
chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ
đảng viên kiên trung, có đội tiên
phong của mình. G/c CNVN trớc
kia mới chỉ là một lực lợng quan
trọng trong đời sống chính trị ở nớc
ta thì nay đã trở thành lãnh tụ của
nhân dân Việt Nam trong cuộc CM
DTDC. Sự lãnh đạo của Đảng là
một nhân tố thắng lợi của CM. Vì
vậy, Đảng ra đời đã chấm dứt thời
kỳ khủng hoảng sâu sắc về g/c lãnh

đạo CM nớc ta trong mấy chục năm
đầu TK XX.
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời lực lợng mới của CM đợc xây
dựng trớc hết là khối công nông

liên minh đã đợc hình thành. Đó là
nhân tố bảo đảm quyền lãnh đạo
duy nhất của Đảng trong CM
DTDC Việt Nam cũng là sự bảo
đảm cho thắng lợi của CM. Nông
dân Việt Nam chiếm tỷ lệ lớn nhất
trong thành phần lực lợng dân tộc
là lực lợng chủ yếu trong cuộc đấu
tranh dân tộc và g/c. Tuy vậy trớc
khi Đảng ta ra đời cha có ai nhìn
rõ và đánh giá đúng lực lợng nông
dân càng cha có ai có đờng lối
đúng đắn lôi kéo họ. Khi ra đời do
nhận thức đúng đắn Đảng ta đã
thấy đợc vấn đề cốt lõi của CM
DTDC là vấn đề ruộng đất với khẩu
hiệu "độc lập dân tộc" và "ngời
cày có ruộng" Đảng đã lôi kéo đợc
đông đảo nông dân đi theo mình
làm CM. Chính vì có nông dân, có
liên minh công - nông mặc dù nhỏ
bé nhng g/c CNVN đã một mình
lãnh đạo đợc CM DTDC Việt Nam.
Việc thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam đã đánh dấu bớc ngoặt vĩ đại
về đờng lối CM chấm dứt thời kỳ
khủng hoảng về đờng lối của
CMVN. Trớc 1930 các bậc tiền bối
cha ai nhìn thấy rõ nhiệm vụ của
CM gpdt ở Việt Nam cũng cha ai

biết gắn liền nhiệm vụ chống đế
quốc với chống phong kiến. Cha ai
nhìn thấy lực lợng CM chủ yếu là
nông dân và công nhân. Mặt khác
trớc 1930 nhân dân ta đấu tranh
rất anh dũng nhng thờng sai lầm về
phơng pháp CM. Ngời thì dùng
khởi nghĩa vũ trang nhng lại nổ ra
lẻ tẻ trong từng địa phơng chiến
thuật thì thủ hiểm để bị bao vây cô
lập và bị tiêu diệt. Ngời thì dùng vũ
lực nhng lại cầu viện từ bên ngoài
nh Phan Bội Châu, ngời thì dùng
phơng pháp cải lơng nh Phan
Châu Trinh. Đảng ra đời đã vạch
ra những thiếu sót đó và giải quyết
đúng đắn các vấn đề trên đồng thời
chỉ ra một phơng pháp CM đúng
đắn là sử dụng sức mạnh của quần
chúng kết hợp xây dựng lực lợng
chính trị với lực lợng vũ trang, đấu
tranh chính trị kết hợp với đấu
tranh vũ trang tiến tới khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nớc.
Mặt khác, Đảng ta còn đề ra đợc
sách lợc, khẩu hiệu nhằm giải

quyết các mục tiêu trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể một cách linh
hoạt sáng tạo.

Và cuối cùng Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời CMVN thực sự trở
thành một bộ phận khăng khít của
CMTG. Kể từ đây CMVN nhận đợc
sự ủng hộ của CMTG đồng thời
CMVN cũng góp phần mình cho
CMTG.
Nh vậy, việc thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam có ý nghĩa lịch sử vĩ
đại, không có Đảng thì g/c CN
không trở thành lãnh tụ của CM,
không thể có khối liên minh công
nông và mặt trận dân tộc thống
nhất. Với cơng lĩnh CM đúng đắn
Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu
đầu tiên cho mọi thắng lợi của
CMVN. Sự lãnh đạo của Đảng là
nguồn gốc của mọi thắng lợi. Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời là sản
phẩm của những điều kiện khách
quan và chủ quan của cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc và g/c ở
Việt Nam trong thời đại mới, là kết
quả của quá trình lựa chọn con đờng cứu nớc, tích cực chuẩn bị t tởng, tổ chức của một tập thể chiến
sĩ cách mạng mà ngời có công lao
đầu là NAQ - Hồ Chí Minh.

Đề 12: Tại sao nói Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời
là sự kết hợp của ba nhân

tố: CN M - L, phong trào
công nhân và phong trào
yêu nớc.

Bài làm.
Sự ra đời của một Đảng cộng sản
có tính phổ biến trên TG là sự kết
hợp giữa CN M - L kết hợp với
phong trào công nhân. Song do
điều kiện ở Việt Nam là một nớc
thuộc địa toàn thể dân tộc bị áp bức
bóc lột đều vùng dậy đấu tranh do
đó phong trào yêu nớc phát triển
mạnh mẽ cùng với phong trào công
nhân. Vì vậy, Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời là sự kết hợp của ba yếu
tố: CN M - L, phong trào công
nhân và phong trào yêu nớc. Đó là
nét đặc thù của Việt Nam nhng nó
vẫn hợp quy luật do đó có tác động
lớn tới CMVN.
ở Việt Nam từ khi Pháp xâm lợc
thống trị đã xuất hiện hai mâu thuẫn
cơ bản cần phải giải quyết là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với đế quốc Pháp, nông dân với địa
chủ. Hai mâu thuẫn này là nguồn gốc
động lực làm nảy sinh và phát triển

7


phong trào yêu nớc, phong trào công
nhân.
Phong trào yêu nớc chống Pháp
xâm lợc của nhân dân ta kéo dài
suốt nửa sau TK XIX đến đầu TK
XX nhng đều thất bại vì cha có một
đờng lối CM đúng đắn khoa học
soi đờng chỉ lối. Muốn giải quyết
hai mâu thuẫn cơ bản đó cần phải
có chính đảng của g/c công nhân và
đảng đó phải có đờng lối đúng. Đây là
yêu cầu tất yếu của lịch sử Việt Nam.
Nhân tố đầu tiên để Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời đó là phong trào
yêu nớc mang khuynh hớng dân
chủ t sản phát triển mạnh. Đó là
hoạt động yêu nớc của tiểu t sản một giai cấp mới ra đời sau CTTG
1, là lực lợng xã hội trong đó đa số
là những ngời có học thức, có tinh
thần dân tộc cao nên rất hăng hái
đấu tranh. Họ đã thành lập ra các
tờ báo, các Nxb tiến bộ để tuyên
truyền t tởng tự do dân chủ. Họ vận
động, tập hợp, tổ chức quần chúng
trong các phong trào phản đối bản
án Phan Bội Châu, đám tang Phan
Châu Trinh ở trong nớc và các hoạt
động ở nớc ngoài nh tiếng bom của
liệt sĩ Phạm Hồng Thái... Họ lập ra

các tổ chức yêu nớc CM trong đó
tiêu biểu là Hội VNCMTN, TVCMĐ
và VNQDĐ. Hội VNCMTN do lãnh
tụ NAQ thành lập hoạt động trên
lập trờng CMVS. VNQDĐ do Phạm
Tuấn Tài, Nguyễn Thái Học,
Nguyễn Khắc Ngu lập ra hoạt động
trên lập trờng CMTS. Còn Tân Việt
ra đời ở trong nớc do ảnh hởng của
Hội VNCMTN nên tổ chức này
nghiêng dần theo khuynh hớng
CMVS. Nh vậy, phong trào yêu nớc
ở Việt Nam những năm từ 1919 1929 diễn ra trên hai khuynh hớng
chính trị: t sản và vô sản. Trong đó
khi CN M - L đợc truyền bá vào nớc
ta thì phong trào yêu nớc trên lập
trờng vô sản ngày càng chiếm u
thế.
Trong khi phong trào yêu nớc theo
khuynh hớng dân chủ t sản với lập
trờng t sản đang dần mất u thế thì
phong trào của g/c công nhân lại
có những bớc phát triển mới, mạnh
mẽ hơn, sôi nổi hơn rất nhiều. Sau
CTTG 1 do hậu quả của cuộc khai
thác lần 2 của thực dân Pháp số lợng CNVN ngày càng tăng năm
1929 đã là 22 vạn công nhân và
tính từ năm 1925 trở đi hàng năm
có khoảng 4 vạn ngời đi phu điền,


từ 8.000 đến 10.000 ngời đi sang
Tân Đảo, bổ sung lực lợng cho g/c
công nhân. Do đời sống khổ cực
cùng với những tác động mới nh
báo chí tiến bộ, Công hội do Tôn
Đức Thắng thành lập, đấu tranh
của công nhân Trung Quốc, công
nhân Pháp làm cho phong trào
CNVN phát triển mạnh mẽ. Phong
trào CNVN từ sau CTTG 1 phát
triển theo hai thời kỳ từ 1919 - 1925
phong trào phát triển mạnh mẽ nhng vẫn ở thời kỳ đấu tranh tự phát.
Năm 1925 cuộc bãi công của công
nhân Ba Son (Sài Gòn) đã đánh
dấu công nhân Việt Nam bớc sang
thời kỳ đấu tranh tự giác, từ năm
1926 - 1929 là thời kỳ CN M - L đợc
truyền bá sâu rộng vào Việt Nam
đặc biệt thông qua phong trào "vô
sản hóa" của hội viên Hội
VNCMTN đã làm cho phong trào
phát triển mạnh mẽ, sâu rộng. Qua
phong trào thể hiện g/c CNVN dần
dần vơn lên vị trí chủ thể của lịch
sử. Trở thành lực lợng chính trị độc
lập có tác dụng quy tụ dẫn đầu
phong trào yêu nớc.
Phong trào công nhân phát triển
chính là miếng đất tốt để CN M - L
ăn sâu bám rễ khi NAQ truyền bá

vào nớc ta và từ đó làm cho phong
trào công nhân phát triển mạnh
mẽ, có ý thức chính trị rõ rệt, cùng
với sự phát triển của phong trào
yêu nớc nói chung đòi hỏi phải có
sự lãnh đạo của tổ chức đảng, CM
tiên phong. CN M - L là hệ t tởng
của g/c công nhân, là một lý luận
khoa học nhất, CM nhất của thời
đại và ngời có công truyền bá Cn M
- L vào Việt Nam là lãnh tụ NAQ.
Sau khi tìm thấy con đờng cứu nớc
đúng đắn cho dân tộc - con đờng
theo CMT10 Nga, theo CN M - L
Ngời đã tích cực hoạt động. Thông
qua những sách báo do Ngời viết
nh báo "Ngời cùng khổ", "Nhân
đạo" đặc biệt là t/p "Đờng Kách
mệnh" đã giác ngộ dân ta, giúp
nhân dân ta hiểu về CMT10 Nga và
chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra CN M L còn đợc những cán bộ do NAQ
đào tạo - Hội viên của Hội
VNCMTN đem về Việt Nam kết hợp
với phong trào công nhân và phong
trào yêu nớc. Khi ba yếu tố này kết
hợp chặt chẽ với nhau đã dẫn tới sự
ra đời của Đảng cộng sản Việt
Nam.

Tuy vậy, không phải ngay từ đầu ba

nhân tố này đã kết hợp với nhau ở
Việt Nam mà đầu tiên nó kết hợp ở
một con ngời - NAQ. Trong hoàn
cảnh CMVN bế tắc không đờng ra
thì lãnh tụ NAQ xuất hiện, xuất
phát từ lòng yêu nớc năm 1911
NAQ đã ra đi tìm đờng cứu nớc. Ngời đã đi qua nhiều nớc á, Phi... và
làm việc nh một công nhân để hoạt
động và kiếm sống. Trong quá trình
ấy Ngời đã gặp Luận cơng của
Lênin. Luận cơng đã chỉ ra cho Ngời con đờng gpdt. Vì vậy tại Đại hội
Tua của Đảng xã hội Pháp họp vào
tháng 12/1920 Ngời đã bỏ phiếu
tán thành ra nhập QTCS và trở
thành đảng viên cộng sản, là một
trong những ngời sáng lập ra Đảng
cộng sản Pháp. Nh vậy, đến 1920
ba nhân tố đã thể hiện ở một con
ngời NAQ - ngời tiêu biểu cho dân
tộc, là tinh hoa của dân tộc, của g/c
đã mở đầu cho bớc ngoặt mới của
CMVN.
Trong quá trình hoạt động và
truyền bá CN M - L vào Việt Nam
của NAQ, Ngời đã góp phần làm
cho ba nhân tố này kết hợp ở mức
độ cao hơn đó là sự ra đời của ba tổ
chức cộng sản tiền thân của Đảng
cộng sản Việt Nam năm 1929.
Từ sự kết hợp ở một con ng ời NAQ

sự kết hợp của 3 nhân tố trên dần
dần đợc mở rộng và củng cố trong
sự phát triển của phong trào
CMVN. Từ 1919 - 1925 phong trào
công nhân phát triển đã chiếm một
vị trí quan trọng trong phong trào
yêu nớc nói chung song g/c công
nhân vẫn cha trở thành ngời lãnh
đạo CM vì còn thiếu lý luận CM
tiên tiến soi đờng đó là CN M - L.
Nếu thiếu lý luận này phong trào
công nhân chỉ phát triển thành
phong trào công đoàn mà thôi.
Từ 1925 trở đi phong trào công
nhân Việt Nam có những tác động
từ bên ngoài dội vào. CMT10 Nga
ngày càng ảnh hởng nhiều hơn.
QTCS và hàng loạt các tổ chức
quốc tế nh: Quốc tế nông dân,
thanh niên, phụ nữ... hoạt động có
ảnh hởng lớn tới CMVN. Sau khi
thành lập Đảng cộng sản Pháp đã
tăng cờng công tác tuyên truyền
làm cho CN M - L đợc thâm nhập
vào Việt Nam. Tiếp đó là Đảng
cộng sản Trung Quốc đợc thành
lập và cũng có ảnh hởng tới
CMVN. Đặc biệt hoạt động của



lãnh tụ NAQ nh viết sách báo,
thành lập Hội VNCMTN (1925),
mở các lớp huấn luyện chính trị,
đào tạo cán bộ, tổ chức phong trào
"vô sản hóa" đã tạo điều kiện gián
tiếp và trực tiếp cho CN M - L ngày
càng thâm nhập sâu vào phong
trào công nhân và phong trào yêu
nớc ở Việt Nam làm cho phong trào
công nhân, phong trào yêu nớc
phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển
của phong trào công nhân, phong
trào yêu nớc đã đặt ra yêu cầu
thành lập một chính đảng của g/c
công nhân. Điều này đã dẫn tới sự
chuyển biến về chất của phong trào
công nhân Việt Nam và phong trào
yêu nớc thể hiện ở sự chuyển hóa
của Hội VNCMTN thành hai tổ
chức cộng sản: ĐDCSĐ, ANCSĐ và
sự phân hóa của Tân Việt. Đa số
những hội viên tiến bộ tích cực của
Tân Việt đã thành lập ra ĐDCSLĐ.
Nh vậy, đến cuối 1929 thì ba nhân
tố trên đã đợc kết hợp ở Việt Nam
thể hiện ở ba tổ chức tiền thân của
Đảng ra đời.
Cuối cùng thì ba nhân tố trên đợc
kết hợp ở một tổ chức cộng sản duy
nhất. Ba tổ chức cộng sản ra đời

cuối 1929 thể hiện bớc phát triển
của phong trào công nhân và
phong trào yêu nớc nhng ba tổ
chức này lại hoạt động riêng rẽ,
công kích lẫn nhau đặt ra một yêu
cầu khách quan của phong trào
CMVN là phải hợp nhất ba tổ chức
cộng sản. Đó là một yêu cầu tất yếu
và hợp quy luật. Đợc sự ủy nhiệm
của QTCS NAQ đã đứng ra chủ trì
Hội nghị thống nhất ngày 3/2/1930
thành công. Hội nghị có ý nghĩa
nh một Đại hội thành lập Đảng.
Văn kiện do Ngời soạn thảo đợc
hội nghị thông qua có giá trị nh
một cơng lĩnh đầu tiên của Đảng.
Tuy còn vắn tắt song đây là một Cơng lĩnh gpdt đúng đắn và sáng
tạo. Đã vạch ra phơng hớng phát
triển cơ bản của CM nớc ta đi từ
CM gpdt lên CM XHCN. Đờng lối
đó đã sớm kết hợp đúng đắn vấn đề
dân tộc và g/c thấm đợm tinh thần
dân tộc trong đó độc lập tự do là t tởng chủ yếu của Cơng lĩnh này.
Thực tế là tiêu chuẩn, là thớc đo
của mọi chân lý, Đảng ra đời là sự
kết hợp của ba yếu tố CN M - L kết
hợp với phong trào công nhân,
phong trào yêu nớc là một tất yếu
lịch sử. Nó đánh dấu sự chiến


thắng của CN M - L đối với các t tởng phi vô sản. Đảng ra đời xuất
phát từ yêu cầu khách quan của
lịch sử CMVN. Vì vậy trở thành
động lực thúc đẩy CM tiến lên. Có
thể nói Đảng ra đời chính là một bớc ngoặt của CMVN.

Đề 13: Trình bày nội dung
cơ bản của Chính cơng
vắn tắt, Sách lợc vắn tắt
của Đảng do NAQ soạn
thảo và đợc thông qua
ngày 3/2/1930.

Bài làm.
Dân tộc Việt Nam anh hùng và thời
đại của chúng ta đã sinh ra Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Ngời là vị
anh hùng kiệt xuất nhất, lãnh tụ vô
cùng kính yêu của g/c công nhân
và dân tộc Việt Nam, nhà lãnh đạo
xuất sắc của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, nhà hoạt
động lỗi lạc của phong trào gpdt
trong thời đại ngày nay. Công lao
của Ngời là không thể kể, nhng một
trong những công lao lớn nhất của
Ngời đó là soạn thảo ra Chính cơng vắn tắt, sách lợc vắn tắt tháng
2/1930 cho CMVN. Đây đợc coi là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt CMVN và là
đờng lối k/c đúng đắn của mọi thời

đại.
Năm 1929 ở Việt Nam đã xuất hiện
ba tổ chức cộng sản tiền thân của
Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là
một xu thế khách quan của lịch sử.
Nó đã khẳng định bớc phát triển
nhảy vọt của CMVN chứng tỏ hệ t tởng cộng sản đã giành đợc u thế
trong phong trào đấu tranh của
dân tộc và chỉ rõ điều kiện thành
lập Đảng cộng sản ở Việt Nam đã
chín muồi. Ba tổ chức này xuất
hiện nhng hoạt động riêng rẽ, công
kích lẫn nhau, tranh giành quần
chúng. Việc kéo dài sẽ ảnh hởng
đến sự phát triển chung của phong
trào và nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ
lớn. Đợc sự uỷ nhiệm của QTCS từ
ngày 3/2 đến ngày 7/2/1930 một hội
nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản ở
Việt Nam đợc họp ở bán đảo Cửu
Long (Hơng Cảng - Trung Quốc) dới sự chủ trì của NAQ. Hội nghị đã
nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng
sản duy nhất lấy tên là Đảng cộng
sản Việt Nam, thông qua một số
văn kiện quan trọng, trong đó có
Chính cơng vắn tắt, Sách lợc vắn
tắt do NAQ khởi thảo.
Chính cơng vắn tắt, Sách lợc vắn
tắt đã vạch ra những nội dung cơ


bản của đờng lối CMVN. Đó là chủ
trơng làm t sản dân quyền CM và
thổ địa CM để đi tới xã hội cộng
sản. Đây là cuộc CM gpdt thuộc
phạm trù CMVS bao gồm 3 nội
dung gắn bó với nhau: dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ
này phải đợc tiến hành đồng thời với
nhau.
Trong giai đoạn thực hiện chiến lợc
CMTS dân quyền và CM thổ địa,
nhiệm vụ của CM về các phơng
diện chính trị, kinh tế, xã hội đợc
tiến hành triển khai. Về chính trị
đó là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến làm cho nớc Việt Nam hoàn toàn độc lập,
dựng ra Chính phủ công - nông binh, tổ chức ra quân đội công
nông. Về kinh tế, thủ tiêu hết các
thứ quốc trái, thu hết sản nghiệp
lớn (công nghiệp, vận tải, ngân
hàng...) của t bản đế quốc Pháp
giao cho Chính phủ công - nông binh. Thu hết ruộng đất của đế
quốc chủ nghĩa làm của công và
chia cho dân cày nghèo. Đây là một
đờng lối mang tính tích cực thu hút
đợc đông đảo quần chúng nhân
dân hởng ứng. Miễn thuế cho dân
nghèo, mở mang công nghiệp và
nông nghiệp, thi hành luật ngày
làm 8 giờ. Về phơng diện xã hội đó

là dân chúng đợc tự do hội họp,
nam nữ bình quyền, phổ thông giáo
dục theo hớng công nông hóa.
Trong Chính cơng vắn tắt NAQ còn
nêu rõ g/c lãnh đạo và lực lợng
CM. Đảng chính là đội tiên phong
của vô sản giai cấp, phải thu hút
cho đợc đại bộ phận g/c mình lãnh
đạo đợc dân chúng. Đảng phải thu
phục cho đợc đại đa số dân cày và
phải dựa vào hạng dân cày nghèo
làm thổ địa CM, đánh trúng bọn
đại địa chủ và phong kiến. Đảng
phải làm cho các đoàn thể thợ
thuyền và dân cày (công hội, hợp
tác xã) khỏi ở dới quyền lực và ảnh
hởng của bọn t sản quốc gia. Đảng
phải hết sức liên lạc với tiểu t sản,
trí thức, trung nông, Thanh niên,
Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô
sản g/c. Còn đối với bọn phú nông,
trung, tiểu địa chủ và t bản An Nam
mà cha rõ mặt phản CM thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập. Bộ phận nào ra mặt
phản CM (Đảng Lập hiến...) thì
phải đánh đổ. Ngoài ra, trong khi
liên lạc với các g/c, phải rất cẩn

thận "không khi nào khoan nhợng

một chút lợi ích gì của công nông
mà đi vào đờng lối thỏa hiệp"
(Đảng cộng sản Việt Nam - Văn
kiện Đảng toàn tập, Tập 2). Nh vậy,
lực lợng CM bao gồm các g/c và
tầng lớp nh công nhân, nông dân,
tiểu t sản, trí thức, t sản dân tộc và
các cá nhân yêu nớc thuộc tầng lớp
địa chủ vừa và nhỏ, trong đó g/c
công nhân là g/c lãnh đạo CM.
Và cuối cùng một cuộc CM sẽ
không bao giờ thành công nếu
không biết đoàn kết quốc tế. Đoàn
kết chặt chẽ với các dân tộc bị áp
bức và g/c vô sản trên TG, nhất là
g/c vô sản Pháp. Sự thật là trong
suốt tiến trình lịch sử CMVN, Đảng
và nhân dân ta đã luôn luôn nêu
cao tình đoàn kết giữa ba nớc Đông
Dơng bởi vì chúng ta có cùng
những kẻ thù chung: bây giờ là đế
quốc Pháp sau này là phát xít Nhật
và đế quốc Mỹ. Chính nhờ có sự
đoàn kết này kết hợp với những yếu
tố khác đã đa đến thắng lợi cho CM
ở ba nớc ĐD.
Chính cơng vắn tắt, sách lợc vắn tắt
đã phát triển thêm một số luận điểm
quan trọng trong t/p "Đờng cách
mệnh" nh tính chất Đảng, chia

ruộng đất của đế quốc và địa chủ
phản CM cho nông dân nghèo, lợi
dụng mâu thuẫn có nguyên tắc... Cơng lĩnh chính trị của Đảng ra đời
sau Nghị quyết Đại hội QTCS lần
thứ XI khoảng một năm rỡi. NAQ
đã tiếp thu nhiều t tởng đúng đắn,
đồng thời đã không chịu ảnh hởng
của một số quan điểm cánh "tả"
của QTCS.
Chính cơng vắn tắt, sách lợc vắn tắt
do NAQ khởi thảo là cơng lĩnh CM
đầu tiên của Đảng cộng sản Việt
Nam, đó là một cơng lĩnh CM gpdt
đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại mới.
Độc lập, tự do gắn liền với định hớng tiến lên CNXH là t tởng cốt lõi
của Cơng lĩnh này.

Đề 14: Trình bày nội dung
cơ bản của Luận cơng
chính trị tháng 10/1930
của Đảng cộng sản Đông
Dơng.

Bài làm.
Nh chúng ta đều biết sau khi Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời ngày
3/2/1930 thì Chính cơng vắn tắt,
sách lợc vắn tắt do đồng chí NAQ
khởi thảo đã đợc thông qua tại Hội

nghị hợp nhất của Đảng. Đó đợc

coi là văn kiện lịch sử đầu tiên của
Đảng. Mọi chiến lợc, sách lợc đợc
trình bày trong văn kiện này đợc
xem nh là kim chỉ nam đối với
CMVN. Và đờng lối do HCT đa ra
lại một lần nữa đợc khẳng định
trong Luận cơng chính trị tháng
10/1930 do Trần Phú khởi thảo.
Cuộc khủng hoảng 1919 - 1933 đã
có tác động tới tất cả các nớc trên
TG trong đó có Việt Nam. ở trong
nớc sau khi Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời phong trào CMVN có
những bớc phát triển mới điển hình
là phong trào CM 30 - 31 với đỉnh
cao là Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Để tăng
cờng sự lãnh đạo của Đảng, Ban
chấp hành TW lâm thời đã họp Hội
nghị lần thứ nhất tại Hơng Cảng
(Trung Quốc) từ ngày 14 đến
31/10/1930. Hội nghị đã thông qua
Nghị quyết về tình hình và nhiệm
vụ cần kíp của Đảng, thông qua
Điều lệ Đảng, và Điều lệ các tổ
chức quần chúng. Hội nghị đã đổi
tên Đảng cộng sản Việt Nam thành
Đảng cộng sản Đông Dơng. Nh vậy
là đã gắn kết phong trào CMVN với

phong trào CM các nớc trong khu
vực. Hội nghị cử ra Ban Thờng vụ
TW và cử đồng chí Trần Phú làm
Tổng bí th Đảng. Đồng chí Trần
Phú tốt nghiệp Đại học Cảnh sát
Phơng Đông (Matxcơva) đợc QTCS
cử về ĐD hoạt động. Tháng 4/1930,
Trần Phú về tới Việt Nam và đợc bổ
sung vào Ban chấp hành TW Lâm
thời của Đảng (7/1930), đợc giao
soạn thảo ra Cơng lĩnh CM mới
của Đảng. Sau thời gian ngắn
nghiên cứu và khảo sát tình hình
CMVN ở một số tỉnh và với lý luận
đã đợc học ở Cảnh sát Phơng Đông
đồng chí đã soạn thảo ra Cơng lĩnh
CM mới của Đảng, đợc thông qua
Ban chấp hành TW lần 1 (tháng
10/1930) và còn đợc gọi là Luận cơng 10/1930.
Trong cơng lĩnh mới, sau khi phân
tích tình hình đế quốc và ảnh hởng
của nó đối với CMĐD, Trần Phú đã
trình bày những luận điểm cơ bản
về đờng lối của CMĐD. Trong
Luận cơng, Trần Phú đã nêu rõ về
mâu thuẫn giai cấp ở Việt Nam,
Lào và Cămpuchia, mâu thuẫn diễn
ra gay gắt giữa một bên là thợ
thuyền, dân cày và các phần tử lao
khổ với một bên là địa chủ phong

kiến, t bản và CNĐQ.
Về tính chất CMĐD, Luận cơng
cũng nêu rõ: "Trong lúc đầu cuộc
CMĐD sẽ làm một cuộc CMTS dân
quyền... nhờ vô sản g/c chuyên
chính các nớc giúp sức mà phát
triển, bỏ qua thời kỳ t bản mà tranh

8

đấu thẳng lên cơn đờng XHCN"
(Đảng cộng sản Việt Nam - Văn
kiện Đảng toàn tập, Tập 2).
Về nhiệm vụ CM: "Sự cốt yếu của t
sản dân quyền CM thì một mặt là
phải tranh đấu để đánh đổ các cách
bóc lột theo lối tiền t bản và để thực
hành thổ địa CM cho triệt để, một
mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho ĐD
hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh
đấu có liên lạc mật thiết với nhau,
vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
mới phá đợc g/c địa chủ và làm CM
thổ địa đợc thắng lợi. Mà có phá
tan chế độ phong kiến thì mới đánh
đổ đợc đế quốc chủ nghĩa"...
Về lực lợng CM: "Vô sản g/c và
nông dân là hai động lực chính, nhng vô sản có cầm quyền lãnh đạo
thì CM mới thắng lợi đợc". T bản

thơng mại, t bản công nghệ, khi
phong trào quần chúng nổi lên cao
thì bọn này sẽ theo đế quốc. Tiểu t
sản có nhiều hạng: thủ công
nghiệp đối với phong trào CMVS,
hạng này cũng có ác cảm... rất do
dự. Bọn thơng gia không tán thành
CM. Trí thức - tiểu t sản, học sinh...
đại biểu quyền lợi cho tất cả g/c t
bản bản xứ.
Về phơng pháp CM: "Lúc thờng thì
phải tuỳ theo tình hình mà đặt
khẩu hiệu "phần ít" để bênh vực
quyền lợi cho quần chúng... đến lúc
sức CM lên rất mạnh, g/c thống trị
đã rung động, các g/c đứng giữa đã
muốn bỏ về phe CM... Đảng phải
lập tức lãnh đạo quần chúng để
đánh đổ chính phủ của địch... Vũ
trang bạo động không phải là một
việc thờng... phải làm theo khuôn
phép nhà binh" (Đảng cộng sản
Việt Nam - Văn kiện Đảng toàn tập,
tập 2).
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là
điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi
của CM ở ĐD, là cần phải có một đờng lối chính trị đúng, có kỷ luật
tập trung, mật thiết liên lạc với
quần chúng và từng trải tranh đấu
mà trởng thành, "Đảng là đội tiên

phong của vô sản g/c lấy Cn M - L
làm gốc".
Ngoài ra Luận cơng còn chỉ rõ mối
quan hệ quốc tế của CMVN đó là
"vô sản ĐD phải liên lạc mật thiết
với vô sản TG, nhất là vô sản Pháp
là làm mặt trận vô sản "mẫu quốc"
và thuộc địa cho sức tranh đấu CM
đợc mạnh lên". Luận cơng khẳng
định lại nhiều vấn đề căn bản
thuộc về chiến lợc CM ở nớc ta mà
"Chính cơng vắn tắt, sách lợc vắn
tắt" đã nêu nh mục đích, tính chất
của CM trong giai đoạn đầu là làm
CMTS dân quyền (tức CMDTDC)

với hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến, nhằm thực hiện
độc lập cho dân tộc và ruộng đất
cho nông dân. CMTS dân quyền
thắng lợi sẽ lập ra Nhà nớc công nông sau đó chuyển thẳng sang
làm CM XHCN. G/c công nhân và
g/c nông dân là hai động lực chính
của CM, trong đó g/c công nhân là
lực lợng lãnh đạo CMVN liên kết
mật thiết với g/c vô sản các nớc và
các dân tộc thuộc địa.
Nội dung trên phản ánh sự giống
nhau căn bản giữa "Chính cơng
vắn tắt, sách lợc vắn tắt" và "Luận

cơng chính trị" trên những vấn đề
then chốt của lý luận CN M - L, đã
bớc đầu khẳng định một số vấn đề
có tính quy luật của CMVN. Luận
cơng còn xác định thêm con đờng
đúng đắn tiến lên giành chính
quyền phải là con đờng CM bạo
lực của quần chúng.
Bên cạnh những điểm giống nhau
mang tính chất kế thừa và phát huy
về giá trị lịch sử của Chính cơng,
sách lợc vắn tắt do NAQ soạn thảo.
Xuất phát từ những hạn chế về mặt
khách quan, thực tế lịch sử, tầm
nhìn của Trần Phú mà Luận cơng
chính trị (10/1930) cha đặt đúng vị
trí, đúng mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề dân chủ trong
một cuộc CM gpdt, cha giơng cao
ngọn cờ đoàn kết dân tộc. Nhng xét
đến cùng thì Luận cơng chính trị
(10/1930) vẫn luôn có ý nghĩa giá
trị lịch sử hết sức quan trọng. Và
những nhợc điểm này sẽ dần dần đợc khắc phục trong quá trình đấu
tranh của CMVN.

giai đoạn 1930 1945.

Đề 1: Cao trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh và tính chất, ý

nghĩa của nó?
Bài làm.
Năm 1930 Đảng ta ra đời từ đây
CMVN đã có đờng lối đúng đắn tuy
nhiên đất nớc vẫn nằm trong thời
kỳ đen tối dới ách thống trị của đế
quốc phong kiến. Mục tiêu của CM
là phải lật đổ đế quốc phong kiến
giành lại chính quyền về tay nhân
dân "vì vấn đề cơ bản của mọi cuộc
CM là vấn đề chính quyền Nhà nớc" (Lênin). Muốn giành đợc chính
quyền phải chuẩn bị và phải nắm
thời cơ vì vậy giai đoạn từ năm
1930 - 1945 là giai đoạn chuẩn bị
giành chính quyền mà mở đầu cho
sự chuẩn bị ấy là phong trào CM

30 - 31 và đỉnh cao của phong trào
là Xô Viết - Nghệ Tĩnh.
Phong trào CM 30 - 31 nổ ra và
phát triển đều nhờ có sự tác động
của tình hình trong nớc và thế giới.
Cuộc khủng hoảng kinh tế TG
1929 - 1933 đã tác động tới nớc
Pháp chậm hơn các nớc t bản khác
nhng lại hết sức mạnh mẽ trên
nhiều lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp... kinh tế Việt Nam vốn phụ
thuộc vào kinh tế Pháp nên đã phải
gánh chịu hậu quả nặng nề. Kinh

tế tiêu điều kéo theo những hậu quả
trên mọi lĩnh vực của đất nớc. Đời
sống của mọi g/c tầng lớp Việt Nam
đặc biệt là công nông hết sức khổ
cực. Đối với nông dân mức thu
nhập thấp do lúa gạo sụt giá từ
11,58 đ/tạ hạ xuống chỉ còn 3,2 đ/tạ
năm 1933 trong khi đó su thuế
không ngừng tăng số công nhân bị
thất nghiệp chiếm 1/3, các tầng lớp
khác cũng sống trong cảnh điêu
đứng. Điều này làm cho mâu thuẫn
giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp và
tay sai ngày càng sâu sắc. Đặc biệt
sau khởi nghĩa Yên Bái (tháng
2/1930) Pháp đã tăng cờng khủng
bố dã man càng làm cho mâu thuẫn
dân tộc sâu sắc hơn.Trong lúc đó
trên TG, tiếng vang của CMTQ ở
Quảng Châu, Hoa Nam, CM ấn
Độ, của chế độ xã hội Xô Viết Nga
đã cổ vũ tinh thần đấu tranh sẵn có
của nhân dân Việt Nam. Và cùng
lúc này Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời đã giơng cao ngọn cờ gpdt phát
động một cuộc đấu tranh chống
thực dân Pháp rộng khắp trong cả
nớc biến sự căm thù của quần
chúng thành hành động CM.
Phong trào 1930 - 1931 là phong

trào đấu tranh dân tộc của công
nhân và nông dân dới sự lãnh đạo
của Đảng nổ ra với một quy mô lớn,
rộng khắp trong cả nớc. Từ tháng 2
đến tháng 4 có nhiều cuộc đấu
tranh đã nổ ra mà tiêu biểu là cuộc
đấu tranh của công nhân đồn điền
Phú Riềng tháng 2/1930, bãi công
của 4000 công nhân nhà máy sợi
Nam Định, công nhân đồn điền
Dầu Tiếng, công nhân nhà máy
diêm ca Bến Thủy. Các cuộc đấu
tranh này là những phát pháo hiệu
mở đầu cao trào CM mới ở Việt
Nam. Cùng với phong trào của
công nhân là phong trào đấu tranh
của nông dân Hà Nam, Thái Bình,
Nghệ An, Hà Tĩnh... chống phong


kiến địa chủ và các cuộc đấu tranh
của các tầng lớp nhân dân khác.
Từ tháng 5 phong trào lên mạnh
tiêu biểu là cuộc biểu dơng lực lợng
của công nông và quần chúng nói
chung ngày 1/5/1930 tại các thành
phố lớn nh Hà Nội, Hải Phòng,
Nam Định, Vinh, Huế, Sài Gòn...
đều xuất hiện cờ đỏ búa liềm,
truyền đơn đòi tăng lơng bớt giờ

làm cho công nhân, hoãn su thuế
cho nông dân. Cả nớc có 16 cuộc
đấu tranh của công nhân, 34 cuộc
đấu tranh của nông dân và 4 cuộc
đấu tranh của học sinh. Cuộc đấu
tranh 1/5/1930 đã đánh dấu bớc
phát triển mạnh mẽ của CMVN.
Công - nông Việt Nam không chỉ
đấu tranh đòi quyền lợi cho mình
mà còn thể hiện tình đoàn kết với
nhân dân lao động TG. Phong trào
tiếp tục dâng cao thành cao trào từ
tháng 6 đến tháng 8/1930 cả nớc đã
nổ ra 121 cuộc đấu tranh trong đó
công nhân có 22, nông dân có 95
và các tầng lớp nhân dân lao động
khác là 4.
Sang tháng 10/1930 ở Quảng Ngãi
những cuộc biểu tình của nông dân
liên tiếp nổ ra, cùng thời gian này
những ngời cộng sản ở Bắc Kỳ đã
vận động một cuộc đấu tranh mới
phản đối Hội đồng đề hình cùng
những án tử hình các chiến sĩ CM.
Trong dịp kỉ niệm CMT10 Nga vào
chiều 6/11/1930 đã xuất hiện cờ đỏ
ở nhà máy nớc Hàng Đậu (Hà Nội)
và truyền đơn đợc rải khắp thành
phố.
Bớc sang năm 1931 do chính quyền

thực dân Pháp khủng bố nên
phong trào giảm sút tuy vậy ở Nam
Kỳ phong trào vẫn tiếp tục sôi nổi,
suốt trong tháng 1/1931 thì công
nhân hãng dầu Standa - Nhà Bè,
công nhân nhà in Văn Võ Văn Sài Gòn... tổ chức bãi công, mít
tinh, biểu tình. Nông dân ở các tỉnh
Bến Tre, Trà Vinh, Thủ Dầu Một...
đấu tranh đòi cải thiện đời sống.
Đến giữa 1931 phong trào tạm thời
lắng xuống cuộc đấu tranh chuyển
sang một giai đoạn mới.
Giữa lúc phong trào đấu tranh của
nhân dân đang lên cao "Luận cơng
chính trị" tháng 10/1930 của Trần
Phú đã phần nào chỉ ra phơng hớng cho CMVN. Vì vậy phong trào
1930 - 1931 là phong trào CM mới
ở Việt Nam, do Đảng của g/c công
nhân lãnh đạo mà đỉnh cao của nó

là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh.
Bên cạnh nguyên nhân chung làm
bùng nổ phong trào đấu tranh thì ở
Nghệ Tĩnh có những nét riêng làm
cho phong trào đạt tới đỉnh cao đó là ở
Nghệ Tĩnh chịu ách đế quốc phong
kiến nặng nề lại là vùng đất nghèo. Cơ
sở công nhân Vinh - Bến Thuỷ là
trung tâm kỹ nghệ lớn nhất Trung Kỳ
là điều kiện thuận lợi cho liên minh

công nông. Mặt khác, nhân dân Nghệ
Tĩnh có truyền thống CM lâu đời và
điều cuối cùng đó là ở đây các tổ chức
cộng sản và cơ sở Đảng phát triển khá
mạnh.
Ngay từ đầu tháng 5/1930 phong
trào đấu tranh của công nhân nhà
máy ca diêm Bến Thuỷ cùng hàng
nghìn nông dân phụ cận đấu tranh
đã diễn ra quyết liệt. Ngày 1/5/1930
5000 công nhân và nông dân Vinh
- Bến Thủy đòi tăng lơng, giảm giờ
làm, chống khủng bố, công nhân
và nông dân sát cánh với nhau
trong cuộc đấu tranh. Thực dân
Pháp đàn áp dã man, giết hại bắt
bớ hơn 1000 ngời. Cùng ngày hôm
đó 3000 nông dân Thanh Chơng đã
phá đồn điền, ký viện. Trong tháng
6 và tháng 7 Nghệ Tĩnh đã nổ ra 11
cuộc biểu tình lớn với trên 12.000
ngời tham gia. Tiêu biểu nhất là
ngày 1/8/1930 công nhân diêm ca
Bến Thủy lại bãi công mở đầu một
đợt đấu tranh mới nhân ngày quốc
tế chống chiến tranh.
Sang tháng 9 phong trào đấu tranh
ở hai tỉnh Nghệ An - Hà Tĩnh lên
tới đỉnh cao. Những cuộc đấu tranh
chính trị có vũ trang tự vệ với quy

mô từ vài nghìn đến vài vạn ngời
tham gia, nổ ra ở các huyện Nam
Đàn, Thanh Chơng, Diễn Châu,
Nghi Lộc, Hng Nguyên, Đô Lơng,
Can Lộc, Thạch Hà... Đặc biệt ngày
12/9/1930 hơn 2 vạn nông dân Hng
Nguyên đã liên kết với nông dân
Nam Đàn tổ chức cuộc biểu tình
lớn với mục đích ủng hộ cuộc bãi
công của công nhân Bến Thủy, hởng ứng những cuộc đấu tranh của
nông dân các tỉnh bạn. Đoàn ngời
xếp hàng dài tới hơn 1 km kéo về
Vinh. Và gần tới Vinh thì đoàn
đông tới gần 30.000 ngời và dài
gần 4 km. Thực dân Pháp đã cho
máy bay đàn áp dã man làm cho
174 ngời chết. Hôm sau khi dân
làng tổ chức đa tang Pháp lại bắn
chết thêm 43 ngời nữa. Trong hai
ngày chúng đã bắn chết 217 ngời,

bắn bị thơng 125 ngời đốt cháy 277
nóc nhà, hai làng Lộc Châu và Lộc
Hải bị triệt hạ hoàn toàn.
Thực dân Pháp đàn áp dã man
càng làm cho ngọn lửa đấu tranh
bốc cao hơn phát triển thành cuộc
đấu tranh vũ trang. Trong hai tháng
9, 10/1930 nông dân các huyện nh
Thanh Chơng, Diễn Châu, Nghệ An,

Hơng Sơn, Hà Tĩnh đã khởi nghĩa vũ
trang kéo đến phá các huyện lị, nhà
rạc, ga xe lửa, cắt dây điện tín. Công
nhân Vinh - Bến Thuỷ bãi công suốt
hai tháng liền để ủng hộ phong trào
nông dân và phản đối chính sách
khủng bố của địch.
Trớc khí thế phong trào đấu tranh
của quần chúng chính quyền địch
tan rã ở nhiều địa phơng, các tổ
chức chi bộ Đảng, Nông hội đỏ đã
đứng ra quản lý điều hành đời sống
của mình. Đây là kiểu chính quyền
Xô Viết ở Nga mà những ngời
CMVN vận dụng trong làng xã gọi
là xã hội nông do nông dân bầu ra
và có đại biểu công nhân làm cố
vấn. Xô Viết Nghệ Tĩnh tuy còn sơ
khai nhng thực chất đã làm chức
năng của chính quyền CM do g/c
công nhân lãnh đạo.
Thực tế lịch sử đã cho thấy chính
quyền Xô Viết ra đời đã đạt đợc một
số thành công nhất định. Chính
quyền Xô Viết ra đời đã ban bố và
thực hiện các quyền tự do dân chủ
cho nhân dân, thành lập ra các
đoàn thể quần chúng nh công hội,
nông hội, đội tự vệ, hội phụ nữ giải
phóng. Xô Viết có nhiệm vụ tổ chức

lãnh đạo nhân dân đấu tranh tịch
thu ruộng đất công, tiền thóc công
chia cho dân nghèo. Bãi bỏ các thứ
thuế vô lý chống nạn đói đang đe
dọa và chú ý tới công tác đắp đê
phòng lụt. Về văn hóa xã hội, chính
quyền Xô Viết tổ chức học chữ quốc
ngữ cho nhân dân, xóa bỏ những
phong tục tập quán lạc hậu và trật
tự an ninh đợc giữ vững.
Có thể nói Xô Viết là tổ chức đại diện
cho lẽ phải, cho công lý đứng ra giải
quyết tất cả những vụ việc mà dân
chúng không tự giải quyết nổi. Chính
vì vậy, mặc dù còn thô sơ nhng Xô Viết
đã thực sự là chính quyền của dân, do
dân và vì dân làm chức năng của một
chính quyền thực sự. Vì thế, tuy chỉ tồn
tại trong 4, 5 tháng nhng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã tỏ rõ bản chất CM và
tính u việt của nó.

Đề 2: Chứng minh cao
trào 30 - 31 là cao trào CM
triệt để có quy mô rộng lớn
và hình thức đấu tranh
quyết liệt.

Bài làm.
Năm 1930 Đảng ta ra đời từ đây
CMVN đã có đờng lối đúng đắn tuy

nhiên đất nớc vẫn nằm trong thời
kỳ đen tối dới ách thống trị của đế
quốc phong kiến. Mục tiêu của CM
là phải lật đổ đế quốc phong kiến
giành lại chính quyền về tay nhân
dân "vì vấn đề cơ bản của mọi cuộc
CM là vấn đề chính quyền Nhà nớc" (Lênin). Muốn giành đợc chính
quyền phải chuẩn bị và phải nắm
thời cơ vì vậy giai đoạn từ năm
1930 - 1945 là giai đoạn chuẩn bị
giành chính quyền mà mở đầu cho
sự chuẩn bị ấy là phong trào CM
30 - 31 và đỉnh cao của phong trào
là Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Có thể nói
cao trào 30 - 31 mà đỉnh cao là Xô
Viết - Nghệ Tĩnh đợc coi là một cao
trào CM có quy mô rộng lớn, hình
thức đấu tranh quyết liệt và triệt để.
Ngời ta nói cao trào 30 - 31 mà
đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh là
một cao trào CM triệt để bởi phong
trào CM trớc khi có Đảng ra đời
còn có biểu hiện ảo tởng về kẻ thù
dân tộc và đấu tranh cải lơng nh
phong trào của g/c t sản. Đảng lập
hiến của Bùi Quang Chiêu đã đấu
tranh bằng việc đa ra các bản thỉnh
cầu mong thực dân Pháp nới rộng
quyền tự do dân chủ, quyền đại
diện bản xứ trong các Viện dân

biểu rồi thu nhận ngời Việt Nam
vào các chức vụ của Nhà nớc. Cao
trào CM 1930 - 1931 hoàn toàn
nhằm trúng 2 kẻ thù của CM nớc ta
là đế quốc và phong kiến nhằm
đánh đổ đế quốc Pháp và phong
kiến Nam triều thành lập chính
quyền công - nông - binh. Khẩu
hiệu đấu tranh của công nhân,
nông dân đều chĩa mũi nhọn CM
vào đế quốc và phong kiến. Đồng
thời, cao trào đã đoạn tuyệt với chủ
nghĩa cải lơng t sản mà lãnh tụ
NAQ đã lên án. "Họ muốn chữa
bệnh nhng không dám tìm và tấn
công vào nguồn gốc của bệnh".
Phong trào 30 - 31 là một phong
trào CM có quy mô rộng lớn. Cao
trào đã thu hút hàng triệu ngời
tham gia khắp trong phạm vi cả nớc kéo dài gần 2 năm trời trong đó
lực lợng chủ yếu là công nhân và
nông dân. Có nhiều cuộc đấu tranh
lớn tiêu biểu nh mít tinh kỷ niệm
ngày Quốc tế lao động 1/5/1930 đã

diễn ra trong toàn quốc đặc biệt lên
cao là phong trào ở Nghệ Tĩnh.
Hình thức đấu tranh rất quyết liệt
bởi cao trào CM 30 - 31 diễn ra sôi
nổi với nhiều hình thức đấu tranh

phong phú, quyết liệt nh mít tinh,
biểu tình, thị uy, bãi công... Bản
thân các cuộc đấu tranh đã mang
tính quyết liệt nhng quyết liệt hơn
là những cuộc đấu tranh của nhân
dân điển hình là biểu tình có vũ
trang tự vệ tiến lên đập phá huyện
đờng, phá nhà lao buộc địch phải
thừa nhận yêu sách. Quyết liệt nhất
là quần chúng dùng bạo lực CM để
đập tan chính quyền địch ở 2 tỉnh
Nghệ An - Hà Tĩnh thành lập chính
quyền Xô Viết. Từ phong trào này
các đội tự vệ đỏ đã ra đời góp phần
tích cực chống địch khủng bố bảo
vệ quần chúng.
Nh vậy, cao trào 30 - 31 đã kết hợp
đợc đấu tranh chính trị với đấu
tranh vũ trang trong đó đấu tranh
chính trị là chủ yếu.

Đề 3: ý nghĩa lịch sử và bài
học của cao trào 30 - 31.
Bài làm.
Mặc dù bị thất bại nhng phong trào
có ý nghĩa lịch sử to lớn. Phong
trào CM 30 - 31 với đỉnh cao là Xô
Viết Nghệ Tĩnh là cuộc đấu tranh
đầu tiên của nhân dân ta dới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt

Nam. Cao trào này đã làm thức tỉnh
nhân dân, lôi cuốn đợc quần chúng
tham gia trong đó đặc biệt là công
nhân và để lại nhiều bài học kinh
nghiệm cho CMVN.
Phong trào đợc đánh giá cao trong
phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Tháng 4/1931 QTCS đã
quyết định công nhận Đảng cộng
sản Đông Dơng là một bộ phận độc
lập trực thuộc QTCS. Phong trào
cũng góp phần làm tăng thêm ảnh
hởng cộng sản trong các nớc thuộc
địa nhất là các nớc phơng Đông.
Qua cao trào 30 - 31 lần đầu tiên cơng lĩnh của Đảng đợc đa ra thực
hiện và qua phong trào đấu tranh
đợc quần chúng hởng ứng nhiệt
liệt. Điều đó chứng tỏ cơng lĩnh của
Đảng là hoàn toàn đúng đắn đồng
thời cũng khẳng định quyền lãnh
đạo của Đảng, của g/c công nhân.
Lần đầu tiên Đảng ta đã xây dựng
đợc khối liên minh công - nông tức
là tạo ra đợc một nhân tố quyết
định thắng lợi của CM và phát huy
khả năng CM của các g/c khác
trong CMDTDC.

9


Đây cũng là lần đầu tiên Đảng thí
điểm việc xây dựng chính quyền
CM và bảo vệ chính quyền (chuẩn
bị mô hình chính quyền).
Đây là lần đầu Đảng lãnh đạo
quần chúng tiến hành CM bạo lực,
qua cao trào Đảng đã tập dợt lãnh
đạo, quần chúng đợc tập dợt đấu
tranh, CN M - L đợc truyền bá sâu
rộng trong quần chúng làm cho
quần chúng hiểu về Đảng và đào
tạo cho Đảng đợc một đội ngũ
chiến sỹ CM trung kiên làm nòng
cốt cho các phong trào CM sau
này.
Phong trào CM 30 - 31 mà đỉnh
cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh đã đa ra
vấn đề thời cơ giành chính quyền.
Phong trào CM 30 - 31 nổ ra cha
đúng thời cơ. Năm 1930 ở Nghệ
Tĩnh có một số điều kiện thúc đẩy
nhân dân hai tỉnh nổi dậy. Tuy vậy,
tình thế CM trong toàn quốc cha
chín muồi. Đế quốc Pháp tuy gặp
khủng hoảng kinh tế nhng vẫn còn
mạnh do đó cao trào nổ ra trong so
sánh lực lợng quá chênh lệch nên
bị thất bại. Thất bại này đã chỉ ra
cho Đảng ta vấn đề xác định đúng
thời cơ CM để phát động quần

chúng khởi nghĩa giành chính
quyền.
Phong trào đã đa ra vấn đề giải
quyết đúng mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ phản đế và phản phong.
Xô Viết Nghệ Tĩnh nổ ra khi Đảng
ta mới ra đời, kinh nghiệm cha có
nên không tránh khỏi một số sai
lầm quyết liệt trong đó có vấn đề
giải quyết mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ này cha đúng, cha nhận
thức đợc rằng kẻ thù nguy hại nhất
lúc đó là đế quốc Pháp. Do đó cha
chú trọng tập hợp lực lợng phản đế
vào mặt trận dân tộc thống nhất để
triệt để phân hóa hàng ngũ kẻ thù...
Điều này chỉ ra nhiệm vụ cấp thiết
là trên cơ sở đờng lối chiến lợc
đúng phải đề ra sách lợc phù hợp
điều kiện lịch sử cụ thể và trên cơ
sở khối liên minh công - nông hình
thành cần thành lập mặt trận dân
tộc thống nhất để đoàn kết rộng rãi
nhân dân, đoàn kết các g/c.
Nh vậy bài học thành công cũng
nh thất bại của cao trào có tác
dụng lớn cho cuộc đấu tranh sau
này vì vậy phong trào CM 30 - 31 đợc coi là cuộc diễn tập thứ nhất
chuẩn bị cho CMT8 nh lãnh tụ
NAQ đã khẳng định: "Phong trào


tuy thất bại nhng nó rèn luyện lực l- tiến trong g/c t sản. Trong g/c t sản
ợng cho CMT8 thắng lợi sau này". thành lập đợc chính phủ bình dân
Đề 4: Hoàn cảnh lịch sử và thi hành một số chính sách cho
chủ trơng của Đảng ta trong nhân dân thuộc địa trong đó có
cao trào vận động dân chủ nhân dân Việt Nam.
Cùng lúc này ở trong nớc, hậu quả
1936 - 1939.
của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929
Bài làm.
- 1933 kéo dài cùng với cuộc khủng
Năm 1930 Đảng ta ra đời từ đây
bố trắng của Pháp đã tác động sâu
CMVN đã có đờng lối đúng đắn tuy
sắc đến đời sống của tất cả các tầng
nhiên đất nớc vẫn nằm trong thời
lớp g/c trong xã hội Việt Nam. Yêu
kỳ đen tối dới ách thống trị của đế
cầu cải thiện đời sống và các quyền
quốc phong kiến. Mục tiêu của CM
tự do dân chủ đặt ra hết sức bức
là phải lật đổ đế quốc phong kiến
thiết. Chính phủ "Mặt trận nhân
giành lại chính quyền về tay nhân
dân Pháp đã ban bố những chính
dân "vì vấn đề cơ bản của mọi cuộc
sách tự do dân chủ áp dụng phần
CM là vấn đề chính quyền Nhà nnào cho thuộc địa. Một số tù chính
ớc" (Lênin). Muốn giành đợc chính
trị đợc tha và tìm cách hoạt động

quyền phải chuẩn bị và phải nắm
trở lại.
thời cơ vì vậy giai đoạn từ năm
Đồng thời, Đảng ta cũng nh phong
1930 - 1945. Sau phong trào CM
trào quần chúng đã đợc phục hồi.
30 - 31 CMVN bớc vào thời kỳ thoái
Tháng 3/1935 Đại hội lần thứ nhất
trào để rồi sau đó lại bừng dậy ở
của Đảng đã họp ở Ma Cao (Trung
phong trào vận động dân chủ 36 Quốc). Đại hội đã thông qua Nghị
39.
quyết chính trị, điều lệ Đảng, các
Lúc này trên TG, cuộc khủng
Nghị quyết về vận động quần
hoảng KTTG 1929 - 1933 đã để lại
chúng công - nông... Đại hội đã
cho nền kinh tế của các nớc nhất là
bầu ra BCH TW gồm 13 đồng chí,
các nớc t bản phát triển hậu quả
đồng chí Lê Hồng Phong là Tổng bí
nặng nề. Giới cầm quyền một số nth, NAQ đợc cử là đại diện Đảng
ớc t bản đã tìm lối thoát bằng con đbên cạnh QTCS.
ờng phát xít hóa đất nớc. CNPX đã
Căn cứ vào tình hình TG trong nớc và
hình thành và phát triển đầu tiên ở
vận dụng sự chỉ đạo của QTCS vào
Italia, Đức, Nhật. Trục phát xít
hoàn cảnh của nớc ta. Hội nghị TW
Tôkyô - Rôma - Béclin đợc hình

Đảng cộng sản Đông Dơng do Lê Hồng
thành. Bọn phát xít âm mu gây
Phong chủ trì đã họp vào tháng 7/1936
chiến tranh TG mới và đặt nhân
quyết định sự chuyển hớng chỉ đạo CM.
loại trớc thảm họa bị diệt vong.
Nghị quyết của Hội nghị đề cập tới một
Tháng 7/1935 QTCS đã họp Đại
số vấn đề cơ bản.
hội lần thứ 7 Đảng ta đã tham gia
Nhiệm vụ chiến lợc của CM
Đại hội với t cách là một thành viên
DTDC ở Việt Nam là chống đế
chính thức. Đại hội đã thông qua
quốc phong kiến không hề thay
một Nghị quyết quan trọng là lúc
đổi nhng để phù hợp với tình
này g/c công nhân TG hãy tạm gác
hình mới Đảng xác định mục tiêu
khẩu hiệu đánh đổ chủ nghĩa t bản
trực tiếp trớc mắt là đấu tranh
nói chung, thành lập mặt trận nhân
chống chế độ phản động thuộc
dân ở các nớc, tập trung mũi nhọn
địa, chống phát xít, chống chiến
vào việc chống CN phát xít, chống
tranh đòi tự do dân chủ cơm áo
chiến tranh bảo vệ hòa bình. Nghị
và hòa bình. Từ đó chỉ ra kẻ thù
quyết của Đại hội đã kịp thời giúp

chủ yếu trớc mắt của nhân dân
đỡ các Đảng cộng sản đề ra chủ trĐông Dơng là bọn phản động
ơng đúng đắn phù hợp với hoàn
thuộc địa và bè lũ tay sai của
cảnh từng nớc. Nó đã thống nhất
chúng. Đồng thời, tạm thời cha
hành động CM của g/c công nhân
nêu ra khẩu hiệu đánh đổ đế
TG trong một mục tiêu chung.
quốc Pháp và tịch thu ruộng đất
Sau Đại hội phong trào đấu tranh
của bọn địa chủ chia cho dân cày
chống chủ nghĩa phát xít của nhân
mà đòi tự do dân chủ cơm áo hòa
dân TG phát triển, nhiều nớc đã
bình.
thành lập đợc "Mặt trận nhân
Hội nghị chủ trơng thành lập
dân", đặc biệt là Mặt trận nhân
"Mặt trận thống nhất nhân dân
dân Pháp. ở Pháp những ngời
phản đế Đông Dơng" đến tháng
cộng sản đã liên minh với phái cấp


3/1938 đổi thành "Mặt trận dân
chủ Đông Dơng" bao gồm các
giai cấp Đảng phái dân tộc, tổ
chức chính trị và tôn giáo khác
nhau. Hình thức tổ chức quần

chúng thay đổi cho phù hợp.
Công hội, nông hội thay bằng
các hội cứu tế, ái hữu. Đoàn
thanh niên cộng sản thay đổi
thành Đoàn thanh niên dân chủ.
Về phơng pháp đấu tranh, tận
dụng mọi hình thức tổ chức đấu
tranh công khai, nửa công khai,
hợp pháp nửa hợp pháp để vận
động quần chúng. Nh vậy, bên
cạnh hoạt động bí mật lần đầu
tiên Đảng đa một bộ phận ra
hoạt động công khai để khi cần
thì rút vào hoạt động bí mật.
Vậy là, Nghị quyết của Hội nghị
chứng tỏ sự trởng thành của
đảng trong việc vận dụng sáng
tạo CN M - L và Nghị quyết của
Đại hội VII của QTCS vào điều
kiện cụ thể của Đông Dơng. Hội
nghị đã giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa mục tiêu chiến lợc
với mục tiêu cụ thể trớc mắt của
CM. Mối quan hệ giữa mục tiêu
đấu tranh với hình thức tổ chức
và hình thức đấu tranh. Chủ trơng của Đảng phù hợp với thực
tiễn CM. Vấn đề dân tộc dân chủ
đặt ra ở mức độ thấp phù hợp với
yêu cầu và nguyện vọng bức thiết
của quần chúng nên đã đẩy

phong trào phát triển mạnh mẽ
trong cả nớc. Điều đó chứng tỏ
sách lợc CM đúng đắn của Đảng
ta.
Cao trào vận động dân chủ 36 39 đợc mở đầu bằng phong trào
Đông Dơng đại hội. Đợc tin
Quốc hội Pháp cử phái đoàn
sang điều tra tình hình ở Đông
Dơng. Đảng cộng sản Đông Dơng
đã chủ trơng phát động và tổ chức
nhân dân thu thập nguyện vọng tự
do dân chủ trong cả nớc gửi tới
phái đoàn. Đảng kêu gọi thành lập
các ủy ban hành động ở khắp nơi tập
hợp lực lợng quần chúng nhân dân và
chuẩn bị cho Đại hội Đông Dơng.
Phong trào đợc quần chúng hởng
ứng rất đông đảo và gây một tiếng
vang rất lớn trong d luận trong nớc
và trên TG. Khắp nơi B - T - N các
ủy ban hành động đợc thành lập.
Khí thế đấu tranh của quần chúng đã
buộc nhà cầm quyền Đông Dơng phải
ban bố một số Nghị định cải thiện một

bớc điều kiện lao động, tiền lơng tối
thiểu của công nhân và ân xá tù chính
trị (có hơn 3000 cán bộ CM đợc tha).
Lo sợ trớc sự phát triển của phong
trào ngày 15/4/1938 chính quyền thực

dân đã ra lệnh giải tán các ủy ban
hành động.
Đại hội Đông Dơng sớm bị đàn áp
nhng những kết quả thu đợc rất to
lớn: hàng triệu quần chúng đợc
giác ngộ về quyền lợi g/c của mình.
Đợc tập hợp tổ chức và rèn luyện ý
thức đoàn kết, tinh thần đấu tranh,
niềm tin vào Đảng, vào CM đợc
nâng cao. Đảng ta thu đợc những
kinh nghiệm quý báu, phong trào
Đông Dơng Đại hội chứng tỏ rằng
khi chủ trơng chính sách và khẩu
hiệu đấu tranh của Đảng phù hợp
với nguyện vọng của quần chúng
thì đợc nhân dân ủng hộ, mau
chóng trở thành phong trào quần
chúng. Những cán bộ của Đảng
tích lũy đợc nhiều bài học về công
tác lãnh đạo phong trào đấu tranh
công khai hợp pháp ở một nớc
thuộc địa.
Tiếp theo phong trào Đông Dơng
Đại hội là phong trào đấu tranh đòi
dân sinh dân chủ. Mở đầu phong
trào này là phong trào của công
nhân phát triển mạnh mẽ đòi tăng
lơng giảm giờ làm, chống cúp phạt
đánh đập và đòi tự do nghiệp đoàn.
Sáu tháng cuối năm 1936 có 361

cuộc bãi công tiêu biểu là cuộc tổng
bãi công của công nhân mỏ than
Hồng Gai (Cẩm Phả) vào tháng
11/1936. Đỉnh cao của phong trào
là năm 1937 có 400 cuộc bãi công ở
khắp các ngành điển hình nhất là
bãi công của công nhân khu mỏ
Hòn Gai thu hút ngót 3 vạn ngời
tham gia và kéo dài suốt 7 ngày đã
gây thiệt hại lớn cho bọn địa chủ.
Năm 1938 có 135 cuộc bãi công, từ
trong phong trào đấu tranh g/c
công nhân đã thành lập đợc nhiều
tổ chức nghiệp đoàn và các tổ chức
khá chặt chẽ.
Phong trào đấu tranh của nông
dân cũng sôi nổi rầm rộ đòi địa chủ
phong kiến giảm tô, giảm tức chia
lại ruộng công. Năm 1937 khi công
nhân Trờng Thi - Vinh đấu tranh
thì nông dân các vùng lân cận đã
ủng hộ gạo, ngô, khoai, tiền. Trong
năm 1937 có hơn 150 cuộc đấu
tranh của nông dân chống cớp
ruộng đất, đòi chia lại ruộng công.
Năm 1938 có 125 cuộc đấu tranh

của nông dân. Đặc biệt cuối 1938 ở
miền Nam xảy ra nạn đói, nông
dân nhiều nơi biểu tình đấu tranh

trong đó tiêu biểu nhất là cuộc đấu
tranh của hơn 1000 nông dân Cà
Mau.
Phong trào đấu tranh của quần
chúng nói chung phát triển mạnh
cùng với phong trào của công
nhân. Đông đảo tiểu thơng, viên
chức, học sinh sinh viên thậm chí
cả một bộ phận tầng lớp trên và
một số ngời Pháp dân chủ cũng
tham gia trong các phong trào.
Năm 1937 có những cuộc mít tinh
biểu tình lớn của nhân dân ta suốt
từ Bắc chí Nam trong dịp đón rớc
Gôda và Brêviê. Ngày 1/5/`1938 lần
đầu tiên ngày quốc tế lao động đợc
tổ chức mít tinh công khai, ở Sài
Gòn, Hà Nội đã có hàng vạn ngời
tham gia. Đó là thắng lợi lớn nói
lên trình độ giác ngộ, ý thức tổ chức
đoàn kết đấu tranh của quần
chúng và chính sách mặt trận dân
chủ đúng đắn của Đảng cộng sản
Đông Dơng.
Cuối cùng đó là phong trào đấu
tranh nghị trờng và báo chí công
khai. Đảng cộng sản Đông Dơng
đã tận dụng mọi khả năng đấu
tranh công khai, hợp pháp hình
thức mới mẻ đợc Đảng thực hiện là

tham gia các cuộc bầu cử vào các
Viện dân biểu, Hội đồng thành
phố, Hội đồng quản hạt. Mặt trận
dân chủ Đông Dơng đã giành
thắng lợi trong cuộc bầu cử Hội
đồng dân biểu Bắc Kỳ 1938 thu đợc
nhiều phiếu trong cuộc bầu cử Hội
đồng thành phố Hà Nội cuối 1938
và trong cuộc bầu cử Hội đồng dân
biểu Trung Kỳ.
Các nghị viên của Mặt trận đã dựa
vào sự ủng hộ của quần chúng đã
đấu tranh bác bỏ dự án thuế đinh,
thuế điền của chính phủ đa ra vào
năm 1938. Tiếp đó, lợi dụng diễn
đàn này để mở rộng lực lợng của
Mặt trận dân chủ, vạch trần chính
sách phản động của kẻ địch và
bênh vực quyền lợi của nhân dân.
Đảng cộng sản Đông Dơng cũng
triệt để sử dụng báo chí công khai
làm vũ khí đấu tranh CM, tuyên
truyền đờng lối quan điểm, tập hợp
hớng dẫn phong trào đấu tranh
của quần chúng. Lợi dụng cơ hội
thuận lợi của thời kỳ này Đảng ta
đã xuất bản hàng loạt sách báo
bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và đợc

phổ biến rộng rãi. Đáng chú ý nhất

là các tờ: Tin tức, Dân chúng, Tiến
lên, Nhành lúa... và cuốn sách
"Dân cày" của hai đồng chí Trờng
Chinh và Võ Nguyên Giáp. Báo chí
CM lúc đó trở thành mũi xung kích
sắc bén trong các phong trào lớn
của cuộc vận động dân chủ dân
sinh thời kỳ 36 - 39 nh Đông Dơng
đại hội, đón rớc Gôda và Brêviê rồi
đa kiến nghị và biểu dơng lực lợng
quần chúng. Những cuộc bầu cử và
đấu tranh trên nghị trờng.
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn
hóa nghệ thuật, triết học và t tởng
cũng diễn ra rất sôi động nh "nghệ
thuật vị nghệ thuật", "nghệ thuật vị
dân sinh"... của phái duy tâm và
duy vật đã làm cho văn nghệ sĩ tỉnh
ngộ.
Qua phong trào cụ thể cho ta thấy
đây là một cao trào đấu tranh rộng
lớn thu hút đông đảo các tầng lớp
nhân dân tham gia với nhiều hình
thức phong phú.
Có thể nói phong trào CM 36 - 39
là một cuộc vận động dân chủ nhng
đồng thời cũng là một cao trào CM
DTDC thực sự rộng lớn. Đây là một
thắng lợi lớn vì những ngời cộng
sản và nhân dân lao động đã dành

đợc một số quyền tự do dân chủ tối
thiểu cha có ở Đông Dơng bao giờ.
Qua phong trào một lần nữa đảng
ta đợc rèn luyện trong công tác
lãnh đạo, quần chúng đợc tập dợt
đấu tranh và chứng minh thêm khả
năng CM, sức mạnh của khối đoàn
kết toàn dân trên cơ sở công nông
liên minh, CN M - L lại có dịp tuyên
truyền sâu rộng hơn nữa trong
quần chúng. Đội quân chính trị
hùng hậu đợc hình thành tiêu biểu
là tổ chức Mặt trận dân chủ Đông
Dơng. Nhiều cán bộ CM mới tiếp
tục đợc đào tạo.
Qua phong trào những hình thức
đấu tranh mới xuất hiện. Ngoài
đấu tranh chính trị là chủ yếu còn
đấu tranh công khai, hợp pháp,
bán hợp pháp đợc vận dụng rất
linh hoạt mà trớc kia cha hề có.
Các hình thức đấu tranh trong
phong trào 36 - 39 rất phong phú
bổ sung cho những thiếu sót của
thời kỳ 30 - 31 làm cho những hình
thức đấu tranh của Đảng có tính
chất hoàn chỉnh: đấu tranh chính
trị, vũ trang, công khai bán công
khai, bí mật hợp pháp, bất hợp
pháp, nghị trờng đấu tranh t tởng...


đã đem lại nhiều bài học bổ ích cho
CMT8 sau này.
Nếu nh thời kỳ CM 30 - 31 Đảng ta
vững vàng trong việc đề ra đờng lối
chiến lợc thì giờ đây Đảng ta trởng
thành về mặt chỉ đạo sách lợc. Biết
đề ra chủ trơng đúng đắn phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể của lịch sử.
Ba bài học cơ bản mà Đảng rút ra
từ thực tiễn đấu tranh của phong
trào là xây dựng mặt trận, đề ra
sách lợc đấu tranh phù hợp, vận
dụng linh hoạt các hình thức đấu
tranh và biết rút vào bí mật kịp thời
khi điều kiện công khai không còn
cho phép để bảo toàn lực lợng. Tất
cả những điều đó chứng tỏ phong
trào dân chủ 36 - 39 là cuộc diễn
tập thứ 2 và chuẩn bị tiếp theo cho
CMT8.

Đề 5: Điều kiện lịch sử đòi
hỏi CMVN phải đặt vấn đề
gpdt lên nhiệm vụ hàng đầu.
Bài làm.
Năm 1930 Đảng ta ra đời từ đây
CMVN đã có đờng lối đúng đắn tuy
nhiên đất nớc vẫn nằm trong thời
kỳ đen tối dới ách thống trị của đế

quốc phong kiến. Mục tiêu của CM
là phải lật đổ đế quốc phong kiến
giành lại chính quyền về tay nhân
dân "vì vấn đề cơ bản của mọi cuộc
CM là vấn đề chính quyền Nhà nớc" (Lênin). Muốn giành đợc chính
quyền phải chuẩn bị và phải nắm
thời cơ vì vậy giai đoạn từ năm
1930 - 1945 là giai đoạn chuẩn bị
giành chính quyền. Tiếp sau phong
trào 30 - 31 và 36 - 39 là giai đoạn
mà CMVN có những điều kiện lịch
sử mới đòi hỏi Đảng ta phải đa ra
những chủ trơng chỉ đạo chiến lợc
đúng đắn và lúc này Đảng ta đã đặt
vấn đề gpdt lên nhiệm vụ hàng đầu.
Tháng 9/1939 CTTG 2 bùng nổ, t
bản phản động Pháp đã đầu hàng
Đức vào tháng 6/1940. Sau khi
nhảy vào vòng chiến chính phủ
Pháp thi hành hàng loạt biện pháp
đàn áp lực lợng tiến bộ trong nớc.
Chúng phá vỡ Mặt trận nhân dân
Pháp và đặt Đảng cộng sản Pháp
ra ngoài vòng pháp luật đồng thời
chúng thi hành chính sách hết sức
phản động đối với các thuộc địa.
Trong khi đó, ở Việt Nam và Đông
Dơng bọn thực dân Pháp đã thủ
tiêu những quyền lợi mà nhân dân
ta giành đợc trong thời kỳ Mặt trận

dân chủ Đông Dơng. Giải tán các
đoàn thể quần chúng, các tổ chức

10

dân chủ trớc hết nhằm tiêu diệt
Đảng cộng sản Đông Dơng. Thực
dân Pháp đã thi hành chính sách
kinh tế chỉ huy đồng thời ra sức vơ
vét của cải của nhân dân ta, kiểm
soát gắt gao sản xuất và phân phối,
ấn định giá cả độc đoán, tăng thuế
giảm tiền lơng... Hơn nữa, thực dân
Pháp chọn con đờng thỏa hiệp với
phát xít Nhật: ký hiệp ớc thừa nhận
cho Nhật có những đặc quyền ở
Đông Dơng, thỏa thuận cho Nhật
dùng 3 sân bay ở Bắc Kỳ.
Từ những chính sách cai trị của
mình thực dân Pháp đã đẩy nhân
dân ta vào cảnh sống ngột ngạt về
chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu
thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc
Pháp và tay sai trở nên gay gắt hơn
bao giờ hết.
Tiếp đó, mùa thu năm 1940 phát xít
Nhật tràn vào Đông Dơng, thực
dân Pháp đã quỳ gối dâng Đông Dơng cho Nhật. Nhật - Pháp cấu kết
với nhau để áp bức nhân dân ta đến
tận xơng tủy. Nhật bắt dân ta nhổ

lúa trồng đay, đóng thóc tạ, đi lính,
đi phu... thực dân Pháp cũng ra sức
bóc lột nhân dân ta bằng cách tăng
thuế để chuẩn bị chiến tranh và
cung cấp cho Nhật. Bọn địa chủ
phong kiến ở các địa phơng cũng
nhân cơ hội đó ra sức bóc lột dân ta
để làm giàu. Nhật - Pháp còn tăng
cờng tuyên truyền lừa bịp về cái gọi
là "CM quốc gia", thuyết đại Đông
á.
Hậu quả của chính sách thống trị
của Pháp - Nhật là nhân dân ta
phải chịu cảnh một cổ hai tròng và
nạn đói khủng khiếp làm cho hơn 2
triệu đồng bào ta bị chết vào cuối
1944 đầu 1945. Tình hình ấy làm
cho mâu thuẫn giữa dân tộc ta với
đế quốc Pháp - Nhật càng sâu sắc.
Vì vậy, lúc này quyền lợi của bộ
phận, của g/c phải đặt dới sự sinh
tử tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Trên TG CTTG 2 diễn ra ngày càng
quyết liệt, phát xít Đức chiếm đợc phần
lớn lãnh thổ châu Âu chuẩn bị tấn
công Liên Xô, Nhật mở rộng chiến
tranh Thái Bình Dơng. Khi Đức tấn
công Liên Xô thì nhân dân Liên Xô đã
tiến hành cuộc chiến tranh ái quốc vĩ
đại chống chiến tranh phát xít đã làm

cho tính chất của CTTG 2 thay đổi: từ
một cuộc chiến tranh đế quốc phi
nghĩa thành một cuộc chiến tranh
chính nghĩa, giữa một bên là phát xít
với một bên là lực lợng hòa bình mà
Liên Xô là lực lợng đi đầu. Đây là cơ
hội thuận lợi cho các dân tộc thuộc địa

và phụ thuộc đứng lên giải phóng
mình.
Khi CTTG 2 bùng nổ Đảng đã kịp
thời ra Chỉ thị cho cán bộ hoạt
động công khai hợp pháp, nửa
công khai rút vào hoạt động bí mật,
chuyển trọng tâm về nông thôn, xây
dựng các vùng nông thôn, vùng sâu
vùng xa thành căn cứ địa đồng thời
vẫn duy trì các cơ sở ở đô thị, ở ven
đô để kết hợp phong trào ở đô thị
và nông thôn.
Hội nghị TW Đảng lần thứ 6 đã
họp từ ngày 6 đến 8/11/1939 tại Bà
Điểm (Hóc Môn - Gia Định) do
Tổng bí th Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
Hội nghị đã phân tích tính chất của
CTTG 2, những chính sách của
thực dân Pháp và thái độ của các
g/c xã hội, vạch ra đờng lối chính
trị của CMVN trong tình hình mới.
Hội nghị đã nêu bật lên nhiệm vụ

cấp bách nhất và mục tiêu trớc mắt
của CM Đông Dơng là đánh đổ đế
quốc và tay sai, gpdt khỏi ách đế
quốc dù là Pháp hay là Nhật làm
cho Việt Nam và Đông Dơng hoàn
toàn độc lập. Đồng thời, Hội nghị
cũng đề ra khẩu hiệu để tập trung
lực lợng thực hiện đợc nhiệm vụ
chính cốt của CM là đánh đổ đế
quốc. Hội nghị chủ trơng tạm gác
khẩu hiệu "CM ruộng đất" và thay
bằng các khẩu hiệu "chống địa tô
cao", "chống cho vay nặng lãi",
"tịch thu ruộng đất của thực dân,
đế quốc và bọn địa chủ phản bội
quyền lợi dân tộc đem chia cho dân
cày nghèo".
Hội nghị còn chủ trơng tạm gác
khẩu hiệu "lập chính quyền Xô
Viết công nông binh" thay bằng
khẩu hiệu lập "Chính phủ cộng
hòa dân chủ" hình thức Nhà nớc
chung cho tất cả tầng lớp dân
chúng và cho phong trào gpdt.
Tổ chức ra mặt trận để tập trung
mọi lực lợng của dân tộc vào nhiệm
vụ chủ yếu trớc mắt là đánh đổ đế
quốc, tay sai. Hội nghị chủ trơng
thành lập "Mặt trận thống nhất
dân tộc phản đế Đông Dơng". Lực

lợng chính là công nông đoàn kết
với tiểu t sản, đồng minh trong chốc
lát hoặc trung lập là t sản dân tộc,
trung - tiểu địa chủ.
Về phơng pháp đấu tranh, do đờng
lối CM có sự chuyển hớng một cách
căn bản mà phơng pháp cũng đòi
hỏi có sự thay đổi từ đấu tranh đòi
quyền dân sinh dân chủ sang đấu
tranh trực tiếp, đánh đổ chính
quyền của đế quốc, tay sai, từ hoạt
động hợp pháp nửa hợp pháp sang

bất hợp pháp, bí mật, đấu tranh
chính trị kết hợp đấu tranh vũ
trang, khởi nghĩa vũ trang.
Ngoài ra, Hội nghị đã khẳng định
CMVN phải giơng cao ngọn cờ
gpdt, giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa dân tộc và dân chủ. Đảng
đồng thời cũng giơng cao ngọn cờ
đoàn kết với các lực lợng CMTG do
Liên Xô làm trụ cột phối hợp chặt
chẽ với các cuộc đấu tranh của
nhân dân Lào và Cămpuchia. Để
đảm bảo cho việc thực hiện thắng
lợi những nhiệm vụ lịch sử nặng nề
Hội nghị đặc biệt coi trọng công tác
xây dựng Đảng về mọi mặt, tăng cờng sự thống nhất về ý chí và hành
động trong Đảng.

Hội nghị BCH TW Đảng lần 6 đã
đánh dấu sự chuyển hớng đúng
đắn về chỉ đạo chiến lợc CM. Giơng
cao ngọn cờ gpdt, tăng cờng "Mặt
trận dân tộc thống nhất", mở đầu
thời kỳ mới, mở đờng đi tới thắng
lợi của CMT8.
Chủ trơng của Hội nghị TW lần 6
là chủ trơng chỉ đạo chiến lợc và
sách lợc của CMVN thời kỳ 1939 1945: thời kỳ đấu tranh gpdt. Nó
chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn,
sáng tạo, sự nhạy bén của Đảng
trong điều kiện có chiến tranh đế
quốc và cả trong điều kiện một nớc
thuộc địa, nửa phong kiến. Do đó
nó có giá trị to lớn không những về
mặt thực tiễn mà cả trong lý luận
đã phát triển bổ sung thêm một số
vấn đề về chiến lợc và sách lợc CM
đề ra từ trong Luận cơng chính trị
tháng 10/1930. Chủ trơng này đợc
tiếp tục phát triển và hoàn thiện ở
Hội nghị TW lần 8 vào tháng
5/1941.

Đề 6: Trình bày quá trình
xâm lợc Đông Dơng của
Nhật và chính sách của
Nhật đối với nhân dân
Đông Dơng.

Bài làm.
Sau khi CTTG 2 nổ ra, Pháp bị phát
xít chiếm đóng, quân phiệt Nhật kéo
vào Đông Dơng. Điều này chứng tỏ tầm
quan trọng của Đông Dơng đối với kế
hoạch xâm lợc của Nhật.
Đông Dơng có một vị trí chiến lợc
quan trọng về quân sự. Từ đây có
thể đi thông tới các châu lục, các
đại dơng. Đặc biệt Đông Dơng có
nguồn tài nguyên phong phú, nhân
lực dồi dào vì vậy các nớc đế quốc
luôn tìm cách xâm chiếm. ở châu
á, Nhật chiếm đợc phần lớn lãnh


thổ TQ. Lợi dụng sự suy yếu của
Pháp, Nhật lấn dần từng bớc để
xâm chiếm Đông Dơng. Nhật ép
Pháp phải ký một loạt Hiệp ớc bất
bình đẳng mở cửa Đông Dơng cho
Nhật làm hậu phơng lớn cho chiến
trờng Châu á - Thái Bình Dơng nh
buộc Pháp phải đóng cửa biên giới
Việt - Trung không để quân đồng
minh chuyên chở vũ khí, hàng hóa
xuyên qua Bắc Kỳ vào nội địa TQ
vào tháng 6/1940. Tiếp đó tháng
8/1940 bọn Nhật buộc Pháp phải
ký Hiệp ớc thừa nhận cho Nhật có

những đặc quyền ở Đông Dơng.
Ngày 22/9/1940 Nhật buộc Pháp ký
một hiệp ớc cho mợn con đờng xe
lửa từ Lạng Sơn qua Hà Nội xuống
Hải Phòng để chuyên chở lơng
thực, thuốc men, vũ khí, đạn dợc,
phơng tiện chiến tranh và quân đội
ra Thái Bình Dơng rồi cho Nhật đợc sử dụng 3 sân bay lớn ở Bắc Kỳ
là Bạch Mai, Gia Lâm, Cát Bi, cho
Nhật đóng 6000 quân ở phía Bắc
sông Hồng.
Mặc dù thực dân Pháp chấp nhận
mọi yêu sách của Nhật nhng ngay
sau đó quân đội Nhật vẫn vợt biên
giới vào Bắc Việt Nam đanhs chiếm
Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng và
đổ bộ lên Đồ Sơn.
Tháng 5/1941 Pháp phải thừa
nhận địa vị đặc biệt u đãI của Nhật
trong các quan hệ kinh tế với Đông
Dơng. Thực chất Nhật độc chiếm
thị trờng Đông Dơng. Tháng
7/1941 Nhật buộc Pháp ký Hiệp ớc
"phòng thủ chung Đông Dơng",
cho quân Nhật đợc tự do di chuyển
trên khắp lãnh thổ Đông Dơng,
không hạn chế về số lợng. Nh vậy,
trên thực tế Nhật đã chỉ huy Pháp
về mặt quân sự.
Cuối 1941 Nhật buộc Pháp ký Hiệp

ớc "Cam kết hợp tác với Nhật về
toàn diện" nh giúp mọi sự dễ dàng
cho Nhật trong việc hành binh,
cung cấp lơng thực và bố trí doanh
trại, bảo đảm an ninh, đàn áp
phong trào đấu tranh của nhân
dân Đông Dơng. Thực dân Pháp vì
không đủ sức chống lại Nhật buộc
phải chấp nhận các yêu sách của
Nhật đồng thời chúng cũng dựa
vào Nhật để đàn áp CM Đông Dơng. Đến đây về cơ bản là phát xít
Nhật đã làm chủ Đông Dơng.
Trớc sự chèn ép của Nhật, mâu
thuẫn Pháp - Nhật ngày một tăng,
Nhật sử dụng Pháp nh một công cụ

thống trị nhân dân ta và chuẩn bị
lật đổ thực dân Pháp để độc chiếm
Đông Dơng. Bề ngoài Pháp tỏ ra
phục tùng Nhật nhng bên trong thì
ngấm ngầm chuẩn bị chống lại
Nhật chỉ chờ thời cơ thuận lợi (khi
quân đồng minh vào Đông Dơng)
sẽ nổi dậy. Vì hai tên đế quốc
không thể ăn chung một miếng mồi
béo bở - Đông Dơng. Cuối 1944
đầu 1945 cuộc CTTG bớc vào giai
đoạn kết thúc, phe phát xít dồn dập
thất bại trên các chiến trờng. Nhật
thất bại ở Thái Bình Dơng mất đờng tiếp tế trên mặt biển. Anh - Mỹ

mở mặt trận thứ 2, thủ đô Pari đợc
giải phóng, chính phủ phản động
Pêtanh sụp đổ, chính phủ ĐờGôn
lên cầm quyền. ở Đông Dơng bọn
thực dân Pháp ngóc đầu dậy chuẩn
bị kế hoạch khôi phục lại địa vị
thống trị cũ ở Đông Dơng khi quân
đồng minh kéo vào đánh Nhật. Để
trừ hậu họa về sau Nhật đã đảo
chính Pháp.
Đúng 8 giờ tối 9/3/1945 Nhật gửi
tối hậu th đòi Pháp phải trao tất cả
quyền hành và ra lệnh bắt toàn
quyền Đờcu và nổ súng lật Pháp
trên toàn cõi Đông Dơng. Thực dân
Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng, quỳ
gối dâng toàn bộ Đông Dơng cho
Nhật.
Kết quả là Nhật đã giành thắng lợi
và thi hành những chính sách hết
sức phản động đối với nhân dân
Đông Dơng.
Về chính trị, chúng thẳng tay đàn
áp CM và những ngời yêu nớc, bóp
nghẹt mọi quyền tự do dân chủ của
nhân dân, chúng lập chính phủ bù
nhìn thân Nhật do Trần Trọng Kim
là Thủ tớng và các tổ chức tay sai
thân Nhật với chiêu bài là "Việt
Nam độc lập" để lừa bịp nhân dân

ta. Thực chất là Nhật thay thế Pháp
nắm mọi quyền hành ở Đông Dơng,
đa bọn võ quan Nhật thay chân bọn
toàn quyền thông sứ, khâm sứ ngời
Pháp ở Đông Dơng. Chúng thiết
lập một chính quyền tay sai từ TW
đến cơ sở làm công cụ kìm kẹp
nhân dân ta.
Về kinh tế, chúng ra sức vơ vét của
cải, bóc lột nhân dân ta nặng nề
hơn, đẩy mạnh chính sách thu thóc
tạ, phá lúa trồng đay, tăng thêm
thuế và bắt dân ta đi phu xây dựng
đồn bốt cho chúng. Hậu quả là làm
cho nạn đói càng lan rộng và trầm
trọng hơn, hai triệu đồng bào ta

chết đói. Bộ mặt phát xít của Nhật
càng lộ rõ, nền độc lập mà Nhật
tuyên bố chỉ là cái bánh vẽ.
Về quân sự, chúng thẳng tay đàn
áp, chém giết đồng bào ta, tấn công
vào các vùng căn cứ CM, mũi nhọn
là nhằm vào các tổ chức Đảng và
MTVM. Dùng các thủ đoạn tra tấn
giết ngời cực kỳ man rợ, gửi th cho
VM, vừa dụ dỗ vừa đe dọa (hoặc là
hợp tác thân thiện với Nhật, hoặc bị
tiêu diệt).
Về văn hóa - giáo dục, chúng mị dân,

lừa bịp, tuyên truyền cho các thuyết
đại đông á, Đồng văn đồng trục, khối
thịnh vợng chung. Chúng dùng văn
hóa nô dịch để đầu độc dân ta: mở trờng dạy tiếng Nhật, chiếu phim Nhật
nhằm ru ngủ thanh niên, chúng tuyên
truyền cho văn hóa Nhật, sức mạnh
Nhật để gây tâm lý phục Nhật, sợ Nhật
và biến một bộ phận thanh thiếu niên
thành bia đỡ đạn cho chúng.
Nh vậy, cuộc đảo chính đã gây ra
một cuộc khủng hoảng sâu sắc, một
kẻ thù của nhân dân Đông Dơng bị
tiêu diệt, kẻ thù còn lại là phát xít
Nhật mới lên cầm quyền cha ổn
định đã tạo cho CMĐD có cơ hội
phát triển mau chóng, chính sách
phản động cùng với vô số những
hoạt động thù địch của Nhật và tay
sai đã làm cho đời sống của nhân
dân ta điêu đứng, mâu thuẫn giữa
các dân tộc Đông Dơng với bọn đế
quốc và tay sai càng sâu sắc, nhanh
chóng thức tỉnh quần chúng vùng
dậy đấu tranh. Đây là nguyên nhân
dẫn đến sự bùng nổ của cao trào
kháng Nhật cứu nớc ở nớc ta do
Đảng lãnh đạo.

Đề 7: Những nét chính về
diễn biến của các cuộc

khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam
Kỳ, và binh biến Đô Lơng.
ý nghĩa lịch sử của những
sự kiện đó?
Bài làm.
Chiến tranh đế quốc với sự đầu
hàng nhục nhã của Pháp đối với
Nhật cùng với những chính sách
phản động của Pháp ở Đông Dơng
đã thúc đẩy quá trình CM hóa,
nhân dân Đông Dơng vốn có lòng
yêu nớc và tinh thần đấu tranh bất
khuất dới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta đã vùng dậy khởi
nghĩa chống Pháp - Nhật. Điển
hình cho các cuộc đấu tranh ấy là
khởi nghĩa Bắc Sơn (9/1940), Nam

Kỳ (11/1940) và binh biến Đô Lơng
(1/1941).
Từ cuối 1840, quân Nhật đã tiến sát
biên giới Việt - Trung. Ngày
22/9/1940 Pháp buộc phải ký với
Nhật hiệp định mở cửa Đông Dơng
cho Nhật tràn vào. Ngay đêm đó
Nhật tấn công Lạng Sơn, quân
Pháp ở đây tuy đông nhng chỉ sau
vài ngày chiến đấu đã tan rã, số lớn
thì đầu hàng, số còn lại tháo chạy
về Thái Nguyên qua đờng Bắc Sơn.

Chính quyền thực dân ở những
vùng này lung lay tan rã. Quần
chúng nhiều nơi tự động thu nhặt
vũ khí của địch trang bị cho mình.
Một số đồng chí của ta thoát khỏi
nhà tù của Pháp nhân cơ hội đó
ngày 27/9/1940 nhân dân Bắc Sơn
dới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa
phơng nổi dậy khởi nghĩa.
Mở đầu với lực lợng khoảng 600
ngời có vũ trang đã chiếm đồn Mỏ
Nhài, viên tri châu Bắc Sơn chạy
trốn, chính quyền địch ở Bắc Sơn
tan rã, chính quyền CM thành lập
và đội du kích Bắc Sơn ra đời.
Để đối phó với cuộc nổi dậy ở Bắc
Sơn, Pháp - Nhật đi đến hoà hoãn,
đợc Nhật trao trả tù binh Pháp
quay trở lại chiếm đóng Lạng Sơn
và thẳng tay đàn áp cuộc khởi
nghĩa. Chúng đốt phá làng bản,
bắn giết những ngời tham gia khởi
nghĩa, tập trung dân. Chúng dìm
cuộc khởi nghĩa trong một biển
máu. Trong tình hình đó cuộc khởi
nghĩa Bắc Sơn chỉ tồn tại đợc gần
một tháng.
Sau Hội nghị TW 6 của Đảng,
phong trào CM ở Nam Kỳ phát
triển nhanh chóng cùng với cuộc

sống nô lệ không thể chịu nổi lại đợc tinh thần của các chiến sĩ Bắc
Sơn cổ vũ trên hầu khắp Nam Bộ
sôi sục khí thể đấu tranh. Đặc biệt
khi cuộc xung đột Pháp - Thái nổ
ra dọc biên giới Lào - Cămpuchia,
thực dân Pháp đã đẩy nhân dân
Việt Nam và nhân dân CPC đi làm
bia đỡ đạn cho chúng. Nhân dân
Nam Kỳ và binh lính sôi nổi đấu
tranh chống bắt lính đa lính ra mặt
trận. Đứng trớc tình hình đó xứ ủy
Nam Kỳ triệu tập nhiều cuộc họp để
bàn về khởi nghĩa và kế hoạch khởi
nghĩa đợc vạch ra và cử ngời ra xin
Chỉ thị của TW.
Hội nghị TW lần thứ 7 sau khi xem
xét tình hình đã ra Chỉ thị hoãn
cuộc khởi nghĩa vì ở MN cha đủ

điều kiện chủ quan và khách quan
bảo đảm cho khởi nghĩa giành
thắng lợi. Nhng lệnh của TW
không đến kịp vì đồng chí Phan
Đăng Lu ủy viên TW Đảng, phái
viên của xứ ủy Nam Kỳ ra Bắc xin
Chỉ thị khi trở vào Nam đã bị giặc
bắt. Lệnh khởi nghĩa của xứ ủy đã
về đến địa phơng không hoãn lại đợc. Mặc dù cha chủ trơng khởi
nghĩa nhng khởi nghĩa vẫn nổ ra.
Khi khởi nghĩa nổ ra TW đã kịp

thời ra lời kêu gọi các nơi hởng ứng
ủng hộ.
Đêm 22 rạng ngày 23/11/1940 khởi
nghĩa nổ ra ở hầu khắp các tỉnh
Nam Kỳ từ miền Đông đến miền
Tây có sự tham gia đông đảo của
binh lính ngời Việt Nam trong
quân đội Pháp. Đặc biệt quyết liệt
là ở Hóc Môn (Bà Điểm - Gia
Định), Cay Lậy (Mỹ Tho), ở một số
nơi có phong trào nổi dậy mạnh mẽ
chính quyền địch tan rã, chính
quyền CM đợc thành lập, chính
quyền mới đã thực hiện một số
chính sách dân chủ, thi hành nhiều
biện pháp nhằm giữ trật tự trị an và
lập tòa án xét xử bọn phản CM. Lá
cờ đỏ sao vàng lần đầu xuất hiện từ
trong phong trào nổi dậy của quần
chúng đã tung bay trớc trụ sở cơ
quan CM ở một số vùng thuộc tỉnh
Mỹ Tho và Vĩnh Long.
Hoảng hốt trớc tình hình thực dân
Pháp đã tập trung lực lợng dùng
nhiều thủ đoạn đàn áp dã man
cuộc khởi nghĩa nh máy bay dội
bom, đốt nhà, cớp của giết ngời làm
cho CM Nam Kỳ bị tổn thất rất
nặng nề. Nhiều chiến sĩ CM u tú
của dân tộc bị chúng giết hại nh

Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập,
Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn
Tần... Song một số cán bộ và nghĩa
quân đã bí mật rút vào rừng chấn
chỉnh đội ngũ để chờ cơ hội hoạt
động trở lại.
Cuối 1940 đầu 1941 tại miền Trung
một số binh lính ngời Việt bị thực dân
Pháp đẩy đi làm bia đỡ đạn cho chúng
ở vùng biên giới Lào - Thái. Một số ngời có lòng yêu nớc đã đứng lên làm
binh biến.
Ngày 13/1/1941 dới sự chỉ huy của
Đội Cung và Cai á, binh lính ở đồn
chợ Rạng - Đô Lơng - Nghệ An tự
động nổi dậy. Họ chiếm đợc đồn Đô
Lơng, giết và làm bị thơng một số
binh lính và sĩ quan Pháp, thu đợc một
số vũ khí. Sau đó họ định kéo về Vinh

11

cùng anh em binh lính ở đây giết giặc
chiếm thành nhng kế hoạch không
thực hiện đợc.
Cuộc binh biến Đô Lơng nhanh
chóng bị thực dân Pháp dập tắt vì
cuộc nổi dậy tự phát của binh lính
không đợc đông đảo quần chúng
tham gia song cuộc binh biến thể hiện
tinh thần yêu nớc của binh lính ngời

Việt Nam trong quân đội Pháp, Đảng
cộng sản Đông Dơng hoan nghênh
tinh thần yêu nớc của binh lính đồng
thời điều này cũng chứng minh khả
năng CM của binh lính khi đợc giác
ngộ.
Nh vậy, trong vòng không đầy 4
tháng từ khi phát xít Nhật bắt đầu
xâm chiếm Đông Dơng trên cả 3
miền đất nớc đã nổ ra hai cuộc
khởi nghĩa và một cuộc binh biến, 3
cuộc nổi dậy không thành vì thực
dân Pháp còn mạnh, nổ ra cha
đúng thời cơ.
Mặc dù bị thất bại nhng ba cuộc
nổi dậy đã nói lên tinh thần yêu nớc, ý chí quật cờng và quyết tâm cao
của nhân dân ta không bỏ lỡ cơ hội
đứng lên đánh Pháp đuổi Nhật,
giáng những đòn nặng nề đầu tiên
vào chúng. Là những tiếng súng
đầu tiên báo hiệu thời kỳ CM mới thời kỳ khởi nghĩa vũ trang cớp
chính quyền của nhân dân ta đã
bắt đầu, nó cổ vũ mạnh mẽ tinh
thần đấu tranh của nhân dân ta và
gây tiếng vang trong d luận.
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã để lại
cho CM đội du kích Bắc Sơn, cái
vốn lực lợng vũ trang đầu tiên của
CM trong thời kỳ mới. Từ cuộc khởi
nghĩa Nam Kỳ lá cờ đỏ sao vàng ra

đời và trở thành biểu tợng thiêng
liêng của dân tộc ta.
Các cuộc nổi dậy thất bại nhng để
lại cho Đảng ta nhiều bài học quý
báu cho thắng lợi của CMT8 sau
này. Các cuộc khởi nghĩa trên đều
thất bại vì nó nổ ra không đúng
thời cơ, điều kiện chủ quan và
khách quan cha chín muồi. Điều đó
đã chỉ ra cho Đảng ta bài học kinh
nghiệm về vấn đề lựa chọn đúng
thời cơ. Về quyết tâm giành thắng
lợi và nghệ thuật phát động quần
chúng khởi nghĩa, liên tục tiến
công đi từ khởi nghĩa từng phần
tiến lên tổng khởi nghĩa, về vấn đề xây
dựng và tổ chức lực lợng vũ trang và
chiến tranh du kích.
Với những ý nghĩa và bài học nh
vậy 3 cuộc khởi nghĩa có tác dụng

trực tiếp chuẩn bị cho cuộc tổng
khởi nghĩa tháng 8/1945. Đó là
"những tiếng súng báo hiệu của
cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bớc
đầu đấu tranh bằng võ lực của các
dân tộc Đông Dơng".

Đề 8: Hoàn cảnh lịch sử,
vai trò của MTVM.

Bài làm.
Việc hình thành và củng cố đạo
quân chính trị quần chúng thông
qua việc hình thành và củng cố mặt
trận dân tộc thống nhất, là một
trong những nền tảng cơ sở, điều
kiện cần và đủ ảnh hởng trực tiếp
và tác động đến tiến trình CM. Là
một trong những vấn đề có tầm
quan trọng, chiến lợc quyết định
đến sự thành công của CMT8. Sau
khi CTTG bùng nổ, tình hình TG
và trong nớc biến đổi sâu sắc. Đầu
1941 lãnh tụ NAQ về nớc để trực
tiếp lãnh đạo CMVN để tăng cờng
khối đoàn kết toàn dân, Ngời đã
thành lập ra MTVM (5/1941).
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị
TW 8 do NAQ chủ trì MTVM đã đợc thành lập vì lúc này mâu thuẫn
giữa các dân tộc Đông Dơng với đế
quốc, phát xít là mâu thuẫn chủ
yếu nhất. Đặc biệt từ khi nhân dân
Đông Dơng chịu hai tầng áp bức
Pháp - Nhật, quyền lợi của tất cả
các tầng lớp g/c lúc này đều bị cớp
giật, vận mệnh dân tộc nguy vong
không lúc nào bằng. Vì vậy gpdt là
nhữnphòng chống yêu cầu bức thiết
nhất của CM Đông Dơng.
Để phát huy sức mạnh dân tộc ở

mỗi nớc Đông Dơng cần phải giải
quyết vấn đề dân tộc trong khuôn
khổ mỗi nớc. Vì thế, ở mỗi nớc có
mặt trận dân tộc thống nhất riêng.
ở Việt Nam lấy tên phù hợp là "Việt
Nam độc lập đồng minh" (gọi tắt là
Việt Minh).
MTVM có nhiệm vụ là động viên
mạnh mẽ hơn nữa tinh thần toàn
dân trong cuộc đấu tranh vì độc lập
tự do, thực hiện chính sách đại
đoàn kết dân tộc và triệt để phân
hóa kẻ thù vì vậy nhấn mạnh Việt
Nam độc lập. Đồng thời lúc ấy trên
TG đang có những biến chuyển sâu
sắc. Phát xít Đức sau khi chiếm hầu
hết các nớc Châu Âu chuẩn bị quay
sang tấn công Liên Xô, tính chất
của cuộc chiến tranh sẽ thay đổi,
trên TG dần dần hình thành hai
trận tuyến: một bên là các lực lợng
dân chủ do Liên Xô đứng đầu, một

bên là khối phát xít Đức - ý - Nhật.
Cuộc đấu tranh của mỗi dân tộc
Đông Dơng là một bộ phận của mặt
trận dân chủ chống phát xít TG.
VM tập hợp mọi tầng lớp nhân dân
chống đế quốc phát xít Pháp - Nhật
giành độc lập dân tộc, đồng thời

đứng trong phe đồng minh chống
phát xít, tích cực góp phần vào sự
nghiệp CMTG. Vì vậy Đảng ta
thành lập mặt trận gọi là "Việt
Nam độc lập đồng minh".
Ngày 19/5/1941 MTVM ra đời bao
gồm các tổ chức quần chúng yêu nớc chống đế quốc có tên chung là
Hội cứu quốc. Ngày 25/10/1941 thì
công bố tuyên ngôn, chơng trình,
điều lệ của mặt trận.
Tuyên ngôn nêu rõ là liên hiệp tất
cả các tầng lớp nhân dân, các đảng
phái CM, các đoàn thể dân chúng
yêu nớc đang cùng nhau đánh đuổi
Nhật - Pháp làm cho Việt Nam
hoàn toàn độc lập dựng lên một nớc
VNDCCH.
Chơng trình bao gồm các chính
sách về kinh tế, văn hóa, xã hội
trong đó nổi bật 2 điều cốt yếu mà
toàn dân mong ớc là làm sao cho nớc Việt Nam hoàn toàn độc lập, dân
Việt Nam đợc sung sớng tự do. Sau
khi đánh đuổi bọn đế quốc Nhật Pháp sẽ lập nên một chính phủ CM
của nớc VNDCCH theo tinh thần
tân dân chủ lấy cờ đỏ sao vàng là lá
cờ chung. Chơng trình sau đợc đúc
kết thành 10 chính sách lớn đem
thực hiện ở chiến khu Việt Bắc.
Mục đích của mặt trận VM là phản
đối xâm lợc, tiễu trừ Việt gian, lập

nên một nớc VNDCCH hoàn toàn
độc lập.
Về chính sách đối nội, vũ trang
nhân dân chống Nhật mở rộng
quân giải phóng Việt Nam; tịch thu
tài sản của lũ giặc nớc và của Việt
gian tùy từng trờng hợp để làm của
chung hay chia cho dân nghèo, bỏ
hết thuế khóa, phục dịch do đế
quốc đặt ra, thực hiện quyền tự do
dân chủ, quyền phổ thông tuyển cử,
thừa nhận dân tộc bình đẳng, nam
nữ bình quyền. Chia lại ruộng công
làm cho dân nghèo có ruộng, giảm
địa tô địa tức, hoãn nợ, thi hành
luật làm 8 giờ và đặt luật xã hội
bảo hiểm, cứu tế nạn nhân. Thành
lập và mở mang nền kinh tế quốc
dân, khuyến khích giúp đỡ công
nghiệp, nông nghiệp, thơng nghiệp
lập quốc gia ngân hàng, chống nạn


mù chữ, cỡng bách giáo dục đến
bậc sơ học, đào tạo các hạng nhân
tài.
Về đối ngoại, mặt trận chủ trơng
thân thiện với tất cả các nớc coi
trọng nền độc lập của Việt Nam và
đây cũng chính là đờng lối đối

ngoại của Đảng ta hiện nay.
Với Cơng lĩnh 10 điểm VM nhanh
chóng trở thành ngọn cờ tập hợp
lực lợng, xây dựng khối đoàn kết
toàn dân đứng lên cứu nớc cứu
nhà.
Từ những hoạt động của mình mà
trong suốt 10 năm hoạt động cho
đến khi kết hợp với Hội Liên Việt
MTVM đã có vai trò quan trọng đối
với CMVN. Bởi, MTVM là trung
tâm đoàn kết toàn dân dới sự lãnh
đạo của Đảng.
Nói đến vai trò của MTVM không
thể không nói tới sự đóng góp to
lớn của mặt trận đối với CMT8.
MTVM ra đời với chơng trình 10
điểm vừa ích nớc lợi dân đã tập hợp
đợc đông đảo quần chúng hình
thành nên lực lợng chính trị hùng
hậu của CM, dới sự lãnh đạo của
Đảng đã động viên đợc sức mạnh
của các dân tộc thực hiện đại đoàn
kết toàn dân, phân hóa và cô lập kẻ
thù để chĩa mũi nhọn đấu tranh
đánh đổ chúng.
Đồng thời trên cơ sở phát triển các
đoàn thể cứu quốc trong MTVM
lực lợng vũ trang CM đã từng bớc
hình thành và phát triển. Cùng với

lực lợng chính trị của quần chúng
đông đảo đã tạo nên sức mạnh tổng
hợp để nổi dậy khởi nghĩa giành
chính quyền khi thời cơ đến.
Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa VM
đã lãnh đạo cao trào kháng Nhật
cứu nớc, tổ chức những cuộc đấu
tranh vũ trang, khởi nghĩa từng
phần ở các địa phơng cùng với
nhiều hoạt động khác nh biểu tình,
phá kho thóc để tập dợt cho quần
chúng đấu tranh.
Trong những ngày Tổng khởi
nghĩa Tháng 8, Tổng bộ VM đã
đứng ra triệu tập Quốc dân đại hội
Tân Trào trực tiếp kêu gọi, tổ chức,
huy động lực lợng của quần chúng
đấu tranh giành chính quyền. Lá
cờ đỏ sao vàng 5 cánh của MTVM
đã tung bay trong cả nớc trở thành
quốc kỳ của nớc VNDCCH.
Nh vậy, đối với CMT8, MTVM có
vai trò to lớn trong việc chuẩn bị và

lãnh đạo Tổng khởi nghĩa thắng
lợi.
Sau CMT8 thắng lợi, MTVM tiếp
tục củng cố khối đoàn kết toàn dân
trong mặt trận, lãnh đạo nhân dân,
giải quyết những khó khăn trớc

mắt, xây dựng chính quyền mới và
đấu tranh chống thù trong giặc
ngoài chuẩn bị cho cuộc k/c.
Trong cuộc k/c chống Pháp,
MTVM cùng với Hội Liên Việt đã
tập hợp mọi lực lợng nhân dân tiến
hành cuộc k/c trờng kỳ gian khổ
chống thực dân Pháp. Và ngày
3/3/1951 đã thống nhất với Hội
Liên Việt thành MTLV để củng cố
tăng cờng khối đoàn kết toàn dân.
MTVM đã hoàn thành nhiệm vụ và
vai trò lịch sử của mình. Khối đoàn
kết dân tộc mà mặt trận xây dựng đợc ngày càng đợc củng cố và phát
triển qua cuộc k/c chống thực dân
Pháp rồi cuộc k/c chống Mỹ và
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay.

Đề 9: Cao trào kháng Nhật
cứu nớc thời kỳ tiền khởi
nghĩa từ tháng 3 đến tháng
8/1945.
Bài làm.
Việt Nam đã trải qua hàng nghìn
năm lịch sử dựng nớc và giữ nớc.
Biết bao nhiêu thế hệ con ngời Việt
Nam đã đứng dậy chống giặc ngoại
xâm để bảo vệ độc lập dân tộc. Và
những năm đầu của TK XX nhân

dân ta lại phải đối mặt với một tên
đế quốc thuộc loại sừng sỏ nhất nhng tinh thần yêu nớc từ ngàn đời
nay đã làm nên một chiến thắng
vang dội. Lần đầu tiên trong lịch sử
nhân loại một đất nớc nhỏ bé đã
chống lại đợc một nớc đế quốc
thuộc lại hùng mạnh nhất TG.
Thắng lợi của CMT8 ở Việt Nam đã
để lại cho nhân dân ta cũng nh các
dân tộc thuộc địa trên TG những
bài học kinh nghiệm quý báu. Vậy
phải chăng thắng lợi của CMT8
chính là kết quả của các phong
trào 30 - 31, 36 - 39 đặc biệt là cao
trào k/c chống Nhật cứu nớc của
nhân dân ta?
Cuối 1944 đầu 1945, về phía ta lực
lợng CM của quần chúng bao gồm
cả lực lợng vũ trang và lực lợng
chính trị đều phát triển mạnh mẽ,
rộng rãi. Lúc này, về phía kẻ thù đó
là kẻ thù cắn xé nhau, Nhật - Pháp
mâu thuẫn sâu sắc với nhau. Cuối
1944 đầu 1945 CTTG 2 bớc vào

giai đoạn kết thúc, phe phát xít dồn khẩu hiệu "thành lập chính quyền
dập bị thất bại trên các chiến trờng. CM của nhân dân Đông Dơng".
ở Pháp chính phủ Pêtanh sụp đổ, Phát động cao trào kháng Nhật
chính phủ Đờ Gôn lên cầm quyền. cứu nớc làm tiền đề cho cuộc Tổng
Bọn Pháp ở Đông Dơng ngóc đầu khởi nghĩa sau này với nhiều hình

dậy hoạt động, để trừ hậu họa về thức kể cả hình thức khởi nghĩa vũ
sau Nhật đã đảo chính Pháp trang cớp chính quyền thay đổi mọi
(9/3/1945). Sau đảo chính Nhật đã hình thức hoạt động, mọi hình thức
thi hành những chính sách hết sức đấu tranh cho phù hợp với thời kỳ
phản động đối với nhân dân Đông tiền khởi nghĩa. Hình thức hoạt
Dơng về các mặt chính trị, văn hóa, động tuyên truyền cao hơn, mạnh
xã hội. Những chính sách phản bạo hơn - tuyên truyền xung phong
động cùng với những hoạt động có vũ trang, biểu tình, tuần hành
thù địch và tay sai đã làm cho nhân thị uy, phá kho thóc... Đẩy mạnh
dân ta điêu đứng, mâu thuẫn giữa xây dựng các đội tự vệ cứu quốc,
các dân tộc Đông Dơng với đế quốc căn cứ địa, thống nhất các chiến
phát xít càng sâu sắc. Nhân dân ta khu.
không còn con đờng nào khác là Bản chỉ thị thể hiện sự lãnh đạo
phải vùng dậy đấu tranh dới sự sáng suốt, kiên quyết kịp thời của
Đảng, là kim chỉ nam cho mọi hành
lãnh đạo của Đảng.
Bắt mạch kịp thời và chính xác tình động của Đảng và mặt trận trong
hình ngay đêm 9/3/1945 Thờng vụ cao trào kháng Nhật cứu nớc. Bản
TW Đảng đã họp tại làng Đình Chỉ thị có giá trị ý nghĩa nh một chBảng - Từ Sơn - Bắc Ninh do Tổng ơng trình hành động, một lời hiệu
bí th Trờng Chinh chủ trì và ngày triệu, ngọn cờ dẫn dắt dân ta tiến
12/3/1945 ra Chỉ thị "Nhật - Pháp hành cao trào kháng Nhật cứu nớc,
bắn nhau và hành động của chúng trực tiếp dẫn tới thắng lợi của Tổng
ta". Toàn bộ nhận định về tình hình khởi nghĩa tháng 8.
và chủ trơng mới của Đảng đợc thể Tiếp sau bản Chỉ thị của Thờng vụ
TW Đảng, tháng 4/1945 Hội nghị
hiện tập trung trong bản Chỉ thị này.
Hội nghị nhận định tình hình: quân sự Bắc Kỳ đã họp ở Hiệp Hòa
Nhật đánh Pháp là để độc chiếm (Bắc Giang) do đồng chí Trờng
Đông Dơng, Nhật sẽ thắng Pháp Chinh chủ trì nhằm giải quyết cụ
nhng Nhật thắng chỉ là tạm thời và thể những vấn đề quân sự đã đợc

không thể củng cố ách thống trị Hội nghị Thờng vụ TW tháng 3 nêu
của chúng ở Đông Dơng. Cuộc đảo ra.
chính đó tạo ra một cuộc khủng Hội nghị nhận định tình hình lúc
hoảng chính trị sâu sắc làm cho này và đặt nhiệm vụ quân sự lên
cuộc khởi nghĩa nhanh chóng chín trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng
muồi. Điều kiện đó là: chính trị cần kíp. Chúng ta phải tích cực
khủng hoảng, nạn đói tăng lên và phát triển chiến tranh du kích, xây
chiến tranh đến giai đoạn kết thúc. dựng căn cứ địa kháng Nhật để
Đồng thời, Hội nghị cũng dự đoán chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho
điều kiện khách quan cho cuộc kịp thời cơ. Hội nghị chủ trơng
Tổng khởi nghĩa có thể nổ ra thắng thống nhất các lực lợng vũ trang
lợi đó là khi quân đồng minh tiến sẵn có, phát triển hơn nữa lực lợng
vào Đông Dơng đánh Nhật tạo cơ vũ trang và bán vũ trang, mở trờng
sở sau lng Nhật ở Đông Dơng... đào tạo cán bộ quân sự và chính
Song dù sao cũng không đợc ỷ lại trị. Xây dựng 7 chiến khu trong cả
điều kiện khách quan, phải nêu cao nớc. Cả nớc bớc vào cao trào CM
tinh thần dựa vào sức mình là mới - cao trào kháng Nhật cứu nớc
hay cao trào tiền khởi nghĩa.
chính.
Trên cơ sở phân tích tình hình Hội Dới ánh sáng Nghị quyết của Hội
nghị đã chỉ rõ kẻ thù chính cụ thể nghị TW mở rộng ngày 9/3/1945 và
trớc mắt và duy nhất của nhân dân bản Chỉ thị 12/3/1945 cao trào
Đông Dơng lúc này là phát xít kháng Nhật bùng lên mạnh mẽ.
Nhật. Từ đó khẩu hiệu "đánh đuổi Đầu tiên đó là phong trào khởi
phát xít Pháp - Nhật" đợc thay nghĩa từng phần và chiến tranh du
bằng khẩu hiệu "đánh đuổi phát kích cục bộ. Khởi nghĩa từng phần
xít Nhật để chống lại chính phủ bù đã diễn ra ở nhiều vùng nông thôn
nhìn thân Nhật. Hội nghị đa ra nhất là nông thôn miền núi. ở Bắc

Giang, nhân dân nổi dậy thành lập

ủy ban giải phóng ở nhiều xã. Đội
du kích Bắc Giang đợc thành lập.
ở Quảng Ngãi ngày 11/3/1945 một
số cán bộ đảng viên đang bị giam
trong trại tập trung Ba Tơ và thị xã
Quảng Ngãi đã thoát khỏi nhà lao
của địch và lãnh đạo quần chúng
đứng lên tiến hành khởi nghĩa. Họ
chiếm đợc đồn Ba Tơ, tuyên bố
thành lập chính quyền CM và đội
du kích Ba Tơ ra đời. Cùng ngày tự
vệ chiến đấu đã chiếm đồn Bần Yên
Nhân (Hng Yên).
ở Nghĩa Lộ - Sơn La hàng nghìn
cán bộ đảng viên bị giam trong nhà
lao đã nổi dậy phá trại giam vợt ngục
ra ngoài hoạt động. Đó là nguồn bổ
sung cán bộ quan trọng cho CM.
Đặc biệt tại căn cứ địa Việt Bắc đội
VNTTGPQ và Cứu quốc quân đã
chia thành nhiều toán gấp rút tỏa
đi nhiều hớng chặn đánh địch
(chặn đánh giao thông, cớp lơng
thực, diệt các đồn lẻ, kêu gọi những
binh sĩ ngời Việt có lòng yêu nớc
hãy ra hàng hoặc giao nộp súng
cho CM). Họ đã tuyên truyền phát
triển lực lợng, phối hợp với quần
chúng nổi dậy giải phóng hàng loạt
xã, tổng, châu thuộc các tỉnh Cao

Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Thái Nguyên. Nhiều nơi đã
thành lập đợc chính quyền CM dới
hình thức ủy ban nhân dân hoặc
ủy ban giải phóng. Chiến tranh du
kích cục bộ diễn ra ở nhiều nơi đã
gây tiếng vang mạnh mẽ.
Tiếp sau khởi nghĩa từng phần thì
phong trào phá kho thóc của Nhật
để giải quyết nạn đói cũng lên cao
trong cả nớc. Phong trào diễn ra
sôi nổi ở các vùng nông thôn, nạn
đói giết hơn 2 triệu đồng bào ta là
hậu quả của chính sách phản động
của Nhật - Pháp. Đảng đa ra khẩu
hiệu trên nhằm đáp ứng yêu cầu
bức thiết nhất của quần chúng.
Đồng thời qua đó lôi cuốn quần
chúng vào trận tuyến CM.
Kết quả là hàng trăm kho dự trữ
của Pháp - Nhật và tay sai bị phá
lấy đi hàng chục vạn tấn thóc gạo
chia cho nông dân. Nhiều cuộc phá
kho thóc biến thành những cuộc
đấu tranh chính trị, những cuộc
biểu tình vũ trang, tuyên truyền
ủng hộ VM, trừng trị bọn ác và
chống đàn áp khủng bố... Phong
trào này đã lôi cuốn hàng triệu
quần chúng tham gia nhất là ở


12

đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung
Bộ.
Cuộc đấu tranh dới khẩu hiệu
"phá kho thóc giải quyết nạn đói"
trớc tiên là vì mục đích kinh tế trớc
mắt song có ý nghĩa chính trị lâu
dài và hết sức sâu sắc. Đây thực sự
là cuộc tập dợt để đa quần chúng
tiến lên giành chính quyền, nó đợc
quần chúng hởng ứng đông đảo
nên nhanh chóng biến thành một
khẩu hiệu chính trị dẫn tới một
phong trào thi đua "sắm vũ khí
đuổi thù chung".
Kết hợp với các phong trào chiến
tranh du kích, phong trào phá kho
thóc của Nhật thì phong trào đấu
tranh chính trị của nhân dân ở các
thành phố, thị xã nhất là ở các
thành phố lớn nh Hà Nội, Huế, Sài
Gòn gây tiếng vang rất mạnh mẽ.
Lực lợng tham gia chủ yếu là công
nhân, học sinh, sinh viên, trí thức.
Trong công nhân bên cạnh những
cuộc đấu tranh đòi quyền sống
hàng ngày họ còn tổ chức phá hoại
sản xuất của địch, bí mật chế tạo,

sửa chữa vũ khí cho VM hoặc lấy
súng đạn của Nhật gửi lên chiến
khu, in tài liệu truyền đơn báo chí.
Tại nhiều thành phố các đội tuyên
truyền xung phong tổ chức những
cuộc diễn thuyết chớp nhoáng tố
cáo tội ác của phát xít Nhật, chính
quyền bù nhìn và giải thích đờng
lối của VM. Các đội danh dự VM
thẳng tay trừ khử những tên sĩ
quan Nhật tàn ác và bọn tay sai
phản động.
Bên cạnh đó cuộc đấu tranh trên
lĩnh vực văn hóa, t tởng, báo chí để
mở rộng ảnh hởng CM trong quần
chúng, thống nhất về t tởng và
hành động cùng phát triển.
Tới những ngày đầu tháng 8/1945
cao trào kháng Nhật diễn ra ngày
càng sôi sục. Tại các thành phố lớn
thỉnh thoảng xuất hiện truyền đơn,
biểu ngữ, khẩu hiệu chống Nhật...
Nhiều nơi quần chúng đã xung đột
với binh lính và võ quan Nhật.
Khắp nơi nhân dân bí mật may cờ
rèn vũ khí, không khí chuẩn bị
khởi nghĩa sôi sục, quần chúng đã
sẵn sàng.
Những phong trào trên có ý nghĩa
tác dụng rất to lớn. Đây là một cao

trào CM rộng lớn thu hút hàng
triệu quần chúng tham gia với
nhiều hình thức đấu tranh phong
phú và quyết liệt. Đấu tranh chính

trị kết hợp với đấu tranh vũ trang
tiến hành chiến tranh du kích,
giành chính quyền từng bộ phận.
Nó thể hiện là một bớc phát triển vợt bậc của CM nớc ta, làm tiền đề
để đa nhân dân ta tiến tới tổng khởi
nghĩa thắng lợi.
Cao trào đã lôi cuốn hàng triệu
quần chúng vào trận tuyến đấu
tranh với kẻ thù, rèn luyện họ qua
những hình thức đấu tranh phong
phú quyết liệt. Đây là một cuộc tập
dợt vĩ đại để đa quần chúng trực
tiếp tiến tới tổng khởi nghĩa khi
thời cơ đến.
Qua cao trào lực lợng CM (chính
trị, vũ trang) ở cả nông thôn và đô
thị đều phát triển vợt bậc còn lực lợng kẻ thù thì suy yếu nhanh chóng
đã đa thời cơ khởi nghĩa chóng
chín muồi.
Chính nhờ quá trình chuẩn bị lực lợng lâu dài bền bỉ nhất là sự phát
triển của CM qua cao trào kháng
Nhật cứu nớc đã làm cho nhân dân
ta chớp đợc thời cơ ngàn năm có
một đa tổng khởi nghĩa đến thành
công nhanh chóng.


Đề 10: Quá trình chuẩn bị
về đờng lối (chuyển hớng
chỉ đoạ chiến lợc CM).
Bài làm.
Tháng 9/1945 chiến tranh TG 2
bùng nổ, tình hình TG và trong nớc
có nhiều biến chuyển. ở Pháp t bản
phản động đã đầu hàng phát xít,
chính phủ phản động Pêtanh lên
cầm quyền. Chúng đã thi hành
những chính sách hết sức phản
động đối với nhân dân trong nớc và
nhân dân các nớc thuộc địa. ở
Đông Dơng chúng thủ tiêu những
quyền lợi mà nhân dân ta giành đợc trong thời kỳ mặt trận dân chủ
Đông Dơng, đẩy mạnh đàn áp CM,
bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ
và thi hành chính sách kinh tế chỉ
huy, ra sức áp bức bóc lột nhân dân
ta... Chính sách của chúng đã làm
cho mâu thuẫn giữa dân tộc ta với
bọn đế quốc Pháp và tay sai trở nên
gay gắt. Đứng trớc tình hình đó
Đảng ta đã chỉ đạo các lực lợng
CM kịp thời rút vào bí mật. Từ ngày
6 đến 8/11/1939 Đảng đã họp Hội
nghị TW lần 6 để chuyến hớng chỉ
đạo chiến lợc CMVN.
Hội nghị đã vạch ra đờng lối chính

trị của CMVN trong tình hình mới.
Phân tích tình hình, tính chất của
cuộc CTTG 2, phân tích chính sách

của thực dân Pháp và thái độ của
các g/c trong xã hội từ đó chỉ rõ kẻ
thù chính của ngời dân Đông Dơng
là thực dân Pháp. Vấn đề gpdt đợc
đặt lên hàng đầu và cấp bách của
CM Đông Dơng lúc đó.
Để tập trung lực lợng thực hiện đợc
nhiệm vụ hàng đầu là đánh đổ đế
quốc, Hội nghị chủ trơng tạm gác
khẩu hiệu CM ruộng đất và thay
bằng các khẩu hiệu chống địa tô
cao, chống cho vay nặng lãi, tịch
thu ruộng đất của thực dân đế quốc
và của bọn địa chủ phản động
quyền lợi dân tộc chia cho dân cày
nghèo, tạm gác khẩu hiệu chính
quyền Xô Viết công - nông - binh
thay bằng khẩu hiệu thành lập
chính quyền cộng hòa dân chủ. Nh
vậy, nhiệm vụ dân chủ vẫn thực
hiện nhng chỉ tiến hành từng bớc
để phục vụ cho nhiệm vụ dân tộc.
Để tập hợp mọi lực lợng của dân
tộc vào nhiệm vụ chủ yếu trớc mắt,
Hội nghị chủ trơng thành lập mặt
trận thống nhất dân tộc phản đế

Đông Dơng thay cho mặt trận dân
chủ Đông Dơng.
Thay đổi phơng pháp đấu tranh từ
đấu tranh đòi quyền dân sinh dân
chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh
đổ chính quyền của đế quốc và tay
sai. Từ hoạt động hợp pháp sang
hoạt động bí mật và bất hợp pháp.
Đấu tranh chính trị kết hợp với đấu
tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ
trang.
Giơng cao ngọn cờ đoàn kết với các
lực lợng CMTG do Liên Xô làm trụ
cột, phối hợp chặt chẽ với các cuộc
đấu tranh của nhân dân Lào và
Cămpuchia.
Coi trọng công tác xây dựng Đảng
về mọi mặt, tăng cờng sự thống
nhất ý chí và hành động trong
Đảng.
Hội nghị TW lần 6 đã đánh dấu bớc
đầu chuyển hớng đúng đắn về chỉ
đạo chiến lợc và phơng pháp CM
của Đảng, mở đầu thời kỳ CM mới thời kỳ vận động gpdt.
Sau Hội nghị TW 6, phong trào CM
ở nhiều nơi phát triển khởi nghĩa
Bắc Sơn bùng nổ ngày 27/9/1940,
tiếp đó là cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
chuẩn bị bùng nổ, qua thất bại của
cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn cho thấy

rõ sự non kém của lực lợng CM. Vì
vậy, Tháng 11/1940 Hội nghị TW 7
đã họp tại Đình Bảng - Bắc Ninh


do đồng chí Trờng Chinh chủ trì và
đã đề ra chủ trơng mới cho CMVN.
Hội nghị khẳng định chủ trơng
chuyển hớng chỉ đạo chiến lợc của
CMVN, nêu cao nhiệm vụ gpdt, tạm
gác khẩu hiệu "CM ruộng đất" của
Hội nghị TW 6 là đúng và nhận
định kẻ thù chính của CM Đông Dơng lúc bây giờ là phát xít Pháp Nhật. Nhấn mạnh nhiệm vụ chống
đế quốc phong kiến là hai bộ phận
khăng khít của cuộc CMTS dân
quyền.
Trên cơ sở phân tích tình hình Hội
nghị dự đoán một cao trào CM
nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải
chuẩn bị để giành lấy sứ mạng
thiêng liêng là lãnh đạo các dân tộc
bị áp bức Đông Dơng võ trang bạo
động giành lấy quyền tự do độc lập.
Hội nghị đề ra chủ trơng sáng suốt
về 2 cuộc khởi nghĩa: quyết định
phát triển ảnh hởng của khởi nghĩa
Bắc Sơn, duy trì lực lợng vũ trang
Bắc Sơn thành lập những đội du
kích, dùng hình thức vũ trang công
tác, phát triển cơ sở CM tiến tới

thành lập căn cứ địa CM. Lấy vùng
Bắc Sơn - Vũ Nhai làm trung tâm.
Chỉ thị cho xứ ủy Nam Kỳ hoãn
cuộc khởi nghĩa dự định nổ ra vào
cuối tháng 11/1940 vì ở MN cha có
đủ điều kiện chủ quan và khách
quan bảo đảm cho cuộc khởi nghĩa
thắng lợi.
CTTG 2 bùng nổ và nhanh chóng
lan rộng ra nhiều nớc. Phát xít Đức
ráo riết chuẩn bị tấn công Liên Xô.
Nhật mở rộng xâm lợc Trung Quốc
và tiến công xuống phía nam.
Trong nớc, sau khi Nhật nhảy vào
Đông Dơng, Pháp đầu hàng Nhật.
Nhật lấn từng bớc để biến Đông Dơng thành thuộc địa và căn cứ
chiến tranh của chúng (hiệp ớc
phòng thủ chung Đông Dơng ngày
23/7/1941 thừa nhận cho Nhật có
quyền đóng quân trên toàn cõi
Đông Dơng. Hiệp ớc thừa nhận cho
Nhật sử dụng tất cả các sân bay và
cửa biển ở Đông Dơng).
Pháp - Nhật cấu kết với nhau thống
trị áp bức nhân dân Đông Dơng.
Nhật tăng cờng đa vốn vào Đông Dơng, hoạt động trong các ngành
công nghiệp và thơng mại. Chúng
buộc Pháp phải cung cấp các nhu
yếu phẩm nh gạo, ngô cho chúng,
bắt dân ta phải nhổ lúa trồng đay.

Pháp dùng nhiều thủ đoạn gian
xảo để thu đợc lợi nhuận lớn: nắm

độc quyền toàn bộ nền kinh tế
Đông Dơng, tăng cờng bóc lột,
thuế, cỡng bức mua lúa gạo với giá
rẻ mạt... Đồng thời chúng dùng
những thủ đoạn chính trị lừa bịp
nh: Nhật tập hợp những phần tử
thân Nhật, lập ra các Đảng thân
Nhật nh Đại Việt quốc xã, Việt
Nam ái quốc, đồng thời tung ra các
luận điệu lừa bịp nh khu vực thịnh
vợng chung, đại Đông á. Còn Pháp
thì thi hành chính sách hai mặt:
đàn áp khủng bố, bắt bớ các chiến
sĩ CM và nhân dân ta, mặt khác đa
ra những thủ đoạn lừa bịp hòng
làm nhân dân ta lầm tởng chúng là
bạn nh khẩu hiệu "Pháp - Việt
phục hng"...
Chính sách của Nhật - Pháp đã đặt
nhân dân Đông Dơng trong tình
cảnh 2 tầng áp bức. Đời sống của
tất cả các tầng lớp g/c bị đẩy đến
tình trạng cực khổ điêu đứng. Điều
này làm cho mâu thuẫn giữa toàn
thể dân tộc Đông Dơng với đế quốc
phát xít Pháp - Nhật trở nên gay
gắt hơn bao giờ hết. Vận mệnh dân

tộc bị nguy vong không lúc nào
bằng.
Lúc này, sau hơn 30 năm tìm đờng
cứu nớc, hoạt động yêu nớc CM ở
nớc ngoài ngày 28/1/1941 đã trở về
Tổ quốc để trực tiếp lãnh đạo
phong trào CM. Ngời đã triệu tập
Hội nghị BCH TW Đảng lần 8 tại
Pắc Pó - Cao Bằng từ ngày 10 đến
19/5/1941.
Sau khi phân tích tình hình TG và
trong nớc, Hội nghị đã quyết định
những vấn đề quan trọng.
Về kẻ thù: từ khi Nhật nhảy vào
Đông Dơng, Pháp đầu hàng Nhật,
ở Đông Dơng mọi hoạt động kinh
tế đều bị chiến tranh hóa, tất cả bộ
máy cai trị đều bị phát xít hóa. Vì
vậy, mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi
phải đợc giải quyết cấp bách là
mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông
Dơng với bọn đế quốc phát xít xâm
lợc Pháp - Nhật. Xác định kẻ thù
của nhân dân Đông Dơng là phát
xít Pháp - Nhật và các lực lợng
phản CM, tay sai của chúng.
Về nhiệm vụ: khẳng định tiếp tục
thực hiện chủ trơng của Hội nghị
TW 6 nhng đề cao hơn nữa nhiệm
vụ gpdt lên hàng đầu và xác định

nhiệm vụ bức thiết nhất của CM là
gpdt vì quyền lợi của tất cả các g/c
bị chiếm đoạt, vận mạng dân tộc
nguy vong không lúc nào bằng.

Hội nghị chỉ rõ: trong lúc này
quyền lợi của bộ phận g/c phải đặt
dới sự sinh tử tồn vong của quốc
gia, của dân tộc. Nếu không giải
quyết đợc vấn đề giải phóng, không
đòi đợc độc lập tự do cho toàn thể dân
tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia
dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu
mà quyền lợi của bộ phận, của g/c đến
vạn năm cũng không đòi lại đợc.
Về khẩu hiệu, chủ trơng tiếp tục
tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng
đất của g/c địa chủ chia cho dân
cày, thay bằng khẩu hiệu tịch thu
ruộng đất của bọn đế quốc và Việt
gian chia cho dân cày nghèo, giảm
tô giảm tức, chia lại ruộng đất
công, tiến tới thực hiện "ngời cày
có ruộng". Nh vậy, vấn đề ruộng
đất (nhiệm vụ dân chủ) chỉ đợc đề
ra ở một mức độ nhất định để phân
hóa g/c địa chủ. Để tập trung mũi
nhọn CM vào kẻ thù chính là bọn
phát xít Pháp - Nhật.
Về tổ chức mặt trận: căn cứ vào

hoàn cảnh của TG và tình hình CM
mỗi nớc Đông Dơng, Hội nghị đã
đặt vấn đề dân tộc trong phạm vi
từng nớc: Việt Nam, Lào,
Cămpuchia để đánh thức tinh thần
dân tộc xa nay trong nhân dân. Vì
vậy, hình thức mặt trận cũng phải
đổi mới cho có tính dân tộc hơn.
Song các dân tộc Đông Dơng phải
cùng nhau chống kẻ thù chung là
Pháp - Nhật và liên hệ mật thiết với
Liên Xô, với các lực lợng dân chủ
chống phát xít. ở Việt Nam, quyết
định thành lập Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh) thay thế cho
mặt trận thống nhất dân tộc phản
đế Đông Dơng. Các đoàn thể quần
chúng đợc tổ chức thành các hội
cứu quốc nhằm tập hợp đoàn kết
mọi lực lợng quần chúng nhân dân
chống kẻ thù chính là phát xít Pháp
- Nhật và tay sai. ở Lào và
Cămpuchia Hội nghị chủ trơng
giúp đỡ 2 nớc thành lập mặt trận
của mình đó là "Ai Lao độc lập
đồng minh" và "Cao Miên độc lập
đồng minh". Trên cơ sở ra đời 3 mặt
trận ở 3 nớc tiến tới thành lập mặt trận
chung với hình thức phù hợp là Đông
Dơng độc lập đồng minh.

Hội nghị chủ trơng sau khởi nghĩa
thắng lợi sẽ thành lập nớc
VNDCCH lấy lá cờ đỏ sao vàng làm
lá cờ Tổ quốc.
Về phơng pháp CM, một trong
những chủ trơng quan trọng nhất

của Hội nghị lần này là chủ trơng
về khởi nghĩa vũ trang - vấn đề này
Hội nghị 6 và 7 đã có dự kiến. Đến
lúc này, do có kinh nghiệm của các
cuộc khởi nghĩa vũ trang nh Bắc
Sơn, Nam Kỳ và những dự đoán
sáng suốt xu thế phát triển của tình
hình TG, trong nớc, Hội nghị đã có
những chủ trơng đúng đắn.
Phải xúc tiến ngay công tác chuẩn
bị những điều kiện cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang giành thắng lợi, coi
đây là nhiệm vụ trung tâm của toàn
Đảng, toàn dân.
Hội nghị vạch rõ khởi nghĩa muốn
thắng lợi phải chuẩn bị chu đáo,
phải nổ ra đúng thời cơ. "Phải luôn
luôn chuẩn bị một lực lợng sẵn
sàng nhằm vào cơ hội thuận tiện
hơn cả mà đánh lại quân thù tức là
phải có đủ điều kiện chủ quan và
khách quan".
Hội nghị dự kiến tình thế CM xuất

hiện khi phong trào chống Nhật ở
TQ phát triển mạnh có ảnh hởng
tới CMVN hoặc khi quân đồng
minh đổ bộ vào Đông Dơng đánh
Nhật và dự kiến hình thức khởi
nghĩa giành chính quyền là đi từ
khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng
khởi nghĩa. Hội nghị chỉ rõ: mai
đây sau cuộc chiến tranh TBD và
cuộc k/c của nhân dân TQ xoay
sang hoàn toàn có lợi cho cuộc CM
Đông Dơng thì lúc đó với lực lợng
sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc
khởi nghĩa từng phần trong từng
địa phơng cũng có thể giành sự
thắng lợi mà mở đờng cho cuộc
tổng khởi nghĩa to lớn.
Phát động quần chúng nổi dậy đấu
tranh dới nhiều hình thức phù hợp
với tình hình mới. Hội nghị cử ra
BCH TW Đảng do đồng chí Trờng
Chinh làm tổng bí th.
Hội nghị BCH TW Đảng lần 8 có ý
nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã
hoàn chỉnh chuyển hớng chỉ đạo
chiến lợc CM của Đảng đề ra từ hội
nghị TW lần 6: kiên quyết giơng
cao ngọn cờ gpdt, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
chiến lợc chống đế quốc, chống

phong kiến và đề ra phơng pháp
CM cụ thể.
Việc chuyển hớng chỉ đạo chiến lợc
CM của hội nghị có tác dụng quyết
định trong việc động viên toàn
Đảng, toàn dân ta tích cực chuẩn bị
tiến tới CMT8. Với chủ trơng của
Hội nghị, MTVM ra đời và các tổ

chức quần chúng của mặt trận phát
triển nhanh chóng. Qua đó Đảng ta
đã xây dựng đợc khối đoàn kết toàn
dân vững chắc, lực lợng CM đợc
nuôi dỡng từ các giai đoạn trớc đến
lúc này ngày càng phát triển. Lực lợng chính trị của quần chúng lớn
mạnh rồi lực lợng vũ trang lần lợt
ra đời. Các căn cứ địa CM đợc
thành lập phong trào đấu tranh
phát triển mạnh mẽ rộng khắp
nông thôn và đô thị.
Chủ trơng giải quyết vấn đề dân tộc
theo phạm vi từng nớc và thành lập
mặt trận dân tộc thống nhất phù
hợp đã thức tỉnh ý thức dân tộc,
tinh thần đấu tranh tự giải phóng
và phát huy sức mạnh của mỗi dân
tộc ở Đông Dơng.
Chính vì vậy, Hội nghị TW 8 có tác
dụng quyết định đối với thắng lợi
của CMT8/1945. Nghị quyết của

Hội nghị đồng thời cũng đã góp
phần bổ sung, phát triển lý luận về
CM DTDC ở nớc ta. Sự kiện này
cũng thể hiện sự đóng góp của
NAQ trong buổi đầu về nớc trực
tiếp lãnh đạo CM nớc ta.

Đề 11: Hội nghị TW lần
thứ 8 của Đảng ta (tháng
5/1941).
Bài làm.
Lúc này, sau hơn 30 năm tìm đờng
cứu nớc, hoạt động yêu nớc CM ở
nớc ngoài ngày 28/1/1941 đã trở về
Tổ quốc để trực tiếp lãnh đạo
phong trào CM. Ngời đã triệu tập
Hội nghị BCH TW Đảng lần 8 tại
Pắc Pó - Cao Bằng từ ngày 10 đến
19/5/1941.
Sau khi phân tích tình hình TG và
trong nớc, Hội nghị đã quyết định
những vấn đề quan trọng.
Về kẻ thù: từ khi Nhật nhảy vào
Đông Dơng, Pháp đầu hàng Nhật,
ở Đông Dơng mọi hoạt động kinh
tế đều bị chiến tranh hóa, tất cả bộ
máy cai trị đều bị phát xít hóa. Vì
vậy, mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi
phải đợc giải quyết cấp bách là
mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông

Dơng với bọn đế quốc phát xít xâm
lợc Pháp - Nhật. Xác định kẻ thù
của nhân dân Đông Dơng là phát
xít Pháp - Nhật và các lực lợng
phản CM, tay sai của chúng.
Về nhiệm vụ: khẳng định tiếp tục
thực hiện chủ trơng của Hội nghị
TW 6 nhng đề cao hơn nữa nhiệm
vụ gpdt lên hàng đầu và xác định
nhiệm vụ bức thiết nhất của CM là

13

gpdt vì quyền lợi của tất cả các g/c
bị chiếm đoạt, vận mạng dân tộc
nguy vong không lúc nào bằng.
Hội nghị chỉ rõ: trong lúc này
quyền lợi của bộ phận g/c phải đặt
dới sự sinh tử tồn vong của quốc
gia, của dân tộc. Nếu không giải
quyết đợc vấn đề giải phóng, không
đòi đợc độc lập tự do cho toàn thể dân
tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia
dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu
mà quyền lợi của bộ phận, của g/c đến
vạn năm cũng không đòi lại đợc.
Về khẩu hiệu, chủ trơng tiếp tục
tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng
đất của g/c địa chủ chia cho dân
cày, thay bằng khẩu hiệu tịch thu

ruộng đất của bọn đế quốc và Việt
gian chia cho dân cày nghèo, giảm
tô giảm tức, chia lại ruộng đất
công, tiến tới thực hiện "ngời cày
có ruộng". Nh vậy, vấn đề ruộng
đất (nhiệm vụ dân chủ) chỉ đợc đề
ra ở một mức độ nhất định để phân
hóa g/c địa chủ. Để tập trung mũi
nhọn CM vào kẻ thù chính là bọn
phát xít Pháp - Nhật.
Về tổ chức mặt trận: căn cứ vào
hoàn cảnh của TG và tình hình CM
mỗi nớc Đông Dơng, Hội nghị đã
đặt vấn đề dân tộc trong phạm vi
từng nớc: Việt Nam, Lào,
Cămpuchia để đánh thức tinh thần
dân tộc xa nay trong nhân dân. Vì
vậy, hình thức mặt trận cũng phải
đổi mới cho có tính dân tộc hơn.
Song các dân tộc Đông Dơng phải
cùng nhau chống kẻ thù chung là
Pháp - Nhật và liên hệ mật thiết với
Liên Xô, với các lực lợng dân chủ
chống phát xít. ở Việt Nam, quyết
định thành lập Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh) thay thế cho
mặt trận thống nhất dân tộc phản
đế Đông Dơng. Các đoàn thể quần
chúng đợc tổ chức thành các hội
cứu quốc nhằm tập hợp đoàn kết

mọi lực lợng quần chúng nhân dân
chống kẻ thù chính là phát xít Pháp
- Nhật và tay sai. ở Lào và
Cămpuchia Hội nghị chủ trơng
giúp đỡ 2 nớc thành lập mặt trận
của mình đó là "Ai Lao độc lập
đồng minh" và "Cao Miên độc lập
đồng minh". Trên cơ sở ra đời 3 mặt
trận ở 3 nớc tiến tới thành lập mặt trận
chung với hình thức phù hợp là Đông
Dơng độc lập đồng minh.
Hội nghị chủ trơng sau khởi nghĩa
thắng lợi sẽ thành lập nớc

VNDCCH lấy lá cờ đỏ sao vàng làm
lá cờ Tổ quốc.
Về phơng pháp CM, một trong
những chủ trơng quan trọng nhất
của Hội nghị lần này là chủ trơng
về khởi nghĩa vũ trang - vấn đề này
Hội nghị 6 và 7 đã có dự kiến. Đến
lúc này, do có kinh nghiệm của các
cuộc khởi nghĩa vũ trang nh Bắc
Sơn, Nam Kỳ và những dự đoán
sáng suốt xu thế phát triển của tình
hình TG, trong nớc, Hội nghị đã có
những chủ trơng đúng đắn.
Phải xúc tiến ngay công tác chuẩn
bị những điều kiện cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang giành thắng lợi, coi

đây là nhiệm vụ trung tâm của toàn
Đảng, toàn dân.
Hội nghị vạch rõ khởi nghĩa muốn
thắng lợi phải chuẩn bị chu đáo,
phải nổ ra đúng thời cơ. "Phải luôn
luôn chuẩn bị một lực lợng sẵn
sàng nhằm vào cơ hội thuận tiện
hơn cả mà đánh lại quân thù tức là
phải có đủ điều kiện chủ quan và
khách quan".
Hội nghị dự kiến tình thế CM xuất
hiện khi phong trào chống Nhật ở
TQ phát triển mạnh có ảnh hởng
tới CMVN hoặc khi quân đồng
minh đổ bộ vào Đông Dơng đánh
Nhật và dự kiến hình thức khởi
nghĩa giành chính quyền là đi từ
khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng
khởi nghĩa. Hội nghị chỉ rõ: mai
đây sau cuộc chiến tranh TBD và
cuộc k/c của nhân dân TQ xoay
sang hoàn toàn có lợi cho cuộc CM
Đông Dơng thì lúc đó với lực lợng
sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc
khởi nghĩa từng phần trong từng
địa phơng cũng có thể giành sự
thắng lợi mà mở đờng cho cuộc
tổng khởi nghĩa to lớn.
Phát động quần chúng nổi dậy đấu
tranh dới nhiều hình thức phù hợp

với tình hình mới. Hội nghị cử ra
BCH TW Đảng do đồng chí Trờng
Chinh làm tổng bí th.
Hội nghị BCH TW Đảng lần 8 có ý
nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã
hoàn chỉnh chuyển hớng chỉ đạo
chiến lợc CM của Đảng đề ra từ hội
nghị TW lần 6: kiên quyết giơng
cao ngọn cờ gpdt, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ
chiến lợc chống đế quốc, chống
phong kiến và đề ra phơng pháp
CM cụ thể.
Việc chuyển hớng chỉ đạo chiến lợc
CM của hội nghị có tác dụng quyết

định trong việc động viên toàn
Đảng, toàn dân ta tích cực chuẩn bị
tiến tới CMT8. Với chủ trơng của
Hội nghị, MTVM ra đời và các tổ
chức quần chúng của mặt trận phát
triển nhanh chóng. Qua đó Đảng ta
đã xây dựng đợc khối đoàn kết toàn
dân vững chắc, lực lợng CM đợc
nuôi dỡng từ các giai đoạn trớc đến
lúc này ngày càng phát triển. Lực lợng chính trị của quần chúng lớn
mạnh rồi lực lợng vũ trang lần lợt
ra đời. Các căn cứ địa CM đợc
thành lập phong trào đấu tranh
phát triển mạnh mẽ rộng khắp

nông thôn và đô thị.
Chủ trơng giải quyết vấn đề dân tộc
theo phạm vi từng nớc và thành lập
mặt trận dân tộc thống nhất phù
hợp đã thức tỉnh ý thức dân tộc,
tinh thần đấu tranh tự giải phóng
và phát huy sức mạnh của mỗi dân
tộc ở Đông Dơng.
Chính vì vậy, Hội nghị TW 8 có tác
dụng quyết định đối với thắng lợi
của CMT8/1945. Nghị quyết của
Hội nghị đồng thời cũng đã góp
phần bổ sung, phát triển lý luận về
CM DTDC ở nớc ta. Sự kiện này
cũng thể hiện sự đóng góp của
NAQ trong buổi đầu về nớc trực
tiếp lãnh đạo CM nớc ta.

Đề 12: Trình bày việc xây
dựng lực lợng chính trị.
Bài làm.
CM muốn thắng lợi bên cạnh vạch
ra đờng lối đúng còn phải tổ chức
xây dựng lực lợng CM bao gồm lực
lợng chính trị của quần chúng và
lực lợng vũ trang. Việc hình thành
và củng cố đạo quân chính trị quần
chúng thông qua việc hình thành,
củng cố mặt trận dân tộc thống
nhất, là một trong những nền tảng

cơ sở, điều kiện cần và đủ ảnh hởng
trực tiếp và tác động đến tiến trình
CM, là một trong những vấn đề có
tầm quan trọng, chiến lợc quyết
định đến sự thành công của CMT8.
Trên cơ sở lực lợng chính trị đã đợc
hình thành từ các cao trào CM 30 31, 36 -39, 39 - 41 và đến thời gian
này ngày càng đợc củng cố và phát
triển dới sự lãnh đạo của Đảng và
MTVM.
Dới ngọn cờ VM với cơng lĩnh 10
điểm, VM đã nhanh chóng trở
thành nơi tập hợp khối đoàn kết
toàn dân đứng lên cứu nớc cứu


nhà. VM có thành phần rất rộng
rãi, bao gồm tất cả các g/c, tầng lớp
yêu nớc trong xã hội, không phân
biệt giàu nghèo, sang hèn, già trẻ,
gái trai, tôn giáo hay dân tộc (gồm
cả công nhân, nông dân, tiểu t sản,
t sản dân tộc, quan lại tiến bộ...).
Họ đợc tập hợp trong các tổ chức
quần chúng đợc gọi là hội Cứu
quốc nh công nhân cứu quốc, nông
dân cứu quốc, đoàn thanh niên cứu
quốc, phụ nữ cứu quốc... nhằm nhắc
nhở mọi ngời nhiệm vụ chính của CM
lúc đó là cứu nớc gpdt. MTVM là tổ

chức quần chúng vững chắc dựa trên
cơ sở liên minh công nông dới sự lãnh
đạo của Đảng.
Trớc hết là ở Cao Bằng, nơi đợc coi
là thí điểm của cuộc vận động
thành lập hội cứu quốc (năm 1942
hầu khắp các xã, tổng, châu của
Cao Bằng đều có hội cứu quốc)
trong đó có những xã tổng châu thì
ban VM đều hoàn toàn do bầu cử
dân chủ từ dới lên và ban VM liên
tỉnh Cao - Bắc - Lạng đã ra đời.
Năm 1943 ủy ban VM liên tỉnh Cao
- Bắc - Lạng đã lập ra 19 ban xung
phong để liên lạc với căn cứ địa
Bắc Sơn - Vũ Nhai và phát triển lực
lợng CM xuống các tỉnh miền xuôi.
Chơng trình của VM đáp ứng
nguyện vọng giành độc lập tự do
của dân ta nên thu hút đợc đông
đảo các g/c, tầng lớp tham gia. Mặc
dù địch khủng bố gắt gao nhiều
cán bộ của Đảng và MTVM bị địch
bắt, giam cầm giết hại nhng tổ chức
VM với các hội cứu quốc, nông dân
cứu quốc, thanh niên cứu quốc vẫn
nhanh chóng phát triển. ở một số
tỉnh miền Bắc, miền Trung và ở hai
thành phố lớn là Hà Nội, Hải
Phòng hầu hết các "hội phản đế" đợc chuyển thành các "hội cứu quốc".

Đồng thời còn lập thêm nhiều hội cứu
quốc khác.
Phong trào VM đặc biệt phát triển,
lực lợng chính trị của quần chúng
ngày càng đợc củng cố sau Hội
nghị thờng vụ TW tháng 2/1943 vì
Hội nghị đã đề ra những biện pháp
cụ thể về công cuộc chuẩn bị toàn
diện cho khởi nghĩa nh nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc phát triển
MTVM, xây dựng lực lợng ở thành

thị, tập hợp đông đảo các tầng lớp khối đoàn kết toàn dân, là lực lợng
nhân dân khác nh học sinh, sinh chính trị hùng hậu của CM.
viên, trí thức t sản dân tộc vào Đề 13: Quá trình xây dựng
MTVM. Chủ trơng tăng cờng vận và vai trò của lực lợng vũ
động binh lính Việt Nam trong trang đối với sự thắng lợi
quân đội Pháp. Thậm chí tranh thủ của CMVN từ năm 1941
đến Tổng khởi nghĩa giành
cả những ngời ngoại kiều ở Đông chính quyền (8/1945 ).
Dơng chống Pháp. ở miền Bắc dới
sự lãnh đạo của các đảng bộ địa
phơng, trên hầu khắp các vùng
nông thôn, thành thị, các đoàn thể
VM, các hội cứu quốc đợc xây dựng
và củng cố. Tại Hà Nội tổ chức VM
đợc xây dựng trong nhiều nhà máy,
trờng học (xe lửa Gia Lâm, sửa
chữa ô tô Avia, trờng Bởi, trờng kỹ
nghệ thực hành...). Đồng thời,

phong trào đấu tranh chính trị
cũng phát triển, nhiều cuộc bãi
công đòi tăng lơng của công nhân
nổ ra ở Hà Nội, Hải Phòng, Uông
Bí, Nghệ An... phong trào đấu
tranh chống nhổ lúa trồng đay,
thầu dầu, chống thu thóc tạ, chống
cớp nhà, cớp đất đã lôi cuốn đông
đảo nông dân tham gia.
ở miền Trung phong trào CM cũng
phát triển trong nông dân, công
nhân và dân nghèo. Đặc biệt ở MN
sau 2 năm chống khủng bố trắng,
phong trào CM trên toàn miền dần
dần đợc phục hồi. Hệ thống tổ chức
cơ sở Đảng đợc xây dựng lại ở
nhiều địa phơng. Tổ chức VM có cơ
sở ở Sài Gòn - Gia Định, Tây Ninh,
hàng chục cuộc đấu tranh của
công nhân nổ ra ở Sài Gòn nh đấu
tranh của công nhân khuân vác,
may mặc, xây dựng... chống chế độ
ngợc đãi của Nhật, đòi tăng lơng.
Sau Chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa
ngày 7/5/1944 của Tổng bộ VM và
lời kêu gọi sắm vũ khí đuổi thù
chung tháng 8/1944 của TW Đảng
phong trào trong các hội cứu quốc
phát triển mạnh. Đặc biệt là ở 2 căn
cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai và Cao Bằng

quần chúng đã sẵn sàng nổi dậy.
Phong trào VM phát triển chứng tỏ
Đảng ta đã xây dựng đợc lực lợng
chính trị to lớn thông qua Tổng bộ
VM Đảng đã phổ biến chủ trơng
chính sách của mình đến quần
chúng. VM là cầu nối giữa Đảng và
quần chúng. VM là đặc trng cho

Bài làm.
Bên cạnh lực lợng chính trị là lực lợng vũ trang nhân dân. Đó là một
trong 2 lực lợng CM không thể
thiếu trong khởi nghĩa giành chính
quyền đợc Đảng và Bác quan tâm
xây dựng.
Khi CTTG 2 bùng nổ Pháp tham
chiến và bị giam chân trong vòng
chiến. Để thực hiện âm mu chiến
tranh phi nghĩa Pháp đã thực hiện
nhiều chính sách hà khắc. Đây là
điều gây ra mâu thuẫn dân tộc đợc
đẩy lên cao. Phát xít Nhật nhảy vào
Đông Dơng, Pháp đã hèn nhát
dâng Đông Dơng cho Nhật. Từ đây
nhân dân ta phải sống dới ách nô
lệ một cổ hai tròng. Đó chính là
điều kiện chín muồi dẫn đến tổng
khởi nghĩa. Trớc hoàn cảnh đó
Đảng ta đã khẳng định nhiệm vụ
giải phóng dân tộc đợc đặt lên

hàng đầu. Đồng thời với quyết định
đó Đảng ta đã đề cập đến việc khởi
nghĩa vũ trang và từng bớc xây
dựng lực lợng vũ trang.
Sau khi Nhật vào Đông Dơng, khởi
nghĩa Bắc Sơn bùng nổ và thất bại
Đảng ta đã triệu tập Hội nghị TW 7
(1940) và điều thành công lớn nhất
là đã đặt hẳn khởi nghĩa vũ trang
vào chơng trình nghị sự của CM
Đông Dơng và qua đó Đảng ta đã
quyết định duy trì đội du kích Bắc
Sơn, giáo dục rèn luyện để trở
thành đội vũ trang tập trung đầu
tiên.
Đến Hội nghị TW8 (từ 10 đến
19/5/1941) đồng thời với việc đặt
nhiệm vụ dân tộc lên hàng đầu
NAQ và TW Đảng đã đa vấn đề
khởi nghĩa vũ trang thành nhiệm
vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta, chủ trơng đẩy
mạnh việc xây dựng lực lợng vũ
trang CM của ta. Chỉ rõ các điều
kiện khách quan thuận lợi để một
cuộc khởi nghĩa vũ trang có thể
diễn ra và giành thắng lợi. Đồng
thời cũng chỉ ra con đờng giành
chính quyền của CMVN xuất phát
từ khởi nghĩa từng phần tiến tới

tổng khởi nghĩa giành chính quyền

ở từng địa phơng đến cả nớc. Có
thể nói t tởng chỉ đạo khởi nghĩa
từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa
đợc bắt đầu và xuất phát từ Hội
nghị TW lần 7 và đợc hoàn thiện cụ
thể ở Hội nghị lần 8. Đây chính là
một điểm thể hiện sự sáng tạo của
Đảng ta trong việc vận dụng học
thuyết về khởi nghĩa vũ trang của
CN M - L vào điều kiện cụ thể ở nớc
ta.
Tại Bắc Sơn - Vũ Nhai sau thất bại
của khởi nghĩa Bắc Sơn, TW Đảng
chủ trơng duy trì, bồi dỡng lực lợng
vũ trang ra đời trong khởi nghĩa để
làm cái vốn đầu tiên cho CM. Đội
du kích Bắc Sơn lớn dần lên. Đầu
năm 1941 thành lập trung đội Việt
Nam cứu quốc quân gồm 30 chiến
sĩ. Vừa thành lập "Cứu quốc
quân" đã lao ngay vào cuộc chiến
đấu chống khủng bố bảo vệ dân.
Sau 8 tháng chiến đấu gian khổ,
một bộ phận cứu quốc quân đã vợt
ra khỏi vòng vây của Pháp rút lên
biên giới song bị tổn thất nặng. Bộ
phận còn lại phân tán thành nhiều
bộ phận nhỏ tiến hành vũ trang

tuyên truyền gây dựng cơ sở chính
trị trong quần chúng. Cả hai bộ
phận cứu quốc quân đó trong quá
trình hoạt động tiếp tục phát triển
thêm lực lợng. Đến tháng 9/1941
trung đội cứu quốc quân 2 với 47
chiến sĩ đợc thành lập.
Cứu quốc quân hoạt động mạnh,
mở rộng khu căn cứ rèn luyện ở các
tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang,
Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Bắc
Ninh... trong quá trình đó lực lợng
cứu quốc quân phát triển thêm một
trung đội nữa vào tháng 2/1944.
ở Cao Bằng trên cơ sở các tổ chức
chính trị của quần chúng đợc xây
dựng và củng cố, lực lợng vũ trang
nhân dân đã ra đời. Cuối 1941,
NAQ quyết định thành lập đội tự vệ
vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ cơ
quan đầu não của Đảng, giao
thông liên lạc và huấn luyện tự vệ
cứu quốc để chuẩn bị cho việc xây
dựng lực lợng vũ trang nhân dân
và thúc đẩy cơ sở chính trị phát
triển. Ngời đã tổ chức nhiều lớp
huấn luyện chính trị, quân sự. Tiếp
đó khi khắp nơi trong tỉnh sôi nổi
không khí chuẩn bị khởi nghĩa thì
nhiều đội tự vệ vũ trang, đội du kích

đợc thành lập thêm và nhiều lớp huấn
luyện chính trị, quân sự liên tiếp đợc
mở.

Để đẩy mạnh hơn nữa việc chuẩn
bị khởi nghĩa, từ ngày 25 đến
28/2/1943 Ban Thờng vụ TW Đảng
đã họp hội nghị ở Võng La, phân
tích tình hình và nhận định toàn bộ
công tác của Đảng phải nhằm vào
chuẩn bị lực lợng vũ trang để khi
thời cơ đến kịp thời lãnh đạo quần
chúng nhân dân chiến đấu. Ngày
7/5/1944 Tổng bộ VM ra Chỉ thị
sửa soạn khởi nghĩa đón thời cơ. Vì
thời cơ không phải tự nó đến, một
phần do ta sửa soạn nó, phong trào
CM phát triển mạnh, khắp nơi
nhân dân hăng hái góp tiền mua vũ
khí, ra sức huấn luyện quân sự,
củng cố và phát triển các đội tự vệ.
Tháng 11/1944, ở Vũ Nhai - Thái
Nguyên một cuộc khởi nghĩa đã nổ
ra quá sớm làm cho lực lợng CM ở
đây bị tổn thất. TW Đảng đã Chỉ thị
chuyển hớng hoạt động để bảo toàn
lực lợng. Cùng thời gian trên, trong
không khí sôi sục CM của quần
chúng, ở Cao - Bắc - Lạng, một
cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp đợc

phát động, đúng lúc đó (tháng
10/1944) NAQ trở lại Cao Bằng
Ngời đã quyết định hoãn kế hoạch
khởi nghĩa vì chủ trơng ấy mới chỉ
căn cứ vào tình hình địa phơng mà cha căn cứ vào tình hình cụ thể trong cả
nớc. Quyết định đúng đắn kịp thời đó
đã giúp cho Cao - Bắc - Lạng tránh đợc những tổn thất to lớn.
Theo Chỉ thị sáng suốt của HCM,
ngày 22/12/1944, tại Cao Bằng, đội
VNTTGPQ đợc thành lập với 34
chiến sĩ - 34 cây súng thực hiện
nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền,
vận động nhân dân nổi dậy gây
dựng cơ sở chính trị và quân sự cho
cuộc khởi nghĩa sắp tới. Sau ngày
thành lập, đội xuất quân và giành
đợc chiến thắng liền trong 2 trận,
tiêu diệt gọn hai đồn Phay Khắt và
Nà Ngần vào 25, 26/12/1944.
Phát huy trận đầu ra quân là chiến
thắng đội đã đẩy mạnh hoạt động
vũ trang tuyên truyền kết hợp chính
trị và quân sự, xây dựng cơ sở CM
góp phần củng cố mở rộng khu căn
cứ C - B - L, cổ vũ và thúc đẩy
phong trào CM cả nớc. Các đội vũ
trang tuyên truyền và tự vệ chiến
đấu ở Cao Bằng cũng phát triển.
Tại Thái Nguyên, Cứu quốc quân
phát động chiến tranh du kích hạ

đồn chợ Chu, tiến đánh Chiêm Hóa

14

tràn về các vùng Tam Đảo, Vĩnh Đến thời gian này bên cạnh những
Yên, Phú Thọ.
khu an toàn vẫn đợc giữ vững và củng
Tháng 4/1945, Đảng đã quyết định cố còn xây dựng mới những khu du
thành lập ủy ban quân sự Bắc Kỳ kích, căn cứ địa CM rộng lớn ở nông
chỉ huy các lực lợng vũ trang ở thôn, vùng núi cho cấp TW, các cấp
miền Bắc, Đông Dơng hoạt động khu, tỉnh, huyện và xã. Cuộc khởi
cho thống nhất. Đồng thời, hỗ trợ nghĩa Bắc Sơn thất bại, đội du kích
cho các lực lợng vũ trang miền Bắc Sơn đợc duy trì, Đảng và Bác đã
Nam Đông Dơng. Hội nghị đã chủ trơng xây dựng Bắc Sơn, Vũ Nhai
quyết định hợp nhất VNTTGPQ với thành căn cứ địa CM dựa trên cơ sở
Cứu quốc quân vào tháng 5/1945 hoạt động của lực lợng vũ trang.
thành VNGPQ. Đây là lực lợng Đầu 1941 sau khi về nớc NAQ đã
quân chủ lực, tổ chức tiền thân của chọn Cao Bằng làm nơi thực hiện thí
Quân đội nhân dân Việt Nam sau điểm chính sách mặt trận, chính sách
đoàn kết dân tộc và xây dựng Pắc Pó này.
Có thể nói trong quá trình vận Cao Bằng thành căn cứ địa CM dựa
động CMT8 lực lợng vũ trang đóng trên cơ sở hoạt động của lực lợng
vai trò quan trọng là nền tảng, là chính trị. Từ Pắc Pó căn cứ địa dần đcơ sở bảo vệ cơ quan đầu não của ợc mở rộng ra nhiều nơi thuộc tỉnh
CM vừa là chỗ dựa vừa là động lực Cao Bằng.
cho phong trào đấu tranh chính trị Tháng 8/1943 đoàn Nam Tiến từ
của quần chúng. Và đến cao trào Cao Bằng gặp đội cứu quốc quân
kháng Nhật lực lợng vũ trang trong đoàn "Bắc Tiến" ở chợ Đồn không chỉ là chỗ dựa cho phong Bắc Kạn. Hai trung tâm căn cứ địa
trào đấu tranh CM của quần chúng Bắc Sơn - Vũ Nhai và Cao Bằng đmà nó còn đứng ra với lực lợng ợc nối liền với nhau bằng một hành
chính trị khởi nghĩa từng phần lang chính trị rộng lớn. Từ 2 căn cứ
đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du Bắc Sơn - Vũ Nhai và Cao Bằng,

kích. Trong những ngày tổng khởi căn cứ địa của ta dần dần mở rộng
nghĩa giành chính quyền lực lợng ở 3 tỉnh C - B - L và từ C - B - L mở
vũ trang CM đã cùng với lực lợng rộng dần xuống các tỉnh miền xuôi.
chính trị quần chúng quyết định Từ 1944 đến 1945, nhiều căn cứ địa
đến sự thắng lợi của tổng khởi mới cũng xuất hiện trong cả nớc
nghĩa tạo nên sự toàn thắng trong nh Đông Triều, Hoà Ninh Thanh,
Sơn La, Nghĩa lộ, Đồng Tháp Mời
phong trào đấu tranh gpdt.
Nh vậy, bên cạnh lực lợng chính trị và Ba Tơ - Quảng Ngãi.
hùng hậu, Đảng ta đã xây dựng đ- Ba tháng sau ngày Nhật đảo chính
ợc lực lợng vũ trang. Dựa vào 2 lực Pháp (tháng 6/1945) Đảng đã
lợng này Đảng đã phát động 2 hình thành lập khu giải phóng Việt Bắc
thức đấu tranh: đấu tranh chính trị gồm 6 tỉnh C - B - L - T - H - T,
và đấu tranh vũ trang và kết hợp hình thành 2 chính quyền song
hai hình thức ấy để lật đổ ách song ở vùng này. Trong khu giải
thống trị của kẻ thù trong tổng khởi phóng đảng cho thi hành 10 chính
sách của MTVM đó là: chia ruộng
nghĩa tháng 8.
Đề 14: Quá trình xây dựng công điền, công thổ cho dân nghèo,
xây dựng lực lợng vũ trang chính
căn cứ địa CM.
trị, thực hiện phong trào đời sống
Bài làm.
Căn cứ địa CM có vai trò rất lớn mới, cải thiện một phần đời sống
trong CMT8, là nơi cung cấp ngời nhân dân... khu giải phóng trở
và của cho cuộc đấu tranh, là nơi thành chỗ dựa của cả nớc, là h/a
xuất phát để đánh địch và rút lui để thu nhỏ của nớc VNDCCH. Từ khu
bảo toàn, phát triển lực lợng mạnh giải phóng ta tiến lên giải phóng cả
hơn. Vì vậy, song song với việc xây nớc.
dựng lực lợng CM, Đảng ta đã tiến

hành xây dựng căn cứ địa CM.

Đề 15: Quá trình tập dợt
cho quần chúng đấu tranh.

Chuẩn bị bộ máy lãnh đạo
tổng khởi nghĩa.
Bài làm.
CM là sự nghiệp của quần chúng
nhng không phải lúc nào, ở đâu họ
cũng làm CM và giành đợc thắng
lợi. Để làm đợc CM quần chúng
phải đợc giáo dục, tổ chức giác ngộ,
tập dợt đấu tranh. Có nh vậy lực lợng của quần chúng mới biến
thành sức mạnh toàn dân.
Nhận thức rõ điều này ngay từ khi
mới ra đời Đảng ta đã luôn luôn
kiên trì vận động quần chúng từ
cao trào 30 - 31 Đảng đã lôi cuốn đợc đông đảo quần chúng tham gia
nhất là công nông. Qua phong trào
khối công - nông liên minh đợc
hình thành. Tiếp đến cuộc vận
động dân chủ 36 - 39 hàng triệu lợt
quần chúng đợc huy động xuống đờng. Đội quân chính trị to lớn của
CM đợc hình thành.
Trong phong trào phản đế 39 - 45,
quần chúng đợc tập hợp trong mặt
trận dân tộc thống nhất phản đế
Đông Dơng và tiếp tục đợc rèn
luyện đấu tranh. Tiêu biểu là qua 2

cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn - Nam Kỳ.
Khi MTVM ra đời (1941) dới sự
lãnh đạo của mặt trận, phong trào
VM phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt
trong chiến tranh kháng Nhật cứu
nớc - cao trào tiền khởi nghĩa
(tháng 3 đến tháng 8/1945). Đảng
đã lãnh đạo phong trào phá kho
thóc biến thành những cuộc đấu
tranh chính trị, những cuộc biểu
tình vũ trang, tuyên truyền ủng hộ
VM. Phong trào này đã lôi cuốn
hàng triệu quần chúng tham gia.
Qua đấu tranh quần chúng càng
nung nấu lòng căm thù đối với giặc
Nhật và tay sai. Đồng thời phong
trào đấu tranh chính trị của nhân
dân ở đô thị cũng đợc phát triển.
Do đó phong trào thi đua sắm vũ
khí đánh đuổi quân thù rất sôi nổi
đâu đâu ngời dân cũng bí mật may
cờ, rèn vũ khí... vì vậy đây thực sự là
cuộc tập dợt để đa quần chúng tiến
lên giành chính quyền. Quân Nhật
và bọn tay sai đứng trớc tình thế
giống nh một bãi cỏ khô đặt cạnh
một đám than hồng. Chỉ chờ một
luồng gió mạnh thổi tới là sẽ làm



bùng cháy lên ngọn lửa thiêu cháy
chúng. Tất cả quần chúng đều sẵn
sàng chỉ chờ cơ hội là xuống đờng
tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Khi đợc tin Nhật đầu hàng đồng
minh không điều kiện: 14/8/1945
Hội nghị toàn quốc của Đảng đã
họp từ 13 đến 15/8/1945 đã phân
tích tình hình và nhận định kẻ thù
chính của nhân dân ta là phát xít
Nhật, chính phủ bù nhìn Trần
Trọng Kim đang hoang mang lúng
túng, hội nghị đã chỉ rõ trớc khi
quân đồng minh cha kéo vào nớc
ta, quần chúng đã sẵn sàng chính
là lúc thời cơ đến. Hội nghị đã
quyết định tổng khởi nghĩa, ủy ban
khởi nghĩa TW Đảng đợc thành lập
để tiến hành tổng khởi nghĩa.
Tiếp đó, Tổng bộ VM đứng ra triệu
tập Quốc dân đại hội Tân Trào
tham dự đại hội có 60 đại biểu đại
diện cho nhân dân 3 miền B - T - N,
cho các đảng phái tôn giáo dới sự
chủ trì của HCM, đại hội đã họp từ
16 đến 17/8/1945 thảo luận và biểu
quyết tán thành chủ trơng tổng
khởi nghĩa của TW Đảng thống
nhất quốc kỳ, quốc ca, đặt tên nớc
và thảo luận bổ sung một số cơ sở

phải thi hành ngay sau khi tổng
khởi nghĩa thắng lợi. Cuối cùng đại
hội thông qua mệnh lệnh khởi
nghĩa và quân lệnh khởi nghĩa quân lệnh số 1. Nh vậy, Đại hội đã
quyết định những vấn đề hết sức
quan trọng liên quan đến vận mệnh
của đất nớc, chuẩn bị công cuộc
cuối cùng cho tổng khởi nghĩa.
Chỉ trong vòng 15 ngày từ 14 đến
28/8 tổng khởi nghĩa lần lợt thành
công trên hầu hết các địa phơng
trong cả nớc.
Những dữ kiện trên đây đã chứng
tỏ rằng Đảng và nhân dân ta đã
tiến hành chuẩn bị lâu dài, chu đáo
cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8.
Chính có sự chuẩn bị trong suốt 15
năm từ khi đảng ra đời 3/2/1930
mà trực tiếp là 39 - 45 nên khi thời
cơ đến CMT8 diễn ra nhanh chóng
nhng thắng lợi to lớn - giành đợc
chính quyền trong cả nớc lại ít đổ
máu. Thực tế hùng hồn đó đã bác
bỏ luận điệu xuyên tắc của các sử
gia t sản cho rằng: CMT8 ở Việt

Nam thành công chẳng qua chỉ là
nổ ra trong một thời cơ bỏ ngỏ hay CMT8 chẳng qua là ăn may.
Mặt khác trên thực tế cũng làm
sáng tỏ quan điểm CM không tự nó

đến mà phải chuẩn bị và giành lấy
nó.

Đề 16: Phân tích thời cơ
của CMT8.
Bài làm.
CM muốn thành công ngoài việc
chuẩn bị chu đáo còn cần phải có
thời cơ CM. Thời cơ CM là vấn đề
hết sức quan trọng, vấn đề sống
còn của CM và thời cơ là tổng hợp
những điều kiện thuận lợi về khách
quan (bên ngoài) và chủ quan (bên
trong). Trong đó điều kiện bên
trong giữ vai trò quan trọng nhất.
Là điểm nút của tình thế CM đã
phát triển đến cao độ. Thời cơ bùng
nổ và thắng lợi của một cuộc CM là
sự kết hợp nhuần nhuyễn của 3
điều kiện: kẻ thù đã suy yếu đến
mức không thể tiếp tục thống trị nh
cũ đợc nữa, đội tiên phong của CM
tức Đảng lãnh đạo đã sẵn sàng
lãnh đạo CM và khi quần chúng bị
thống trị không thể thống trị nh cũ
đợc nữa.
Khi thời cơ đến muốn đa CM đến
thắng lợi cần phải nhận thức đúng
thời cơ và kiên quyết hành động
CM. Và CMT8 nổ ra trong hoàn

cảnh thời cơ chín muồi.
Lúc này CTTG 2 đã đi tới những
ngày cuối, ở Châu Âu phát xít Đức
đã bị tiêu diệt hoàn toàn, buộc phải
đầu hàng không điều kiện. Tháng
5/1945 ở châu á, Nhật ngày càng
bại trận. Hạm đội của Nhật đã bị
hạm đội của Anh - Mỹ đánh tan.
Nhật bị cắt đờng tiếp tế trên mặt
biển và trở nên cô lập. Ngày
8/8/1945 hồng quân Liên Xô tuyên
chiến với quân Nhật. Trong vòng
một tuần lễ, 1 triệu quân Quan
Đông của Nhật bị đánh tan. Nhật
buộc phải đầu hàng không điều
kiện vào ngày 14/8/1945.
Quân Nhật thua trận làm cho bọn
Nhật ở Đông Dơng nh rắn mất đầu,
hoang mang rệu rã. Chính phủ
Trần Trọng Kim cùng các hạng tay
sai khác của Nhật có chung số
phận với chủ đều hoang mang tan
rã. Kẻ thù không thể thống trị nhân
dân ta đợc nữa. Quân đồng minh
lại cha kịp vào nớc ta, Pháp cha kịp

nổi dậy và điều quân viễn chinh
sang Việt Nam.
Quần chúng CM đã sẵn sàng nổi
dậy giành chính quyền, chiến tranh

du kích ở các chiến khu và phong
trào đấu tranh chính trị của quần
chúng ở nông thôn, thành thị lan
rộng tạo nên một không khí CM sôi
sục.
Đảng cộng sản Đông Dơng đã
chuẩn bị đầy đủ, có quyết tâm cao,
sẵn sàng lãnh đạo quần chúng
giành chính quyền. Điều kiện cho
cuộc khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền đã chín muồi "thời cơ
ngàn năm có một đã đến". Vì nếu
khởi nghĩa trớc 14/8 hoặc sau 28/8
đều không có lợi cho CMVN. Trớc
14/8 Nhật còn mạnh, sau 28/8 CM
có nhiều kẻ thù Đảng ta đã kịp thời
nắm bắt thời cơ quyết tâm phát
động Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền, đứng ở vị trí ngời chủ đất nớc mà tiếp đoàn quân đồng minh
vào giải giáp quân Nhật. Đảng ta
kịp thời chớp thời cơ dũng cảm
phát động quần chúng tổng khởi
nghĩa giành chính quyền.

Đề 17: Hội nghị toàn quốc
của Đảng (đêm 13 đến
15/8/1945) và Quốc dân đại
hội.
Bài làm


trớc khi đánh. Phải thành lập chính
quyền ở những nơi đã làm chủ.
Hội nghị còn đề ra một số chính
sách đối nội, đối ngoại cần thực
hiện sau khi CM thắng lợi: thực
hiện 10 chính sách của VM. Về đối
ngoại thực hiện sách lợc "thêm bạn
bớt thù" triệt để lợi dụng mâu
thuẫn giữa khối đế quốc Anh Pháp và Mỹ - Tởng về vấn đề Đông
Dơng. Hết sức tránh một mình đối
phó với nhiều kẻ thù trong một lúc
và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của
Liên Xô, của nhân dân Pháp, nhân
dân TQ và loài ngời tiến bộ.
Hội nghị thể hiện sự thiên tài của
Đảng mà đứng đầu là HCT đã nhạy
bén nắm bắt thời cơ, kịp thời phát
động quần chúng nổi dậy và đề ra
sách lợc đúng đắn đối với bạn và thù.
Tiếp đó là Quốc dân đại hội do
Tổng bộ VM triệu tập họp tại Tân
Trào từ 16 đến 17/8/1945. Tham dự
đại hội có 60 đại biểu các giới, các
đoàn thể, các dân tộc, các tôn giáo
tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng
của toàn dân. Đại hội đã thông qua
bản Nghị quyết lịch sử giành chính
quyền toàn quốc, thông qua lệnh
tổng khởi nghĩa của Tổng bộ VM
và 10 chính sách lớn của VM.

Đại hội cử ra ủy ban dân tộc giải
phóng tức chính phủ lâm thời do
HCM làm chủ tịch. Đại hội quyết
định lấy lá "cờ đỏ sao vàng" làm
quốc kỳ, quốc ca là bài "Tiến quân
ca"... Đại hội Tân Trào thể hiện sự
đoàn kết nhất trí của toàn dân đối
với sự nghiệp của Đảng, biểu thị
lòng tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo
của đảng, HCT, biểu thị quyết tâm
thực hiện chủ trơng tổng khởi
nghĩa của nhân dân ta.
Sau đó HCT đã gửi tới đồng bào cả
nớc lời kêu gọi nổi dậy tổng khởi
nghĩa giành chính quyền :"Giờ
quyết định vận mệnh Tổ quốc đã
đến... toàn quốc đồng bào hãy đứng
dậy đem sức ta mà tự giải phóng
cho ta, chúng ta không thể chậm
trễ... tiến lên! tiến lên! dới lá cờ
VM! đồng bào hãy dũng cảm tiến
lên".
Nh vậy, thực tế trên chứng tỏ rằng
Đảng ta không chỉ có đờng lối chủ trơng đúng đắn mà còn nắm vững nghệ
thuật CM. Mặt khác, cũng thể hiện
quyết tâm cao nên đã đa CMT8 đến
thắng lợi.

Trớc tình hình biến chuyển mau lẹ,
đêm 13/8 Hội nghị toàn quốc của

đảng đã họp ở Tân Trào - Tuyên
Quang, thành phần là đại biểu các
đảng bộ và một số đại biểu ở nớc
ngoài.
Hội nghị nhận định những điều
kiện cho một cuộc tổng khởi nghĩa
nổ ra chín muồi vì quân lính Nhật
tan rã, mất tinh thần. Hàng ngũ chỉ
huy Nhật ở Đông Dơng chia rẽ đến
cực điểm, Việt gian hoảng sợ. Hội
nghi quyết định phát động tổng
khởi nghĩa trong toàn quốc giành
chính quyền trớc khi quân đồng
minh vào Đông Dơng, Pháp cha kịp
tập hợp tàn quân và điều quân viễn
chinh vào xâm lợc nớc ta lần nữa.
Thành lập ủy ban khởi nghĩa, ủy
ban khởi nghĩa ra "quân lệnh số
1" hạ lệnh tổng khởi nghĩa.
Hội nghị đề ra 3 nguyên tắc chỉ đạo
khởi nghĩa là tập trung, thống nhất
và kịp thời. Đề ra phơng châm Đề 18: Tổng khởi nghĩa và
hành động là đánh chiếm ngay
sự ra đời của nớc
những nơi chắc thắng không kể
thành thị hay nông thôn, phối hợp VNDCCH.
bài làm.
chặt chẽ chính trị, quân sự làm tan
rã tinh thần địch và dụ chúng hàng Hởng ứng lệnh tổng khởi nghĩa của
Đảng, lời kêu gọi của HCT, đồng


bào cả nớc triệu ngời nh một nhất
tề đứng lên với tinh thần dù hy sinh
tời đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trờng Sơn cũng phải dành cho đợc
độc lập.
Chiều ngày 16/8/1945, sau khi
nhận đợc mệnh lệnh, một đơn vị
quân giải phóng do đồng chí Võ
Nguyên Giáp chỉ huy xuất phát từ
Tân Trào tiến về giải phóng thị xã
Thái Nguyên mở đầu cho cuộc tổng
khởi nghĩa giành chính quyền. Tại
vùng căn cứ địa sau khi nhận mệnh
lệnh tổng khởi nghĩa, các lực lợng
vũ trang của ta (vũ trang tập trung
và địa phơng) đã gấp rút tỏa đi
nhiều hớng lãnh đạo quần chúng
nổi dậy khởi nghĩa, khởi nghĩa đến
đâu thành lập chính quyền CM đến
đó dới hình thức ủy ban nhân dân,
ủy ban CM.
Từ ngày 14 đến 18/8, nhiều xã
huyện thuộc phần lớn các tỉnh
trong cả nớc đã nối tiếp nhau chớp
thời cơ giành chính quyền ở cấp xã,
huyện và tiến lên giành chính
quyền ở tỉnh lị. Ngày 18/8/1945 lực
lợng khởi nghĩa của Bắc Giang,
Hải Dơng, Hà Tĩnh, Quảng Nam đã
giành đợc chính quyền ở tỉnh lị sớm

nhất trong cả nớc.
ở Hà Nội, ngày 15/8 lệng khởi
nghĩa về tới Hà Nội, ủy ban quân
sự CM Hà Nội (ủy ban khởi nghĩa)
đã đợc thành lập. ủy ban đã khẩn
trơng hoàn thành tốt kế hoạch khởi
nghĩa. Quần chúng CM ở nội
thành đã sẵn sàng xuống đờng,
tầng lớp trung gian ngả về phía
CM. Cuộc mít tinh ngày 17/8 do
bọn thân Nhật tổ chức đã biến
thành mít tinh ủng hộ VM. Chính
quyền bù nhìn rệu rã đến cực điểm:
khâm sai Bắc Kỳ bỏ nhiệm sở ở Hà
Nội. Nh vậy điều kiện khởi nghĩa ở
Hà Nội đã chín muồi, nhân dân đã
kịp thời đứng lên khởi nghĩa. Ngày
19/8/1945 hàng chục vạn ngời dân
ngoại thành có vũ trang mang
băng cờ, biểu ngữ khẩu hiệu đấu
tranh kéo qua các cửa ô tiến vào
thành phố. Phối hợp với đông đảo
quần chúng nội thành với khí thế
CM sục sôi, quần chúng rầm rập
tiến về quảng trờng Nhà hát lớn dự
cuộc mít tinh do VM tổ chức. Một
rừng cờ sao vàng mọc lên, quần
chúng hát vang các bài ca CM và
hô vang khẩu hiệu "đả đảo xâm
lăng", "đả đảo chính phủ bù nhìn


15

Trần Trọng Kim", "ủng hộ Việt
Minh", "Việt Nam hoàn toàn độc
lập". Khoảng 10 giờ sáng cuộc mít
tinh bắt đầu. Sau một loạt súng
chào cờ bài "Tiến quân ca" vang
lên, đại biểu của ủy ban quân sự
CM đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa
của VM. Khoảng 11 giờ 30 ' cuộc
mít tinh lớn nhanh chóng chuyển
thành cuộc biểu tình tuần hành vũ
trang đánh chiếm các cơ quan đầu
não của địch: phủ khâm sai, sở mật
thám, sở Cảnh sát, trại bảo an binh,
sở bu điện, ga hàng cỏ, đài phát
thanh... trớc khí thế của quần
chúng khởi nghĩa, bọn địch chống
cự yếu ớt, chính quyền hoàn toàn về
tay nhân dân.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở
ngày 19/8 đã có tiếng vang nhanh
trong cả nớc, có tác dụng cổ vũ
mạnh mẽ các tỉnh và các thành phố
khác, làm tăng thêm cuộc khủng
hoảng trong hàng ngũ kẻ thù tạo
điều kiện thuận lợi cho tổng khởi
nghĩa.
Huế là trung tâm chính trị lớn của

địch ở miền Trung, là dinh lũy chủ
yếu của chính quyền phong kiến.
Mờ sáng ngày 23/8/1945, Đảng bộ
và ủy ban Thừa Thiên Huế đã huy
động quần chúng các huyện ngoại
thành đã giành đợc chính quyền
phối hợp với công nhân, thanh
niên, sinh viên trong nội thành tới
hơn 15 vạn ngời, tiến hành cuộc
biểu dơng lực lợng. Trớc sức mạnh
nh nớc vỡ bờ của quần chúng, bộ
máy chính quyền bù nhìn hoàn
thành tê liệt, quân đội Nhật nằm
im. Quần chúng khởi nghĩa lần lợt
chiếm các công sở của địch mà
không có sự kháng cự nào đáng kể.
Khởi nghĩa ở Huế thắng lợi góp
phần thúc đẩy khởi nghĩa ở các địa
phơng còn lại nhanh hơn.
ở Sài Gòn đợc tin thủ đô Hà Nội và
Huế giành chính quyền, Đảng bộ
miền Nam và Sài Gòn quyết định
phát động quần chúng khởi nghĩa
giành chính quyền ở Sài Gòn và
các tỉnh. Đêm 24/8 hơn 1 triệu
quần chúng khởi nghĩa đã biểu
tình thị uy. Lần lợt chiếm các công
sở quan trọng của địch nh sở mật
thám, nha Cảnh sát, nhà ga, bu
điện... Quân đội Nhật "án binh bất

động" chỉ có sự chống cự yếu ớt
của bọn ngoan cố ở sở mật thám
catinát nhng nhanh chóng bị dập
tắt. Chỉ trong ngày 25/8 khởi nghĩa
ở Sài Gòn đã thành công. Thắng lợi
của cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn có ý
nghĩa quyết định đến cuộc khởi
nghĩa của các tỉnh còn lại ở MN.
Cuối cùng, ngày 28/8, các nơi khác
còn lại ở Nam Bộ, Đồng Nai Thợng, Hà Tiên kể cả Côn Đảo chính
quyền đã về tay nhân dân.

Nh vậy toàn dân đã xuống đờng
tuần hành thị uy có vũ trang thô sơ,
tiến hành khởi nghĩa đập tan chính
quyền địch. Một số cuộc tấn công
quân sự đã diễn ra ở một số nơi nh
Hà Đông, Thái Nguyên, Tuyên
Quang. Trớc sức mạnh của CM,
chính quyền địch bị tan rã nhanh
chóng, trong vòng 15 ngày tổng
khởi nghĩa đã thành công trong cả
nớc.
Từ ngày 25/8/1945 HCT cùng với
TW và ủy ban dân tộc giải phóng
từ Tân Trào về tới Hà Nội. Theo đề
nghị của Ngời, ủy ban dân tộc giải
phóng do Đại hội quốc dân Tân
Trào bầu ra cải tổ thành chính phủ
lâm thời nớc VNDCCH.

Ngày 28/8 một phái đoàn của chính
phủ lâm thời từ Hà Nội vào Huế dự
lễ thoái vị của Bảo Đại. Ngày 30/8
trớc cuộc mít tinh của hàng vạn
quần chúng tại Ngọ môn Huế, Bảo
Đại đọc lời thoái vị, nộp ấn kiếm
cho chính quyền CM. Cờ của
Chính phủ bù nhìn hạ xuống, lá cờ
đỏ sao vàng từ từ kéo lên đánh dấu
sự chấm dứt của chính quyền thực
dân phong kiến ở nớc ta.
Ngày 2/9/1945 tại Quảng trờng Ba
Đình - Hà Nội, HCT đã thay mặt
chính phủ lâm thời đọc tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nớc VNDCCH
đánh dấu CMT8 đã hoàn toàn
thắng lợi.
Cuộc vùng dậy vĩ đại trong CMT8
của nhân dân ta thể hiện tính toàn
dân rõ rệt vì tất cả các lực lợng của
quần chúng nhân dân trớc hết là
công nhân, nông dân bao gồm lực
lợng chính trị và vũ trang ở cả
nông thôn, thành thị bao gồm mọi
hình thức đấu tranh trong đó lực lợng chính trị có vũ trang thô sơ giữ
vai trò chủ yếu. Lực lợng vũ trang
đóng vai trò xung kích để đập tan
chính quyền địch trong khởi nghĩa
giành chính quyền.


Đề 19: Tính chất, ý nghĩa,
nguyên nhân và bài học
kinh nghiệm của CMT8.

Bài làm.
Căn cứ vào nhiệm vụ chiến lợc,
mục tiêu cụ thể, ngời lãnh đạo,
động lực tham gia và kết quả của
CM đạt đợc ta thấy CMT8 là cuộc
CM DTDCND, làm 2 nhiệm vụ dân
tộc, dân chủ trong đó gpdt là khâu
cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định
trớc tiên đối với toàn bộ tiến trình
phát triển về sau của cuộc CM dân
tộc dân chủ nhân dân.
Thắng lợi của CMT8 có ý nghĩa
lịch sử to lớn không những đối với
đất nớc mà còn cả TG. Đối với đất
nớc: CMT8 là một sự kiện vĩ đại
trong lịch sử tiến hóa của dân tộc,
đã phá tan xiềng xích nô lệ của

phát xít Nhật trong gần 5 năm, của
thực dân Pháp trong hơn 80 năm,
lật nhào chế độ quân chủ chuyên
chế ngót chục TK của nớc ta lập
nên nớc VNDCCH.
Với thắng lợi của CMT8, Việt Nam
từ một nớc thuộc địa trở thành một
nớc độc lập tự do dới hình thức thể

cộng hòa dân chủ. Nhân dân Việt
Nam từ thân phận nô lệ trở thành
ngời chủ đất nớc, làm chủ vận
mệnh của mình, Đảng ta từ hoạt
động bí mật, bất hợp pháp trở
thành Đảng cầm quyền.
Thắng lợi của CMT8 đã mở ra kỉ
nguyên mới của đất nớc: kỉ nguyên
độc lập tự do, nhân dân lao động
nắm chính quyền, làm chủ đất nớc,
làm chủ vận mạng dân tộc. Vì vậy,
sau thắng lợi của tổng khởi nghĩa
tháng 8 chính quyền về tay nhân
dân, CM có những điều kiện để tiến
những bớc dài trên con đờng tiến
lên hoàn thành gpdt. Đó là bớc
nhảy vọt đầu tiên trong lịch sử
CMVN dới sự lãnh đạo của đảng.
Đối với TG, thắng lợi của CMT8 là
thắng lợi của cuộc CM gpdt ở một
nớc thuộc địa nửa phong kiến bằng
chính sức của mình, bằng việc đem
sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nó
đã góp phần vào chiến thắng chủ
nghĩa phát xít ở CTTG 2. Đánh bại
một bớc chủ nghĩa thực dân cũ của
Pháp. Đây là thắng lợi vĩ đại của
một dân tộc vốn là thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc, đã cổ vũ mạnh
mẽ phong trào CMTG đặc biệt là

phong trào gpdt ở châu á, Phi, Mỹ
La tinh. Trực tiếp làm thay đổi cục
diện chính trị ở Đông Dơng. Tạo
điều kiện thuận lợi cho 2 nớc láng
giềng anh em Lào và Cămpuchia
đấu tranh giành độc lập.
CMT8 thành công là thắng lợi của
t tởng độc lập tự do của HCT của đờng lối CM gpdt theo đờng lối
CMVS. Nó đã để lại nhiều bài học
kinh nghiệm làm phong phú kho
tàng lý luận CM của CN M - L.
Thắng lợi của CMT8 không phải
ngẫu nhiên, mà nó do rất nhiều
nguyên nhân đem lại.
Về mặt khách quan, CMT8 thành
công một mặt là do hoàn cảnh
thuận lợi, hồng quân Liên Xô và
các lực lợng đồng minh chiến thắng
CNPX, trực tiếp là phát xít Nhật đã
góp phần tạo nên thời cơ vô cùng
thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền. Phát xít


Nhật ở Đông Dơng - kẻ thù chủ yếu
trực tiếp trớc mắt của CM nớc ta
cùng với Chính phủ bù nhìn Trần
Trọng Kim hoang mang tê liệt. Tuy
nhiên, điều kiện khách quan đó chỉ
có thể đợc phát huy thông qua

những điều kiện chủ quan của ta.
Về chủ quan, CMT8 thành công là
do có sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng ta đứng đầu là HCT. Sự lãnh
đạo của Đảng thể hiện trên tất cả
các mặt chiến lợc, sách lợc CM mà
Đảng đã chuẩn bị trong suốt 15
năm qua.
Trớc hết là Đảng đã đề ra đờng lối
CM đúng đắn, đó là đờng lối chiến
lợc trong "Chính cơng vắn tắt, sách
lợc vắn tắt" (3/2/1930) và đờng lối
chỉ đạo chiến lợc thể hiện qua Nghị
quyết Hội nghị TW 6, 7, 8. Đờng lối
giơng cao ngọn cờ độc lập dân tộc,
đặt nhiệm vụ gpdt lên hàng đầu đã
thể hiện sự đúng đắn, sáng tạo
phản ánh đúng thực tế Việt Nam
trong xu thế phát triển của TG.
Nhờ đó Đảng đã khơi dậy phát huy
đợc truyền thống đoàn kết chống
ngoại xâm của dân tộc, dấy lên các
phong trào 30 - 31, 36 - 39, 39 - 45
để chuẩn bị cho CMT8.
Dới sự lãnh đạo của Đảng và HCT
lực lợng chính trị của quần chúng
đợc xây dựng và phát triển, đó là
các tổ chức quần chúng trong mặt
trận dân tộc thống nhất mà tiêu
biểu là MTVM. Trên cơ sở lực lợng

chính trị của quần chúng Đảng đã
từng bớc xây dựng lực lợng vũ
trang CM và các căn cứ địa CM
cũng ra đời. Trên cơ sở chuẩn bị
sẵn sàng khi điều kiện khách quan
thuận lợi đến Đảng đã kịp thời
chớp thời cơ phát động quần chúng
nổi dậy. Sử dụng khéo léo các lực lợng chính trị, lực lợng vũ trang CM
trong tổng khởi nghĩa giàng chính
quyền đấu tranh chính trị kết hợp
với đấu tranh vũ trang, đi từ khởi
nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi
nghĩa. Đây là nhân tố quyết định
thắng lợi của CMT8.
CMT8 đã để lại những bài học kinh
nghiệm vô cùng quý báu làm phong
phú thêm kho tàng lý luận của CN
M - L về CM ở thuộc địa.
Trên cơ sở nắm vững nguyên lý về
mối quan hệ g/c và dân tộc, quan
điểm về mối quan hệ giải phóng g/c
và gpdt của Cn M - L. Đảng ta đã
giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ chiến lợc chống

đế quốc và chống phong kiến: biết
giơng cao ngọn cờ độc lập dân tộc,
đa nhiệm vụ chống đế quốc và tay
sai lên hành đầu nhằm tập trung
mọi lực lợng để thực hiện cho kỳ đợc yêu cầu nóng bỏng của CM là

gpdt, giành lấy chính quyền về tay
nhân dân lao động. Bởi vì nớc ta là
một nớc thuộc địa trong g/c phong
kiến có một bộ phận nhỏ cũng có
lòng yêu nớc. Tuy đế quốc và tay
sai, phong kiến cấu kết với nhau
nhng giữa chúng cũng có mâu
thuẫn với nhau về quyền lợi, địa vị.
Phong kiến cũng bị đế quốc thống
trị, coi khinh, chèn ép... Lợi dụng
mâu thuẫn này, Đảng ta đã phân
hóa hàng ngũ kẻ thù, lôi kéo một
bộ phận trong g/c phong kiến đi với
dân tộc làm cho lực lợng CM mạnh
hơn, lực lợng kẻ thù suy yếu đi để
tiến lên đánh đổ chúng.
Trên cơ sở nắm vững nguyên lý CM
là sự nghiệp của quần chúng, nớc
lấy dân làm gốc, dân chúng, công
nông làm gốc CM. Đảng đã khơi
dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc
trong mọi tầng lớp nhân dân. Tập
hợp rộng rãi mọi lực lợng yêu nớc
tiến bộ trong mặt trận dân tộc
thống nhất mà tiêu biểu là MTVM.
Dựa trên cơ sở liên minh công nông
vững chắc, lợi dụng mâu thuẫn của
kẻ thù, cô lập cao độ kẻ thù chủ yếu
tiến lên đánh đổ chúng. Trong thời
kỳ 39 - 45 và trong CMT8 cùng một

lúc ta phải đơng đầu với nhiều kẻ
thù (Pháp - Nhật, phong kiến, tay
sai của Pháp , Nhật) nên phải làm
sao phân hóa đợc chúng, từng thời
gian xác định cho đợc kẻ thù chính
trớc mắt để tập trung mũi nhọn tiêu
diệt chúng. Cách giải quyết cụ thể
của Đảng trong thời kỳ này rất
đúng đắn, linh hoạt. Từ 1940 đến
trớc khi Nhật đảo chính Pháp,
Đảng nêu lên khẩu hiệu là "đánh
đuổi phát xít Pháp - Nhật", sau đảo
chính của Nhật lại nêu khẩu hiệu
"đánh đuổi phát xít Nhật". Ngay
trong nội bộ thực dân Pháp Đảng
cũng phân biệt đợc những ngời
Pháp dân chủ và những ngời Pháp
theo Pêtanh. Trong nội bộ Nhật ta
chia rẽ phái chủ chiến và phái chủ
hòa. Trong nội bộ tay sai của Pháp
và Nhật Đảng cũng tìm cách phân
hóa chúng.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo
quan điểm CM bạo lực và khởi
nghĩa vũ trang của CN M - L. Đảng

ta đã kết hợp xây dựng lực lợng
chính trị với lực lợng vũ trang và
căn cứ địa CM kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang và

chiến tranh du kích. Kết hợp phong
trào ở nông thôn miền núi với đô
thị, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến
lên tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn
lẫn thành thị mà đòn quyết định
nhằm vào các cơ quan đầu não của
địch ở thủ đô và các thành phố
quan trọng để giành chính quyền
trong cả nớc.
Tích cực chuẩn bị nhanh chóng chớp
thời cơ, dũng cảm phát động quần
chúng đứng lên giành chính quyền.
Chuẩn bị là yếu tố chủ quan, thời cơ là
yếu tố khách quan. Yếu tố chủ quan
bao giờ cũng giữ vai trò quyết định yếu
tố khách quan cũng rất quan trọng.
CM muốn thắng lợi ngoài việc chuẩn
bị sẵn sàng còn phải có thời cơ. Ngợc
lại thời cơ dù có thuận lợi đến đâu nhng nếu không có sự chuẩn bị thì cũng
bỏ lỡ cơ hội. Vì thế thắng lợi của
CMT8 là do Đảng ta đã tiến hành đầy
đủ hai yêu cầu trên.
Trong CM cần giải quyết mối quan
hệ giữa chuẩn bị chớp thời cơ với
dũng cảm phát động quần chúng
đứng lên khởi nghĩa. Đó cũng là
mối quan hệ giữa yếu tố chủ quan
với yếu tố khách quan. Mặc dù CM
đã đợc chuẩn bị chu đáo nhng khi
thời cơ đến ngời CM còn phải dũng

cảm phát động quần chúng xông
lên quật ngã kẻ thù thậm chí dám
hy sinh đổ máu để giành thắng lợi
nếu không CM sẽ không thành
công vì kẻ thù dù yếu đến đâu cũng
không bao giờ dễ dàng đầu hàng.
Trong CMT8 Đảng đã kết hợp đợc
các yếu tố đó với nhau nên giành đợc thắng lợi. Các bài học trên của
CMT8 có giá trị mãi mãi đối với
chúng ta.
Thực tiễn là thớc đo của chân lý.
Thắng lợi của CMT8 không phải
ngẫu nhiên mà là kết quả của 15
năm hoạt động và lãnh đạo của
Đảng ta. Chính vì thế nếu không có
Đảng thì không có nớc VNDCCH.
"Chẳng những giai cấp lao động
và nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào mà g/c lao động bị áp bức nơi
khác cũng có thể tự hào rằng: lần
này là lần đầu tiên trong lịch sử
CM của các dân tộc thuộc địa và
nửa thuộc địa một Đảng mới 15
tuổi đã lãnh đạo CM thành công"
(HCM).

Đề 20: Nội dung, hoàn cảnh, ý
nghĩa của TNĐL.
bài làm.
Thời cơ tổng khởi nghĩa đã đến,

Đảng ta đứng đầu là Bác đã phát
động lệnh tổng khởi nghĩa, trong
vòng 15 ngày tổng khởi nghĩa đã
thành công trong cả nớc. Ngày
30/8/1945 chính phủ thực dân
phong kiến sụp đổ. Để ghi nhận
thắng lợi của CM và công bố trớc
TG nền độc lập của dân tộc ngày
2/9/1945 tại Hà Nội, HCT đã đọc
bản TNĐL công bố trớc quốc dân
và TG nớc VNDCCH đã đợc thành
lập.
Tuyên ngôn khẳng định nguyên lý
về quyền bình đẳng giữa các dân
tộc, nêu lên những lời trích dẫn từ
bản TNĐL của nớc Mỹ (1776) và
của bản tuyên ngôn "Nhân quyền
và dân quyền" của CM Pháp
(1791) để chứng minh đó là một
chân lý mà ai cũng phải thừa nhận:
"Tất cả các dân tộc trên TG đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sớng và quyền tự do". Dân tộc Việt
Nam ta dù nhỏ bé nhng cũng là
một dân tộc, chúng ta cũng có
quyền sống bình đẳng với tất cả các
dân tộc khác trên TG, không kẻ
nào có quyền tớc bỏ quyền thiêng
liêng bất khả xâm phạm của chúng
ta.

Bản Tuyên ngôn đã tố cáo tội ác dã
man của bọn phát xít Nhật - mới
thống trị Đông Dơng 5 năm mà đã
làm cho 2 triệu đồng bào ta bị chết
đói và gây bao nhiêu tai họa khác.
Đồng thời, tuyên ngôn cũng tố cáo
tội ác của Pháp. Pháp là kẻ thống
trị Đông Dơng, gây bao tội ác cho
nhân dân Đông Dơng nhng Pháp
lại không bảo hộ đợc Đông Dơng
nh lời chúng nói. Trái lại Pháp đã
quỳ gối dâng Đông Dơng cho Nhật
làm cho dân ta phải chịu 2 tầng áp
bức vô cùng cực khổ nghèo nàn.
Trên thực tế nhân dân ta đã giành
đợc chính quyền từ tay Nhật chứ
không phải từ tay Pháp. Dụng ý
tuyên ngôn muốn chỉ cho đồng bào
ta thấy chính Pháp là kẻ đang
muốn trở lại xâm lợc Đông Dơng
còn Nhật thì không còn thực lực
nữa. Nhng Pháp đã mất quyền
thống trị Đông Dơng từ lâu nên
nếu chúng có trở lại xâm lợc Đông
Dơng là điều vô lý và phi nghĩa.
Mặt khác, tuyên ngôn cũng muốn
nhắc nhở đồng bào ta nhớ lại tội ác
của Pháp mà căm thù chúng, đề
cao cảnh giác và sẵn sàng đánh trả
chúng khi chúng trở lại Đông Dơng.


Cuối cùng tuyên ngôn đã khẳng
định chủ quyền của dân tộc ta: "nớc Việt Nam có quyền hởng tự do
độc lập và sự thật đã trở thành một
nớc tự do độc lập", Nh vậy, tuyên
ngôn đã khẳng định cả hai phơng
diện trên pháp lý cũng nh trên thực
tế chủ quyền của dân tộc ta. Khẳng
định ý chí quyết tâm giữ gìn độc lập
tự do của nhân dân ta: "toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lợng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do độc
lập ấy".
TNĐL là một văn kiện có giá trị t tởng và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Nó nói lên truyền thống yêu nớc
nồng nàn, ý chí giữ gìn độc lập tự
do của dân tộc ta. Đó là bản anh
hùng ca chiến đấu và chiến thắng
tràn đầy sức mạnh, niềm tin của
nhân dân ta trong sự nghiệp đấu
tranh giành và bảo vệ độc lập tự do.
TNĐL là văn bản ghi nhận thắng
lợi của cuộc CMT8/1945 khai sinh
ra nớc VNDCCH, mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc ta - kỷ
nguyên độc lập tự do. TNĐL là một
văn bản pháp lý công bố trớc TG
nền độc lập ở nớc ta.


Đề 21: Vai trò của HCM
đối với CMT8 và sự ra đời
nớc VNDCCH.
Bài làm.
Đầu 1941, sau hơn 30 năm tìm đờng cứu nớc, hoạt động CM ở nớc
ngoài, NAQ trở về Tổ quốc cùng với
TW trực tiếp lãnh đạo CM. Ngời đã
có nhiều đóng góp to lớn đối với
CM nớc ta đặc biệt là CMT8 và sự
ra đời của nớc VNDCCH.
Đứng trớc tình hình TG và trong nớc chuyển biến sâu sắc, Ngời đã
chủ trì Hội nghị BCH TW Đảng lần
8 (tháng 5/1941) để hoàn thiện chủ
trơng chuyển hớng chỉ đạo chiến lợc CMVN đề ra từ Hội nghị 6 và 7.
Hội nghị TW 8 đã giơng cao hơn
nữa nhiệm vụ gpdt lên hàng đầu và
coi đây là nhiệm vụ cấp bách nhất.
Hội nghị cũng giải quyết vấn đề
dân tộc trong phạm vi từng nớc
Đông Dơng, đề ra chủ trơng khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền
từ khởi nghĩa từng phần tiến lên
tổng khởi nghĩa khi thời cơ chín
muồi và đặt nhiệm vụ chuẩn bị tiến
tới khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ
trung tâm của toàn Đảng, toàn
dân... Chủ trơng đúng đắn và sáng
suốt đó của Hội nghị có tác dụng
quyết định đối với thắng lợi của
CMT8/1945 góp phần bổ sung,


16

phát triển về lý luận CM DTDC ở nớc ta.
Bên cạnh việc hoàn chỉnh chủ trơng chuyển hớng chỉ đạo chiến lợc
CMVN Ngời đã tích cực hoạt động
chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền.
Thấm nhuần quan điểm CM là sự
nghiệp của quần chúng, công nông là
gốc CM và tầm quan trọng của khối
đoàn kết toàn dân trong đấu tranh
CM, Ngời đã sáng lập ra Việt Nam
độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt
Minh) để tập hợp tất cả các tầng lớp,
g/c trong xã hội trên cơ sở liên minh
công - nông. Đây là một hình thức tổ
chức mặt trận dân tộc thống nhất phù
hợp do Ngời đứng đầu, có hệ thống tổ
chức trong cả nớc - một trung tâm
đoàn kết đấu tranh chống Pháp - Nhật
để giành độc lập tự do.
Cuối năm 1941 Ngời đã quyết định
thành lập đội tự vệ vũ trang làm
nhiệm vụ bảo vệ cơ quan đầu não
của Đảng, giao thông liên lạc,
huấn luyện tự vệ cứu quốc để
chuẩn bị cho việc xây dựng lực lợng vũ trang nhân dân thúc đẩy cơ
sở chính trị phát triển. Ngời đã tổ
chức nhiều lớp huấn luyện quân sự,

chính trị qua những t/p lịch sử nớc
ta, địa lý Việt Nam, cách đánh du
kích, cách huấn luyện cán bộ quân
sự... do Ngời viết từ giữa năm 1941
đến đầu năm 1942 đã tuyên truyền
giáo dục cán bộ đảng viên, quần
chúng CM về lòng yêu nớc, về tinh
thần đoàn kết chiến đấu đồng thời
thông qua các t/p đó Ngời còn khái
quát kinh nghiệm của các nớc, nêu
lên những nét cơ bản về đờng lối
chiến lợc, chiến thuật quân sự,
chính trị cho cuộc khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền.
Tháng 10/1944 Ngời đã kịp thời
hoãn kế hoạch phát động chiến
tranh du kích trong phạm vi liên
tỉnh của Liêngời tỉnh ủy C - B - L vì
chủ trơng ấy mới chỉ căn cứ vào
tình hình địa phơng mà cha căn cứ
vào tình hình cụ thể trong cả nớc,
mới chỉ thấy bộ phận mà cha thấy
toàn cục. Quyết định đúng đắn kịp
thời đó đã giúp cho C - B - L tránh
đợc những tổn thất to lớn.
Ngời đã nhận định sáng suốt tình
hình CMVN vào năm 1944 thời kỳ
CM hòa bình đã qua nhng thời kỳ
toàn dân khởi nghĩa cha tới. Cuộc
đấu tranh bây giờ phải đi từ hình

thức chính trị tiến lên hình thức

quân sự. Phải tìm ra một hình thức
thích hợp thì mới có thể đẩy mạnh
phong trào tiến lên. Từ đó Ngời đã
Chỉ thị thành lập đội VNTTGPQ
vào ngày 22/12/1944 tại Cao Bằng.
Đây là đội quân chính quy đàn anh
của CM. Bản Chỉ thị thành lập đội
có tính chất nh một cơng lĩnh quân
sự đầu tiên của Đảng. Với 34 chiến
sỹ - 34 cây súng đội đã thực hiện
nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền vận
động nhân dân nổi dậy gây dựng
cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc
khởi nghĩa sắp tới.
Ngời đã tổ chức xây dựng căn cứ
địa CM: khi mới về nớc Ngời đã xây
dựng tổ chức Cao Bằng làm nơi
thực hiện thí điểm chính sách mặt
trận, chính sách đoàn kết dân tộc
và xây dựng thành căn cứ địa CM
trên cơ sở lực lợng chính trị của
quần chúng. Đến đầu tháng 6/1945
tại hội nghị cán bộ VM 6 tỉnh đã
quyết định thành lập khu giải
phóng Việt Bắc và bầu ra ủy ban
khu giải phóng do Ngời đứng đầu.
Trong khu giải phóng đã thi hành
10 chính sách của MTVM: chia

công điền công thổ cho dân nghèo,
xây dựng lực lợng vũ trang, chính
trị thực hiện phong trào đời sống
mới, cải thiện một phần đời sống
của nhân dân... Khu giải phóng
chính là hình ảnh thu nhỏ của nớc
VNDCCH do Ngời đứng đầu.
Nh vậy, Ngời đã có công lao hoàn
chỉnh chuyển hớng chỉ đạo chiến lợc CMVN và sáng lập ra lực lợng
chính trị, lực lợng vũ trang, căn cứ
địa CM để chuẩn bị tiến tới khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Nhận rõ tầm quan trọng của vấn đề
đoàn kết quốc tế từ 1942 đến 1945
Ngời đã 2 lần đi TQ (tháng 8/1942
và tháng 3/1945) để liên hệ và
tranh thủ sự ủng hộ của các lực lợng đồng minh dân chủ chống phát
xít Tởng - Mỹ. Qua các chuyến đi
này ngoài việc tranh thủ đợc sự
đồng tình ủng hộ của các lực lợng
đồng minh Ngời còn hiểu rõ hơn
bản chất của chính quyền TGT.
Trên cơ sở chuẩn bị mọi mặt cho
cuộc khởi nghĩa vũ trang Ngời còn
luôn theo dõi tình hình, dự đoán
sáng suốt thời cơ CM và là linh hồn
của tổng khởi nghĩa tháng 8. Từ
tháng 10/1944 khi trở lại Cao Bằng
Bác đã gửi th và nói rõ phe phát xít
gần đến ngày bị tiêu diệt, các nớc

đồng minh sắp tranh đợc thắng lợi

cuối cùng, cơ hội cho dân tộc ta
giải phóng chỉ trong 1 năm hoặc
năm rỡi, thời gian gấp rút ta phải
làm nhanh.
Đến cuối tháng 7/1945 khi còn
đang ốm nặng Ngời đã nói với đồng
chí Võ Nguyên Giáp: lúc này thời
cơ chuẩn bị tới dù hy sinh đến đâu,
dù phải đốt cháy cả dãy Trờng Sơn
cũng cơng quyết phải giành cho đợc độc lập.
Ngày 6/8/1945 khi biết tin Mỹ ném
bom nguyên tử xuống 2 thành phố
của Nhật, HCT chỉ thị viết nhiều th
hỏa tốc đi các hớng để thúc giục
các đại biểu địa phơng về Tân Trào
họp hội nghị toàn quốc của đảng.
Ngày 10/8/1945 tại lán Nà Lừa,
HCM đã bàn với một số đồng chí về
việc chuẩn bị hội nghị toàn quốc.
Khi Thờng vụ TW cha ấn định ngày
Ngời nói: nên họp ngay và cũng
không nên kéo dài hội nghị chúng
ta cần tranh thủ từng giây, từng
phút, tình hình sẽ chuyển biến.
Khi thời cơ đến Ngời đã triệu tập
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở
Tân Trào để quyết định lệnh Tổng
khởi nghĩa thành lập ủy ban khởi

nghĩa TW Đảng để lãnh đạo tổng
khởi nghĩa. Ngời đã chủ trì Quốc
dân đại hội Tân Trào từ 16,
17/8/1945 để thông qua chủ trơng
tổng khởi nghĩa của TW Đảng
thông qua quốc kỳ, quốc ca, đặt tên
nớc, cử ra ủy ban dân tộc giải
phóng do HCM làm chủ tịch thảo
luận và bổ sung một số chính sách
cần làm ngay sau khi Tổng khởi
nghĩa thắng lợi. Cuối cùng Đại hội
thông qua mệnh lệnh khởi nghĩa và
Quân lệnh số 1... Nh vậy, dới sự chủ
trì của HCM, Đại hội đã quyết định
những vấn đề hết sức quan trọng
liên quan tới vận mệnh của đất nớc
và chuẩn bị những việc cuối cùng
cho tổng khởi nghĩa.
Đại hội quốc dân vừa bế mạc, HCT
đã gửi th kêu gọi đồng bào cả nớc
đứng lên khởi nghĩa giành chính
quyền... Lời kêu gọi nh một lời hiệu
triệu toàn dân đứng lên cứu nớc
cứu nhà. Chính quyết định đúng
đắn đó của Ngời đã dẫn tới thắng
lợi nhanh chóng của CMT8 trong
cả nớc.
Ngời đã thành lập Chính phủ CM
của nớc Việt Nam mới và đứng đầu
chính phủ. Từ ngày 25/8 theo đề

nghị của Ngời ủy ban dân tộc giải
phóng do Đại hội Tân Trào cử ra


cải tổ thành chính phủ lâm thời nớc
VNDCCH do Ngời đứng đầu. Từ
25/8 đến 31/8 Ngời ở 48 Hàng
Ngang - Hà Nội. Tại đây Ngời đã
soạn thảo bản TNĐL và ngày
2/9/1945 Ngời đã công bố bản
TNĐL tại quảng trờng lịch sử Ba
Đình - một văn kiện có giá trị t tởng
và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Nó
không những khai sinh ra nớc
VNDCCH mà còn mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc - kỷ
nguyên độc lập tự do.
Những dữ kiện trên chứng tỏ rằng
HCT có công lao to lớn đối với
thắng lợi CMT8 của dân tộc ta và là
ngời khai sinh ra nớc VNDCCH - Nhà nớc dân chủ nhân dân đầu tiên ở ĐNA.

Giai đoạn 1945 1954 .
Đề 1: Tại sao nói thời kỳ
này vận mệnh Tổ quốc nh
nghìn cân treo sợi tóc.
Bài làm.
Khác với giai đoạn trớc, giờ đây
nhân dân ta đã giành đợc chính
quyền. Vấn đề đặt ra lúc này là

phải củng cố xây dựng và bảo vệ đợc chính quyền CM. Về phía bọn đế
quốc, trớc thắng lợi của CMVN
chúng rất lo ngại vì đốm lửa của
CMT8 có thể làm bùng cháy phong
trào CM ở ĐNA. Vì vậy, chúng tập
trung ra sức chống phá điên cuồng.
Do đó, sau CMT8 nhân dân ta phải
mất 30 năm, trải qua 2 cuộc k/c trờng kỳ chống Pháp (1945 - 1954)
và chống Mỹ (1954 - 1975) mới giải
phóng đợc hoàn toàn đất nớc.
Đúng nh lời dạy của Lênin: "Giành
chính quyền đã khó nhng giữ chính
quyền còn khó hơn". Thời kỳ đầu
tiên của giai đoạn 1945 - 1954 là
thời kỳ bảo vệ những thành quả
của CMT8 từ 2/9/1945 đến
19/12/1946 bởi lúc này vận mệnh
đất nớc ta nh "ngàn cân treo sợi
tóc".
Lúc này trên TG đã có sự thay đổi về
so sánh lực lợng, CTTG 2 thắng lợi đã
đa lại cho phong trào CMTG, nhất là
phong trào CM ở các nớc thuộc địa và
phụ thuộc những thuận lợi cơ bản.
Với bản chất phản động, bọn đế quốc
ra sức chống phá phong trào CM, tìm
mọi cách chiếm lại các thuộc địa đã
mất và tranh giành thuộc địa lẫn
nhau. Việt Nam là một trong những
đối tợng tranh giành của chúng.


Cùng với tình hình TG thì trong nớc ta cũng có những khó khăn và
thuận lợi. Đầu tiên, đó là những
khó khăn do chế độ cũ để lại, do
hậu quả của chiến tranh đế quốc,
nạn đói làm chết 2 triệu ngời vẫn
đang đe dọa, sản xuất bị đình trệ.
Vụ mùa năm 1945 thu hoạch chỉ
bằng 1/2 năm 1944 mà lại phải
cung cấp cho hơn 4,5 vạn quân
Nhật và 20 vạn quân Tởng. Nông
dân mất ruộng đất, công nhân viên
chức bị mất việc làm, đồng bạc bị
mất giá. Nghèo nàn, lạc hậu, đói
kém đang diễn ra. Đặc biệt, hơn
90% dân ta mù chữ. Vì vậy, nạn dốt
và các tệ nạn xã hội cũ đang hoành
hành.
Khó khăn do chính quyền CM vừa
mới thành lập còn đang trong thời
kỳ trứng nớc: "thiếu kinh nghiệm
quản lý Nhà nớc, lực lợng vũ trang
còn non yếu, trang bị thô sơ và
thiếu kinh nghiệm chiến đấu, ngân
quỹ Nhà nớc trống rỗng, kho bạc
TW chỉ còn hơn 1,2 triệu đồng
Đông Dơng trong đó hơn một nửa
đã rách nát. Ngân hàng Đông Dơng vẫn nằm trong tay bọn t bản tài
chính Pháp.
Đó là khó khăn do bọn đế quốc

bao vây và can thiệp. ở miền Bắc từ
vĩ tuyến 16 trở ra có 20 vạn quân Tởng dới danh nghĩa đồng minh vào
tớc khí giới quân Nhật, gây khó
khăn về kinh tế - chính trị cho
Đảng ta. Chúng tung giấy bạc,
quan kim mất giá trị ra vơ vét thóc
gạo, gây sức ép về chính trị giúp
bọn Việt gian (Việt quốc, Việt
cách...) chống phá CM. Chúng nuôi
dã tâm tiêu diệt Đảng cộng sản,
phá tan Việt Minh và lật đổ chính
quyền nhân dân lập ra một chính
phủ phản CM làm tay sai cho
chúng. Chúng biết rằng, nếu
CMVN thắng lợi, nếu chính quyền
CM đợc củng cố thì sẽ thúc đẩy sự
tan rã của hệ thống thuộc địa ở
ĐNA. Do đó, đế quốc Mỹ - Tởng âm
mu lật đổ chính quyền CM nhằm
biến Việt Nam thành thuộc địa của
chúng. Chúng xúi giục bọn tay sai
đòi ta phải cải tổ chính phủ, đòi gạt
những ngời cộng sản ra khỏi chính
phủ lâm thời, đòi thay đổi quốc kỳ,
quốc ca và HCT phải từ chức...
Trong khi đó ở miền Nam từ vĩ
tuyễn 16 trở vào, quân đội của đế
quốc Anh dới danh nghĩa đồng
minh đã vào giải giáp quân đội


Nhật. Đã trực tiếp trang bị giúp cho của CMT8, càng trởng thành trong
thực dân Pháp quay lại xâm lợc lãnh đạo. Lãnh tụ HCM đứng đầu
Đông Dơng. Vì đế quốc Anh có rất Nhà nớc, vững tay lái đa con
nhiều thuộc địa ở châu á, đặc biệt thuyền CMVN vợt qua sóng gió
là ở ĐNA (ấn Độ, Miến Điện, thác ghềnh.
Malayxia...), cho nên chúng không
muốn cho CMVN thành công. Còn
thực dân Pháp trớc sau vẫn theo
đuổi dã tâm trở lại xâm lợc Đông Dơng nên tìm mọi cách để đợc Anh
tạo điều kiện trở lại thuộc địa cũ.
Bè lũ phản động thân Pháp, thân
Nhật ngóc đầu dậy làm tay sai cho
đế quốc Pháp. Vào ngày 23/9/1945,
đợc Anh che chở Pháp đã nổ súng
xâm lợc nớc ta lần thứ 2. Nhân dân
Nam Bộ theo lời kêu gọi của Xứ ủy
và ủy ban nhân dân Nam Bộ đứng
dậy k/c, kìm chân quân Pháp ở Sài
Gòn. Sau đó, đợc quân Anh giúp đỡ
và đợc tăng viện, quân Pháp chiếm
đợc hầu hết các thành phố, thị xã,
đờng giao thông chiến lợc chủ yếu
ở Nam Bộ và lan ra vùng cực Nam
Trung Bộ.
Cuộc k/c của nhân dân Nam Bộ và
cực Nam Trung Bộ đợc đồng bào
cả nớc ủng hộ, chi viện. Phong trào
Nam Tiến, sự đóng góp tiền của,
công sức đã góp phần ngăn chặn bớc tiến công của địch, chiến tranh
du kích phát triển, chính quyền Cm

đợc bảo vệ, củng cố... buộc thực
dân Pháp phải tìm cách thơng lợng
hoà hoãn.
Khó khăn của ta lúc này là rất lớn,
trực tiếp đe dọa sự tồn vong của
chính quyền CM. Có thể nói cha
bao giờ dân tộc ta đứng trớc nhiều
khó khăn, phức tạp nh vậy. Vận
mệnh Tổ quốc nh "ngàn cân sợi
tóc".
Khó khăn tuy nhiều nhng thuận lợi
không phải nhỏ. Nhân dân ta vốn
có truyền thống yêu nớc chống
ngoại xâm, sau non một thế kỷ nô
lệ, bây giờ đợc độc lập nên quyết
tâm ủng hộ chính quyền CM, sẵn
sàng bảo vệ đất nớc bằng bất kỳ giá
nào. Không một khó khăn nào làm
chùn bớc đợc nhân dân một nớc mà
khi đa số quần chúng công nông
hiểu rằng họ đang bảo vệ chính
quyền của họ, họ đang bảo vệ
quyền lợi mà họ đã tốn bao xơng
máu mới giành lại đợc.
Đảng ta đã nắm đợc chính quyền
trong cả nớc, giành đợc quyền lãnh
đạo hợp pháp, Đảng ta lại đợc tôi
luyện qua các phong trào CM và
thứ thách trớc đó, nhất là thử thách


Đề 2: Những biện pháp để
giải quyết những khó khăn
trớc mắt.

Bài làm.
Lúc này Đảng ta tiếp tục cuộc
CMDTDC, nhiệm vụ dân tộc đợc
đặt lên hàng đầu. Tiến hành đồng
thời cùng một lúc 3 nhiệm vụ cụ
thể: giải quyết những khó khăn trớc mắt, xây dựng củng cố chế độ
mới, tiến hành cuộc đấu tranh
quân sự, chính trị, ngoại giao để
chống thù trong giặc ngoài. Ba
nhiệm vụ trên phải tiến hành song
song nhng quan trọng nhất là
nhiệm vụ chống thù trong giặc
ngoài để giữ chính quyền.
Đầu tiên Đảng đã đề ra những biện
pháp để thanh toán nạn đói vì dân
có no thì mới có thể đánh giặc. Biện
pháp trớc mắt là phải dựa vào dân
để "tiết kiệm và quyên góp", "nhờng cơm xẻ áo". Lời kêu gọi thống
thiết của HCT và việc tự mình làm
gơng đã góp phần quan trọng
trong việc thúc đẩy phong trào cứu
đói đạt đợc nhiều kết quả. Đồng
bào cả nớc đã phát huy mọi sáng
kiến để cứu đói nh "lập hũ gạo cứu
đói", "ngày đồng tâm". Chính phủ
đã tích cực điều hoà thóc gạo giữa

các địa phơng trong toàn quốc, ra
Sắc lệnh nghiêm trị những kẻ đầu
cơ tích trữ thóc gạo. Nhng về lâu
dài thì phải tăng gia sản xuất, lấy
ngắn nuôi dài. HCT kêu gọi: "tăng
gia sản xuất - tăng gia sản xuất
ngay - tăng gia sản xuất nữa". Từ
thành thị đến nông thôn đâu đâu
cũng ra sức sản xuất.
Nhờ nỗ lực của toàn dân mà vụ
chiêm năm 1946 thu hoạch hơn
năm 1945, ở Nam Bộ nạn đói bị
đẩy lùi. Đây là một thuận lợi lớn
hơn của Chính phủ dân chủ nhân
dân. Dân chúng thấy cuộc sống của
mình gắn chặt với sự bền vững của
chính quyền nên ra sức xây dựng
và bảo vệ chính quyền.
Ngời ta thờng nói nạn đói và nạn
dốt thờng đi kèm với nhau, HCT đã
nói "một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu". Do ảnh hởng của chế độ cũ
90% dân nớc ta mù chữ. Vì vậy,
ngày 8/9/1945 Chính phủ lập ra
Nha bình dân học vụ để phục trách

việc xóa nạn mù chữ. Và dựa vào
dân để mở các lớp bình dân học vụ
đồng thời cho mở hệ thống trờng
cấp I, cấp II. Cho nên, trong thời

gian một năm đã có hơn 2,5 triệu
ngời biết đọc, biết viết. Tiếng Việt đợc dùng giảng dạy trong các hệ
thống phổ thông và đại học.
Để giải quyết vấn đề tài chính, trớc
mắt ta phát động tuần lễ vàng
nhằm động viên sự đóng góp của
đồng bào toàn quốc ủng hộ nền
độc lập của Tổ quốc. Chỉ trong thời
gian ngắn nhân dân ta đã tự
nguyện đóng góp đợc 370 kg vàng,
20 triệu đồng vào quỹ độc lập và 40
triệu đồng cho quỹ Đảng vụ quốc
phòng.
Về lâu dài phải ổn định nền tài chính,
phát hành tiền mới và tổ chức thuế
khóa. Ngày 23/11/1946, Quốc hội đã
quyết định lu hành tiền Việt Nam
trong cả nớc. Nhân dân ta phấn khởi
tiêu tiền Việt Nam và tẩy chay tiền
ngân hàng Đông Dơng. Đó là 2 cách
giải quyết nạn khan hiếm tài chính.
Các biện pháp trên đều nhằm phục
vụ quyền lợi của nhân dân. Vì vậy
đã làm nổi bật tính u việt của chế
độ mới. Qua các biện pháp trên đã
xây dựng đợc khối liên minh công
nông vững chắc làm cho nhân dân
ta tin tởng gắn bó với Đảng, với
chính quyền. Đồng thời qua những
biện pháp trên cũng thể hiện tinh

thần yêu nớc của nhân dân ta, tạo
ra sức mạnh tổng hợp để nhân dân
ta chống thù trong giặc ngoài.
Sau khi đã bớc đầu giải quyết
những khó khăn trớc mắt, Đảng ta
đã bắt tay vào xây dựng chế độ mới.
Đầu tiên đó là phải xây dựng chính
quyền vừa giành đợc thực sự vững
mạnh, thực sự là của dân, do dân
bầu ra và đợc dân tin yêu ủng hộ.
Tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc
hội vào ngày 6/1/`946. Mặc dù thực
dân Pháp và bọn phản động tìm
mọi cách ngăn cản nhng vẫn có
gần 90% cử tri đã đi bầu cử. Tại
thủ đô Hà Nội có gần 90% cử tri
nội thành, ngoại thành đi bầu cử.
Ngời đại biểu cao phiếu nhất là
HCT với 98,4%. Đặc biệt ở Nam Bộ,
Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, dới
bom đạn của giặc Pháp nhân dân
ta vẫn đi bầu cử. Tại Nam Bộ có 42
cán bộ chiến sỹ hy sinh trong khi
làm nhiệm vụ tổng tuyển cử. Kết
quả là ta đã bầu đợc 333 đại biểu

17

vào Quốc hội đầu tiên của nớc
VNDCCH.

Chính thức hóa chính quyền ta
ngày 2/3/1946 thông qua danh
sách chính phủ chính thức do HCM
đứng đầu lập ra ban dự thảo Hiến
pháp. Và đến cuối năm 1946 Hiến
pháp đầu tiên của nớc ta đợc Quốc
hội thông qua. Tiếp đó ở khắp các
địa phơng tiến hành bầu cử Hội
đồng nhân dân các cấp theo phổ
thông đầu phiếu.
Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử
bầu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp có ý nghĩa to lớn. Nó
đã giáng một đòn mạnh vào âm mu
chia rẽ, lật đổ và xâm lợc của bọn
đế quốc và tay sai, nâng cao uy tín
của Nhà nớc VNDCCH trên trờng
quốc tế tạo ra cơ sở pháp lý vững
chắc của một Nhà nớc CM để thực
hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại
trong thời kỳ mới đầy chông gai thử
thách. Điều này đã biểu dơng sức
mạnh và ý chí sắt đá của khối đoàn
kết toàn dân. Khẳng định niềm tin
tuyệt đối của nhân dân ta đối với
Mặt trận Việt Minh và HCT.
Đồng thời với việc xây dựng chính
quyền mới thì Đảng ta cũng ra sức
củng cố xây dựng lực lợng ta về mọi
mặt.

Về quân sự, ta ra sức củng cố xây
dựng lực lợng vũ trang nhân dân 3
thứ quân. Khắp nơi trên cả nớc một
phong trào luyện tập quân sự, tìm
kiếm vũ khí diễn ra sôi nổi. Các đội
tự vệ đợc củng cố và mở rộng, các
đơn vị VNGPQ trong CMT8 đợc mở
rộng và đổi tên thành Việt Nam vệ
quốc quân (vào tháng 9/1945). Đây
là đội quân chính quy của Nhà nớc
VNDCCH.
Về chính trị, ta tăng cờng đoàn kết
lực lợng dân tộc. Ngày 29/5/1946,
Hội Liên Việt đợc thành lập đã đề
ra việc đoàn kết tất cả các đảng
phái yêu nớc, các đồng bào yêu nớc
không phân biệt g/c tôn giáo xu hớng chính trị, chủng tộc để làm cho
nớc Việt Nam độc lập thống nhất,
dân chủ, phú cờng.
Về kinh tế, thực hiện bồi dỡng sức
dân: quy định ngày làm 8 giờ, cấm
đánh đập đối với công nhân viên
chức, nông dân đợc giảm tô 25%
chia lại công điền, công thổ, lấy
ruộng đất của bọn thực dân, Việt
gian phản động chia cho dân cày.
Các xí nghiệp công nghiệp cần
thiết nh điện, nớc, khai thác than

vẫn để cho t bản Pháp và t bản nớc khiêu khích vũ trang, chúng ta đã

ngoài kinh doanh nhng phải dới nhân nhợng một số yêu sách về
quyền kiểm soát của Chính phủ kinh tế, chính trị của Tởng nh nhận
Việt Nam. ta khôi phục một số mỏ tiêu tiền quan kim và quốc tệ, cung
thác khác, bãi bỏ thuế thân và cấp một phần lơng thực cho chúng.
những thứ thuế vô lý khác của chế Ta cho tay sai của Tởng một số ghế
trong chính phủ (nh Phó Chủ tịch
độ cũ.
Về văn hóa xã hội, lúc này ta ban nớc Nguyễn Hải Trần, Bộ trởng
hành Sắc lệnh mới, thực hiện quyền ngoại giao Nguyễn Tờng Tam...)
bình đẳng dân tộc, nam nữ. Cuộc chấp nhận bổ nhiệm thêm 70 ghế
vận động đời sống mới do HCT đề trong Quốc hội cho chúng. Song
xớng đợc đông đảo nhân dân hởng mọi sự nhân nhợng đều phải bảo
ứng nhằm xây dựng một đạo đức đảm nguyên tắc CM, chính quyền
mới, với nội dung: cần kiệm liêm phải đợc giữ vững, Đảng phải lãnh
chính. Bài trừ các tệ nạn xã hội cũ đạo chính quyền, HCM phải đứng
nh cờ bạc, rợu chè, trộm cắp... Tất đầu Chính phủ độc lập chủ quyền
cả những điều trên nhằm xây dựng đất nớc phải đợc tôn trọng. Đối với
cơ sở pháp lý cho chính quyền mới. bọn phản động tay sai của quân đội
Những thành tựu cho đối nội tạo Tởng đã ra mặt chống phá CM thì
điều kiện thuận lợi cho hoạt động ta kiến quyết vạch trần bộ mặt bán
đối ngoại có hiệu quả. Đồng thời dân hại nớc của chúng trớc công
những thành công bớc đầu trong luận. Bọn phản động có tội ác đều
xây dựng chính quyền mới tạo điều bị trừng trị theo pháp luật.
kiện cơ bản cho nhân dân ta k/c lâu Chủ trơng nhân nhợng với Tởng là
cần thiết vì chúng là kẻ thù CM nhdài.
Trong điều kiện chính quyền CM ng lại dới danh nghĩa đồng minh
còn non trẻ lực lợng CM mới đợc (hợp pháp) đặc biệt lực lợng CM
hình thành, những vấn đề đối nội của ta lúc đó còn non trẻ, chính
còn mang tính thách thức lại cùng quyền CM còn trong trứng nớc lực
một lúc phải đối phó với nhiều kẻ lợng vũ trang đang trong quá trình

thù. Từ đó đòi hỏi Đảng và Nhà n- hình thành phải tập trung lực lợng
ớc ta phải có đợc "nhãn quan" để để đánh kẻ thù chủ yếu. Hơn nữa,
phân tích đánh giá từng kẻ thù một lúc đó chính phủ ta đang đứng trớc
để thông qua đó đề ra những đờng tình thế hết sức hiểm nghèo, phải đơng đầu với nhiều khó khăn nhiều
lối thích hợp đối phó với kẻ thù.
Kẻ thù của ta lúc này là đế quốc và kẻ thù. Vì vậy, nhân nhợng với Ttay sai chúng chia làm 2 khối: phía ởng là sách lợc đúng đắn.
Bắc là Tởng - Mỹ và tay sai. Phía Việc thực hiện sách lợc nhân nhợng
Nam là Anh - Pháp và tay sai. Giữa với Tởng đã hạn chế và vô hiệu hóa
hai khối có mâu thuẫn với nhau về đến mức thấp nhất các hoạt động
quyền lợi nhng thống nhất với chống phá của quân Tởng và tay
nhau trong âm mu chống phá CM. sai, làm thất bại âm mu lật đổ chính
Lực lợng kẻ thù đông và mạnh quyền CM của chúng, làm cho
trong đó Pháp là kẻ thù chủ yếu, do chính quyền Cm ngày càng mạnh
đó trên cơ sở nắm vững nguyên tắc và tăng thêm uy tín cho cuộc đấu
chiến lợc Đảng ta đã mềm dẻo tranh.
trong sách lợc, biết phân hóa kẻ thù Đối với Pháp ở miền Nam, ta kiên
để đánh đổ chúng. Lúc này Đảng ta quyết đánh Pháp ở miền Nam từ
tuyên bố tự giải tán, thực tế là rút ngày 23/9/1945, xứ ủy và UBND
vào hoạt động bí mật. Cuộc chiến Nam Bộ đã họp Hội nghị ở đờng
tranh thể hiện qua hai kỳ: từ Cây Mai - chợ Lớn, quyết định phát
2/9/1945 đến 6/3/1946 và từ động nhân dân Nam Bộ đứng lên
k/c. Vì Pháp đã vi phạm trắng trợn
6/3/1946 đến 19/12/1946.
Từ 2/9/1945 đến 6/3/1946 ở nớc ta độc lập chủ quyền của dân tộc ta.
diễn ra cục diện "Bắc đàm Nam Nhân dân Sài Gòn - chợ Lớn, nhân
đánh" tức là miền Bắc thì nhân nh- dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên
ợng Tởng, miền Nam chống lại sự chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, phối hợp
xâm lợc của Pháp. Đầu tiên đối với chặt chẽ với các lực lợng vũ trang
Tởng ở miền Bắc, để tập trung lực l- đánh địch trên các đờng phố, nhân
ợng đánh Pháp ở miền Nam, ta chủ dân Sài Gòn đã triệt để tổng bãi

trơng tránh những cuộc xung đột, công, bãi thị, một số cầu đờng bị


đánh sập phá hoại. Cả thành phố
ngổn ngang các chớng ngại vật,
cản bớc tiến của kẻ thù. TW Đảng,
Chính phủ và HCT cũng đã kịp
thời đề ra những chủ trơng lãnh
đạo k/c ở miền Nam. Cả nớc chi
viện về mọi mặt cho miền nam. Các
đơn vị "nam tiến" từ thủ đô Hà
Nội, căn cứ Việt Bắc, đồng bằng
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đã tấp nập
lên đờng vào nam đánh giặc, cứu nớc.
Cuộc chiến đấu anh dũng của
nhân dân Nam Bộ đã ngăn chặn
từng bớc tiến công của địch, hạn
chế âm mu "đánh nhanh thắng
nhanh" của chúng, phát triển
chiến tranh du kích, giữ vững và
mở rộng lực lợng, tích luỹ đợc kinh
nghiệm chiến đấu góp phần củng
cố và bảo vệ CM. Tạo điều kiện cho
cả nớc chuẩn bị lực lợng về mọi mặt
cho cuộc k/c toàn quốc về sau. Điều
đó chứng tỏ tinh thần yêu nớc, ý chí
bất khuất kiên cờng của dân tộc ta.
Từ 6/3/1946 đến 19/12/1946, đến
đầu 1946, thực dân Pháp về cơ bản
chiếm đóng các đô thị Nam Bộ và

cực Nam Trung Bộ theo sự dàn xếp
giữa Anh - Mỹ - Pháp, ngày
28/1/1946 Anh rút khỏi Sài Gòn,
nhờng cho Pháp quyền chiếm đóng
miền Nam. Công việc tiếp theo của
Pháp là chuẩn bị tiến quân ra Bắc.
Nhng thực lực của Pháp lúc này cha đủ. Sau một thời gian dài, dùng
lực lợng vũ trang xâm lợc ở miền
nam - Việt Nam đã không đạt đợc
kết quả nh mong muốn. Chúng
thấy không thể đánh nhanh thắng
nhanh đợc. Với một lực lợng hiện
có, quân Pháp thấy rằng không thể
đánh thắng đợc một dân tộc đang
kiên quyết chống lại chúng. Hơn
nữa, muốn đánh chiếm miền Bắc
phải giải quyết 2 trở ngại quân Tởng và lực lợng CMVN ở miền Bắc.
Về phía Tởng, lúc này TGT đang
cần tập trung lực lợng để đối phó
với lực lợng CM của Đảng cộng sản
Trung Quốc. Bọn tay sai của Tởng
lúc này không có cơ sở chính trị xã hội, ở trong nớc bộ mặt phản
dân hại nớc đã bị lộ tẩy, hơn nữa Tởng cũng thấy rằng không thể bóp
chết đợc CMVN.
Pháp - Tởng đã ký hiệp ớc Hoa Pháp theo Hiệp ớc Pháp nhờng cho
Tởng một số quyền lợi về kinh tế chính trị nh hủy bỏ cai trị ngoài
pháp quyền của Pháp trên đất

Trung Quốc nhờng cho TGT một
khu đặc biệt để tự do buôn bán và

có quyền kiểm soát thuế quan ở
cảng Hải Phòng, bán cho Tởng
đoạn đờng sắt từ Hồ Kiều đến Côn
Minh (thuộc đờng sắt Hà Nội - Vân
Nam). Còn Tởng thì cho quân đội
Pháp quyền thay thế quân đội Tởng
ở phía Bắc (Đông Dơng) từ vĩ tuyến
16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp
quân đội Nhật. Nh vậy là kẻ thù đã
cấu kết với nhau. Hiệp ớc Hoa Pháp đã đặt nhân dân Việt Nam trớc 2 giải pháp hoặc là cầm vũ khí
chống thực dân Pháp không cho
chúng đổ bộ lên miền Bắc, nh thế
là phải đánh với 2 kẻ thù trong một
lúc khi mà chính quyền CM vừa đợc xây dựng còn non yếu, lực lợng
vũ trang xây dựng cha đợc bao
nhiêu, kinh tế gặp nhiều khó khăn,
hoặc là hoà hoãn nhân nhợng tạm
thời với Pháp để có thể tránh tình
trạng đối phó một lúc với nhiều kẻ thù,
đẩy đợc 20 vạn quân Tởng ra khỏi
miền Bắc, tranh thủ thời gian hòa
hoàn để tiếp tục củng cố và phát triển
lực lợng CM. Chuẩn bị mọi mặt để bớc
vào một cuộc chiến đấu về sau khi
điều kiện bắt buộc. Trớc tình hình đó
Đảng, Chính phủ và HCT đã chọn
giải pháp đàm phán với Pháp.
Chiều 6/3/1946, Chính phủ ta kí với
đại diện chính phủ Pháp bản "Hiệp
định sơ bộ" đặt cơ sở cho một cuộc

đàm phán để đi đến một hiệp ớc
chính thức. Nội dung của bản Hiệp
định là Chính phủ Pháp công nhận
nớc VNDCCH là một quốc gia tự
do nằm trong khối Liên hiệp Pháp,
có chính phủ riêng, nghị viện riêng,
quân đội riêng, tài chính riêng. Sự
thống nhất 3 kỳ do nhân dân ta
quyết định.
Chính phủ Việt Nam đồng ý để cho
15.000 quân Pháp đợc vào miền
Bắc thay chân quân đội Tởng. Mỗi
năm sẽ rút 1/5 số quân đó về nớc và
sau 5 năm sẽ rút hết.
Hai bên sẽ ngừng cuộc xung đột và
giữ nguyên quân đội 2 bên tại vị trí
cũ tạo điều kiện cần thiết để đi đến
một cuộc điều đình thân thiệt để
bàn về các vấn đề ngoại giao của
Việt Nam, chế độ tơng lai của Đông
Dơng, những quyền lợi kinh tế và
văn hóa của Pháp ở Việt Nam.
Việc ký Hiệp định sơ bộ có ý nghĩa
rất quan trọng đối với CMVN.
Chính quyền Cm đã lợi dụng đợc
mâu thuẫn giữa Pháp và Nhật đuổi

nhanh 20 vạn quân Tởng và bọn
tay sai ra khỏi đất nớc. Ta đã loại
trừ đợc một kẻ thù nguy hiểm.

Tránh đợc một cuộc chiến đấu mà
ta biết chắc là bất lợi cho ta vì cùng
một lúc chống lại nhiều kẻ thù.
Tranh thủ đợc thời gian hết sức cần
thiết để củng cố chính quyền phát
triển lực lợng vũ trang, mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất chuẩn
bị mọi mặt cho cuộc chiến đấu sau
này. ở phía Nam ta cũng tranh thủ
đợc tình hình ngừng bắn để xây
dựng lực lợng k/c. Về mặt pháp lý
chính phủ Pháp đã phải thừa nhận
Việt Nam là một quốc gia tự do
không còn là thuộc địa của Pháp.
Trong tình thế vô cùng khó khăn
của những tháng đầu năm 1946,
việc ký Hiệp định sơ bộ thể hiện sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng, thiên
tài của HCT đã biết tạm thời hoà
hoãn với một kẻ thù để loại bớt
những kẻ thù khác, tranh thủ thời
gian hòa hoãn với một kẻ thù để
loại bớt những kẻ thù khác, tranh
thủ thời gian chuẩn bị lực lợng, đa
nớc nhà thoát khỏi tình thế nguy
hiểm "ngàn cân treo sợi tóc" một
cách có lợi nhất.
Sau Hiệp định sơ bộ ta và Pháp tiếp
tục mở Hội nghị trù bị Đà Lạt từ ngày
17/4/1946 đến 11/5/1946 nhng hội

nghị đã tan rã. Hội nghị Phôntenơblô
cũng bế tắc (6/7/1946) và chấm dứt
ngày 10/9/1946. Tình hình bang giao
Việt - Pháp càng thêm căng thẳng
nguy cơ một cuộc chiến tranh đã đến
gần, cần phải có một quyết định
nhanh chóng nhằm kéo dài thêm thời
gian hòa hoãn làm cho nhân dân thấy
rõ Pháp thấy rõ thiện chí hoà bình của
Việt Nam và dã tâm xâm lợc của
Pháp. HCT đã ký với Chính phủ Pháp
"Tạm ớc 14/9/1946".
Qua Tạm ớc Chính phủ Việt Nam và
chính phủ Pháp cam kết tiếp tục chính
sách hợp tác nh Hiệp định sơ bộ đã
nêu, tiếp tục cuộc đàm phán và sẽ đợc
triển khai chậm nhất vào tháng giêng
1947.
Chính phủ Việt Nam bảo đảm các
quyền tự do dân chủ, những quyền
lợi về kinh tế, văn hóa của thực dân
Pháp ở Việt Nam.
Chính phủ Pháp sẽ đình chỉ xung
đột ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ bảo
đảm các quyền tự do dân chủ cho
nhân dân. Việt Nam và Pháp trả
hết tù chính trị, chấm dứt tuyên
truyền không thân thiện. Việc trng

cầu dân ý ở Nam Bộ do 2 bên quy

định thời gian và cách thức.
Với việc ký Tạm ớc ta đã duy trì
thêm 3 tháng nữa để xây dựng lực lợng, để tranh thủ tình cảm của
nhân dân Pháp, chuẩn bị sẵn sàng
bớc vào cuộc k/c.
Những chính sách trên đã làm tăng
thêm niềm tin của nhân dân đối với
chính quyền CM, đã xây dựng và
củng cố đợc chính quyền CM từ TW
đến địa phơng - lực lợng chỉ đạo
cuộc k/c sau này. Những chính
sách trên đã xây dựng và củng cố đợc lực lợng k/c (vệ quốc quân, dân
quân tự vệ) và cơ sở kinh tế xã hội
phục vụ k/c. Các biện pháp trên đã
thắt chặt hơn nữa khối đoàn kết
toàn dân trong k/c, kiến quốc.
Nh vậy trong cuộc đấu tranh để xây
dựng và bảo vệ chính quyền ta đã
giành nhiều thắng lợi. Có đợc
những thắng lợi đó là do toàn thể
nhân dân Việt Nam đã đoàn kết
chặt chẽ chiến đấu dới ngọn cờ
lãnh đạo của Đảng. Đảng ta đứng
đầu là HCT với đờng lối chính trị
vô cùng sáng suốt, vừa cứng rắn về
nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lợc đã đa nớc nhà vợt qua muôn vàn
khó khăn tởng nh không sao vợt
qua nổi. "Những biện pháp cực kỳ
sáng suốt đó đã đợc ghi vào lịch sử
CM nớc ta nh một mẫu mực tuyệt

vời của sách lợc Lêninít về lợi dụng
những mâu thuẫn trong hàng ngũ
kẻ địch và sự nhân nhợng có
nguyên tắc".

Đề 3: Sách lợc của Đảng
ta đối với thù trong giặc
ngoài trong những năm
đầu sau CMT8.
Bài làm.
Trong điều kiện chính quyền CM
còn non trẻ lực lợng CM mới đợc
hình thành, những vấn đề đối nội
còn mang tính thách thức lại cùng
một lúc phải đối phó với nhiều kẻ
thù. Từ đó đòi hỏi Đảng và Nhà nớc ta phải có đợc "nhãn quan" để
phân tích đánh giá từng kẻ thù một
để thông qua đó đề ra những đờng
lối thích hợp đối phó với kẻ thù.
Kẻ thù của ta lúc này là đế quốc và
tay sai chúng chia làm 2 khối: phía
Bắc là Tởng - Mỹ và tay sai. Phía
Nam là Anh - Pháp và tay sai. Giữa
hai khối có mâu thuẫn với nhau về
quyền lợi nhng thống nhất với
nhau trong âm mu chống phá CM.
Lực lợng kẻ thù đông và mạnh

trong đó Pháp là kẻ thù chủ yếu, do
đó trên cơ sở nắm vững nguyên tắc

chiến lợc Đảng ta đã mềm dẻo
trong sách lợc, biết phân hóa kẻ thù
để đánh đổ chúng. Lúc này Đảng ta
tuyên bố tự giải tán, thực tế là rút
vào hoạt động bí mật. Cuộc chiến
tranh thể hiện qua hai kỳ: từ
2/9/1945 đến 6/3/1946 và từ
6/3/1946 đến 19/12/1946.
Từ 2/9/1945 đến 6/3/1946 ở nớc ta
diễn ra cục diện "Bắc đàm Nam
đánh" tức là miền Bắc thì nhân nhợng Tởng, miền Nam chống lại sự
xâm lợc của Pháp. Đầu tiên đối với
Tởng ở miền Bắc, để tập trung lực lợng đánh Pháp ở miền Nam, ta chủ
trơng tránh những cuộc xung đột,
khiêu khích vũ trang, chúng ta đã
nhân nhợng một số yêu sách về
kinh tế, chính trị của Tởng nh nhận
tiêu tiền quan kim và quốc tệ, cung
cấp một phần lơng thực cho chúng.
Ta cho tay sai của Tởng một số ghế
trong chính phủ (nh Phó Chủ tịch
nớc Nguyễn Hải Trần, Bộ trởng
ngoại giao Nguyễn Tờng Tam...)
chấp nhận bổ nhiệm thêm 70 ghế
trong Quốc hội cho chúng. Song
mọi sự nhân nhợng đều phải bảo
đảm nguyên tắc CM, chính quyền
phải đợc giữ vững, Đảng phải lãnh
đạo chính quyền, HCM phải đứng
đầu Chính phủ độc lập chủ quyền

đất nớc phải đợc tôn trọng. Đối với
bọn phản động tay sai của quân đội
Tởng đã ra mặt chống phá CM thì
ta kiến quyết vạch trần bộ mặt bán
dân hại nớc của chúng trớc công
luận. Bọn phản động có tội ác đều
bị trừng trị theo pháp luật.
Chủ trơng nhân nhợng với Tởng là
cần thiết vì chúng là kẻ thù CM nhng lại dới danh nghĩa đồng minh
(hợp pháp) đặc biệt lực lợng CM
của ta lúc đó còn non trẻ, chính
quyền CM còn trong trứng nớc lực
lợng vũ trang đang trong quá trình
hình thành phải tập trung lực lợng
để đánh kẻ thù chủ yếu. Hơn nữa,
lúc đó chính phủ ta đang đứng trớc
tình thế hết sức hiểm nghèo, phải đơng đầu với nhiều khó khăn nhiều
kẻ thù. Vì vậy, nhân nhợng với Tởng là sách lợc đúng đắn.
Việc thực hiện sách lợc nhân nhợng với Tởng đã hạn chế và vô hiệu
hóa đến mức thấp nhất các hoạt
động chống phá của quân Tởng và
tay sai, làm thất bại âm mu lật đổ
chính quyền CM của chúng, làm

18

cho chính quyền Cm ngày càng
mạnh và tăng thêm uy tín cho cuộc
đấu tranh.
Đối với Pháp ở miền Nam, ta kiên

quyết đánh Pháp ở miền Nam từ
ngàu 23/9/1945, xứ ủy và UBND
Nam Bộ đã họp Hội nghị ở đờng
Cây Mai - chợ Lớn, quyết định phát
động nhân dân Nam Bộ đứng lên
k/c. Vì Pháp đã vi phạm trắng trợn
độc lập chủ quyền của dân tộc ta.
Nhân dân Sài Gòn - chợ Lớn, nhân
dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, phối hợp
chặt chẽ với các lực lợng vũ trang
đánh địch trên các đờng phố, nhân
dân Sài Gòn đã triệt để tổng bãi
công, bãi thị, một số cầu đờng bị
đánh sập phá hoại. Cả thành phố
ngổn ngang các chớng ngại vật,
cản bớc tiến của kẻ thù. TW Đảng,
Chính phủ và HCT cũng đã kịp
thời đề ra những chủ trơng lãnh
đạo k/c ở miền Nam. Cả nớc chi
viện về mọi mặt cho miền nam. Các
đơn vị "nam tiến" từ thủ đô Hà
Nội, căn cứ Việt Bắc, đồng bằng
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đã tấp nập
lên đờng vào nam đánh giặc, cứu nớc.
Cuộc chiến đấu anh dũng của
nhân dân Nam Bộ đã ngăn chặn
từng bớc tiến công của địch, hạn
chế âm mu "đánh nhanh thắng
nhanh" của chúng, phát triển

chiến tranh du kích, giữ vững và
mở rộng lực lợng, tích luỹ đợc kinh
nghiệm chiến đấu góp phần củng
cố và bảo vệ CM. Tạo điều kiện cho
cả nớc chuẩn bị lực lợng về mọi mặt
cho cuộc k/c toàn quốc về sau. Điều
đó chứng tỏ tinh thần yêu nớc, ý chí
bất khuất kiên cờng của dân tộc ta.
Từ 6/3/1946 đến 19/12/1946, đến
đầu 1946, thực dân Pháp về cơ bản
chiếm đóng các đô thị Nam Bộ và
cực Nam Trung Bộ theo sự dàn xếp
giữa Anh - Mỹ - Pháp, ngày
28/1/1946 Anh rút khỏi Sài Gòn,
nhờng cho Pháp quyền chiếm đóng
miền Nam. Công việc tiếp theo của
Pháp là chuẩn bị tiến quân ra Bắc.
Nhng thực lực của Pháp lúc này cha đủ. Sau một thời gian dài, dùng
lực lợng vũ trang xâm lợc ở miền
nam - Việt Nam đã không đạt đợc
kết quả nh mong muốn. Chúng

thấy không thể đánh nhanh thắng
nhanh đợc. Với một lực lợng hiện
có, quân Pháp thấy rằng không thể
đánh thắng đợc một dân tộc đang
kiên quyết chống lại chúng. Hơn
nữa, muốn đánh chiếm miền Bắc
phải giải quyết 2 trở ngại quân Tởng và lực lợng CMVN ở miền Bắc.
Về phía Tởng, lúc này TGT đang

cần tập trung lực lợng để đối phó
với lực lợng CM của Đảng cộng sản
Trung Quốc. Bọn tay sai của Tởng
lúc này không có cơ sở chính trị xã hội, ở trong nớc bộ mặt phản
dân hại nớc đã bị lộ tẩy, hơn nữa Tởng cũng thấy rằng không thể bóp
chết đợc CMVN.
Pháp - Tởng đã ký hiệp ớc Hoa Pháp theo Hiệp ớc Pháp nhờng cho
Tởng một số quyền lợi về kinh tế chính trị nh hủy bỏ cai trị ngoài
pháp quyền của Pháp trên đất
Trung Quốc nhờng cho TGT một
khu đặc biệt để tự do buôn bán và
có quyền kiểm soát thuế quan ở
cảng Hải Phòng, bán cho Tởng
đoạn đờng sắt từ Hồ Kiều đến Côn
Minh (thuộc đờng sắt Hà Nội - Vân
Nam). Còn Tởng thì cho quân đội
Pháp quyền thay thế quân đội Tởng
ở phía Bắc (Đông Dơng) từ vĩ tuyến
16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp
quân đội Nhật. Nh vậy là kẻ thù đã
cấu kết với nhau. Hiệp ớc Hoa Pháp đã đặt nhân dân Việt Nam trớc 2 giải pháp hoặc là cầm vũ khí
chống thực dân Pháp không cho
chúng đổ bộ lên miền Bắc, nh thế
là phải đánh với 2 kẻ thù trong một
lúc khi mà chính quyền CM vừa đợc xây dựng còn non yếu, lực lợng
vũ trang xây dựng cha đợc bao
nhiêu, kinh tế gặp nhiều khó khăn,
hoặc là hoà hoãn nhân nhợng tạm
thời với Pháp để có thể tránh tình
trạng đối phó một lúc với nhiều kẻ thù,

đẩy đợc 20 vạn quân Tởng ra khỏi
miền Bắc, tranh thủ thời gian hòa
hoàn để tiếp tục củng cố và phát triển
lực lợng CM. Chuẩn bị mọi mặt để bớc
vào một cuộc chiến đấu về sau khi
điều kiện bắt buộc. Trớc tình hình đó
Đảng, Chính phủ và HCT đã chọn
giải pháp đàm phán với Pháp.
Chiều 6/3/1946, Chính phủ ta kí với
đại diện chính phủ Pháp bản "Hiệp

định sơ bộ" đặt cơ sở cho một cuộc
đàm phán để đi đến một hiệp ớc
chính thức. Nội dung của bản Hiệp
định là Chính phủ Pháp công nhận
nớc VNDCCH là một quốc gia tự do
nằm trong khối Liên hiệp Pháp, có
chính phủ riêng, nghị viện riêng,
quân đội riêng, tài chính riêng. Sự
thống nhất 3 kỳ do nhân dân ta
quyết định.
Chính phủ Việt Nam đồng ý để cho
15.000 quân Pháp đợc vào miền
Bắc thay chân quân đội Tởng. Mỗi
năm sẽ rút 1/5 số quân đó về nớc và
sau 5 năm sẽ rút hết.
Hai bên sẽ ngừng cuộc xung đột và
giữ nguyên quân đội 2 bên tại vị trí
cũ tạo điều kiện cần thiết để đi đến
một cuộc điều đình thân thiệt để

bàn về các vấn đề ngoại giao của
Việt Nam, chế độ tơng lai của Đông
Dơng, những quyền lợi kinh tế và
văn hóa của Pháp ở Việt Nam.
Việc ký Hiệp định sơ bộ có ý nghĩa
rất quan trọng đối với CMVN.
Chính quyền Cm đã lợi dụng đợc
mâu thuẫn giữa Pháp và Nhật đuổi
nhanh 20 vạn quân Tởng và bọn
tay sai ra khỏi đất nớc. Ta đã loại
trừ đợc một kẻ thù nguy hiểm.
Tránh đợc một cuộc chiến đấu mà
ta biết chắc là bất lợi cho ta vì cùng
một lúc chống lại nhiều kẻ thù.
Tranh thủ đợc thời gian hết sức cần
thiết để củng cố chính quyền phát
triển lực lợng vũ trang, mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất chuẩn
bị mọi mặt cho cuộc chiến đấu sau
này. ở phía Nam ta cũng tranh thủ
đợc tình hình ngừng bắn để xây
dựng lực lợng k/c. Về mặt pháp lý
chính phủ Pháp đã phải thừa nhận
Việt Nam là một quốc gia tự do
không còn là thuộc địa của Pháp.
Trong tình thế vô cùng khó khăn
của những tháng đầu năm 1946,
việc ký Hiệp định sơ bộ thể hiện sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng, thiên
tài của HCT đã biết tạm thời hoà

hoãn với một kẻ thù để loại bớt
những kẻ thù khác, tranh thủ thời
gian hòa hoãn với một kẻ thù để
loại bớt những kẻ thù khác, tranh
thủ thời gian chuẩn bị lực lợng, đa
nớc nhà thoát khỏi tình thế nguy


hiểm "ngàn cân treo sợi tóc" một
cách có lợi nhất.
Sau Hiệp định sơ bộ ta và Pháp tiếp
tục mở Hội nghị trù bị Đà Lạt từ
ngày 17/4/1946 đến 11/5/1946 nhng hội nghị đã tan rã. Hội nghị
Phôntenơblô cũng bế tắc (6/7/1946)
và chấm dứt ngày 10/9/1946. Tình
hình bang giao Việt - Pháp càng
thêm căng thẳng nguy cơ một cuộc
chiến tranh đã đến gần, cần phải
có một quyết định nhanh chóng
nhằm kéo dài thêm thời gian hòa
hoãn làm cho nhân dân thấy rõ
Pháp thấy rõ thiện chí hoà bình
của Việt Nam và dã tâm xâm lợc
của Pháp. HCT đã ký với Chính
phủ Pháp "Tạm ớc 14/9/1946".
Qua Tạm ớc Chính phủ Việt Nam và
chính phủ Pháp cam kết tiếp tục chính
sách hợp tác nh Hiệp định sơ bộ đã
nêu, tiếp tục cuộc đàm phán và sẽ đợc
triển khai chậm nhất vào tháng giêng

1947.
Chính phủ Việt Nam bảo đảm các
quyền tự do dân chủ, những quyền
lợi về kinh tế, văn hóa của thực dân
Pháp ở Việt Nam.
Chính phủ Pháp sẽ đình chỉ xung
đột ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ bảo
đảm các quyền tự do dân chủ cho
nhân dân. Việt Nam và Pháp trả
hết tù chính trị, chấm dứt tuyên
truyền không thân thiện. Việc trng
cầu dân ý ở Nam Bộ do 2 bên quy
định thời gian và cách thức.
Với việc ký Tạm ớc ta đã duy trì
thêm 3 tháng nữa để xây dựng lực lợng, để tranh thủ tình cảm của
nhân dân Pháp, chuẩn bị sẵn sàng
bớc vào cuộc k/c.
Những chính sách trên đã làm tăng
thêm niềm tin của nhân dân đối với
chính quyền CM, đã xây dựng và
củng cố đợc chính quyền CM từ TW
đến địa phơng - lực lợng chỉ đạo
cuộc k/c sau này. Những chính
sách trên đã xây dựng và củng cố đợc lực lợng k/c (vệ quốc quân, dân
quân tự vệ) và cơ sở kinh tế xã hội
phục vụ k/c. Các biện pháp trên đã
thắt chặt hơn nữa khối đoàn kết
toàn dân trong k/c, kiến quốc.
Nh vậy trong cuộc đấu tranh để xây
dựng và bảo vệ chính quyền ta đã

giành nhiều thắng lợi. Có đợc

những thắng lợi đó là do toàn thể
nhân dân Việt Nam đã đoàn kết
chặt chẽ chiến đấu dới ngọn cờ
lãnh đạo của Đảng. Đảng ta đứng
đầu là HCT với đờng lối chính trị
vô cùng sáng suốt, vừa cứng rắn về
nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lợc đã đa nớc nhà vợt qua muôn vàn
khó khăn tởng nh không sao vợt
qua nổi. "Những biện pháp cực kỳ
sáng suốt đó đã đợc ghi vào lịch sử
CM nớc ta nh một mẫu mực tuyệt
vời của sách lợc Lêninít về lợi dụng
những mâu thuẫn trong hàng ngũ
kẻ địch và sự nhân nhợng có
nguyên tắc".

Đề 4: Trình bày đờng lối
k/c chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ.
Bài làm.
Chúng ta muốn hoà bình và xây
dựng đất nớc nên phải nhân nhợng
ký Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ớc
14/9. Song thực dân Pháp bội ớc,
từng bớc lấn tới xâm lợc tấn công ta
ở Hải Phòng, Lạng Sơn, chiếm một
số cơ quan của ta ở Hà Nội gây ra
vụ thảm sát ở phố Hàng Bún. Gửi

tối hậu th cho Chính phủ ta bắt ta
phải giải giáp lực lợng tự vệ, đòi
quyền kiểm soát ở thủ đô Hà Nội.
Lịch sử đã đặt cho ta 2 con đờng
phải chọn: một là đầu hàng trở lại
làm nô lệ, hai là toàn dân đánh
đuổi thực dân Pháp giữ vững chủ
quyền độc lập. Thực dân Pháp đã
buộc nhân dân ta phải đứng lên
chiến đấu để bảo vệ chính quyền
CM, bảo vệ độc lập và tự do của Tổ
quốc. Đảng, chính phủ và HCT đã
quyết định phát động cả nớc đứng
lên k/c.
Để đa cuộc k/c đến thắng lợi ngay
từ ngày đầu Đảng và HCT đã kịp
thời vạch ra đờng lối k/c để lãnh
đạo cuộc chiến đấu của quân và
dân ta. Đờng lối k/c đợc hình thành
dần dần từng bớc qua các văn kiện
lịch sử của Đảng.
Đầu tiên đó là lời kêu gọi toàn quốc
k/c của HCT vào đêm 19/12/1946
và sáng 20/12 thì lan truyền khắp
toàn quốc. Lời kêu gọi đã vạch rõ
nguyên nhân của cuộc chiến tranh
là do chính sự xâm lợc của thực
dân Pháp, chính nghĩa thuộc về
nhân dân ta "chúng ta muốn hòa
bình, chúng ta phải nhân nhợng

nhng chúng ta càng nhân nhợng

thực dân Pháp càng lấn tới vì
chúng quyết tâm cớp nớc ta một lần
nữa".
Đồng thời, lời kêu gọi đã nêu lên
quyết tâm chiến đấu của nhân dân
ta nhằm bảo vệ độc lập tự do của
Tổ quốc: "Không! chúng ta thà hy
sinh tất cả chứ không chịu mất nớc,
nhất định không chịu làm nô lệ".
Nêu lên t tởng cơ bản về chiến
tranh nhân dân, chiến tranh toàn
dân "bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
ngời già, ngời trẻ không chia tôn
giáo đảng phái hễ là ngời Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp cứu Tổ quốc, ai có súng thì
dùng súng, ai có gơm thì cầm gơm,
ai không có gơm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra
sức chống thực dân Pháp cứu nớc".
Cuối cùng lời kêu gọi đã nêu lên
niềm tin tất thắng đối với k/c: "dù
phải gian lao k/c nhng với một lòng
quyết tâm hy sinh, thắng lợi nhất
định về dân tộc ta".
Lời kêu gọi chính là lời hịch cứu nớc khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào
dân tộc, truyền thống yêu nớc anh
hùng bất khuất quyết tâm CM của

cả dân tộc đứng lên đem sức mạnh
đoàn kết của toàn dân chiến đấu
với một tinh thần nhất định chiến
thắng.
Phác họa một cách cơ bản và súc
tích nhất về t tởng đờng lối chiến
tranh nhân dân, toàn dân đánh
giặc, đánh lâu dài và dựa vào sức
mình là chính. Đây chính là đờng
lối k/c của dân tộc ta.
Đờng lối k/c đó còn đợc bản Chỉ thị
toàn dân k/c của Ban Thờng vụ TW
Đảng vào ngày 22/12/1946 đã vạch
rõ mục đích, tính chất, phơng châm
cơ bản và chơng trình k/c. Chỉ thị
khẳng định cuộc k/c của ta là "k/c
toàn dân, toàn diện, trờng kỳ và
dựa vào sức mình là chính".
Cuộc k/c của ta là một cuộc chiến
tranh chính nghĩa vì độc lập tự do
dân chủ của nhân dân ta và vì hòa
bình TG vì thế ta phải k/c toàn dân.
Đó là cuộc k/c mà toàn dân tham
gia đánh giặc, toàn dân k/c theo
khẩu hiệu "mỗi ngời dân là một
chiến sỹ, mỗi làng xã là một pháo
đàI". Trong đó, lấy lực lợng vũ
trang nhân dân làm nòng cốt. Đờng lối này xuất phát từ truyền
thống chống ngoại xâm của dân
tộc ta. Xuất phát từ mục đích của

cuộc k/c, từ quan điểm Cm là sự

nghiệp của quần chúng, của Cn M
- L, từ t tởng chiến tranh nhân dân
của HCT, từ chủ trơng k/c toàn
diện, trờng kỳ và dựa vào sức mình
là chính. Vì vậy mà phải k/c toàn
dân.
Cuộc k/c của ta là một cuộc k/c
toàn diện bao gồm tất cả các mặt
quân sự, chính trih, kinh tế, văn
hóa. Sở dĩ phải k/c toàn diện vì địch
đánh ta toàn diện nên ta phải
chống lại chúng toàn diện. Ta vừa
k/c lại vừa kiến quốc tức là xây
dựng chế độ mới nên phải xây dựng
toàn diện. Mặt khác vì ta chủ trơng
k/c toàn dân nên phải k/c toàn diện
là để tạo điều kiện cho mọi ngời
đều có thể tham gia k/c tuỳ theo
khả năng của mình.
Xuất phát từ chỗ so sánh tơng quan
lực lợng lúc đầu giữa ta và địch
chênh lệch. Địch mạnh hơn ta về
quân sự, kinh tế ta chỉ hơn địch về
tinh thần và có chính nghĩa. Do đó,
ta phải có thời gian để chuyển hóa
lực lợng làm cho địch yếu dần, ta
càng đánh càng mạnh đến một lúc
nào đó ta mạnh hơn địch tiến lên

đánh bại chúng. Vì thế Đảng chủ
trơng k/c trờng kỳ.
Ta k/c phải dựa vào sức mình là
chính vì ta hiểu rõ mối quan hệ
giữa các yếu tố chủ quan và khách
quan. Yếu tố chủ quan bao giờ
cũng giữ vai trò quyết định nhất.
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta
phải do nhân dân ta thực hiện là
chính. Mặc dù ta vẫn coi trọng sự
hỗ trợ từ bên ngoài. Mặt khác, lúc
đầu khi ta bắt đầu cuộc k/c thì ta bị
bao vây tứ phía nếu không tự lực
cánh sinh thì cũng không dựa vào
ai đợc. Phải đến năm 1950 sau
chiến thắng Biên giới ta mới nhận
đợc sự viện trợ từ các nớc XHCN
anh em. Nhng Đảng và Chính phủ
trớc sau nh một vẫn đề ra chủ trơng
k/c là dựa vào sức mình là chính.
Đờng lối k/c trên nhằm phát huy
sức mạnh toàn dân, toàn diện của
dân tộc, khắc phục những nhợc
điểm của ta về vật chất, kỹ thuật
vừa đánh vừa bồi dỡng sức ta khiến
ta càng đánh càng mạnh làm thay
đổi tơng quan giữa ta và địch để
cuối cùng dành thắng lợi hoàn
toàn.
Đờng lối k/c của Đảng và HCT

ngày càng phát triển hoàn chỉnh
hơn trong quá trình k/c nhất là qua
ĐH lần thứ 2 vào năm 1951 của

Đảng ta và qua các Hội nghị BCH
TW Đảng những năm cuối của
cuộc k/c.
Đờng lối k/c đó đã đợc thể hiện một
cách phong phú và sinh động trong
thực tiễn k/c của quân và dân ta
trên tất cả các mặt hoạt động k/c,
làm ngọn cờ để đoàn kết toàn Đảng,
toàn dân phát triển cao nhất sức mạnh
của toàn dân tộc để đánh thắng kẻ thù
xâm lợc.

Đề 5: Quá trình phát triển của
cuộc k/c chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ từ ngày toàn
quốc k/c 19/12/1946 đến hết
chiến thắng Việt Bắc thu đông
1947.

Bài làm.
Sau Tạm ớc 14/9/1946 thực dân
Pháp đã ngày càng tăng quân ở
Đông Dơng và quyết tâm trở lại
xâm lợc Việt Nam. Chúng ta càng
nhân nhợng thì thực dân Pháp
càng lấn tới cuối cùng nhân dân ta

phải đứng lên chống lại chúng.
Ngày 19/12/1946 cuộc k/c bùng nổ,
do bản chất của chiến tranh xâm lợc cũng nh dựa vào u thế về quân
sự, binh khí, kỹ thuật nên thực dân
Pháp âm mu "đánh nhanh thắng
nhanh". Chúng chủ trơng bất ngờ
xé bỏ Tạm ớc và Hiệp định đã kí với
ta, nhanh chóng đánh chiếm các
thành phố, thị xã rồi từ đó lấn ra
các vùng xung quanh. Lúc này thực
dân Pháp còn hoàn toàn nắm
quyền chủ động về chiến thuật.
Vì còn non yếu nên lúc này ta chủ trơng kìm chân địch trong các thành
phố một thời gian, tiêu hao một bộ
phận sinh lực địch, bảo toàn lực lợng
của ta đập tan một bớc kế hoạch
"đánh nhanh thắng nhanh" của
chúng tiếp tục chuẩn bị k/c lâu dài. Về
mặt chiến thuật ta lấy đánh du kích là
chủ yếu.
Mở đầu là cuộc k/c anh dũng quyết
tử của quân và dân ta trong các
thành phố đô thị nh Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Đà
Nẵng... Riêng ở Hà Nội với 2 trung
đoàn quyết tử quân đợc sự hỗ trợ
của nhân dân chúng ta đã duy trì đợc cuộc chiến đấu trong 2 tháng,
diệt và làm bị thơng hàng nghìn tên
địch, hàng chục xe cơ giới, bảo vệ
đợc TW, bảo toàn đợc lực lợng của

ta. Sau hai tháng chiến đấu hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ đợc giao,
lực lợng của ta đã rút khỏi thành
phố trở về nông thôn xây dựng căn
cứ k/c.

19

Cuộc chiến đấu của quân và dân ta
ở các đô thị đã thắng lợi, đánh bại
hoàn toàn âm mu và kế hoạch của
thực dân Pháp nhằm đánh úp cơ
quan đầu não của ta tại Hà Nội,
tiêu diệt lực lợng vũ trang của ta ở
các thành phố, đã giữ chân địch lại,
chặn đứng âm mu đánh nhanh
thắng nhanh của Pháp, tạo điều
kiện cho cả nớc chuyển vào k/c lâu
dài.
Sau những cuộc chiến đấu anh
dũng của quân và dân ta ở các đô
thị sang năm 1947 thực dân Pháp
âm mu mở một cuộc tấn công lên
Việt Bắc - căn cứ địa CM của ta. T
tởng chiến lợc của thực dân Pháp
trong chiến tranh xâm lợc Đông Dơng là "đánh nhanh thắng nhanh"
nhng sau gần một năm chiến tranh
lan ra cả nớc. Tuy chiếm đợc nhiều
vùng của ta trong đó có các vùng
quan trọng ở các thành phố và các

đờng GT chiến lợc, thực dân Pháp
vẫn không thể nào kết thúc nhanh
đợc chiến tranh. Pháp gặp nhiều
khó khăn, hao binh tổn tớng, gánh
nặng chiến tranh đè lên nớc Pháp.
Thực dân Pháp muốn tìm một chiến
thắng lớn về quân sự để mau chóng
kết thúc chiến tranh vì vậy chúng
đã mở cuộc tấn công quy mô lên
Việt Bắc - thủ đô của cuộc k/c.
Mục đích của thực dân Pháp khi
mở chiến dịch Việt Bắc nhằm tiêu
diệt quân chủ lực của ta, tiêu diệt
cơ quan đầu não của cuộc k/c, phá
tan căn cứ Việt Bắc, buộc Chính
phủ ta phải đầu hàng hoặc điều
đình theo những điều kiện của
chúng, dùng thắng lợi về quân sự
để thúc đẩy thành lập chính phủ bù
nhìn nhanh chóng kết thúc chiến
tranh.
Để thực hiện kế hoạch này ngày
7/10/1947, thực dân Pháp đã huy
động 12.000 quân mở cuộc tấn
công lên Việt Bắc. Một bộ phận
quân nhảy dù xuống Bắc Kạn, một
binh đoàn bộ binh lên Cao Bằng
tạo thành gọng kìm kẹp mặt sau
của Việt Bắc (mặt Đông và Bắc).
Tiếp đó ngày 9/10/1947 binh đoàn

hỗn hợp bộ binh, lính thuỷ ngợc
sông Hồng, sông Lô bao vây phía
Tây của Việt Bắc.
Về phía ta, để đối phó với âm mu
của địch đồng thời xuất phát từ t tởng chiến lợc của ta là đánh lâu
dài, quân dân ta đã tích cực tổ chức
chiến đấu tại chỗ chống lại cuộc

tiến công của địch nhằm giữ vững
căn cứ địa k/c, bảo vệ cơ quan đầu
não k/c, bảo vệ tính mạng tài sản
của nhân dân, tiêu diệt sinh lực
địch. Ngày 15/10/1947, Thờng vụ
TW Đảng đã ra Chỉ thị phải phá
tan cuộc tấn công của giặc Pháp.
Trên tất cả các mặt trận quân dân
ta đã anh dũng chiến đấu tiêu hao
tiêu diệt sinh lực địch từng bớc phá
vỡ các gọng kìm của chúng.
ở mặt trận đờng số 3 quân ta đã
đánh địa lôi phục kích tập kích
địch trên 20 trận lớn nhỏ ở chợ
Mới, chợ Đồn, cắt đứt đờng tiếp tế
của địch, buộc chúng phải rút quân
khỏi chợ Đồn, chợ Rã vào cuối
tháng 11/1947.
ở mặt trận đờng số 4 đã diễn ra
nhiều trận phục kích đặc biệt là
trận đèo Bông Lau vào 30/10/1947.
Quân ta đã phá 27 xe, diệt hơn 1

đại đội địch, thu nhiều vũ khí đạn
dợc, cắt đờng tiếp tế, cô lập chúng.
Cuối cùng chúng phải rút quân
khỏi bản Thi, hai gọng kìm đông
tây không khép kín lại đợc mà bị bẻ
gãy.
ở mặt trận sông Lô - Chiêm Hóa,
quân dân ta đã liên tiếp chặn đánh
địch hàng chục trận tiêu biểu là
trận Đoan Hùng, Khoan Bộ, Khe
Lau, đánh chìm nhiều tàu chiến, ca
nô, diệt nhiều địch.
Kết quả là sau 2 tháng chiến đấu,
ngày 19/12/1947 đại bộ phận quân
Pháp rút khỏi Việt Bắc, đánh dấu
thất bại về chiến lợc đầu tiên trong
cuộc chiến tranh xâm lợc của
chúng ở Đông Dơng. Địch không
tiêu diệt đợc cơ quan đầu não của
ta, trái lại ta đã thu thắng lợi. Cả
hai cánh quân thủy bộ của địch đều
bị bẻ gãy, ta tiêu diệt và loại khỏi
vòng chiến đấu 6000 tên địch, 16
máy bay bị hạ, thu nhiều vũ khí,
căn cứ địa Việt Bắc đợc giữ vững,
các cơ quan TW đợc an toàn.
Chiến dịch Việt Bắc thắng lợi có ý
nghĩa rất to lớn đối với cuộc k/c của
ta. Bởi, đây là chiến dịch phản công
lớn đầu tiên của ta trong k/c chống

thực dân Pháp đã giành thắng lợi,
làm nức lòng quân dân ta trong cả
nớc, làm uy tín của Chính phủ k/c,
của HCT càng đợc tăng cờng.
Chiến thắng Việt Bắc đã nói lên sự trởng thành vợt bậc của ta khẳng định
rằng đờng lối k/c của ta là đúng cũng
nh khả năng của quân dân ta có thể

đẩy lùi những cuộc tiến công quân sự
lớn của địch.
Chiến thắng Việt Bắc còn chứng minh
sự vững chắc của căn cứ địa k/c, là
mốc khởi đầu của sự thay đổi trong so
sánh lực lợng giữa ta và thực dân
Pháp theo chiều hớng có lợi cho cuộc
k/c của ta. Sau chiến thắng Việt Bắc ta
có thêm điều kiện để xây dựng lực lợng k/c toàn quốc, toàn dân, toàn
diện.
Chiến thắng Việt Bắc đã giáng một
đòn quyết định vào chiến lợc "đánh
nhanh thắng nhanh" của thực dân
Pháp buộc chúng phải chuyển sang
đánh lâu dài với ta, đa cuộc k/c của
ta bớc qua một giai đoạn mới.

Đề 6: Quá trình phát triển
của cuộc k/c chống thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ
từ 1948 đến hết chiến
thắng biên giới Thu đông

1950.

Bài làm.
Sau thất bại ở Việt Bắc địch phải
xoay sang đánh lâu dài với ta, khác
với kế hoạch "đánh nhanh thắng
nhanh" giờ đây chúng phải củng
cố bình định bằng chính sách "ba
sạch" (Tam quan) là đốt sạch, phá
sạch và phá sạch là chủ yếu. Chúng
phân tán quân ra để chiếm đóng,
giữ đất, giành dân thỉnh thoảng lại
thọc sâu vào hậu phơng của ta.
Chúng lập hệ thống đồn bốt nhỏ,
cứ điểm nhỏ dày đặc ở vùng đồng
bằng và trung du chiếm đóng từ
tuyến ra diện.
Từ giữa 1949 chúng dồn quân ra
đồng bằng Bắc Bộ. Để có thể tiến
hành chiến tranh lâu dài, chúng
tăng cờng chính sách "Dùng ngời
Việt trị ngời Việt", "lấy chiến tranh
nuôi chiến tranh". Năm 1948
chúng nặn ra chính phủ bù nhìn do
Nguyễn Văn Xuân làm thủ tớng.
Năm 1949 chúng đa Bảo Đại ra
làm Quốc trởng để thực thi chủ trơng trên. Chúng đẩy mạnh việc bắt
lính, tổ chức ngụy quân tăng cờng
trang bị hiện đại và nới rộng quyền
hạn cho chính phủ bù nhìn.

Phát huy thắng lợi của chiến thắng
Việt Bắc ta đã phát động và đẩy
mạnh chiến tranh du kích để đánh
địch đồng thời đẩy mạnh củng cố
xây dựng hậu phơng về mọi mặt tạo
thực lực cho ta.
Từ đầu 1948 đến 1949, ta phân tán
một bộ phận chủ lực ra thành
những đại đội độc lập luồn sâu vào
vùng sau lng địch để hỗ trợ cho các
địa phơng, phát động chiến tranh


du kích, biến hậu phơng của địch
thành tiền phơng của ta. ở các
vùng tự do ta tích cực xây dựng về
mọi mặt đặc biệt là xây dựng lực lợng ba thứ quân và xây dựng kinh
tế k/c. Đến năm 1949 phong trào du
kích chiến tranh đã có bớc phát
triển mới ở vùng sau lng địch trên
cơ sở đó quân đội ta đã mở nhiều
chiến dịch trên cả 3 chiến trờng diệt
gần 1 vạn tên địch, diệt và bức rút
trên 200 đồn bốt tháp canh, giải
phóng trên 200 đồn bốt tháp canh,
giải phóng trên 4 vạn km2 đất đai
với khoảng 2 vạn dân. Việc xây
dựng lực lợng 3 thứ quân đã có bớc
phát triển đáng kể, xuất hiện nhiều
đội du kích nổi tiếng nh đội du kích

đờng 5. Bộ đội địa phơng đã trở
thành chỗ dựa cho dân quân du
kích và phát triển chiến tranh du
kích ở các địa phơng. Bộ đội chủ
lực đã trởng thành nhanh chóng.
Tháng 8/1949 tại Việt Bắc đại đoàn
chủ lực 308 - đại đoàn quân tiên
phong đợc thành lập đánh dấu bớc
trởng thành của Quân đội nhân
dân Việt Nam. Mỗi liên khu trên
chiến trờng Bắc Bộ, Bắc Trung bộ
có từ 2 trung đoàn, riêng Nam Bộ
trong năm 1949 mỗi liên khu đã
xây dựng đợc một tiểu đoàn chủ
lực.
Bớc vào năm 1950 tình hình TG và
Đông Dơng diễn ra theo chiều hớng có lợi cho ta bất lợi cho Pháp:
CMTQ thành công tháng 10/1949
đã tạo điều kiện thuận lợi cho CM
nớc ta quan hệ trực tiếp với các nớc
XHCN. Tiếp đó, tháng 1/1950
Trung Quốc, Liên Xô và các nớc
XHCN khác đã lần lợt công nhận
và đặt quan hệ ngoại giao với nớc
ta làm cho uy tín địa vị của ta đ ợc
nâng cao trên trờng quốc tế. Cuộc
k/c của nhân dân Lào và CPC lúc
đó đều phát triển mạnh và giành
thêm thắng lợi (năm 1950 ủy ban
dân tộc giải phóng CPC thành lập

và chính phủ k/c Pathét Lào ra
đời). Phong trào đấu tranh của
nhân dân Pháp và nhân dân TG
phản đối chiến tranh ở Đông Dơng
lên mạnh. Lúc này Mỹ bắt đầu lao
vào chiến tranh Triều Tiên, hoàn
cảnh nh vậy đã dẫn tới Pháp đứng
trớc tình hình đó ngày càng dựa
vào Mỹ và nhờ Mỹ nhiều. Thực dân
Pháp thực hiện kế hoạch quân sự
mới (kế hoạch Rơve) thực hiện âm
mu khóa chặt biên giới Việt Trung
bằng việc tăng cờng hệ thống
phòng ngự trên đờng số 4 để tách
cuộc k/c của ta với hậu phơng các
nớc XHCN. Thiết lập hành lang
Đông - Tây (Hải Phòng - Hà Nội -

Hoà Bình - Sơn la) để cô lập căn cứ
địa Việt Bắc với các khu 3,4. Chuẩn
bị cho cuộc tấn công Việt Bắc lần
thứ 2.
Về phía ta, trên cơ sở những thắng
lợi đã thu đợc và tận dụng những
điều kiện thuận lợi trên để phá âm
mu địch nhằm đa cuộc k/c tiến lên
giai đoạn cao hơn. Ta chủ động mở
chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt
một bộ phận sinh lực địch, khai thông
biên giới để mở rộng đờng liên lạc của

ta với các nớc XHCN, mở rộng và
củng cố căn cứ địa k/c Việt Bắc.
Ngày 16/9/1950 các đơn vị quân
đội ta nổ súng mở đầu chiến dịch
bằng trận mở đầu đánh vào vị trí
Đông Khê theo lối công kiên đã
giành đợc thắng lợi sau 2 ngày.
Mất Đông Khê, Thất Khê bị uy
hiếp, Cao Bằng bị cô lập, quân
Pháp đợc lệnh rút khỏi Cao Bằng
theo đờng số 4 và quân từ Thất Khê
lên đón quân Cao Bằng về.
Từ 1/10 đến 8/10/1950 ta liên tục
bôn tập bao vây chặn đánh địch ở
Cốc Xá đồi 477 và tiêu diệt gọn 2
binh đoàn gồm 7 tiểu đoàn của
Lơpagiơ (Thất Khê) và Sác Tông
(Cao Bằng). ở phía Thất Khê địch
tiếp tục đa quân ứng cứu cho
Lơpagiơ và Sáctông cũng bị quân
ta chặn đánh dữ dội và tháo chạy
về Thất Khê. Quân địch ở Thất Khê
bị cô lập và uy hiếp buộc phải rút
về Na Sầm. Ngày 13/10/1950 quân
địch ở Na Sầm cũng phải rút chạy
về Lạng Sơn. Sự thất bại của 2 binh
đoàn Lơpagiơ và Sáctông, sự rút
chạt của các vị trí Thất Khê, Na
Sầm đã làm cho địch hoang mang.
Ngày 17/10/1950 quân địch ở đồng

bằng rút chạy, ngày 18/10 quân
địch ở Lạng Sơn rút chạy rồi đến
Đình Lập, Lộc Bình, An Châu...
trong khi đó cuộc hành quân của
địch lên Thái Nguyên cũng bị quân
ta chặn đánh.
Kết quả là ta hoàn toàn thắng lợi,
cả 3 mục tiêu đề ra ta đều thực hiện
đợc, tiêu diệt và bắt 8300 tên địch,
phá huỷ và thu hồi nhiều vũ khí,
phơng tiện chiến tranh của địch,
khai thông biên giới Việt Trung
trên một đoạn dài từ Đình Lập đi
Cao Bằng sang Lào Cai, giải
phóng 4000 km2 đất đai và 40 vạn
dân, căn cứ địa Việt Bắc đợc củng
cố và mở rộng.
Chiến thắng Biên giới 1950 thắng
lợi là một mốc quan trọng của
CMVN. Đây là chiến dịch tiến công
lớn đầu tiên của ta trong k/c chống
thực dân Pháp giành đợc thắng lợi
cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân
dân ta.

Chiến dịch này đã nói lên sự trởng
thành về nhiều mặt của quân đội ta
từ đánh du kích sang đánh tập
trung quy mô lớn. Đây là bớc nhảy
vọt về chiến thuật đánh địch (chọn

điểm tấn công, kết hợp đánh đồn
diệt viện, kết hợp công kiên với vận
động chiến).
Thắng lợi của chiến dịch Biên giới
có ý nghĩa chiến lợc to lớn đối với
toàn bộ cuộc k/c chống Pháp.
Chiến thắng Biên giới đã mở đầu
giai đoạn liên tục đánh lớn của
cuộc k/c, sau chiến dịch Biên giới
ta chủ động mở liên tiếp những
cuộc phản công và tiến công liên
tiếp giành thắng lợi trên mặt trận
quân sự cũng nh các mặt trận khác.
Sau chiến dịch Biên giới tình thế
chiến tranh giữa ta và Pháp có sự
thay đổi căn bản, quân ta liên tiếp
giành thế chủ động, đẩy địch ngày
càng lùi sâu vào thế bị động đối
phó.

Đề 7: Quá trình phát triển của
cuộc k/c chống Pháp từ cuối
1950 đến giữa 1953 .
Bài làm.
Sau thất bại Biên giới 1950 dựa vào
viện trợ Mỹ, thực dân Pháp tìm
cách vạch ra kế hoạch mới nhằm
ổn định tình hình và giành lại
quyền chủ động trên chiến trờng
chính là Bắc Bộ. Cụ thể là gấp rút

quân Âu - Phi nhằm xây dựng một
lực lợng cơ động chiến lợc mạnh
đồng thời ra sức phát triển ngụy
quân để xây dựng "quân đội quốc
gia" bù nhìn.
Xây dựng những tuyến công sự xi
măng, cốt sắt (bôngke) thành lập
"vành đai trắng" bao quanh trung
du và đồng bằng Bắc Bộ nhằm
ngăn chặn chủ lực của ta, kiểm
soát ta đa nhân tài vật lực ra vùng
tự do.
Tiến hành chiến tranh tổng lực,
bình định vùng tạm chiếm, vơ vét
sức ngời sức của của nhân dân ta
để tăng cờng lực lợng cho chúng.
Đánh phá hậu phơng của ta bằng
biệt kích, thổ phỉ, gián điệp kết hợp
với oanh tạc bằng phi pháo, chiến
tranh tâm lý, chiến tranh kinh tế.
Chúng mở cuộc tiến công ra Hòa
Bình nhằm nối lại hành lang Đông
- Tây tiến tới lập "xứ Mờng tự trị".
Nhìn chung đây cũng chỉ là một kế
hoạch phòng thủ bị động của địch.
Về phía ta, phát huy quyền chủ
động chiến lợc vừa giành đợc, ta
đẩy mạnh đánh địch ở nhiều nơi,
đẩy mạnh các hoạt động của công
cuộc k/c kiến quốc.

Thừa thắng sau chiến dịch Biên
giới đặc biệt từ sau khi có Nghị

quyết của ĐH Đảng toàn quốc lần
thứ 2 năm 1951 soi đờng, quân dân
ta đã liên tiếp giành thắng lợi ngày
càng lớn trên khắp các chiến trờng
từ Bắc Bộ đến Bình Trị Thiên, Tây
Nguyên và Nam Bộ. Địch ngày
càng lún sâu vào thế bị động khốn
đốn về mọi mặt.
Từ tháng 12/1950 đến tháng
1/1951 ta đã mở chiến dịch Trung
du (chiến dịch Trần Hng Đạo)
đánh các hệ thống phòng ngự của
địch ở Vĩnh Yên, Phúc Yên diệt
nhiều cứ điểm quan trọng của địch.
Từ ngày 20/3 đến 7/4/1951 ta mở
chiến dịch đờng 18 (Chiến dịch
Hoàng Hoa Thám) diễn ra từ Phả
Lại qua Đông Triều đến Uông Bí
tiêu diệt 14 vị trí của địch.
Chiến dịch Quang Trung (chiến
dịch Hà Nam Ninh) từ tháng 5 đến
tháng 6/1951 ta tiến công địch ở Hà
Nam, Nam Định, Ninh Bình. Đây là
một chiến dịch lớn. Lần đầu tiên
quân ta tiến công địch ở đồng bằng
đồng thời chiến tranh du kích cũng
đợc phát triển ở đồng bằng và

trung du.
Cuối 1951 ta đã chủ động đón
đánh địch ở mặt trận Hòa Bình.
Chiến dịch Hoà Bình ta nhanh
chóng thu thắng lợi nhờ sự phối
hợp chặt chẽ giữa việc đánh địch ở
chiến trờng chính với các chiến trờng phụ khắp nơi trong cả nớc.
Tháng 2/1951 địch phải rút chạy
khỏi Hoà Bình lại bị bộ đội ta truy
kích tiêu diệt thêm một bộ phận
nữa. Cả 2 mặt trận chính diện và
sau lng ta đã tiêu diệt 22.000 tên
địch, bức hàng, bức rút hơn 1000
đồn bốt tháp canh. Chiến thắng
Hòa Bình thể hiện nghệ thuật chỉ
đạo phối hợp chiến đấu giữa mặt
trận chính diện và sau lng địch của
Đảng ta.
Cuối 1952 (tháng 10 đến tháng 12)
Đảng ta quyết định mở chiến dịch
Tây Bắc tiến sâu vào một vùng
chiến lợc quan trọng nhằm tiêu diệt
một bộ phận sinh lực địch giải
phóng dân, đất đai. Chiến dịch Tây
Bắc thắng lợi ta đã tiêu diệt 6000
địch, giải phóng một vùng đất đai
28.500 km2 và 25 vạn dân, miền
Tây Bắc của ta đợc giải phóng đã
nối liền với căn cứ địa Việt Bắc ở
phía Đông và Thợng Lào ở phía

Tây tạo thành thế chiến lợc liên
hoàn mới cho ta.
Mùa xuân 1953 phối hợp với quân
dân Lào ta đã mở chiến dịch Thợng
Lào thu thắng lợi đã tạo điều kiện
đẩy mạnh cuộc k/c của nhân dân
Lào anh em.
Nh vậy, từ cuối 1950 đến giữa 1953
là thời kỳ cuộc k/c của ta phát triển

toàn diện cả về thế và lực trên tất cả
các mặt hoạt động của công cuộc
k/c kiến quốc đều thu đợc những
thành tựu quan trọng đặc biệt là
trong lĩnh vực quân sự.
Lực lợng của ta đã lớn mạnh không
ngừng cả về chính trị, quân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Riêng về
quân sự thì nét nổi bật là sự hình
thành ba thứ quân: lực lợng du
kích đã lớn mạnh, những đại đoàn
quân chủ lực đã hình thành, hình
thức tác chiến cao hơn trớc.
Ta đã giành, giữ vũng và phát triển
thế chủ động chiến lợc trên chiến
trờng chính là Bắc Bộ. Từ việc nắm
quyền chủ động chiến dịch từ sau
thu đông 1947 đến việc nắm quyền
chủ động chiến lợc ở chính Bắc Bộ
năm 1950. Hàng loạt chiến thắng

từ thu đông 1950 đến đông xuân
1952 - 1953 đã khẳng định thế
chiến lợc vững chắc của ta. Địch
càng lún sâu vào thế bị động lúng
túng.
Ta đã tiêu diệt một bộ phận lớn
ngụy quân ngụy quyền, giải phóng
nhiều vùng đất đai rộng lớn. Tình
hình đó cho phép ta có khả năng
chuẩn bị kết thúc chiến tranh.

Đề 8: Quá trình phát triển
cuộc k/c chống Pháp và
can thiệp Mỹ từ chiến cuộc
đông xuân 53 - 54 cho đến
chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ.

Bài làm
Trong lịch sử giữ nớc của dân tộc
ta có biết bao nhiêu trận đánh đi
vào lịch sử nh những chiến công
oai hùng nhất, Điện Biên Phủ cũng
là một trong những chiến công nh
vậy. Chiến dịch Điện Biên Phủ "đã
đợc ghi vào lịch sử dân tộc nh một
Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một
Đống Đa ở thế kỷ XX và đi vào lịch
sử TG nh một chiến công chói lọi
đột phá thành trì của hệ thống nô

dịch thuộc địa của CNĐQ".
Qua 8 năm k/c lực lợng của ta đã
lớn mạnh một cách toàn diện và
liên tiếp giành những thắng lợi
ngày càng to lớn trên mặt trận
quân sự. Vùng giải phóng đợc mở
rộng, chính quyền dân chủ nhân
dân, mặt trận dân tộc thống nhất và
khối liên minh công nông đợc củng
cố. Quốc tế ngày càng đồng tình
ủng hộ cuộc k/c của ta.
Về phía địch, bị suy yếu và thiệt hại
nặng nề (bị giết và bị bắt gần
391.000 tên, vùng chiếm đóng bị
thu hẹp, mâu thuẫn cơ bản về quân
sự của địch là giữa tập trung và

20

phân tán lúc này càng thêm sâu
sắc, tinh thần địch ngày càng sút
kém. Khó khăn lớn nhất của địch
trên chiến trờng là ngày càng đi
vào thế bị động phòng ngự, thiếu
hẳn một lực lợng cơ động chiến lợc
mạnh để đối phó với các cuộc tiến
công mới của ta. Về kinh tế tài
chính gặp nhiều khó khăn, chiến
phí cho chiến tranh Đông Dơng lên
cao. Nhân dân Pháp đấu tranh

chống lại cuộc chiến tranh xâm lợc
của Pháp ở Đông Dơng.
Khó khăn về quân sự, tài chính đã
ảnh hởng tới tình hình chính trị
của Pháp. Nội các nhiều lần sụp
đổ, nội bộ g/c thống trị mâu thuẫn.
Trớc sự sa lầy và thất bại của Pháp
đế quốc Mỹ sau khi buộc phải đình
chiến ở Triều Tiên tháng 7/1953 đã
ra sức can thiệp sâu vào chiến
tranh ở Đông Dơng, ép Pháp phải
kéo dài và mở rộng chiến tranh
đồng thời tích cực chuẩn bị thay thế
Pháp. Cuối cùng ngày 7/5/1953 với
sự thỏa thuận của Mỹ chính phủ
Pháp đã cử tớng Nava làm tổng chỉ
huy quân đội viễn chinh Pháp ở
Đông Dơng. Nava đã phác ra một
kế hoạch chiến lợc hy vọng trong
18 tháng giành thắng lợi quyết
định chuyển bại thành thắng.
Kế hoạch Nava đợc chia làm 2 bớc.
Bớc thứ nhất từ thu đông 1953 đến
xuân 1954 giữ thế phòng ngự chiến
lợc ở miền Bắc, tấn công chiến lợc
để bình định Miền Trung và Miền
Nam. Đồng thời chúng cố gắng tập
trung lực lợng, xây dựng cho đợc
một lực lợng cơ động mạnh làm
quả đấm thép để thực hiện bớc 2.

Bớc thứ 2 từ thu đông 1954 chuyển
sang tấn công chiến lợc miền Bắc
nhằm tạo ra một tình hình quân sự,
cho phép đa ra một giải pháp chính
trị để giải quyết chiến tranh có lợi
cho chúng.
Thực hiện kế hoạch đó thực dân
Pháp đã tăng thêm 12 tiểu đoàn bộ
binh rút từ Pháp, Bắc Phi, Triều
Tiên sang đồng thời tăng thêm gần
10 vạn lính ngụy, xin Mỹ tăng gấp
rỡi viện trợ quân sự (viện trợ của
Mỹ lúc này chiếm tới 73% chi phí
chiến tranh Đông Dơng). Chúng đã
nâng tổng số quân chủ lực lên 84
tiểu đoàn tơng đơng với 480.000
quân trong đó riêng đồng bằng Bắc
Bộ chúng đóng 44 tiểu đoàn (trên
50% số quân cơ động toàn Đông Dơng). Chúng hành động theo khẩu

hiệu "luôn luôn chủ động, luôn
luôn tấn công" mở nhiều cuộc càn
quét, tổ chức đánh tập kích ra vùng
Lạng Sơn rồi tấn công ra vùng giáp
giới Ninh Bình, Thanh Hóa...
Tuy nhiên kế hoạch Nava cũng
không dễ dàng thực hiện trong khi
Pháp gặp những khó khăn nh trên
còn ta thì thế và lực vẫn ngày một
trởng thành. Kế hoạch Nava ra đời

trong thế bị động ấy nhất định sẽ
thất bại.
Trớc tình hình địch, ta và trên cơ sở
đánh giá đúng đắn lực lợng ta qua
các chiến dịch từ 1950 đến 1953
Đảng ta đã thông qua kế hoạch tác
chiến Đông xuân 53 - 54 với quyết
tâm: giữ vững quyền chủ động
đánh địch trên cả hai mặt trận:
chính diện và sau lng địch. Phối
hợp hoạt động trên phạm vi cả nớc
và trên toàn Đông Dơng, nắm vững
nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch là
chính.
Ta tập trung lực lợng mở những
cuộc tấn công vào những hớng
quan trọng về chiến lợc mà ở đó
địch tơng đối yếu nhng chúng
không thể bỏ nhằm tiêu diệt một bộ
phận sinh lực địch, giải phóng đất
đai đồng thời buộc địch phải bị
động phân tán lực lợng đối phó với
ta trên những địa điểm xung yếu
mà chúng không thể bỏ. Do phải
phân tán binh lực mà tạo ra cho ta
những điều kiện thuận lợi mới để
tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực
của chúng. Chủ trơng ấy đã thế
hiện phơng châm tích cực chủ động
linh hoạt "tiến ăn chắc, đánh ăn

chắc", "chắc thắng thì đánh cho kỳ
thắng không chắc thắng thì không
đánh".
Quyết tâm chiến lợc của ta là phải
đập tan kế hoạch Nava ngay từ bớc
đầu khi địch tập trung lực lợng lớn
ở đồng bằng Bắc Bộ để uy hiếp
vùng tự do của ta. Ta đã tập trung
lực lợng mạnh bạo tấn công lên
Tây Bắc, giải phóng Lai Châu buộc
địch phải bị động vội điều quân lên
Điện Biên Phủ và giữ căn cứ đó
bằng bất cứ giá nào. Ta bao vây
quân địch ở Điện Biên Phủ. Điện
Biên Phủ trở thành nơi tập trung
quân thứ 2 của địch.
Ta phối hợp với quân giải phóng
Pathét Lào tấn công vào hớng
Trung Lào giải phóng Thà Khẹt uy
hiếp SaVănNaKhét và căn cứ Sênô,
Nava buộc phải đa thêm lực lợng để

thành lập một tập đoàn cứ điểm ở
Sênô. Sênô trở thành nơi tập trung
quân thứ 3 của địch. ở Hạ Lào
quân tình nguyện Việt Nam phối
hợp với quân đội Pathét Lào men
theo dãy Trờng Sơn giải phóng thị xã
Atốppơ và cao nguyên Pôlôven sau đó
phối hợp với quân giải phóng

Cămpuchia giải phóng Vơn Sai nối
liền khu du kích Cămpuchia với căn
cứ Hạ Lào.
Khi địch mở chiến dịch átlăng tấn
công vào Tuy Hòa (Phú Yên) nhằm
đánh chiếm toàn bộ vùng tự do của ta
ở liên khu 5, giữ vững quyền chủ động
đánh địch. Bộ đội chủ lực của ta bất
ngờ tấn công lên Bắc Tây Nguyên,
ngày 5/2/1954 ta giải phóng thị xã
Kon Tum diệt 2000 địch, một vùng
rộng lớn 16.000 km2 đất đai với 20
vạn dân đợc giải phóng, uy hiếp
Plâycu buộc địch phải bỏ dở cuộc tấn
công lên Tuy Hòa và tăng lực lợng cho
Plâycu. Plâycu trở thành nơi tập trung
binh lực thứ 4 của địch.
Để đánh lạc hớng phán đoán của địch
các lực lợng Việt - Lào đã mở cuộc tấn
công vào Thợng Lào giải phóng lu vực
sông Nậm Gu, thừa lúc địch hoang
mang, một bộ phận liên quân Việt Lào
đã tiến lên phía Bắc giải phóng
Phongxalì mở rộng căn cứ k/c của
nhân dân Lào, khu giải phóng Sầm Na của bạn nối liền với khu Tây Bắc
của ta. Lo sợ ta đánh thẳng vào kinh
đô Lào, Nava buộc phải dùng cầu
hàng không đa quân từ đồng bằng
Bắc Bộ tăng cờng cho Mờng Sài,
LuôngPhaBăng trở thành nơi tập

trung binh lực thứ 5 của địch.
Phối hợp chặt chẽ với mặt trận
chính diện, phong trào chiến tranh
du kích đã phát triển mạnh ở vùng
sau lng địch, đánh phá giao thông
kho tàng của địch, làm cho địch
phải phân tán thêm lực lợng để
chống đỡ.
Nh vậy, địch phải phân tán lực lợng
thành 5 nơi để đối phó với ta điều
đó chứng tỏ kế hoạch Nava bớc đầu
phá sản. Ta từ chỗ chỉ giữ thế chủ
động chiến lợc ở chiến trờng chính
giờ đây đã tiến lên giữ thế chủ động
chiến lợc trên toàn bộ chiến trờng
Đông Dơng. Những thắng lợi đó đã
tạo điều kiện thuận lợi cho ta tiến
lên mở trận quyết chiến chiến lợc
trận Điện Biên Phủ để giành thắng
lợi quyết định.
Sau khi sang Đông Dơng, Nava tập
trung mọi cố gắng để thực hiện kế


hoạch quân sự mới. Trung tâm của
kế hoạch Nava là tổ chức khối chủ
lực tác chiến bằng tăng cờng dồn
quân bắt lính, rút lực lợng chiếm
đóng về tập trung xây dựng binh
lực nhằm thực hiện kế hoạch tác

chiến theo 2 bớc trên. Sau khi kế
hoạch Nava bớc đầu bị phá sản (từ
một nơi tập trung quân phải phân
tán thành 5 nơi). Phát hiện lực lợng
chủ lực của ta tiến nhanh lên Tây
Bắc, Nava quyết định co lực lợng về
giữ Điện Biên Phủ và chấp nhận
một cuộc chiến lợc với ta ở đây.
Điện Biên Phủ là một thung lũng
sát biên giới Việt - Lào cách Hà Nội
300 km, cách LuôngPhaBăng 200
km, cách hậu phơng của ta Việt
Bắc, Thanh Nghệ Tĩnh từ 300 đến
500 km. Đối với Pháp, Điện Biên
Phủ là một địa bàn chiến lợc hết
sức quan trọng, là một vị trí chiến lợc cơ động ở giữa miền Bắc Việt
Nam, Thợng Lào và miền Nam
Trung Quốc. Về lâu dài có thể trở
thành một căn cứ lục quân và
không quân có tác dụng rất lợi hại
trong âm mu xâm lợc của chúng ở
ĐNA.
Trớc mắt Điện Biên Phủ có tác
dụng là thu hút chủ lực của ta,
giam chân và tiêu diệt chủ lực của
ta, tạo điều kiện cho chúng bình
định đồng bằng Bắc Bộ, đánh
chiếm liên khu 5 thực hiện bộ phận
chủ yếu của kế hoạch Nava trong
đông xuân 53 - 54.

Nh vậy, Điện Biên Phủ từ chỗ
không nằm trong nội dung kế
hoạch Nava đã trở thành trung tâm
điểm của kế hoạch Nava đợc giới
cầm quyền và các tớng tá Pháp Mỹ tán thành tích cực ủng hộ.
Thực hiện âm mu trên Nava đã
tăng dần số quân chiếm đóng ở
Điện Biên Phủ lên tới 16.200 tên
gồm những đơn vị thuộc các binh
chủng tinh nhuệ nhất ở Đông Dơng. Chúng cho xây dựng nơi đây
thành 49 cứ điểm, 2 sân bay, tất cả
các vị trí đều nằm trong công sự và
giao thông hào chìm dới lòng đất
rất kiên cố. Tập đoàn cứ điểm chia
làm 3 khu: trung tâm Mờng Thanh,
phân khu Bắc và phân khu Nam.
Ngoài ra chúng còn dùng đến 3000
tấn dây thép gai và rất nhiều mìn để
bảo vệ cho tập đoàn cứ điểm. Pháp Mỹ coi Điện Biên Phủ là một pháo đài
"bất khả xâm phạm", là con nhện
khổng lồ ở miền Tây Bắc, là một cái

máy nghiền thịt đối với Việt Minh và
tuyên bố giữ căn cứ đó bằng bất cứ giá
nào nếu bộ đội Việt Nam đánh vào thì
Điện Biên Phủ sẵn sàng nghiền nát bộ
đội chủ lực Việt Nam.
Điện Biên Phủ ra đời trong lúc
Pháp đang bị động phân tán lực lợng để đối phó với các cuộc tiến
công của ta vì vậy âm mu chiếm

đóng và xây dựng tập đoàn cứ điểm
của thực dân Pháp là hết sức phiêu
lu mạo hiểm và đầy tham vọng.
Muốn đập tan đợc kế hoạch Nava
tiến tới chấm dứt chiến tranh phải
tiêu diệt Điện Biên Phủ, ngày
6/12/1953 Bộ Chính trị TW Đảng
ta đã họp và nhận định: về phía
địch đây là một tập đoàn cứ điểm
mạnh nhng có cái yếu cơ bản là bị
cô lập, xa Hà Nội, chỉ tiếp tế, tiếp
viện đợc bằng hàng không. Về phía ta,
quân đội đã trởng thành có thể đánh
tập đoàn cứ điểm, hậu phơng của ta
thực hiện cải cách ruộng đất, giảm tô,
giảm tức tinh thần nhân dân phấn
khởi, ta có thể khắc phục đợc những
khó khăn về đờng xá, vận tải, tiếp tế.
Trên cơ sở chủ trơng lớn trong
đông xuân 53 - 54 và xuất phát từ
tình hình trên theo nguyên tắc chỉ
đạo tác chiến là tiêu diệt sinh lực
địch, đánh chắc thắng Đảng ta
quyết định hạ quyết tâm tiêu diệt
địch ở Điện Biên Phủ với mục tiêu:
tiêu diệt toàn bộ địch ở đây, giải
phóng vùng Tây Bắc và tạo điều
kiện cho lực lợng vũ trang của Lào
giải phóng vùng Bắc Lào đồng thời
tạo điều kiện tiêu hao tiêu diệt sinh

lực địch trên toàn cõi Đông Dơng.
Ta đã điều đại bộ phận lực lợng
chủ lực lên tham gia chiến dịch: 4
đại đoàn bộ binh và một đại đoàn
công pháo thành lập Hội đồng
cung cấp mặt trận TW và các cấp
để bảo đảm chi viện cho tiền tuyến
với khẩu hiệu "tất cả cho tiền
tuyến", tất cả để đánh thành địch ở
Điện Biên Phủ, hàng vạn thanh niên
xung phong đã phối hợp với các đơn
vị công binh mở đờng ra tiền tuyến,
dân quân ngày đêm chuyển lơng thực
đạn dợc cho bộ đội. Nh vậy, Điện Biên
Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến
lợc giữa ta và địch. Ta đề ra phơng
châm đánh chắc tiến chắc.
Kế hoạch tác chiến là tiến hành
một loạt trận công kích tiêu diệt
mỗi lần một hay một số trung tâm
đề kháng của địch kết hợp quá
trình tiến công tiêu diệt các cứ điểm

với hình thành và thắt chặt vòng
vây đi đến triệt hẳn nguồn tiếp tế và
cứu viện tạo điều kiện cho quân ta
tiến lên tổng công kích tiến lên tiêu
diệt toàn bộ quân địch.
Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra
trong 3 đợt. Đợt 1 từ ngày 13/3 đến

17/3/1954 ta đánh vào cụm cứ điểm
Him Lam nằm trên 3 quả đồi cao ở
phía Bắc do một tiểu đoàn lê dơng
và một số đơn vị ngụy binh đóng
giữ. Đại bác và máy bay địch chăng
hoả lực để bảo vệ Him Lam nhng
pháo ta đã dập tắt đợc hỏa lực địch
yểm hộ cho bộ binh tiến lên. Sau
nửa giờ lá cờ quyết chiến quyết
thắng của ta đã phất cao trên cả 3
ngọn cờ. Giải quyết xong Him Lam
ta quyết định tiêu diệt địch ở cứ
điểm Độc Lập rồi Bản Kéo. Toàn
bộ phân khu phòng thủ phía Bắc
của địch bị tiêu diệt, ta đã diệt và
bắt sống gần 2000 tên địch. Thắng
lợi của cuộc tiến công này chứng tỏ
phơng châm "đánh chắc tiến chắc"
là hoàn toàn chính xác.
Đợt 2 từ 30/3 đến 26/4 quân ta tấn
công vào khu đông Mờng Thanh
gồm các cứ điểm E 1, D1, C1, C2,
A1... cửa ngõ của trung tâm địch
cho nên ta ra sức đánh, địch cố sức
giữ, cuộc chiến đấu ác liệt kéo dài
suốt mấy tuần lễ liền, đặc biệt là
trên 2 quả đồi A1, C1 ngày đêm
sống trong khói lửa bụi cát, thiếu
ăn thiếu nớc, thiếu thuốc men, các
chiến sĩ của ta vẫn bền gan chiến

đấu, bám sát trận địa, giành giật
với địch từng tấc đất.
Kết quả là ta chiếm đợc toàn bộ vị
trí, phát triển trận địa tấn công chia
cắt địch, thắt chặt vòng vây, khống
chế đi đến triệt đờng tiếp tế của
địch để chuyển sang tổng công kích
tiêu diệt địch.
Đợt 3 từ 1/5 đến 7/5/1954 bộ đội ta
đánh các cao điểm còn lại ở phía
Đông và tổng công kích trung tâm
Mờng Thanh. Đêm 6/5 quân ta
đánh chiếm toàn bộ các ngọn đồi
phía đông, là chìa khóa phòng ngự
cuối cùng của phân khu trung tâm.
Địch bị hất toàn bộ xuống lòng
chảo Mờng Thanh. Cuộc tổng công
kích của ta bắt đầu, những cánh
quân của ta từ các phía tới tấp
đánh vào chỉ huy sở của địch.
Chiều 7/5/`954 lá cờ quyết chiến
quyết thắng của ta phất cao trên
nóc hầm tớng Đờcát cùng toàn bộ
ban tham mu của địch bị bắt sống,

bọn địch còn sống sót kéo cờ trắng
lũ lợt ra hàng. Đêm 7/5/1954 trớc
đòn tấn công của quân ta toàn bộ
quân địch trên 2000 tên của phân
khu Nam Hồng Cúm rút chạy đến

nửa đêm toàn bộ bị bắt sống.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu liên tục và
mãnh liệt của quân đội ta chiến dịch
Điện Biên Phủ đã hoàn toàn thắng lợi.
Cùng thời gian này các chiến trờng
trên toàn quốc cũng đẩy mạnh cuộc
đấu tranh nhằm tiêu hao để giam
chân, phân tán lực lợng tạo điều kiện
cho Điện Biên Phủ giành toàn thắng.
Cuộc tiến công chiến lợc 53 - 54 và
chiến dịch lịch sử Điện Biên phủ đã
thắng lợi hoàn toàn, quân dân ta
đã tiêu diệt 112.000 tên địch trên
các chiến trờng, thu 19.000 súng
các loại, phá 177 máy bay, 81 đại
bác, giải phóng nhiều vùng đông
dân ở đồng bằng Bắc Bộ, Trung
Bộ, Nam Bộ. Riêng mặt trận Điện
Biên Phủ ta đã diệt và bắt sống
16.200 tên địch trong đó có một tớng (Đờcát), 16 quan năm, 17 tiểu
đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo
binh, bắn rơi và phá huỷ 62 máy
bay, thu toàn bộ trang bị vũ khí.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh
cao của cuộc tiến công của ta trong
đỉnh cao đông xuân 53 - 54, là
thắng lợi to lớn nhất của ta trong 9
năm k/c chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ. Nó đánh dấu sự trởng thành vợt bậc của ta về quân
sự tạo nên một chuyển biến lớn lao

cho cuộc k/c thắng lợi của ta trong
cuộc quyết chiến này đã trực tiếp
mở ra khả năng kết thúc thắng lợi
cuộc k/c.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
đã làm cho kế hoạch Nava - cố
gắng cao nhất của Pháp - Mỹ hoàn
toàn bị phá sản, giáng một đòn
quyết định vào ý chí xâm lợc vào
thực dân Pháp tạo cơ sở thực lực để
đi đến ký kết hiệp định Giơnevơ về
việc lập lại hòa bình ở Đông Dơng.
CNTD cũ của Pháp đã bị sụp đổ ở
Việt Nam, đồng thời cũng là thất
bại đầu tiên của Mỹ trong âm mu
can thiệp vào Đông Dơng.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
là đỉnh cao của truyền thống anh
hùng bất khuất, ý chí quyết tâm
"thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nớc, không chịu
làm nô lệ" của truyền thống CN
anh hùng CMVN. Chiến thắng này
đã khẳng định sự đúng đắn sáng

tạo và sức mạnh của đờng lối k/c, đờng lối chiến tranh nhân dân của
Đảng ta và HCT.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
còn mang ý nghĩa quốc tế và thời
đại to lớn. Đây là một chiến công

chói lọi của các dân tộc đang đấu
tranh chống CNĐQ, CNTD, một
cống hiến lớn lao của dân tộc ta
vào cao trào gpdt. Vì vậy nó đã cổ
vũ mạnh mẽ phong trào gpdt trên
TG. Việt Nam - HCM - Điện Biên
Phủ đã trở thành biểu tợng của ý
chí CM, của các dân tộc bị áp bức
và toàn thể loài ngời tiến bộ.

Đề 9: Hoàn cảnh, nội
dung, ý nghĩa của Hiệp
định Giơnevơ 1954.
Bài làm.
Đồng thời với những thắng lợi trên
mặt trận quân sự thì TW Đảng và
HCT quyết định mở thêm một mặt
trận ngoại giao. Lúc này Liên Xô
và các nớc XHCN ngày càng lớn
mạnh trở thành trụ cột cho cuộc
đấu tranh vì hoà bình dân chủ, độc
lập dân tộc và CNXH thế giới. Sau
CMTQ thành công năm 1949 đã
nối liền nớc ta với các nớc XHCN.
Từ năm 1950 Trung Quốc, Liên Xô
và các nớc XHCN đã chính thức
công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao với chính phủ ta, ủng hộ giúp
đỡ ta k/c. Lúc này yêu cầu tha thiết
của nhân dân TG là hòa bình

chống chiến tranh.
CNĐQ đã tập trung mũi nhọn vào
các phong trào chống đế quốc triệt
để trong đó có Việt Nam, thế lực
phản động ở Pháp vẫn còn chiếm u
thế trong chính phủ. ở Triều Tiên
sau khi chiến tranh kết thúc đất nớc còn chia ra làm 2 miền với 2 chế
độ chính trị khác nhau. Đế quốc
Mỹ sau khi đình chiến ở Triều Tiên
và muốn quốc tế hóa, mở rộng
chiến tranh ở Đông Dơng đã gây lo
ngại cho nhân dân yêu chuộng hòa
bình.
Bối cảnh quốc tế trên có tác động
cả hai mặt đến cuộc k/c của nhân
dân ta nói chung, đến cuộc đấu
tranh trên mặt trận ngoại giao nói
riêng.
ở trong nớc, nhân dân ta ngay từ
khi bắt đầu cuộc k/c Đảng đã dự
kiến rằng trong quá trình k/c có thể
và cần phải tiến hành cuộc đàm
phán ngoại giao để hỗ trợ cho cuộc
tiến công quân sự, chính trị. Vì vậy,
ngày 26/11/1953 HCT đã trả lời

21

nhà báo Thụy Điển và nói lên quan
điểm này: nhân dân Việt Nam kiên

quyết k/c đến thắng lợi cuối cùng
nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc
chiến tranh xâm lợc nhng nhân
dân Việt Nam và chính phủ
VNDCCH cũng sẵn sàng đi đến
đình chiến ở Việt Nam bằng thơng
lợng hòa hình nếu chính phủ Pháp
muốn nh vậy với lập trờng đàm
phán là nớc Pháp phải công nhận
Việt Nam độc lập thống nhất có
chủ quyền.
Nhng lúc đầu khi lực lợng ta còn
yếu lập trờng của Pháp là đòi ta
nộp vũ khí. Đến sau thất bại ở các
chiến dịch Hòa Bình, Biên Giới,
Tây Bắc... Pháp từng bớc thay đổi
lập trờng thực dân là muốn thơng lợng với ta nhng mà trên thế mạnh.
Hiểu rõ bản chất ngoan cố của bọn
thực dân đế quốc Đảng ta đã chỉ rõ
đàm phán chỉ có kết quả nếu ta tiêu
diệt đợc lực lợng kẻ thù trên đất ta
và ý chí xâm lợc của chúng đã bị đè
bẹp.
Từ cuối 1953 cuộc k/c của ta đi vào
giai đoạn cuối, ta giành nhiều
thắng lợi lớn trên mặt trận quân sự,
chính trị nên Đảng ta chủ trơng mở
mặt trận đấu tranh ngoại giao. Đối
với Pháp đến lúc này do bị thất bại
nặng trên chiến trờng chúng mới

chịu thay đổi thái độ nhng mục tiêu
đàm phán chủ yếu là để cứu vãn
đội quân viễn chinh khỏi bị tiêu
diệt và tránh cho cuộc xâm lợc khỏi
bị thất bại nhục nhã và để đối phó
với d luận phản đối chiến tranh
đang lên cao ở trong nớc.
Tháng 1/1954 Hội nghị ngoại trởng
4 nớc: Liên Xô - Mỹ - Anh - Pháp
tại Béclin đã thỏa thuận triệu tập
một hội nghị quốc tế tại Giơnevơ Thụy Sĩ để giải quyết vấn đề Triều
Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dơng.
Đến 26/4/1954 giữa lúc quân ta kết
thúc đợt tấn công thứ 2 và chuẩn bị
mở đợt tấn công thứ 3 để quyết định
số phận quân viễn chinh Pháp thì
Hội nghị Giơnevơ về Đông Dơng
khai mạc.
Ngày 4/5/1954 phái đoàn chính
phủ do ông Phạm Văn Đồng làm trởng đoàn bớc vào bàn hội nghị với
t thế là đại biểu cho dân tộc chiến
thắng. Ngày 8/5/1954 Hội nghị bắt
đầu thảo luận về vấn đề lập lại hòa
bình ở Đông Dơng.

Lập trờng đúng đắn của Chính phủ
VNDCCH là đình chỉ chiến sự trên
toàn bán đảo Đông Dơng đi đôi với
việc giải quyết vấn đề chính trị cho
Việt Nam, Lào, Cămpuchia trên cơ

sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của các nớc Đông Dơng.
Cuộc đấu tranh ngoại giao ở
Giơnevơ đã diễn ra gay go và phức
tạp. Ta kiên trì đấu tranh chống âm
mu phá hoại của Pháp - Mỹ và các
thế lực phản động TG. Ngày
21/7/1954 Hiệp định Giơnevơ đợc
ký kết.
Nội dung cơ bản của Hiệp định
Giơnevơ là tóm tắt các văn bản
quan trọng đợc ký kết tại hội nghị:
Hiệp định về đình sự ở Việt Nam,
tuyên bố cuối cùng của hội nghị và
các phụ bản về giới tuyến tạm thời,
khu phi quân sự và các vùng đóng
quân tạm thời.
Chính phủ Pháp và các nớc tham
dự Hội nghị tuyên bố tôn trọng các
quyền cơ bản của nhân dân Việt
Nam, Lào, Cămpuchia là chủ
quyền, độc lập, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ. Tuyệt đối không can
thiệp vào nội trị của những nớc đó.
Hai bên phải ngừng bắn đồng thời
ở Việt Nam và trên toàn chiến trờng
Đông Dơng tập kết chuyển quân và
chuyển giao khu vực.
Quy định quân đội nớc ngoài phải

rút khỏi Đông Dơng, cấm đa quân
đội, nhân viên quân sự, vũ khí nớc
ngoài vào ba nớc Đông Dơng. Các
nớc ngoài không đợc đặt căn cứ
quân sự ở Đông Dơng. Các nớc
Đông Dơng không đợc ra nhập
những khối liên minh quân sự và
không đợc để các nớc khác dùng
lãnh thổ của mình gây lại chiến
tranh hoặc phục vụ mục đích quân
sự.
Không phân biệt đối xử, không trả
thù những cá nhân hoặc tập thể
cũng nh với gia đình của ngời đã
cộng tác với một trong hai bên
trong thời gian chiến tranh.
Việt Nam sẽ thống nhất bằng cuộc
tổng tuyển cử tự do trong cả nớc
vào tháng 7/1956 dới sự kiểm soát
của một ủy ban quốc tế (gồm ấn
Độ, Ba Lan, Canađa).
Trách nhiệm thi hành hiệp định
Giơnevơ thuộc về những ngời ký
hiệp định và những ngời kế nhiệm
sau này.

Về việc tập kết chuyển quân,
chuyển giao khu vực ở Việt Nam lấy
vĩ tuyến 17 dọc sông Bến Hải làm
giới tuyến quân sự tạm thời chia

Việt Nam làm 2 miền: phía Bắc do
quân đội Việt Nam đóng và phía
Nam do quân đội Pháp đóng tiến
tới tổng tuyển cử tự do trong cả nớc
trong thời hạn 2 năm. ở Lào có một
khu tập kết cho lực lợng k/c bao
gồm 2 tỉnh Sầm Na và Phongxalì. ở
Cămpuchia lực lợng k/c không có
khu vực tập kết mà phải phục viên
tại chỗ.
Thắng lợi của ta trên mặt trận
ngoại giao do rất nhiều nguyên
nhân. Do ta có đờng lối chính trị, đờng lối ngoại giao đúng đắn của
Đảng ta. Do quân dân ta đã đoàn
kết nhất trí chiến đấu anh dũng
suốt 9 năm làm thất bại các âm mu
xâm lợc của kẻ thù trực tiếp là
thắng lợi của cuộc tiến công chiến
lợc 53 - 54, đỉnh cao là chiến thắng
vĩ đại Điện Biên Phủ. Do có sự
đoàn kết chiến đấu của 3 dân tộc
Đông Dơng ngày càng chặt chẽ.
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta là
chính nghĩa đợc nhân dân TG đặc
biệt là nhân dân Liên Xô, Trung
Quốc và nhân dân các nớc XHCN
khác, nhân dân yêu chuộng hòa
bình kể cả nhân dân Pháp đồng
tình ủng hộ.
Hiệp định Giơnevơ là văn bản pháp

lý quốc tế ghi nhận quyền dân tộc
cơ bản của nhân dân các nớc Đông
Dơng đợc các cờng quốc lớn nhất
TG cam kết tôn trọng. Đồng thời
cũng ghi nhận sự thất bại hoàn
toàn của thực dân Pháp trong chiến
tranh xâm lợc. Cùng với chiến
thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định
Giơnevơ đã kết thúc thắng lợi cuộc
k/c trờng kỳ gian khổ kéo dài 9 năm
và lập lại hòa bình ở 3 nớc Đông Dơng. Nó đã đập tan âm mu kéo dài
và mở rộng chiến tranh của đế quốc
Mỹ và bọn phản động Pháp.
Miền Bắc nớc ta đợc giải phóng đã
tạo ra cho ta một khu vực hoàn
chỉnh để xây dựng xã hội mới làm
cơ sở để thống nhất nớc nhà.
Thắng lợi ở Hội nghị Giơnevơ là
thắng lợi của sự lãnh đạo tài tình
của Đảng ta trong sự kết hợp giữa
đấu tranh quân sự, chính trị và
ngoại giao.
Hội nghị Giơnevơ cũng để lại nhiều
bài học kinh nghiệm trong cuộc
đấu tranh ngoại giao, đàm phán,


thơng lợng trong các giai đoạn CM
sau này.
Cùng với chiến thắng Điện Biên

Phủ, Hiệp định Giơnevơ là một sự
cổ vũ lớn lao đối với nhân dân các
nớc thuộc địa, nửa thuộc địa đang
đấu tranh gpdt làm cho họ thêm tin
tởng vào cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc cho mình.
Hiệp định Giơnevơ đợc coi là thắng
lợi bớc đầu vì các quyền dân tộc cơ
bản của 3 nớc: Việt Nam, Lào,
Cămpuchia là độc lập chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ nhng
chủ yếu là về mặt pháp lý.
Thắng lợi cha trọn vẹn vì nớc Việt Nam
tạm thời bị chia cắt, miền Bắc hoàn toàn
giải phóng, miền Nam vẫn còn dới ách
đế quốc và tay sai. Mỹ và tay sai lại có
âm mu chia cắt lâu dài đất nớc ta.
Nhân dân ta còn phải tiếp tục cuộc
chiến đấu giải phóng miền Nam
bảo vệ miền Bắc, thống nhất nớc
nhà rất gian khổ và kéo dài.

Đề 10: Nguyên nhân thắng
lợi, ý nghĩa lịch sử của
cuộc k/c chống Pháp.
Bài làm.
Sau gần 9 năm k/c gian khổ và anh
dũng quân dân ta đã đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lợc của thực dân
Pháp kết thúc quãng đời nô lệ của

dân tộc, thắng lợi này không phải
là ngẫu nhiên mà nó đợc tạo ra và
hun đúc từ truyền thống lịch sử của
dân toọc cũng nh nhiều yếu tố
khác.
Trớc hết cuộc k/c có sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng ta. Đảng ta
đứng đầu là HCT ngay từ đầu
chúng ta đã có đờng lối k/c toàn
dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào
sức mình là chính, với chiến lợc
chiến tranh nhân dân, xây dựng lực
lợng 3 thứ quân, có đờng lối kết
hợp 2 nhiệm vụ chống đế quốc và
phong kiến phù hợp vào điều kiện
nớc ta, có chính sách đại đoàn kết
dân tộc và tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ của nhân dân TG một cách
đúng đắn.
Với đờng lối k/c đúng đắn ta đã
phát huy đợc chỗ mạnh căn bản
của ta, u thế về chính trị, tinh thần
và hạn chế đi đến khắc phục những
nhợc điểm về lực lợng vật chất làm
cho cuộc k/c nhân dân ta chuyển từ
yếu sang mạnh tiến lên phản công
địch giành thắng lợi.
Với chính sách đoàn kết dân tộc
đúng đắn Đảng ta đã xây dựng đợc


mặt trận dân tộc thống nhất và một
hệ thống trong cả nớc. Mặt trận
Liên Việt đợc hình thành và phát
triển không chỉ ở nông thôn, vùng
tự do mà còn cả sau lng địch. Nhờ
vậy, chúng ta đã phá đợc âm mu
chia rẽ dân tộc, âm mu "dùng ngời
Việt trị ngời Việt", "lấy chiến tranh
nuôi chiến tranh", chia rẽ lơng
giáo, chia rẽ Nam Bắc của chúng.
Đảng ta đã xây dựng đợc lực lợng
vũ trang nhân dân 3 thứ quân gan
dạ, mu trí, có chiến lợc chiến thuật
của chiến tranh nhân dân phong
phú sáng tạo, đi từ du kích chiến
đến vận động chiến kết hợp với trận
địa chiến.
Với đờng lối k/c đúng đắn Đảng ta
đã xây dựng đợc một hậu phơng
ngày càng thắng lợi vững chắc.
Cuộc k/c chống Pháp thắng lợi là
do toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ta đoàn kết một lòng quyết tâm
chiến đấu với tinh thần thà hy sinh
tất cả chứ nhất định không chịu
mất nớc, nhất định không chịu làm
nô lệ. Với tinh thần ấy quân dân ta
đã vợt qua mọi khó khăn gian khổ,
không quản ngại hy sinh, nêu cao
chủ nghĩa anh hùng CM và truyền

thống yêu nớc.
Đó là thắng lợi của tình đoàn kết
chiến đấu giữa nhân dân 3 nớc
Đông Dơng. Thắng lợi của cuộc k/c
chống thực dân Pháp còn là thắng
lợi của sự giúp đỡ của nhân dân
các nớc XHCN cũng nh sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ
toàn TG trong đó có nhân dân
Pháp.
Cuộc k/c của nhân dân ta thắng lợi
đã buộc thực dân Pháp phải thừa
nhận độc lập chủ quyền thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nớc
Đông Dơng. Âm mu kéo dài và mở
rộng chiến tranh Đông Dơng của
đế quốc Pháp - Mỹ bị thất bại hoàn
toàn.
Thắng lợi của cuộc k/c chống Pháp
đã bảo vệ và phát triển những
thành quả của CMT8, giải phóng
hoàn toàn miền Bắc chấm dứt ách
thống trị của thực dân Pháp trong
gần một thế kỷ đồng thời tạo điều
kiện để hoàn thành triệt để CM
ruộng đất, xóa bỏ vĩnh viễn chế độ
bóc lột của g/c địa chủ phong kiến.
Tiếp theo CMT8 cuộc k/c chống
Pháp thắng lợi là một đòn giáng
mạnh mẽ vào hệ thống thực dân

góp phần làm sụp đổ CNTD cũ, cổ

vũ mạnh mẽ phong trào gpdt trên dân và ủy ban k/c hành chính cấp
TG trớc hết là các nớc á - Phi đúng tỉnh, cấp xã. Từ đó, bộ máy chính
nh HCT đã nói: "lần đầu tiên trong quyền của ta ở các cấp đã đóng góp
lịch sử một nớc thuộc địa nhỏ yếu to lớn không những để tổ chức lãnh
đã đánh thắng một nớc thực dân đạo k/c thắng lợi mà còn làm phá
hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang sản hệ thống chính quyền bù nhìn
của nhân dân Việt Nam đồng thời tay sai của Pháp và lực lợng vũ
cũng là một thắng lợi của các lực l- trang 3 thứ quân đã ra sức thi đua
ợng hòa bình, dân chủ và XHCN luyện tập lập công.
Từ 1947 - 1950 ta thu đợc nhiều
trên TG.
Thắng lợi của nhân dân ta trong thắng lợi về quân sự và ngoại giao,
cuộc k/c chống thực dân Pháp đã tình hình trong nớc và TG lại có
làm sáng tỏ một chân lý: trong điều nhiều biến chuyển mới đòi hỏi phải
kiện TG ngày nay một dân tộc đất tăng cờng sự lãnh đạo của Đảng.
không rộng, ngời không đông nếu Trớc mắt phải vạch ra đờng lối
quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do đánh thắng thực dân Pháp và can
có đờng lối chính trị quân sự đúng thiệp Mỹ đồng thời phải nêu rõ mục
đắn đợc sự ủng hộ quốc tế thì hoàn đích, nhiệm vụ, nội dung của cuộc
toàn có khả năng đánh bại mọi thế CM dân tộc dân chủ nhân dân ở nớc ta. Đứng trớc yêu cầu ấy Đảng ta
lực đế quốc hung bạo.
Đề 11: Hậu phơng của đã họp Đại hội đại biểu toàn quốc
cuộc k/c chống Pháp và lần 2 từ ngày 11 đến 19/2/1951 tại
can thiệp Mỹ (hay những Chiêm Hóa - Tuyên Quang. Tham
thắng lợi về chính trị, dự có 158 đại biểu chính thức và 53
ngoại giao, kinh tế, văn đại biểu dự khuyết thay mặt cho
hóa - giáo dục).
766.349 đảng viên trong cả nớc.

Bài làm.
Đại hội đã nghe "Báo cáo chính
Vấn đề hậu phơng là vấn đề rất
trị" của Chủ tịch HCM và báo cáo
quan trọng, tiền tuyến không thể
"Bàn về CMVN" của tổng bí th Trthắng giặc nếu không có hậu phờng Chinh. "Báo cáo chính trị" đã
ơng vững mạnh vì "hậu phơng là
tổng kết thắng lợi kinh nghiệm và
nhân tố thờng xuyên quyết định
nêu nhiệm vụ chủ yếu của CMVN
thắng lợi của chiến tranh" (Lênin).
lúc này là "tiêu diệt thực dân Pháp,
Nhận rõ tầm quan trọng này nên
đánh bại can thiệp Mỹ giành thống
trong quá trình tiến hành k/c Đảng
nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa
và Chính phủ ta luôn luôn chú
bình TG" và những việc cần làm để
trọng xây dựng hậu phơng vững
thực hiện nhiệm vụ đó: đẩy mạnh
mạnh.
xây dựng lực lợng vũ trang, phát
Về chính trị, tiếp theo việc thành
triển phong trào yêu nớc... Báo cáo
lập Hội Liên Việt (1946) lúc này
"Bàn về CMVN" của Trờng Chinh
Đảng ta ra sức chăm lo củng cố và
đã vạch ra đờng lối cụ thể của
mở rộng mặt trận dân tộc thống
CMDTDC nhân dân Việt Nam.

nhất dới hai hình thức: Việt Minh
Đại hội 2 là một mốc đánh dấu bớc
và Liên Việt để tăng cờng khối
phát triển mới trong quá trình lãnh
đoàn kết toàn dân. Vì vậy, ở vùng
đạo và trởng thành của Đảng ta.
tạm chiếm mọi ngời dân đều tham
Đã nêu cao vai trò của Đảng, của
gia đánh giặc giữ làng chống bắt
g/c công nhân, làm tăng thêm lòng
phu bắt lính, ở vùng tự do mọi ng ời
tin của nhân dân và có tác dụng
đều tích cực sản xuất, luyện tập
đẩy mạnh k/c. Nhân dân ta đã
quân sự góp gạo nuôi quân, sẵn
nhận rõ đờng lối k/c và cơng lĩnh
sàng chiến đấu.
CM DTDC do Đảng đề ra, nhân
Chính quyền dân chủ nhân dân
dân TG hiểu thêm về CMVN. Phe
không ngừng đợc củng cố và xây
XHCN cũng nh phong trào công
dựng theo yêu cầu của k/c kiến
nhân quốc tế tăng cờng sự giúp đỡ
quốc. Chính phủ đã quyết định chia
cho ta.
cả nớc thành 14 khu hành chính,
Tháng 3/1951 Mặt trận VM và Liên
các ủy ban hành chính đợc chuyển Việt đã hợp nhất lấy tên là MTLV
thành ủy ban k/c hành chính thực đã làm cho khối đoàn kết dân tộc

hiện cả hai nhiệm vụ: k/c và kiến mạnh hơn.
quốc. Năm 1949 chính phủ quyết Công tác vận động đồng bào miền
định tổ chức bầu cử Hội đồng nhân núi, đồng bào công giáo, đồng bào

trong vùng địch tạm chiếm và công
tác vận động ngụy binh đợc Đảng
ta rất coi trọng.
Cùng với mặt trận chính trị thì
Đảng ta cũng chú ý đến mặt trận
ngoại giao. Đảng ta tăng cờng
không ngừng đoàn kết quốc tế, trớc
hết là đối với nhân dân lào Cămpuchia, nhân dân yêu chuộng
hòa bình trên TG, nhân dân các nớc XHCN.
Ngày 14/1/1950 HCT đã thay mặt
chính phủ nớc VNDCCH tuyên bố
với chính phủ các nớc trên TG:
chính phủ nớc VNDCCH là chính
phủ hợp pháp duy nhất của nhân
dân Việt Nam. Căn cứ trên quyền
lợi chung chính phủ VNDCCH sẵn
sàng đặt quan hệ ngoại giao với tất
cả chính phủ nớc nào trọng quyền
bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và
chủ quyền quốc gia của nớc Việt
Nam để cùng nhau bảo vệ hòa bình
và xây đắp dân chủ TG. Sau lời
tuyên bố của HCT, ngày 18/1/1950
chính phủ nớc CHND Trung Hoa
quyết định công nhận và đặt quan
hệ ngoại giao với chính phủ ta,

ngày 31/1/1950 là chính phủ Liên
Xô và trong vòng một tháng sau tất
cả các nớc trong phe XHCN đã lần
lợt công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao với chính phủ ta. Điều này đã
nâng cao uy tín của Việt Nam trên
trờng quốc tế.
Tháng 3/1951 khối liên minh Việt Miên - Lào đợc thành lập trên cơ sở
tự nguyện bình đẳng, tơng trợ và
tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của
nhau. Sự kiện này là một đòn đánh
mạnh vào âm mu chia rẽ của kẻ
địch, mở ra một triển vọng mới cho
nhân dân 3 nớc Đông Dơng trong
cuộc k/c chống kẻ thù chung. Nó
làm cho khối đoàn kết giữa 3 dân
tộc đợc tăng lên.
Với đờng lối chính trị ngoại giao
đúng đắn của Đảng ta đứng đầu là
HCT cuộc đấu tranh kiên quyết của
ta ở Hội nghị Giơnevơ đã thu đợc
thắng lợi. Chính phủ Pháp và các
nớc tham dự hội nghị đã phải công
nhận quyền độc lập cơ bản của 3 nớc Đông Dơng. Miền Bắc nớc ta đợc giải phóng tiến lên xây dựng
CNXH trở thành căn cứ địa - hậu
phơng vững chắc của CMVN.
Đi đôi với xây dựng và củng cố cơ
sở chính trị ta cũng đẩy mạnh đấu
tranh kinh tế với địch và xây dựng
kinh tế của ta.


22

Từ sau chiến dịch Việt Bắc thu
đông 1947 địch phải chuyển sang
đánh lâu dài với ta, chúng ra sức
dùng chính sách "dùng ngời Việt
trị ngời Việt", "lấy chiến tranh
nuôi chiến tranh", ta đã ra sức đấu
tranh kinh tế với địch: chống địch
phá hoại cớp bóc, bảo vệ mùa
màng, kiểm soát chặt chẽ việc buôn
bán hàng hóa giữa vùng tự do và
vùng tạm chiếm không để cho
chúng dễ dàng thực hiện chính
sách "lấy chiến tranh nuôi chiến
tranh". Cuộc đấu tranh kinh tế với
địch càng về sau càng gay go quyết
liệt. ở những vùng giáp ranh địch
ra sức đốt phá, cớp bóc, bắn giết
trâu bò, bắn giết nhân dân trong
lúc sản xuất để triệt nguồn tiếp tế
cho bộ đội. Để chống lại chúng
không sản xuất đợc ban ngày ta
chuyển sang sản xuất ban đêm.
Nhiều nơi bộ đội về gặt giúp dân,
lúa đem về ta phơi khô, quạt sạch
che mắt địch. ở vùng tự do địch
dùng máy bay bắn phá chợ búa,
thuyền bè, xe cộ ta cũng chuyển

sang hoạt động ban đêm. Ta kiểm
soát chặt chẽ việc giao lu kinh tế để
hút kinh tế vùng địch ra vùng ta và
ngăn chặn việc lũng đoạn phá hoại
kinh tế ta của địch.
Đi đôi với đấu tranh kinh tế với
địch ta cũng ra sức đẩy mạnh
phong trào thi đua sản xuất, xây
dựng kinh tế tự cấp tự túc.
Kết quả là về nông nghiệp đến đầu
1949 diện tích trồng trọt đã tăng
hơn so với trớc k/c. Hàng nghìn mặt
đất đợc khai phá thêm ở Việt Bắc,
Đồng Tháp Mời, lơng thực cho
nhân dân ở các vùng địa phơng, cho
bộ đội đánh giặc ở tiền tuyến đợc đảm
bảo. Tính từ Bắc Trung Bộ trở ra đã
đạt 2.414.830 tấn lơng thực, riêng liên
khu 5 đã tự túc đợc lơng thực.
Năm 1952 cuộc vận động sản xuất
và tiết kiệm đã lôi cuốn mọi ngành,
mọi giới tham gia. Trong nông
nghiệp, phong trào tổ đổi công
trong nông dân đợc phát triển rộng
khắp các vùng tự do và vùng căn
cứ. Phong trào thâm canh tăng vụ
khai hoang, phát triển trồng lúa
hoa màu và các ngành nghề thủ
công cũng phát triển. ở các vùng tự
do phong trào tăng gia sản xuất

trong các cơ quan trờng học, đơn vị
bộ đội, bệnh viện diễn ra sôi nổi
nhằm tự túc một phần LTTP và
phong trào giúp dân chống hạn trừ

sâu, thu hoạch kịp thời vụ cũng
phát triển. Các cơ sở công nghiệp
quốc phòng nh xởng quân giới,
binh công xởng mọc lên ở nhiều
nơi trong vùng tự do và chiến khu
của ta với quy mô vừa và nhỏ. Ta
đã tự sản xuất đợc một số loại vũ
khí nh thuốc nổ, mìn, súng cối... để
cung cấp cho bộ đội. Các cơ sở
công nghiệp quốc doanh thiết yếu
nh ngành khai thác than cơ khí,
kim khí cũng đợc xây dựng và hoạt
động có kết quả.
Thủ công nghiệp cũng phát triển
mạnh, ta đã tự túc đợc một phần
thuốc men, vải mặc và dụng cụ sản
xuất trong nhân dân.
Giữa 1951 chính phủ ban hành Sắc
lệnh thành lập mậu dịch quốc
doanh với nhiệm vụ đảm bảo cơ
cấu những hàng hóa thiết yếu cho
k/c và đời sống, kích thích sản xuất
và giao lu hàng hóa trong và ngoài
nớc góp phần đấu tranh có hiệu
quả với địch trên lĩnh vực mậu dịch.

Ngành tài chính ngân hàng cũng
đã có cố gắng đáp ứng đợc nhu cầu
của cuộc k/c đang phát triển đến
giai đoạn cao. Năm 1951, chính
phủ ban hành Sắc lệnh và thuế
nông nghiệp nhằm huy động
nguồn đóng góp lớn đồng thời là
nguồn thu chính của ngân sách
quốc gia. Bên cạnh đó chính phủ
cũng ban hành thuế công nghiệp,
thuế XNK, thuế hàng hóa. Tháng
6/1951 Ngân hàng quốc gia Việt Nam
ra đời, phát hành đồng bạc Việt Nam
mới.
Bồi dỡng sức dân - bồi dỡng nhân
dân thành quân chủ lực của k/c là
một vấn đề có tầm chiến lợc đợc
Đảng, chính phủ rất chú trọng.
Ngay sau CMT8, chính phủ ra
Thông t quyết định giảm tô 25% nhng do điều kiện chiến tranh lúc này
nên thông t đó cha đợc thực hiện
đầy đủ.
Năm 1949 chính phủ ra Sắc lệnh
giảm tô 25%, Sắc lệnh quy định
việc chia lại công điền công thổ,
tạm cấp ruộng đất của bọn thực
dân Pháp, bọn Việt gian, ruộng đất
vắng chủ cho nông dân.
Năm 1950 chính phủ ra Sắc lệnh
giảm tức, xóa nợ và hoãn nợ của

nông dân vay địa chủ, ban hành
quy chế lĩnh canh để bảo vệ quyền
lợi của tá điền.

Ngày 1/5/1952 Đảng và chính phủ
đã mở ĐH chiến sĩ thi đua toàn
quốc lần thứ 1. ĐH đã chọn đợc 7
anh hùng và hàng chục chiến sĩ thi
đua toàn quốc tiêu biểu cho các
ngành công - nông - binh và lao
động trí óc cổ vũ tinh thần lao động
sáng tạo của nhân dân.
Cuộc k/c càng tiến triển yêu cầu bồi
dỡng sức dân càng lớn. Năm 1953
Đảng và Chính phủ đã đề ra chủ trơng phát động quần chúng triệt để
giảm tô, thực hiện giảm tức và cải
cách ruộng đất. Chủ trơng này đã
đợc thực hiện ở một số nơi (chiến
khu Việt Bắc, liên khu 4).
Từ tháng 4/1953 đến tháng 7/1954
ta đã thực hiện 5 đợt giảm tô và đợt
1 của cải cách ruộng đất ở một số
xã thuộc vùng tự do đã đem lại
những kết quả to lớn: hàng nghìn
tấn thóc, hàng nghìn mẫu ruộng,
hàng nghìn con trâu bò đợc đem
chia cho nông dân, vì thế nông dân
đợc cải thiện một phần đời sống
càng hăng hái sản xuất tích cực
đóng góp sức ngời sức của cho tiền

tuyến.
Cùng với chính trị, kinh tế ta cũng
đẩy mạnh phát triển văn hóa - giáo
dục. Năm 1948 ta mở Hội nghị văn
hóa toàn quốc với báo cáo quan
trọng của đồng chí Trờng Chinh:
"CN M - L và văn hóa Việt Nam"
đã giúp cho những ngời làm công
tác văn nghệ nhận rõ lập trờng
quan điểm của mình.
Phong trào bình dân học vụ tiếp tục
phát triển, tính đến 1949 ta có
khoảng 10 triệu ngời thoát nạn mù
chữ, một số tiếp tục theo học bổ túc
văn hóa.
Từ 1950 ta bắt đầu tiến hành cải
cách giáo dục nhằm xóa bỏ tận gốc
những di sản của nền giáo dục cũ,
xây dựng nền giáo dục dân chủ
nhân dân theo phơng châm là phục
vụ k/c, phục vụ dân sinh và phục vụ
sản xuất gắn nhà trờng với đời
sống xã hội nhằm đào tạo thanh
thiếu niên thành những ngời công
dân tốt, lao động tốt, chiến sĩ tốt...
Một số trờng trung cấp và đại học
cũng bắt đầu xây dựng để đào tạo
cán bộ chuyên nghiệp phục vụ nhu
cầu k/c.



Những năm từ 1951 - 1954 công
tác văn hóa - giáo dục cũng đợc đẩy
mạnh hơn nhiều. Nhiều văn nghệ sĩ
đã đi sâu vào đời sống của quần
chúng công - nông - binh để tự rèn
luyện và phục vụ nhu cầu k/c. Tính
đến 1952 chỉ riêng ở các liên khu 3,
4, 5, chiến khu Việt Bắc đã có một
triệu học sinh các cấp. Đến 1954 số
học sinh phổ thông tăng so với
1950 nh cấp 1: 130%, cấp 2 - 3 là
300%, phong trào bổ túc văn hóa
cho cán bộ, công nhân và xóa nạn
mù chữ đợc phát triển mạnh. Các
trờng trung cấp và đại học ngày
càng mở rộng đào tạo nhiều cán bộ
tốt cho đất nớc, phong trào đời
sống mới nh vệ sinh phòng bệnh,
chống mê tín dị đoan ngày càng lan
rộng trong nhân dân.
Những sự kiện chính trị, kinh tế,
văn hóa - giáo dục trên đã thổi một
luồng không khí phấn khởi mới cho
toàn Đảng toàn dân, đã làm cho
thanh thế chính trị càng thêm vững
chắc.
Những thắng lợi về mặt kinh tế đã
cải thiện đời sống của quân và dân
trong k/c đảm bảo nhu cầu kinh tế

để k/c lâu dài. Trong đó, chính sách
về ruộng đất đã thiết thực bồi dỡng
sức dân nhất là nông nghiệp, củng
cố tăng cờng hậu phơng, tăng cờng
các nhân tố thắng lợi của cuộc k/c,
trực tiếp góp phần quyết định thắng
lợi trên mặt trận quân sự.
Những thắng lợi ấy không những
đáp ứng nhu cầu bức thiết của cuộc
k/c, đẩy mạnh sự nghiệp phản
phong, xây dựng cơ sở kinh tế, văn
hóa chế độ dân chủ nhân dân mà
còn gây mầm mống cho việc tiến
lên CNXH sau này.

Đề 12: Hoàn cảnh, nội
dung, ý nghĩa của đại hội
đại biểu toàn quốc lần 2
năm 1951.
Bài làm.
Từ 1947 - 1950 ta thu đợc nhiều
thắng lợi về quân sự và ngoại giao,
tình hình trong nớc và TG lại có
nhiều biến chuyển mới đòi hỏi phải
tăng cờng sự lãnh đạo của Đảng.
Trớc mắt phải vạch ra đờng lối
đánh thắng thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ đồng thời phải nêu rõ mục

đích, nhiệm vụ, nội dung của cuộc

CM dân tộc dân chủ nhân dân ở nớc ta. Đứng trớc yêu cầu ấy Đảng ta
đã họp Đại hội đại biểu toàn quốc
lần 2 từ ngày 11 đến 19/2/1951 tại
Chiêm Hóa - Tuyên Quang. Tham
dự có 158 đại biểu chính thức và 53
đại biểu dự khuyết thay mặt cho
766.349 đảng viên trong cả nớc.
Đại hội đã nghe "Báo cáo chính
trị" của Chủ tịch HCM và báo cáo
"Bàn về CMVN" của tổng bí th Trờng Chinh. "Báo cáo chính trị" đã
tổng kết thắng lợi kinh nghiệm và
nêu nhiệm vụ chủ yếu của CMVN
lúc này là "tiêu diệt thực dân Pháp,
đánh bại can thiệp Mỹ giành thống
nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa
bình TG" và những việc cần làm để
thực hiện nhiệm vụ đó: đẩy mạnh
xây dựng lực lợng vũ trang, phát
triển phong trào yêu nớc... Báo cáo
"Bàn về CMVN" của Trờng Chinh
đã vạch ra đờng lối cụ thể của
CMDTDC nhân dân Việt Nam.
Về đối tợng chủ yếu của CMVN,
Đại hội chỉ ra là chủ nghĩa đế
quốc, thế lực phong kiến, kẻ thù cụ
thể trớc mắt của CMVN là chủ
nghĩa đế quốc xâm lợc Pháp, can
thiệp Mỹ và bọn bù nhìn Việt gian
bán nớc.
Nhiệm vụ cơ bản của CMVN là tiêu

diệt bọn đế quốc xâm lợc, đánh đổ
bù nhìn Việt gian bán nớc, làm cho
Việt Nam hoàn toàn độc lập và
thống nhất. Xóa bỏ những di tích
phong kiến, cả nớc phong kiến làm
cho "ngời cày có ruộng", phát triển
chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm
mống cho sự nghiệp XHCN ở Việt
Nam. Nhiệm vụ chống phong kiến
phải làm đồng thời với nhiệm vụ
chống đế quốc nhng phải làm có kế
hoạch, từng bớc để bồi dỡng lực lợng CM vừa giữ vững đợc khối
đoàn kết toàn dân.
Về lực lợng CMVN bao gồm g/c
công nhân, nông dân, tiểu t sản, t
sản dân tộc, 4 g/c đó hợp thành
nhân dân và nòng cốt là công nhân
và nông dân. Ngoài ra còn có các
nhân sĩ, thân sĩ yêu nớc đứng vào
mặt trận dân tộc thống nhất, tích
cực tham gia k/c. Trong đó, động
lực của CM là công nhân, nông

dân và tiểu t sản, g/c công nhân là
g/c lãnh đạo CM.
Đồng thời báo cáo cũng vạch ra
những chính sách cơ bản về chính
sách xây dựng, củng cố chính
quyền, mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất, phát triển kinh tế tài

chính... nhằm đẩy mạnh cuộc k/c về
mọi mặt.
Đại hội quyết định đa Đảng ra hoạt
động công khai lấy tên là Đảng Lao
động Việt Nam nhằm tăng cờng vai
trò lãnh đạo của Đảng. Đối với Lào
và Cămpuchia xây dựng ở mỗi nớc
một Đảng riêng phù hợp với điều
kiện cụ thể để lãnh đạo CM từng nớc đi đến thắng lợi.
Đại hội đã thông qua tuyên ngôn,
chính cơng và điều lệ mới. Quyết
định xuất bản báo "Nhân dân" là
cơ quan ngôn luận của Đảng.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành
TW gồm 19 ủy viên chính thức và
10 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm
có 7 ủy viên do HCM làm chủ tịch và Trờng Chinh làm tổng bí th.
Đại hội 2 là một mốc đánh dấu bớc
phát triển mới trong quá trình lãnh
đạo và trởng thành của Đảng ta.
Đã nêu cao vai trò của Đảng, của
g/c công nhân, làm tăng thêm lòng
tin của nhân dân và có tác dụng
đẩy mạnh k/c. Nhân dân ta đã
nhận rõ đờng lối k/c và cơng lĩnh
CM DTDC do Đảng đề ra, nhân
dân TG hiểu thêm về CMVN. Phe
XHCN cũng nh phong trào công
nhân quốc tế tăng cờng sự giúp đỡ
cho ta.


Giai

đoạn

1954

-

1975.

Đề 1: Tình hình Việt Nam sau
Hiệp định Giơnevơ và nhiệm vụ
CM trong thời kỳ mới.
Bài làm.
Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông
Dơng đợc ký kết, cuộc chiến tranh
xâm lợc Việt Nam - Lào - CPC của
thực dân Pháp và can thiệp Mĩ đợc
chấm dứt. Hòa bình đợc lập lại ở
Đông Dơng nhng đất nớc ta tạm
thời bị chia làm 2 miền với hai chế
độ chính trị khác nhau.
Miền Bắc đã hoàn toàn đợc giải
phóng, căn bản hoàn thành cuộc

CMDTDC tiến lên xây dựng xã hội
mới.
Miền Nam vẫn bị đế quốc Mĩ và tay
sai thống trị, chúng ra sức phá hoại

Hiệp định Giơnevơ, âm mu chia cắt
lâu dài đất nớc ta và biến MN
thành thuộc địa và căn cứ quân sự
của chúng.
Do đặc điểm trên Đảng và Chính
phủ đã đề ra cho CM mỗi miền
những nhiệm vụ chiến lợc phù hợp
với đặc điểm và yêu cầu CM từng
miền. Đó là MB bớc vào thời kỳ quá
độ tiến lên XHCN. Nhiệm vụ chiến
lợc của CMMB là tiến hành cải tạo
và xây dựng CNXH để làm cho MB
vững mạnh, trở thành căn cứ địa
CM của cả nớc và hậu phơng của
cuộc k/c chống Mỹ cứu nớc.
MN do vẫn còn dới ách thống trị
của đế quốc Mĩ và tay sai, Đảng
chủ trơng tiếp tục cuộc CM DTDC
mà mở đầu là thời kỳ ta đấu tranh
đòi Mĩ - Diệm thi hành nghiêm
chỉnh Hiệp định Giơnevơ 1954 về
Việt Nam. Trong quá trình diễn
biến cuộc CMDTDC phát triển
thành cuộc chiến tranh nhân dân,
chiến tranh gpdt chống cuộc chiến
tranh xâm lợc thực dân mới của Mĩ
nhằm giải phóng MN, bảo vệ MB
phối hợp với cuộc chiến đấu của
nhân dân 2 nớc Lào và CPC.
Hai miền đồng thời thực hiện

những nhiệm vụ, mục tiêu chung
của CM cả nớc là đánh Mĩ và tay
sai của chúng giải phóng MN, bảo
vệ MB hoàn thành CM DTDC
trong cả nớc, thống nhất cả nớc,
tạo điều kiện để cả nớc đi lên
CNXH - đó là nhiệm vụ thiêng liêng
của cả nớc - nhiệm vụ chống Mĩ
cứu nớc, CM nớc ta còn nhằm góp
phần bảo vệ hòa bình ở ĐNA và
TG.
Trong việc thực hiện những nhiệm
vụ mục tiêu chung của cả nớc, CM
mỗi miền có nhiệm vụ, vị trí và vai
trò khác nhau: MB là hậu phơng
nên CM có vai trò quyết định nhất
đối với sự phát triển của toàn bộ
CM cả nớc và sự nghiệp thống nhất
đất nớc. MN là tiền tuyến nên CM
có vai trò quyết định trực tiếp trong
việc đánh đổ ách thống trị của đế
quốc Mĩ và tay sai, giải phóng hoàn
toàn MN thống nhất đất nớc.
Nh vậy, giữa 2 miền có mối quan hệ
gắn bó, phối hợp với nhau tác động
qua lại và thúc đẩy lẫn nhau, tạo
điều kiện cho nhau phát triển. Vì
đó là mối quan hệ giữa hậu phơng
với tiền tuyến, thắng lợi CM mỗi
miền đồng thời là thắng lợi chung


của CM và sự nghiệp chống Mĩ cứu độ chiếm hữu ruộng đất của g/c địa
nớc của dân tộc.
chủ phong kiến bị vĩnh viễn xóa bỏ
Đề 2: Trình bày thành tựu thực hiện đợc khẩu hiệu "ngời cày
của Miền Bắc từ 1954 - có ruộng" là ớc mơ nghìn đời của
ngời nông dân Việt Nam. Ngời
1965
nông dân đã thực sự trở thành ngời
Bài làm.
Sau ngày hòa bình lập lại chủ ở nông thôn. Mặt khác, về mặt
(21/7/1954) dới sự lãnh đạo của chính trị: các tổ chức Đảng, chính
Đảng, Chính phủ và HCT nhân quyền và quần chúng đợc củng cố.
dân MB (từ vĩ tuyến 17 trở ra) đã Mặc dù trong quá trình cải cách
tiến hành 3 kế hoạch kinh tế - xã ruộng đất ta mắc một số sai lầm "tả
hội trong 10 năm (1954 - 1965). khuynh" nhng nhờ chủ trơng biện
Thắng lợi của cuộc xây dựng đất n- pháp sửa sai tích cực của Đảng,
ớc ấy đã làm cho bộ mặt của MB chính phủ nên ý nghĩa thắng lợi
thay đổi hẳn: dần khôi phục kinh tế của nó vẫn hết sức to lớn.
MB và góp phần chi viện cho tiền Việc cải cách ruộng đất này đã làm
cho khối công - nông đợc tăng cờng,
tuyến MN.
Thực tế là sau khi chiến tranh kết bộ mặt nông thôn biến đổi sau cải
thúc, nền kinh tế MB vốn rất lạc cách, đã thay đổi hẳn góp phần tích
hậu lại bị chiến tranh tàn phá nên cực vào việc thực hiện nhiệm vụ khôi
ở trong tình trạng tiêu điều: ruộng phục kinh tế.
đất bị bỏ hoang, dân c tha thớt, Khôi phục kinh tế là một quy luật
xóm làng xơ xác, nhân công, trâu đối với bất cứ nớc nào sau khi ra
bò, nông cụ thiếu một cách nghiêm khỏi chiến tranh nhất là chiến
trọng, kỹ thuật canh tác lạc hậu, tranh lại diễn ra trên đất nớc mình.

đời sống nhân dân thấp kém. Một Dới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta
số nhà máy xí nghiệp bị địch phá đã thực hiện thắng lợi kế hoạch 3
hoại trớc khi rút không hoạt động năm khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
đợc nữa hay chỉ hoạt động cầm thơng chiến tranh.
Về mặt nông nghiệp, ta đã nhanh
chừng, nạn thất nghiệp tràn lan ở
chóng khôi phục đợc ruộng đất
các vùng tự do, CN - nông nghiệp
hoang, sửa chữa các hệ thống nông
có phát triển nhng quy mô nhỏ bé,
giang và đê điều. Nhiều đập nớc
kỹ thuật yếu. Chế độ chiếm hữu
nh đập Bái Thợng, Đô Lơng, Thác
ruộng đất của địa chủ phong kiến
Đuống... đã đợc sửa chữa. Tính đến
vẫn còn phổ biến, nạn thiếu đói đe
cuối 1957 sản lợng nông nghiệp
dọa nghiêm trọng. Tình hình trên đặt đạt gần 3,9 triệu tấn so với 2,4 triệu
ra nhiệm vụ đầu tiên là phải khôi phục tấn năm 1939 - năm sản xuất cao
kinh tế hàn gắn vết thơng chiến tranh nhất trớc chiến tranh. Nạn đói có
và hoàn thành cải cách ruộng đất tính chất kinh niên ở MB đợc giải
nhằm mở đờng cho sản xuất phát quyết.
triển.
Về công nghiệp, g/c công nhân đã
Cải cách ruộng đất lúc bấy giờ đợc phát huy vai trò tiên phong của
coi là nhiệm vụ trung tâm vì có cải mình, nhanh chóng khôi phục, mở
cách thắng lợi mới tạo điều kiện rộng hầu hết các cơ sở công
khôi phục tốt, nhanh chóng nâng nghiệp, nhà máy xí nghiệp quan
cao đời sống của nhân dân và trọng nh: than Hồng Gai, ximăng
nhằm tạo điều kiện đa MB tiến lên Hải Phòng, dệt Nam Định, điện Hà

CNXH. Trong 2 năm 1955 - 1956 ta Nội... xây dựng thêm gần 50 nhà
đã tiến hành 5 đợt cải cách ruộng máy mới. Đến cuối 1957 ta đã có 97
đất trên khắp MB và thu đợc những xí nghiệp tơng đối lớn do Nhà nớc
quản lý. Tổng sản lợng công
thắng lợi to lớn.
Về mặt kinh tế ta đã tịch thu 81 vạn nghiệp và thủ công nghiệp đã đạt
mức trớc chiến tranh.
ha ruộng đất, 10 vạn con trâu bò,
Đồng thời, ta cũng đã khôi phục đợc
gần 2 triệu nông cụ chia cho trên 9
hầu hết các tuyến đờng kể cả đờng sắt,
triệu nông dân lao động.
đờng bộ, đờng thủy: 700 km đờng sắt,
Về xã hội, cải cách ruộng đất đã
sửa chữa và làm mới hàng nghìn km
đánh đổ đợc g/c địa chủ phong
đờng ô tô, xây dựng và mở rộng nhiều
kiến, uy thế về kinh tế - chính trị bến cảng: Hải Phòng, Hòn Gai, Cẩm
của g/c địa chủ đã bị đập tan. Chế

23

Phả, Bến Thủy... Đờng hàng không
dân dụng đợc khai thông.
Các ngành thủ CN, tiểu công
nghiệp và thơng nghiệp cũng đợc
phục hồi. Nền thơng nghiệp XHCN
bắt đầu phát triển. Cuối 1957
thành phần kinh tế quốc doanh đã
chiếm 58% giá trị sản lợng công

nghiệp và tiểu công nghiệp.
Cũng trong thời kỳ này Đảng, Nhà nớc còn đề ra nhiều chủ trơng biện
pháp để xây dựng, củng cố chính
quyền, xây dựng quân đội nhân dân
theo hớng chính quy hiện đại nhằm
tăng cờng phòng thủ đất nớc, phát
triển văn hóa - giáo dục, mở rộng
quan hệ ngoại giao. Đại hội mặt trận
dân tộc thống nhất toàn quốc đã họp
vào tháng 9/1955 tại Hà Nội đã quyết
định thành lập "Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam". Tuyên ngôn và cơng lĩnh
của mặt trận thể hiện tinh thần đại
đoàn kết toàn dân để hoàn thành sự
nghiệp xây dựng một nớc Việt Nam
hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ
và giàu mạnh.
Nhìn chung kinh tế đã đợc khôi
phục ngang mức trớc chiến tranh,
chế độ ngời bóc lột ngời ở nông thôn
không còn, thành phần kinh tế quốc
doanh đợc củng cố và lớn mạnh.
Thắng lợi của kế hoạch này đã tạo điều
kiện cho việc thực hiện kế hoạch 3 năm
tiếp theo.
Qua 3 năm khôi phục kinh tế ta thu
thắng lợi to lớn nhng nền kinh tế
MB căn bản vẫn là kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, kinh tế cá thể còn
phổ biến, công nghiệp còn nhỏ bé,

thành phần kinh tế t bản t doanh
mới chỉ đợc hạn chế bớc đầu. Trớc
tình hình đó Đảng ta đã đề ra phơng hớng đa MB tiến lên CM
XHCN, vạch ra kế hoạch 3 năm cải
tạo và bớc đầu phát triển kinh tế văn hóa quốc dân.
Trong nông nghiệp thực hiện vận
động hợp tác xã theo nguyên tắc tự
nguyện cùng có lợi và quản lý dân
chủ, từng bớc đa nông dân vào làm
ăn tập thể. Cuối 1960 công cuộc
hợp tác hóa đã căn bản hoàn thành
với 58% số hộ nông dân vào hợp
tác xã (trong đó có hơn 11% số hộ
vào hợp tác xã bậc cao với trên
68% S canh tác), một số nông trờng
quốc doanh mới đợc xây dựng
thêm.
Trong công nghiệp, đối với t sản
dân tộc Đảng và Nhà nớc chủ trơng
cải tạo họ bằng biện pháp hòa

bình, sử dụng mặt tích cực của t sản
đa họ vào làm ăn tập thể dới hình
thức công t hợp doanh. Cuối 1960,
công cuộc cải tạo này cũng đã căn
bản hoàn thành 97% số hộ t sản đã
vào công t hợp doanh, việc cải tạo t
sản có ý nghĩa rất lớn vì nó nhằm
xóa bỏ g/c bóc lột cuối cùng ở MB
nớc ta. Những nhà t sản và con cái

của họ đều đợc cải tạo thành ngời
lao động. Cũng cuối 1960, đã có
87,9% số hộ thợ thủ công và 45%
ngời buôn bán nhỏ vào hợp tác xã,
phần lớn tiểu thơng đã đợc chuyển
sang sản xuất. Thắng lợi này đã mở
đờng cho công thơng nghiệp XHCN
phát triển, kinh tế quốc doanh đợc
đặc biệt quan trọng. Cuối 1960 ta
đã có 172 xí nghiệp quốc doanh do
TW quản lý và 500 cơ sở CN quốc
doanh địa phơng.
Mặc dù trong cải tạo có hạn chế đó
là đồng nhất cải tạo với xoá bỏ các
thành phần kinh tế xã hội, xóa bỏ t
hữu, chủ quan nóng vội, vi phạm
nguyên tắc tự nguyện. Song kết quả
của công cuộc cải tạo XHCN đã có
ý nghĩa tích cực nhất định góp
phần thúc đẩy sản xuất phát triển
trong điều kiện chiến tranh sau
này, hợp tác xã đã bảo đảm những
điều kiện vật chất tinh thần, chính
trị cho bộ phận tham gia chiến đấu,
bảo đảm chiến đấu, củng cố hậu
phơng chiến tranh nhân dân.
Cơ cấu kinh tế xã hội của Miền Bắc
đã thay đổi cơ bản, đời sống của
nhân dân đợc cải thiện. So với 1957
thì tiền lơng thực tế của công nhân

viên chức tăng 33%. Mức thu nhập
bình quân của nông dân tăng
14,5%, văn hóa giáo dục đợc phát
triển. Cuối 1960 chúng ta đã căn
bản xoá xong nạn mù chữ cho
những ngời dới 50 tuổi, hệ thống
giáo dục phổ thông đợc hoàn chỉnh
với số học sinh tăng 80% so với
1957 MB có 9 trờng đại học, cơ sở y
tế năm 1960 tăng 11 lần so với
1955. Chính quyền dân chủ nhân
dân đợc tăng cờng làm nhiệm vụ
chuyển chính vô sản. Chúng ta có
đủ điều kiện để tiến hành một kế
hoạch kinh tế dài hạn - kế hoạch 5
năm lần 1. Thành tựu trên đợc
phản ánh trong Hiến pháp XHCN
đầu tiên của nớc ta công bố vào
ngày 1/1/1960. Hiến pháp đã khẳng
định ý chí nguyện vọng của nhân
dân Việt Nam đa MB đi lên CNXH
và đấu tranh thống nhất nớc nhà.


Cuối năm 1960 trong nghiên cứu
ngày từ 5/9 đến 12/9, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ 3 họp tại thủ
đô Hà Nội. Đây là đại hội "xây
dựng CNXH ở MN và đấu tranh
hòa bình thống nhất nớc nhà". Đại

hội đã đề ra đờng lối CM cho cả nớc và cho mỗi miền. Miền Bắc là
thuộc chiến lợc CM XHCN, MN
thuộc chiến lợc CM DTDC. Song cả
hai miền đều nhằm một mục tiêu
chung là hoàn thành CM DTDCND
trong cả nớc. Để hoàn thành mục
tiêu đó, CM mỗi miền có một vị trí,
vai trò riêng song MB có vị trí quyết
định nhất đối với sự nghiệp thống
nhất nớc nhà.
Đại hội đã thông qua kế hoạch 5
năm lần thứ nhất (1961 - 1965)
nhằm "thực hiện một bớc công
nghiệp hóa XHCN đồng thời hoàn
thành cải tạo XHCN" (Văn kiện Đại
hội 3).
Thực hiện kế hoạch 5 năm lần 1 do
Đại hội 3 đề ra, MB bớc vào thời kỳ
lấy xây dựng CNXH làm trung tâm,
phơng hớng nhiệm vụ cơ bản của
kế hoạch 5 năm là ra sức phát triển
công nghiệp và nông nghiệp, đẩy
mạnh cải tạo XHCN đối với nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thơng
nghiệp, củng cố tăng cờng thành
phần kinh tế quốc doanh, cải thiện
một bớc đời sống văn hóa, vật chất
của nhân dân lao động, củng cố
quốc phòng, tăng cờng trật tự về an
ninh quốc phòng.

Đây là phong trào tiến công vào
nghèo nàn lạc hậu nên có tác động
cổ vũ to lớn toàn Đảng toàn dân ta,
trong tất cả các ngành các giới đều
dấy lên phong trào thi đua yêu nớc
sôi nổi, phấn đấu đạt và vợt các lá
cờ đầu. Trong nông nghiệp có
phong trào "Đại Phong", công
nghiệp có phong trào "Duyên
Hải", thủ công nghiệp là phong
trào "Thành Công", quân đội có
phong trào "ba nhất", giáo dục có
phong trào "hai tốt", phong trào
chung là đạt danh hiệu "tổ đội lao
động XHCN".
Kết quả là ta đã phát triển sản xuất
và xây dựng những cơ sở vật chất
kỹ thuật bớc đầu cho nền kinh tế
quốc dân. Trong nông nghiệp ta đã
xây dựng các nông trờng quốc
doanh, trại thí nghiệm nghiên cứu
cây trồng và chăn nuôi. Hệ thống
thủy nông vừa và nhỏ phát triển
trong đó có những công trình tơng

đối lớn nh công trình Bắc Hng Hải,
nhiều hợp tác xã đã đạt và vợt trên
5 tấn thóc trên một ha gieo trồng,
trên 90% nông dân đã vào hợp tác
xã.

Trong công nghiệp, ta đã xây dựng
nhiều công trình công nghiệp quan
trọng và phát triển công nghiệp,
sản xuất hàng tiêu dùng, hình
thành một mạng lới công nghiệp
địa phơng. Năm 1961 ta có 1015 xí
nghiệp trong đó có 217 xí nghiệp
do TW quản lý còn lại là địa phơng
quản lý (798). Nhiều ngành CN mới
và khu công nghiệp mới ra đời: khu
gang thép Thái Nguyên, nhiệt điện
Uông Bí, thủy điện Thác Bà... Giá
trị tổng sản lợng công nghiệp phát
triển bình quân hàng năm là 13%
trong 5 năm từ 1961 - 1965. CN
quốc doanh chiếm tỉ trọng 93,1%
trong tổng giá trị sản lợng công
nghiệp toàn MB. Giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân. CN
nhẹ cùng với thủ công nghiệp đã
giải quyết đợc 80% hàng tiêu dùng
cho nhân dân.
Thơng nghiệp quốc doanh cũng đợc Nhà nớc u tiên phát triển nên đã
chiếm lĩnh đợc thị trờng góp phần
vào phát triển kinh tế, củng cố
quan hệ sản xuất mới, ổn định đời
sống nhân dân. Các mạng lới đờng
bộ, đờng sắt, đờng thủy đợc củng cố
và xây dựng phục vụ đắc lực cho
giao lu kinh tế và củng cố quốc

phòng.
Văn hóa - giáo dục cũng phát triển
mạnh, năm 1964 - 1965 số học sinh
phổ thông đã tăng từ 1.899.000 lên
2.676.000, sinh viên đại học tăng từ
16.700 lên 27.000. Mạng lới y tế mở
rộng: 70% số huyện có bệnh viện,
90% số xã đồng bằng và 78% số xã
miền núi có trạm y tế. Việc xây
dựng con ngời mới XHCN đợc hết
sức chú trọng.
Về mặt chính trị, quân đội nhân
dân Việt Nam đợc xây dựng một bớc thành quân đội chính quy và bớc
đầu trang bị hiện đại đủ sức bảo
đảm vững chắc MB và đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của cuộc chiến
đấu giải phóng MN, lực lợng dân
quân tự vệ cũng đợc quan tâm,
chính phủ ban hành luật nghĩa vụ
quân sự, chính quyền đợc tăng cờng củng cố. Tháng 10/1962 Quốc
hội đã thông qua Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và ủy ban hành
chính các cấp, Đảng - Chính phủ

cũng tăng cờng củng cố mối quan hệ
hợp tác với các nớc XHCN. Đồng thời
MB cũng ra sức làm nghĩa vụ hậu phơng chi viện cho MN.
Mặc dù khi thực hiện kế hoạch còn
hạn chế do t tởng giáo điều chủ
quan nóng vội, đề phơng châm mục

tiêu, các chỉ tiêu kinh tế là quá cao
so với khả năng thực tế, đặt vấn đề u tiên phát triển công nghiệp nặng,
hiện đại hóa nền kinh tế trong khi
cha có những tiền đề cần thiết.
Song các thành tựu trên đã củng cố
MB về mọi mặt để đủ sức đánh bại
các cuộc chiến tranh phá hoại và
hết lòng chi viện cho tiền tuyến lớn
MN, góp phần quyết định vào
thắng lợi của sự nghiệp chống Mĩ
của nhân dân ta trong những năm
tới.
Nh vậy, từ 1954 - 1965 MB đã có
những biến đổi sâu sắc. MB bớc
đầu đã xây dựng đợc một số cơ sở
vật chất XHCN tạo nên những thay
đổi lớn về kinh tế - thành phần kinh
tế công hữu và sở hữu tập thể về t
liệu sản xuất đã chiếm u thế và giữ
vai trò quyết định trong nền kinh tế
quốc dân.
Về chính trị, chính quyền đợc xây
dựng vững mạnh, nhân dân đoàn
kết và tin tởng vào sự lãnh đạo của
Đảng đồng thời Quân đội nhân dân
Việt Nam ngày càng có bớc trởng
thành nhanh chóng.
Về mặt xã hội chế độ ngời bóc lột
ngời và các g/c bóc lột bị xóa bỏ,
g/c nông dân đã đợc tổ chức lại

theo hình thức tập thể, tầng lớp trí
thức XHCN, g/c công nhân cũng
phát triển. Do sức lao động đợc giải
phóng, quan hệ sản xuất XHCN đợc phát triển nên kinh tế phát triển,
đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân đợc cải thiện rõ rệt, vai
trò làm chủ của nhân dân lao động
đợc nâng cao hơn. Điều đó thể hiện
tính u việt của chế độ mới - chế độ
XHCN.
Văn hóa - giáo dục, y tế phát triển trên
nhiều mặt, đội ngũ cán bộ KHKT đợc
đào tạo ngày càng nhiều, con ngời
mới XHCN là sản phẩm tất yếu của 3
cuộc CM đem lại với những đức tính
tốt đẹp, tự nhiên của họ cũng hình
thành thể hiện ở t tởng, tình cảm, khả
năng hiểu biết và quan hệ giữa họ với
nhau. Vì vậy, tại Hội nghị chính trị
đặc biệt tháng 3/1963, HCT đã nói:
"Trong 10 năm qua, MB nớc ta đã
tiến những bớc dài cha từng thấy

trong lịch sử, đất nớc, xã hội và con
ngời đều đổi mới".
Tuy nhiên, mô hình XHCN đợc xây
dựng ở MB trong 10 năm đó chỉ
phát huy đợc tác dụng trong thời
chiến nh "chính sách cộng sản thời
chiến" mà Lênin đã áp dụng ở nớc

Nga những năm 1917 - 1921. Mô
hình đó sẽ kìm hãm sự phát triển
trong thời bình. ở Nga sau khi có
hòa bình, Lên nin đã chuyển sang
chính sách kinh tế mới. Còn ở Việt
Nam sau 1975 đã không chuyển
đổi kịp thời nên rơi vào khủng
hoảng cùng với sự khủng hoảng
của phong trào cộng sản và CNXH
trên phạm vi TG. Đại hội VI của
Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra
đờng lối mới, đáp ứng yêu cầu của
lịch sử của sự phát triển trên đất nớc ta.
Một thập kỉ của lịch sử không phải
là dài nhng một thập kỉ của một đất
nớc không phải là ngắn. 10 năm
(1954 - 1965) trên MB thật xứng
đáng đối với lịch sử Việt Nam.
Đúng nh Bác Hồ nhận định MB đã
"tiến những bớc dài cha từng
thấy". Những thành tựu đạt đợc
của nhân đân đã làm cho MB "đổi
thịt thay da" và làm hậu phơng
vững chắc cho MN đánh thắng
cuộc chiến tranh xâm lợc tàn bạo
của đế quốc Mĩ trong 10 năm (1965
- 1975) tiếp theo đó.

Đề 3: Hoàn cảnh nội dung,
ý nghĩa của Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ 3.
Bài làm.
Lúc này trên TG hệ thống XHCN
ngày càng lớn mạnh, phong trào
gpdt lên cao ở khắp á - Phi - Mĩ
Latinh, phong trào đấu tranh vì
hòa bình dân chủ và tiến bộ xã hội
phát triển mạnh ở các nớc t bản.
CNĐQ do Mĩ đứng đầu đã, đang ra
sức thực hiện âm mu ngăn chặn
ảnh hởng của CNXH. Mĩ trở thành
tên "sen đầm" quốc tế chĩa mũi
nhọn vào nơi nào có phong trào
CM và phong trào chống đế quốc
triệt để.
ở trong nớc, sau Hiệp định
Giơnevơ đất nớc bị chia làm 2
miền: MN vẫn dới ách thống trị của
Mĩ và tay sai. Chúng tìm mọi cách
để chống phá CM nhng phong trào
CM của nhân dân MN vẫn phát
triển, đồng khởi đã nổ ra và thắng
lợi. ở MB đã hoàn thành nhiều kế

hoạch (cải cách ruộng đất, khôi
phục kinh tế, cải tạo XHCN). Tuy
vậy, nền kinh tế MB phổ biến vẫn
là sản xuất nhỏ. Nhiệm vụ của MB
lúc này là phải tiến lên CHXN làm
hậu thuẫn cho CMMN. Từ một

Đảng lãnh đạo nhân dân cả nớc
tiến hành một nhiệm vụ chiến lợc là
CM DTDCND. Lúc này Đảng phải
đồng thời lãnh đạo nhân dân 2
miền Nam - Bắc thực hiện 2 nhiệm
vụ chiến lợc khác nhau. Hoàn cảnh
đó đòi hỏi Đảng phải đại hội để
củng cố lại tổ chức, sắp xếp lực lợng và đề ra đờng lối cụ thể cho
CM mỗi miền và CM cả nớc.
Đại hội tiến hành họp từ ngày 5
đến 12/9/1960 tại Hà Nội tham gia
có 525 đại biểu chính thức, 51 đại
biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 50
vạn đảng viên trong cả nớc, có 17
đoàn đại biểu quốc tế. Đại hội đã
nghe và thảo luận "Báo cáo chính
trị", báo cáo sửa đổi điều lệ Đảng
thông qua Nghị quyết về đờng lối
nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn
mới.
Đại hội đã bầu ra BCH TW khóa
mới: HCM đợc bầu lại làm Chủ tịch
Đảng và Lê Duẩn là bí th thứ nhất
BCH TW Đảng.
Đại hội đã xác định nhiệm vụ
chung của CM nớc ta trong giai
đoạn mới là tăng cờng đoàn kết
toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ
vững hòa bình, đẩy mạnh CM
XHCN ở MB, đẩy mạnh CM

DTDCND ở MN thực hiện thống
nhất nớc nhà trên cơ sở độc lập và
dân chủ xây dựng một nớc Việt
Nam hòa bình thống nhất độc lập
dân chủ và giàu mạnh thiết thục
góp phần tăng cờng phe XHCN và
bảo vệ hòa bình ĐNA, TG.
Đồng thời, tại Đại hội cũng vạch rõ
nhiệm vụ CM cụ thể của mỗi miền
và mối quan hệ CM giữa 2 miền.
Điều đó thể hiện cuộc CM XHCN ở
MB có nhiệm vụ quyết định nhất
đối với toàn bộ CMVN, đối với sự
nghiệp thống nhất nớc nhà. Còn
CM DTDCND ở MN có tác dụng
quyết định trực tiếp đối với sự
nghiệp giải phóng MN của đế quốc
Mĩ và bè lũ tay sai. CM hai miền có
quan hệ gắn bó mật thiết và tác
động lẫn nhau nhằm vào mục tiêu
chung là hoàn thành CM DTDCND
trong cả nớc thực hiện thống nhất nớc
nhà và đều nhằm giải quyết mâu

24

thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc
Mĩ xâm lợc và bè lũ tay sai của chúng.
Đối với CM XHCN ở MB thì xuất
phát từ tình hình và đặc điểm

chung của MB bớc vào thời kỳ quá
độ trong đó đặc điểm lớn nhất là từ
một nền sản xuất nhỏ, kinh tế nông
nghiệp lạc hậu bỏ qua giai đoạn
phát triển t bản, Đại hội đã đề ra:
CM XHCN ở MB nớc ta là một quá
trình phát triển của 3 cuộc CM:
CM quan hệ sản xuất, CM khoa
học kỹ thuật và CM t tởng văn hóa
trong đó CM kỹ thuật là then chốt.
Về đờng lối kinh tế, ĐH xác định
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ
quá độ là công nghiệp hóa XHCN
nhằm biến MB từ một bớc nông
nghiệp lạc hậu thành một nớc
XHCN có công nghiệp hiện đại,
nông nghiệp hiện đại, văn hóa - kỹ
thuật tiên tiến làm cơ sở vững chắc
cho sự phát triển, thống nhất nớc
nhà.
Đại hội đã thông qua phơng hớng
nhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần 1
(1961 - 1965) nhằm thực hiện một
bớc công nghiệp hóa XHCN, xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
CNXH. Đồng thời tiếp tục hoàn
thiện quan hệ sản xuất XHCN.
Thắng lợi của ĐH 3 có ý nghĩa to
lớn để xây dựng, củng cố MB đấu
tranh giải phóng hoàn toàn MN

tiến tới hòa bình thống nhất Tổ
quốc. Những Nghị quyết của ĐH
Đảng lao động Việt Nam lần thứ 3
đã soi sáng những vấn đề chủ yếu
của CMVN ở cả 2 miền Nam - Bắc.
Hớng dẫn và thúc đẩy nhân dân 2
miền hăng hái đấu tranh giành
thắng lợi trong sự nghiệp CM
XHCN ở MB và CM DTDCND ở
MN.

Đề 4: Trình bày thành tựu
của MB từ 1965 - 1975 .
Bài làm.
Sau 10 năm đầu (1954 - 1965) xây
dựng XHCN ở MB trong thời kỳ
hòa bình, MB đã đạt đợc những
thành tựu to lớn. Nhng từ năm
1965 CMMB đã phải chuyển sang
một thời kỳ mới. Đây là thời kỳ MB
kết hợp một cách sinh động nhất 2
nhiệm vụ chiến lợc là giơng cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH
để tiếp tục xây dựng CNXH trong
hoàn cảnh có chiến tranh (1965 1975).
Sau 1954 lợi dụng sự suy yếu của
Pháp, Mĩ đã chiếm MNVN. Năm

1957 - 1958 chúng đã hô hào Bắc
tiến nhng phong trào "Đồng khởi"

của đồng bào MN đã nổ ra. Tiếp đó
từ 1961 - 1964 Mĩ liên tiếp thất bại
trong việc thực hiện "chiến tranh
đặc biệt" ở MN và kế hoạch tung
biệt kích ra phá hoại MB. Mĩ biết
rằng sở dĩ phong trào CM ở MN
phát triển đợc là do có sự giúp đỡ
của MB XHCN, MB làm cơ sở vững
chắc cho cuộc đấu tranh thống
nhất nớc nhà nh Nghị quyết ĐH
Đảng lần thứ 3 đã nêu. Hơn nữa,
tình hình TG lúc này cũng có nhiều
phức tạp. Mĩ đánh phá MB nhằm
ngăn chặn sự chi viện của MB cho
MN. Đây là mục tiêu số một. Tiếp
đến là phá hoại tiềm lực kinh tế,
quốc phòng của MB để làm lung
lay quyết tâm của nhân dân Việt
Nam, buộc ta phải nhận những
điều kiện của chúng. Đồng thời Mĩ
muốn củng cố tinh thần của bọn
ngụy quyền, ngụy quân ở MN đang
sụp đổ. Đó là những nguyên nhân
khiến Mĩ gây chiến tranh phá hoại
ở MB.
Trớc âm mu mới của địch từ ngày
25 đến 27/3/1965 Hội nghị TW
Đảng lần thứ 11 mở rộng đã họp,
tiếp đó là tháng 12/1965 Hội nghị
lần thứ 12 đã phân tích tình hình

và đề ra chủ trơng đối phó với địch
trong tình hình mới. Các hội nghị
này đã nhận định tình hình, so
sánh tơng quan lực lợng giữa ta và
địch đồng thời đề ra chủ trơng phát
động một cuộc chiến tranh nhân
dân, toàn dân, toàn diện, dựa vào
sức mình là chính, chuyển hớng
phát triển kinh tế, tiếp tục xây dựng
CNXH trong hoàn cảnh có chiến
tranh xâm lợc trong bất kỳ hoàn
cảnh nào nhằm bảo vệ MB, giải
phóng MN hoàn thành cuộc
CMDTDCND trong cả nớc, tiến tới
thực hiện hòa bình thống nhất nớc
nhà.
Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội nớc
VNDCCH tháng 4/1965 kỳ họp thứ
3 HCT đã tuyên bố: "lúc này chống
Mĩ cứu nớc là nhiệm vụ thiêng
liêng nhất của mọi ngời Việt Nam
yêu nớc".
Ngày 5/8/1964 Mĩ đã dựng lên sự
kiện vịnh Bắc Bộ, chúng cho máy
bay ném bom khiêu khích, bắn phá
một số nơi ở MB nh cửa sông
Gianh, Vinh, Bến Thuỷ... Ngày
7/2/1965 lấy cớ trả đũa quân giải
phóng MN tiến công doanh trại


quân Mĩ ở Plâycu Mĩ cho máy bay
ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới,
đảo Cồn Cỏ chính thức gây ra cuộc
chiến tranh phá hoại lần thứ nhất.
Mĩ đã huy động một lực lợng không
quân và hải quân rất lớn gồm hàng
ngàn máy bay tối tân thuộc 50 loại
khác nhau với các loại vũ khí hiện
đại chúng tập trung đánh phá vào
các mục tiêu quân sự, đầu mối giao
thông, nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ,
khu đông dân thậm chí cả trờng
học, nhà trẻ. Trung bình mỗi ngày
có 300 lần chiếc máy bay của Mĩ đi
gây tội ác với 1600 tấn bom đạn trút
xuống các làng mạc phố xá...
Thời gian này MB vừa phải trực
tiếp đơng đầu với đế quốc Mĩ vừa
phải làm tròn nhiệm vụ của hậu phơng lớn đối với tiền tuyến lớn MN
và nhiệm vụ quốc tế đối với CM Lào
- CPC. Dới sự lãnh đạo của Đảng
nhân dân MB đã không quản ngại
hy sinh gian khổ khó khăn thực
hiện chuyển hớng kinh tế: đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp chú
trọng phát triển công nghiệp địa
phơng và tiểu thủ công nghiệp, xây
dựng và phát triển kinh tế theo
vùng chiến lợc quốc phòng, đáp
ứng yêu cầu cả nớc có chiến tranh,

đẩy mạnh công tác phòng không sơ
tán, phân tán. Phát động cuộc
chiến tranh nhân dân chống chiến
tranh phá hoại của địch, kiên quyết
đập tan âm mu đánh phá và phong
toả MB của chúng.
Trên mặt trận chiến đấu quân dân
MB đã bắn rơi 3234 máy bay hiện
đại của Mĩ trong đó có 6 B52, 3
F111, tiêu diệt và bắt sống hàng
nghìn giặc lái, bắn cháy và làm bị
thơng 143 tàu chiến. Tháng 3/1968
tổng thống Mĩ Johnson phải tuyên
bố ném bom hạn chế MB từ vĩ tuyến
20 trở ra. Ngày 1/11/1968 Mĩ phải
tuyên bố chấm dứt hoàn toàn
không điều kiện việc ném bom MB.
Thực hiện chủ trơng của Đảng tiếp
tục xây dựng XHCN trong hoàn
cảnh có chiến tranh MB đã dấy lên
phong trào thi đua: "toàn dân
đánh máy bay địch, đánh toàn
diện", "nhằm thẳng quân thù mà
bắn" trong quân đội, phong trào
"chắc tay súng chắc tay búa" trong
công nhân , "chắc tay súng vững
tay cày" trong nông dân, "ba sẵn
sàng" của thanh niên, "ba đảm
đang" của phụ nữ, phong trào "hai
tốt" trong các trờng học... Từ các



phong trào thi đua ta đã đạt đợc
những thành tựu trong nông
nghiệp, CM kỹ thuật, sử dụng
giống mới nhờ vậy năng suất tăng,
toàn MB có 30 huyện, 2628 hợp tác
xã đạt 5 tấn thóc trên 1 ha gieo
trồng trong một năm, vợt qua bom
đạn và thiên tai thử thách MB vẫn
đạt bình quân đầu ngời là 279 kg lơng thực/ngời. Về công nghiệp, ta
đã tạm thời phân tán, sơ tán những
nhà máy xí nghiệp lớn ra nhiều nơi
để hạn chế sự phá hoại của kẻ địch
và tiếp tục sản xuất. Mạng lới CM
địa phơng nhất là mạng lới cơ khí
đợc phát triển rộng rãi, đảm bảo
nhu cầu đời sống và sản xuất cho
nhân dân, các xí nghiệp địa phơng
và các hợp tác xã thủ công nghiệp
quy mô vừa và nhỏ hình thành
chiếm 58% tổng giá trị công nghiệp
MB tính đến 1968.
GTVT chính là mục tiêu đánh phá
số 1 của địch. Hầu hết các công
trình cầu cống, thuỷ lợi đều bị đánh
phá. Chúng ta đã kết hợp việc phát
triển những đờng giao thông chiến
lợc, đờng liên tỉnh, liên huyện với
việc cải tạo ruộng đồng. Nhờ vậy

mà hệ thống đờng GT chiến lợc
cũng nh đờng giao thông nông
thôn đã tăng gấp đôi. Các phơng
tiện giao thông cũng tăng lên rất
nhiều, vừa phục vụ cho chiến tranh
vừa phục vụ cho giao lu kinh tế. Kỹ
thuật xây dựng cầu đờng phát triển
vợt bậc. Vì vậy, mặc dù quân địch
đánh phá rất ác liệt nhng xe ta vẫn
qua, hàng ta vẫn tới đích, chúng
không thể ngăn nổi sự chi viện của
MB cho MN cũng nh không ngăn nổi
sự giao lu sinh hoạt trong nhân dân
MB.
Giáo dục - y tế - KHKT vẫn phát
triển mạnh, các trờng Đại học và
THCN hàng năm đã đào tạo hàng
vạn cán bộ, vừa phục vụ trực tiếo
cho công cuộc sản xuất chiến đầu
vừa phục vụ cho công cuộc xây
dựng đất nớc sau này. Năm học
1966 - 1967 ta có 35 trờng Đại học
và cao đẳng, 117 trờng THCN. Về y
tế năm 1967 có 100% số xã ở đồng
bằng, trung du và 90% số xã ở
miền núi có trạm y tế và 97% số
huyện ở MB có bệnh viện hoặc
bệnh xá.
Ngoài ra MB vẫn hoàn thành tốt
nghĩa vụ của một hậu phơng lớn.

Đờng vận tải chiến lợc Bắc - Nam
mang tên Bác trên bộ dọc Trờng

Sơn, trên biển dọc bờ biển ngày
càng mở rộng dài hàng nghìn km
nối liền hậu phơng với tiền tuyến.
Trong 4 năm từ 1965 đến 1968 hơn
300.000 chiến sĩ quân đội, cán bộ
các ngành đợc bổ sung cho các
chiến trờng MN và xây dựng vùng
giải phóng, sức ngời sức của của
MB chuyển vào Nam trong 4 năm
tăng gấp 10 lần so với trớc.
Sau khi quân ta ở MN bắt đầu cuộc
tấn công chiến lợc năm 1972 Mĩ
cho không quân và hải quân đánh
phá một số nơi thuộc khu IV cũ và
ngày 16/4/1972 Nicxơn tuyên bố
chính thức cuộc chiến tranh phá
hoại lần thứ 2 chống MB.
Cuộc chiến tranh phá hoại lần 2 đã
vợt xa cuộc chiến tranh phá hoại
lần 1 cả về quy mô, tốc độ và cờng
độ đánh phá nhất là chúng đã sử
dụng một cách phổ biến, tạp trung
các loại máy bay hiện đại nhất.
Đặc biệt trong 12 ngày đêm cuối
1972 Mĩ đã sử dụng trên 700 lần
chiếc máy bay B52, gần 4000 lần
chiếc máy bay chiến thuật chiến

đấu, rải xuống Hải Phòng, Hà Nội
và một số nơi khác 10 bạn tấn bom
(riêng Hà Nội 4 vạn tấn) với sức
công phá tơng đơng 5 quả bom
nguyên tử mà Mĩ đã ném xuống
Nhật năm 1945. Vì vậy đã gây cho
nhân dân ta nhiều tổn thất nặng
nề.
Mục tiêu của đợt tập kích 12 ngày
đêm nhằm tàn phá một số khu vực
dân c nhất là ở Hà Nội, Hải Phòng
hòng gây hoang mang trong nhân
dân ta, làm áp lực buộc ta phải hạ
thấp một số điều khoản trong hiệp
định (do ta đa ra và Mĩ đã chấp
nhận). Phá hoại tiềm lực kinh tế và
quốc phòng, ngăn chặn nguồn tiếp
tế của hậu phơng cho tiền tuyến,
phá kế hoạch đánh lớn của ta sau
này ở chiến trờng MN. Chúng
muốn gây tổn thất lớn về ngời và
của làm cho ta mất nhiều thời gian
khắc phục hậu quả do đó không đủ
sức tiếp tục cuộc k/c ở MN. Điều đó
sẽ tạo điều kiện cho ngụy quân,
ngụy quyền có thời gian tơng đối
ổn định, tăng cờng lực lợng tạo thế
mạnh cho một giải pháp chính trị
sau này. Đồng thời, răn đe các nớc
đang đấu tranh chống CNĐQ.

Trên mặt trận chiến đấu nhờ đợc
chuẩn bị trớc với t thế luôn luôn
sẵn sàng chiến đấu quân dân ta ở
MB đã kịp thời chống trả địch ngay

ở trận đầu. Chỉ tính trong 7 tháng
đầu của cuộc chiến đấu quân dân
MB đã bắn rơi 651 máy bay, bắn
cháy bắn hỏng 80 tàu chiến của
địch.
Đầu tháng 11/1972 lực lợng phòng
không MB đã đợc lệnh gấp rút tăng
cờng chuẩn bị đối phó với bớc
phiêu lu quân sự cao nhất của địch.
Ngay từ trận đầu quân dân Mb trực
tiếp là quân dân Hà Nội, Hải
Phòng đã giáng trả địch những đòn
đích đáng đặc biệt là làm thất bại
hoàn toàn cuộc tập kích chiến lợc
của địch lập nên trận Điện Biên
Phủ trên không vĩ đại. Trong 12
ngày đêm chiến đấu 81 máy bay
hiện đại bị hạ trong đó có 34 chiếc
B52 và 5 F111 bị bắn rơi, 44 giặc
lái bị bắt sống. Riêng Hà Nội bắn
rơi 30 máy bay trong đó có 23 B52
và 2 F111. Trận Điện Biên Phủ
trên không đã đập tan ý đồ của Mĩ
muốn dùng sức mạnh giành thắng
lợi quân sự quyết định trên chiến trờng để có thắng lợi trên bàn đàm

phán. Cuối cùng, ngày 30/12/1972
Mĩ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt
động chống phá MB từ vĩ tuyến 20 trở
ra vào ngày 15/1/1973 ngừng mọi
hoạt động quân sự ở MB.
Kết quả chung trong cuộc chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại
lần 2 (từ 6/4/1972 đến 15/1/1973)
MB đã bắn rơi 735 máy bay, bắn
cháy, bắn hỏng 125 tàu chiến, diệt
và bắt sống hàng trăm giặc lái.
Thắng lợi của ta đã buộc Mĩ- ngụy
phải ký hiệp định Pari về việc chấm
dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở
MB Việt Nam.
Trên mặt trận sản xuất, xây dựng
CNXH ta cũng đạt đợc những
thành tựu đáng kể. Từ 1969 đến
tháng 3/1972 ta chuyển hớng kinh
tế từ chiến tranh sang hoà bình
thực hiện khôi phục và phát triển
kinh tế, chuẩn bị sẵn sàng chiến
đấu khi địch phá hoại trở lại. Từ
tháng 4/1972 đến hết 1972 ta lại
chuyển hớng kinh tế từ hoà bình
sang chiến tranh tiếp tục xây dựng
CNXH. Thực hiện chủ trơng của
Đảng, chính phủ và di chúc thiêng
liêng của Bác từ cuối 1969 nhân
dân ta hởng ứng 3 cuộc vận động

chính trị lớn của Đảng (lao động
sản xuất, phát huy dân chủ, tăng cờng quyền làm chủ của quần
chúng) ra sức thi đua học tập công
tác lao động, khôi phục phát triển

kinh tế xã hội và nhân dân ta đã
đạt đợc các thành tựu lớn. Trong
nông nghiệp, bớc đầu hình thành
việc phân vùng và quy vùng sản
xuất, đa chăn nuôi thành ngành
chính và tiếp tục cuộc CMKT nh
thâm canh tăng vụ, phát triển giống
lúa mới. Công nghiệp địa phơng
phát triển đã góp phần thúc đẩy
nông nghiệp tiến nhanh hơn. Sản lợng lơng thực 1970 đã tăng hơn 60
vạn tấn so với 1968, năm 1971 tuy
bị lụt song sản lợng lơng thực vẫn
tăng hơn 1968 gần 30 vạn tấn,
nhiều hợp tác xã đạt 5 tấn thóc/ha
gieo trồng.
Trong công nghiệp phần lớn các
nhà máy xí nghiệp bị đánh phá đã
đợc phục hồi, một số công trình
đang làm dở đợc u tiên đầu t xây
dựng và đa vào hoạt động nh thuỷ
điện Thác Bà hoàn thành vào
tháng 10/1971, một số ngành CN
quan trọng nh điện, than, vật liệu
xây dựng đều có bớc phát triển, giá
trị sản lợng công nghiệp năm 1971

tăng 142% so với 1968.
GTVT mặc dù bị đánh phá nặng nề
cũng đợc khẩn trơng khôi phục đặc
biệt là các tuyến đờng giao thông
chiến lợc.
Văn hóa - giáo dục cũng nhanh
chóng khôi phục phát triển, đời
sống nhân dân đợc ổn định, các cơ
quan Nhà nớc, nhân dân rời nơi sơ
tán về thành phố.
MB tích cực chi viện cho MN vợt
qua cuộc bao vây phong tỏa gắt
gao, toàn diện và ác liệt nhất của kẻ
thù. MB vẫn bảo đảm tốt nhất việc
tiếp nhận hàng viện trợ bên ngoài
vào và chi viện tốt nhất cho MN,
chiến trờng Lào - CPC. Khối lợng
vật chất chuyển từ Bắc vào Nam
ngày càng tăng. Từ 1969 đến 1971
tăng 1,6 lần so với 3 năm trớc , năm
1972 tăng 1,7 lần so với 1971, năm
1972 MB đã động viên trên 22 vạn
thanh niên bổ sung cho lực lợng vũ
trang và đa vào chiến trờng MN,
Lào, CPC. Sự chi viện to lớn của
MB đã góp phần quyết định cùng
nhân dân MN đánh thắng chiến lợc
"Việt Nam hóa chiến tranh" của
địch.
Sau khi Hiệp định Pari đợc ký kết

từ 1973 đến đầu 1975 MB thực
hiện kế hoạch 2 năm chuyển hớng
kinh tế từ chiến tranh sang hòa
bình nhằm khôi phục và phát triển
kinh tế, chi viện đầy đủ nhất cho

CMMN cùng đồng bào MN giải
phóng hoàn toàn đất nớc. Trong
những năm từ 1973 - 1975 MB đạt
đợc rất nhiều thành tựu.
Về nông nghiệp, sản lợng lúa năm
1973 là 5 triệu tấn đến 1974 tuy
gặp một số khó khăn nhng MB vẫn
đạt đợc 4,8 triệu tấn nhờ vậy chúng
ta vừa ổn định đợc đời sống nhân
dân MB vừa chi viện đầy đủ cho
yêu cầu MN tạo điều kiện thúc đẩy
các ngành kinh tế khác phát triển.
Về công nghiệp, giá trị tổng sản lợng công nghiệp và thủ công
nghiệp năm 1974 tăng 15% so với
1975. Nhìn chung, sản xuất nông
nghiệp và công nghiệp đến cuối
1974 trên một số mặt quan trọng đã
đạt và vợt mức năm 1964 và năm
1971 là 2 năm đạt mức cao nhất
trong 20 năm xây dựng CNXH ở
MB.
Trong lĩnh vực GTVT cuối tháng
6/1973 MB căn bản hoàn thành
tháo gỡ thủy lôi, bom mìn trên biển,

trên sông bảo đảm việc đi lại bình
thờng, một số bến cảng, tuyến đờng
đợc sửa chữa, một số cầu quan
trọng đợc khởi công xây dựng...
Văn hóa - giáo dục, y tế cũng
nhanh chóng khôi phục và phát
triển. Nhìn chung sau 2 năm 1973 1974 về cơ bản MB đã khôi phục
xong các cơ sở kinh tế, hệ thống
thủy nông, mạng lới GT, công trình
văn hóa - giáo dục, kinh tế có b ớc
phát triển.
Về việc chi viện cho tiền tuyến MN
trong 2 năm 1973 - 1974, MB đã đa
20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên
xung phong, cán bộ chuyên môn kỹ
thuật vào Nam, CPC, Lào. Đầu
năm 1975 ta đã đa ào Nam 57.000
bộ đội và hàng chục vạn tấn vật
chất, vũ khí, đạn dợc, xăng dầu,
thuốc men, lơng thực... Đến 1975
tuyến đờng vận tải Bắc - Nam đợc
nâng cấp dài 16.000 km và hệ
thống đờng ống dẫn dầu dài 5000
km để phục vụ đa ngời và hàng vào
chiến trờng thuận tiện, nhanh
chóng, an toàn. Sự chi viện về ngời
và của của MB cho MN thời kỳ này
ngoài yêu cầu phục vụ chiến đấu để
tiến tới cuộc tông tiến công nổi dậy
xuân 1975 đồng thời còn nhằm xây

dựng vùng giải phóng MN, chuẩn
bị tiếp quản vùng giải phóng sau
khi chiến tranh kết thúc.
Tóm lại, từ 1954 - 1975 trong công
cuộc CM XHCN và xây dựng

25

CNXH ở MB đã thu đợc những
thành tựu to lớn. MB cơ bản đã xóa
bỏ đợc chế độ ngời bóc lột ngời, bớc
đầu xác lập đợc một hình thái kinh
tế xã hội mới với một Nhà nớc
chuyên chính vô sản đợc củng cố,
cùng với hệ t tởng văn hóa xã hội
mới đã đem lại những thay đổi sâu
sắc trên tất cả mọi lĩnh vực. MB đã
vừa sản xuất vừa chiến đấu đánh
bại 2 lần chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mĩ, bảo đảm chi viện cho
tiền tuyến MN xứng đáng là hậu
phơng lớn đối với tiền tuyến lớn.
Những thành tựu trong sản xuất và
chiến đấu của nhân dân MB chứng
tỏ tinh thần CM tiến công của toàn
Đảng và toàn dân ta. Dám đánh và
đánh thắng đế quốc Mĩ, tiếp tục xây
dựng CNXH trong hoàn cảnh có
chiến tranh. Đây là một sáng tạo,
một quyết tâm lớn của Đảng và

nhân dân ta.
Việc tổ chức vừa sản xuất vừa chiến
đấu thể hiện rằng Đảng ta tin vào
năng lực tiềm tàng của quần
chúng, lòng yêu nớc nồng nàn,
lòng tin vào Đảng vào chế độ mới
của nhân dân ta. Đồng thời cuộc
chiến đấu của nhân dân MB đã
nêu rõ mối quan hệ giữa chiến
tranh và CMVN. Nếu trớc kia là
vừa k/c vừa kiến quốc thì lúc này là
vừa k/c vừa xây dựng CNXH, làm
nh vậy ta vừa tạo đợc nguồn sức
mạnh phục vụ k/c vừa chuẩn bị
tiềm năng xây dựng đất nớc về sau.
Thời kỳ này còn để lại nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu cho hiện nay khi cả nớc
đi lên CNXH.
Nếu chiến tranh là một sự thử
thách lớn đối với một chế độ xã hội
thì việc MB ra khỏi chiến tranh với
t thế của ngời chiến thắng chứng tỏ
tính u việt của chế độ CNXH ở MB
so với chế độ TBCN, chế độ thực
dân kiểu mới của Mĩ - ngụy ở MN.

Đề 5: Nhân dân miền Nam
đã đánh bại chiến tranh
đơn phơng của Mỹ - ngụy.
Bài làm.

Chiến thắng đông xuân 1953 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng
Điện Biên Phủ đã buộc thực dân
Pháp phải kí kết Hiệp định
Giơnevơ, rút quân về nớc, lập lại
hòa bình trên cơ sở thừa nhận chủ
quyền dân tộc của ba nớc Đông Dơng, kết thúc thắng lợi sự nghiệp
k/c chống thực dân Pháp. Lúc này
CMVN có hai nhiệm vụ khác nhau:

MB tiến hành hàn gắn vết thơng
chiến tranh, khôi phục kinh tế tiến
dần lên CNXH còn MN tiếp tục đẩy
mạnh của CM DTDC tiến tới thực
hiện hòa bình thống nhất đất nớc.
Mở đầu cho những thắng lợi của
nhân dân MN đó là việc nhân dân
MN đánh bại chiến lợc "chiến
tranh đơn phơng" của Mĩ - ngụy.
Tuy mục tiêu chiến lợc của cuộc
CMMN so với cuộc k/c chống Pháp
trớc đây vẫn không thay đổi nhng
về kẻ thù cụ thể và hoàn cảnh lịch
sử thì đã khác trớc nhiều. Đối tợng
CM nớc ta lần này là đế quốc Mỹ một tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực
kinh tế và quốc phòng rất lớn, đang
ôm mộng làm bá chủ toàn cầu.
Từ sau CTTG2, phong trào ngày
càng lớn mạnh cùng tấn công vào
CNĐQ. Vùng ĐNA nói chung, Việt
Nam nói riêng là nơi nóng bỏng

khiến cho bọn đế quốc phải tập
trung lực lợng chống phá để cứu
"ngôi nhà thuộc địa" của chúng
đang có nguy cơ bốc cháy ở vùng
này.
Sau Hiệp định Giơnevơ, lợi dụng
lúc Pháp suy yếu Mỹ đã hất cẳng
Pháp độc chiếm MN nớc ta bằng
CNTD mới - Mĩ đã biến nơi đây
thành một căn cứ quân sự khổng lồ
hy vọng dập tắt phong trào CM ở
Việt Nam và làm bàn đạp tấn công
phe XHCN, ngăn chặn làn sóng
cộng sản ở miền Đông Nam á.
Nhân dân MN đã phát huy truyền
thống tốt đẹp của một dân tộc anh
hùng nhất là trong cuộc k/c chống
Pháp trớc đây nhân dân MN vẫn
kiên quyết giơng cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và CNXH để chống
CNTD mới của Mĩ, căn cứ địa và sự
chi viện hậu phơng lớn Miền Bắc
XHCN là những yếu tố quyết định
giành thắng lợi của sự nghiệp k/c
chống Mỹ cứu nớc của nhân dân
MN và nhân dân cả nớc. Cuộc đấu
tranh này là chính nghĩa nên đợc
sự đồng tình ủng hộ to lớn của
nhân dân TG. Vì những lẽ đó mà đế
quốc Mỹ đã quyết tâm xâm lợc MN

đánh phá MB.
Điều kiện và hoàn cảnh đó làm cho
cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân
dân ta và đế quốc Mỹ (tiêu biểu cho
hai thế lực CM nhất và phản CM
nhất của thời đại) xảy ra là một tất
yếu lịch sử làm cho tính chất của
cuộc đấu tranh trở nên gay go phức
tạp, quyết liệt và lâu dài.

Hiệp định Giơnevơ ký cha ráo mực
đế quốc Mĩ đã rắp tâm phá hoại kế
hoạch. Côlin - Mĩ đã mu toan áp
đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở
MN nớc ta bằng những biện pháp
cổ truyền.
Về chính trị, chúng dựng lên ở MN
chế độ độc tài phát xít Ngô Đình
Diệm, xây dựng ngụy quân do Mĩ
huấn luyện, trang bị, chỉ huy làm
công cụ phá hoại hiệp thơng tổng
tuyển cử hòng chia cắt lâu dài đất
nớc ta. Chúng dùng những nhãn
hiệu độc lập giả hiệu, dùng hệ
thống cố vấn Mĩ và viện trợ kinh tế
- quân sự để thực hiện mu đồ ấy.
Về kinh tế, chúng đa lối sống Mĩ
vào MN để đầu độc nhân dân ta
nhất là các tầng lớp thanh thiếu
niên. Chúng còn đa ra những luận

thuyết lừa bịp nh "cần lao nhân
vị", "đồng tiến xã hội". Mĩ - Diệm
đã thi hành những chính sách rất
phản động nh "đả thực bài
phong", mở những chiến dịch "tố
cộng, diệt cộng", dùng luật 10 - 59
lê máy chém khắp nơi nhằm tiêu
diệt lực lợng CM và trả thù những
ngời k/c cũ, khủng bố tinh thần của
nhân dân. Chúng thực hiện chơng
trình "cải cách điền địa" nhằm cớp
lại ruộng đất của nhân dân mà CM
đã chia thời k/c chống Pháp, củng
cố thế lực của g/c địa chủ. Chúng
lập ra các khu dinh điền, khu trù
mật vừa là tổ chức kinh tế để bóc lột
ngời dân vừa là tổ chức chính trị quân sự để kìm kẹp khống chế
nông dân.
Những chính sách và sự khủng bố
dã man ấy đã làm cho hàng chục
vạn ngời yêu nớc bị giết, bị tra tấn,
tù đày, đời sống của nhân dân vô
cùng cơ cực, cả MN biến thành một
nhà tù khổng lồ vì lợi ích của bọn
Mỹ - Diệm. Nhân dân MN không
còn con đờng nào khác là phải
vùng dậy đấu tranh.
Lúc này Đảng ta chủ trơng giữ gìn
lực lợng chỉ dùng đấu tranh chính
trị hợp pháp đòi địch phải thi hành

Hiệp định Giơnevơ vì vậy cuộc đấu
tranh của nhân dân MN mở đầu
cũng bằng một phong trào đấu
tranh chính trị có tính chất quần
chúng rộng lớn, lôi cuốn hàng triệu
ngời thuộc nhiều g/c, tầng lớp xã
hội tham gia với nhiều hình thức
đấu tranh phong phú nh hội thảo,
báo chí, mít tinh, biểu tình, bãi
công, bãi thị... Tiêu biểu là các sự


×