Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

đặc điểm thơ tương phố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 97 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ HỒNG PHẤN
MSSV: 6116145

ĐẶC ĐIỂM THƠ TƯƠNG PHỐ

Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Văn học

CBHD: Th.S NGUYỄN THỊ KIỀU OANH

Cần Thơ, tháng 10 năm 2014


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Những vấn đề cơ bản về thơ
1.1.1 Một số quan niệm về thơ
1.1.2 Đặc trưng của thơ
1.1.2.1 Đặc trưng về hình thức của thơ


1.1.2.2 Đặc trưng về nội dung của thơ
1.1.3 Phân loại thơ
1.1.4 Các thể thơ cơ bản
1.2 Tình hình văn học ba mươi năm đầu thế kỉ XX
1.3 Đôi nét về nữ sĩ Tương Phố
1.3.1 Cuộc đời
1.3.2 Sự nghiệp sáng tác
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG THƠ TƯƠNG PHỐ
2.1 Nỗi nhớ trong thơ Tương Phố
2.1.1 Nỗi nhớ quê da diết
2.1.2 Nỗi nhớ khôn nguôi khi xa cách chồng
2.2 Tiếng lòng của người cô phụ - nỗi niềm riêng tây sầu muộn
2.2.1 Nỗi đau sinh ly tử biệt
2.2.1.1 Nỗi cô đơn khắc khoải – Nỗi đau ly biệt
2.2.1.2 Nỗi đau vĩnh biệt – tiếng khóc chồng não nuột của người góa phụ trẻ
2.2.2 Tâm tình hờn duyên trách phận của người góa phụ trẻ
2.2.3 Tiếng tơ lòng son sắt với mối duyên đầu ngắn ngủi
2.2.4 Nỗi lòng ngậm ngùi của người góa phụ khi “thuyền sang bến”


CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TƯƠNG PHỐ
3.1 Cách đặt nhan đề thể hiện nỗi lòng chất chứa tâm sự
3.2 Hình ảnh trong thơ Tương Phố
3.2.1 Hình ảnh thơ mang đậm nét thu sầu
3.2.2 Thơ Tương Phố giàu hình ảnh đối lập
3.3 Thơ Tương Phố mang giọng điệu ai oán, não nuột – tiếng thơ réo rắt mà thấm
thía cảm động
3.4 Ngôn từ trong thơ Tương Phố
3.4.1 Thơ Tương Phố sử dụng nhiều từ ngữ mang tính ước lệ tượng trưng, điển
tích, từ Hán Việt

3.4.2 Ngôn từ trong thơ Tương Phố mang đậm phong vị ca dao và có đan xen
thành ngữ nhuần nhị
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ------------------------------------------- Error! Bookmark not defined.
1. Lí do chọn đề tài ------------------------------------------- Error! Bookmark not defined.
2. Lịch sử vấn đề ---------------------------------------------- Error! Bookmark not defined.
3. Mục đích nghiên cứu -------------------------------------- Error! Bookmark not defined.
4. Phạm vi nghiên cứu --------------------------------------- Error! Bookmark not defined.
5. Phương pháp nghiên cứu ---------------------------------- Error! Bookmark not defined.
PHẦN NỘI DUNG ---------------------------------------- Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG ---------- Error! Bookmark not defined.
1.1 Những vấn đề cơ bản về thơ --------------------------- Error! Bookmark not defined.
1.1.1 Một số quan niệm về thơ ----------------------- Error! Bookmark not defined.
1.1.2 Đặc trưng của thơ -------------------------------- Error! Bookmark not defined.
1.1.2.1 Đặc trưng hình thức của thơ ----------- Error! Bookmark not defined.
1.1.2.2 Đặc trưng về nội dung của thơ -------- Error! Bookmark not defined.
1.1.3 Phân loại thơ -------------------------------------- Error! Bookmark not defined.
1.1.4 Các thể thơ cơ bản ------------------------------- Error! Bookmark not defined.
1.2 Tình hình văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX Error!

Bookmark

not

defined.


1.3 Đôi nét về nữ sĩ Tương Phố --------------------------- Error! Bookmark not defined.
1.3.1 Cuộc đời ------------------------------------------- Error! Bookmark not defined.
1.3.2 Sự nghiệp văn chương -------------------------- Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG THƠ TƯƠNG PHỐError! Bookmark not
defined.
2.1 Nỗi nhớ trong thơ Tương Phố ------------------------- Error! Bookmark not defined.
2.1.1 Nỗi nhớ quê hương da diết---------------------- Error! Bookmark not defined.


2.1.2 Nỗi nhớ khôn nguôi khi xa cách chồng ----- Error! Bookmark not defined.
2.2 Tiếng lòng của người cô phụ - nỗi niềm riêng tây sầu muộn Error!

Bookmark

not defined.

2.2.1 Nỗi đau sinh ly tử biệt -------------------------- Error! Bookmark not defined.
2.2.1.1 Nỗi cô đơn khắc khoải – nỗi đau ly biệt Error!

Bookmark

not

defined.
2.2.1.2 Nỗi đau vĩnh biệt – tiếng khóc chồng não nuột của người góa phụ trẻ
------------------------------------------------------ Error! Bookmark not defined.
2.2.2 Tâm tình hờn duyên trách phận của người góa phụ trẻ Error!

Bookmark


not defined.

2.2.3 Tiếng tơ lòng son sắt với mối duyên đầu ngắn ngủi Error! Bookmark not
defined.

2.2.4 Nỗi lòng ngậm ngùi của người góa phụ trẻ khi “thuyền sang bến” -- Error!
Bookmark not defined.

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TƯƠNG PHỐ - Error!
Bookmark not defined.
3.1 Cách đặt nhan đề thể hiện tiếng lòng chất chứa tâm sự Error!

Bookmark

not

defined.

3.2 Hình ảnh trong thơ Tương Phố ----------------------- Error! Bookmark not defined.
3.2.1 Hình ảnh thơ mang đậm nét thu sầu --------- Error! Bookmark not defined.
3.2.2 Thơ Tương Phố giàu hình ảnh đối lập -------- Error! Bookmark not defined.
3.3 Thơ Tương Phố mang giọng điệu ai oán não nuột – tiếng thơ réo rắt mà thấm
thía, cảm động ------------------------------------------------- Error! Bookmark not defined.
3.4 Ngôn từ trong thơ Tương Phố ------------------------- Error! Bookmark not defined.
3.4.1 Thơ Tương Phố sử dụng nhiều từ ngữ mang tính ước lệ tượng trưng, điển
tích, từ Hán Việt ----------------------------------------- Error! Bookmark not defined.
3.4.2 Ngôn từ trong thơ Tương Phố mang phong vị ca dao và có sử dụng thành
ngữ nhuần nhị -------------------------------------------- Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ------------------------------------------------- Error! Bookmark not defined.



TÀI LIỆU THAM KHẢO -------------------------------- Error! Bookmark not defined.


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong 30 năm đầu thế kỉ XX, nền văn học Việt Nam bước vào thời kì đổi mới
với sự giao lưu của hai nền văn hóa Đông – Tây. Song song đó là sự xuất hiện của
tầng lớp trí thức tân học với các tên tuổi như Hoàng Ngọc Phách, Hồ Biểu Chánh,
Trần Thiên Trung, Trần Tuấn Khải,… Và ở giai đoạn này phải kể đến nữ sĩ Tương
Phố với những sáng tác xuất phát từ tiếng lòng bi thương thầm kín. Chính điều đó đã
giúp các sáng tác của nữ sĩ dễ có sự đồng cảm và đón nhận của độc giả. Đồng thời,
điều đó phần nào cũng khẳng định tên tuổi Tương Phố trong tiến trình phát triển của
nền văn học giai đoạn 1900 - 1930.
Có thể nói, tên tuổi Tương Phố gắn liền với phong trào “nữ lưu và văn học” và
tạp chí Nam Phong của Phạm Quỳnh. Nữ sĩ đóng góp cho văn chương ở cả hai lĩnh
vực: văn xuôi và thơ. Thế nhưng, những sáng tác của nữ sĩ ở lĩnh vực văn xuôi không
mấy được chú ý mà những đóng góp về thơ của bà lại được đón nhận và lưu lại dấu ấn
trong lòng độc giả. Và đáng phải kể đến là tác phẩm Giọt lệ thu – một thi phẩm đặc
biệt được đăng trên tạp chí Nam Phong năm 1928. Tác phẩm là tiếng lòng thê thiết của
người góa phụ trẻ khóc thương cuộc đời ngắn ngủi của người chồng và than thở cho
phận bạc má hồng phải sớm mất chồng lúc tuổi đôi mươi. Cũng xuất phát từ nỗi lòng
đó và sự đa cảm trước cảnh sắc mùa thu mà những thi phẩm sau này của bà đều gắn
liền với mùa thu và nỗi đau sinh ly tử biệt: cảnh thu họa cùng tâm thu. Có thể nói, đó
là cái hồn thơ muôn thuở của Tương Phố. Đến với thơ Tương Phố, ta bắt gặp nỗi lòng
da diết khi xa quê và nỗi nhớ khôn nguôi khi vắng bóng chồng. Và hơn hết, thơ Tương
Phố còn thể hiện nỗi đau khôn xiết khi mất chồng, bên cạnh đó còn là tiếng lòng thủy
chung son sắt với mối duyên đầu ngắn ngủi khi người thiếu phụ trẻ đành phải bước
thêm bước nữa để đỡ đần cha già và đứa con thơ dại. Những khía cạnh nội dung trên

được nhà thơ thể hiện qua cách đặt nhan đề, hình ảnh, ngôn từ, giọng điệu,… với một
sự tỉ mỉ, với một nỗi lòng chân thật đầy ắp tâm sự.
Cùng với Tản Đà và Đông Hồ, Tương Phố đã khơi nguồn cho dòng văn học lãng
mạn sầu não trong nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1900 – 1930 một nỗi buồn
da diết. Nhờ vậy mà đã tạo nên một khởi sắc cho thi ca hiện đại – thời đại Thơ mới với
những tên tuổi như Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu trọng Lư,… Phải nói rằng
những thi phẩm này đạt đến sự điêu luyện khi được thể hiện bằng một giọng điệu não
1


nuột, ai oán mà tình ý thì đậm đà, chân thật. Thuộc thế hệ nữ lưu tân tiến những năm
20 của thế kỉ XX, nhìn chung, những thi phẩm của Tương Phố chủ yếu thuộc thể loại
lục bát và song thất lục bát, ngoài ra còn có một số bài được làm theo thể Đường luật.
Quá trình sáng tạo nghệ thuật là quá trình nữ sĩ đeo đuổi dai dẳng cái tình thu da diết.
Và đúng như Vũ Ngọc Phan đã nhận định: “Cái buồn của Tương Phố là cái buồn có
cớ, cái buồn thật sự, cái buồn ghi sâu tận đáy lòng, nhưng nó đã lây sang ít nhiều tâm
hồn đa cảm, làm cho họ có những cái buồn vô cớ, những mối sầu không đâu” [15;
tr.157]. Thế nhưng những vần thơ của bà chỉ được ngâm ngợi trong một thời gian ngắn
ngủi chứ không vang vọng xa và lâu như những vần thơ lãng mạn sau này. Phải chăng
vì thơ bà mang tính cá nhân nhất thời? Nhưng đó không chỉ là tiếng nói cá nhân, đó
còn là tiếng nói bà cất lên hộ cho lớp thanh niên cùng chung cảnh ngộ. Có thế mới
thấy được nỗi lòng của một nhà thơ nữ trong nền văn học buổi đầu hiện đại.
Tương Phố đã mạnh dạn khẳng định vị trí của mình nói riêng và của những
người phụ nữ nói chung trong nền văn học buổi đầu hiện đại hóa văn học. Vì những lẽ
trên, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu đề tài Đặc điểm thơ Tương Phố. Với đề tài
này, chúng tôi mong muốn khơi gợi lại trong lòng người đọc những thi phẩm của một
nữ sĩ đã từng một thời làm tê tái lòng người. Và nhất là, chúng tôi mong muốn đóng
góp một phần nhỏ công sức vào các công trình nghiên cứu về thơ Tương Phố nói riêng
và những sáng tác văn chương nói chung mà nữ sĩ đã đóng góp cho nền văn học nước
nhà.

2. Lịch sử vấn đề
Trong quá trình sáng tác thơ ca, Tương Phố đã đến với đời bằng tiếng lòng chân
thật của riêng thi sĩ. Tương Phố đã sống với kỉ niệm và tái hiện nó vào từng trang thơ
một cách nhuần nhị. Những vần thơ ấy thấm sâu vào tâm hồn những ai đã từng đọc thơ
bà, dù chỉ một đôi lần.
Có thể nói, Vũ Ngọc Phan là người đầu tiên xem xét thơ Tương Phố với một lối
cảm nhận tinh tế nhất. Ông từng đề tên bà vào danh mục quyển Nhà văn hiện đại và
đưa ra những ý kiến đánh giá tỉ mỉ, chi tiết. Trước tiên, chúng ta cùng xem xét những
đánh giá của ông về mặt nội dung trong thơ Tương Phố. Ông đã đưa ra lời nhận xét:
“Cái ngày mà thơ Tương Phố bắt đầu thổi trên tạp chí Nam Phong, tức là ngày “ngọn
gió thu” bắt đầu thổi, rồi thu ấy qua, thu khác lại, ngọn gió thu vẫn không làm khô
được nước mắt của người sầu thu, vì không còn bài thơ nào của bà là không nhắc nhở
2


đến cái mùa cây khô lá vàng” [15; tr.156]. Qua đây, chúng ta có thể thấy, Vũ Ngọc
Phan đã thật xác đáng khi chỉ ra cái hơi thu man mác, dìu dịu, cứ lan ra và tỏa đầy
những trang thơ Tương Phố. Và đúng như Vũ Ngọc Phan nhận xét, cái tình thu là
mạch cảm xúc chung trong hầu hết những sáng tác thơ của bà. Dường như cái mạch
sầu ấy không dứt được, cũng như ngọn gió thu thổi mãi mà “không làm khô được nước
mắt của người sầu thu” [15; tr.156]. Không chỉ thế, ông còn thể hiện thái độ tích cực
khi đánh giá về thi phẩm Giọt lệ thu: “Bài Giọt lệ thu mà Tương Phố viết mùa thu năm
Quý Hợi (1923) và đăng trên tạp chí Nam Phong cách đây 10 năm (Nam Phong, số
131 – tháng Bảy 1928) có thể coi là bài mở đầu cho một lối thơ thê lương ảo não gần
đây”[15; tr.157]. Ông chỉ ra được nỗi buồn, nội dung chính của Giọt lệ thu: “Cái buồn
của Tương Phố là cái buồn có cớ, cái buồn thật sự, cái buồn ghi sâu tận đáy lòng,
nhưng nó đã lây sang ít nhiều tâm hồn đa cảm, làm cho họ có những cái buồn vô cớ,
những mối sầu không đâu” [15; tr.157]. Nhưng rồi ông cũng bộc lộ quan điểm đúng
đắn khi nhìn thi phẩm trong mối quan hệ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện sự tiếc
nuối của mình: “Giá phải một nước văn hóa phồn thịnh, một văn phẩm hay một thi

phẩm được nhiều người chú ý như thế, đã gây nên một phong trào mới cho thơ văn
rồi. Nhưng cái học phong của nước ta xưa nay vốn lặng lẽ, những điệu thơ réo rắt của
Tương Phố chỉ được ngâm ngợi trong một thời gian ngắn ngủi, rồi cũng tàn tạ theo
lòng sốt sắng của người Việt Nam, không được tốt số như tập Wether của Goethe, tập
truyện đã gây nên phong trào lãng mạn ở Âu châu” [15; tr.157]. Đúng vậy, không chỉ
riêng Giọt lệ thu của Tương Phố mà còn cả những thi phẩm sau này của bà cũng “chỉ
được ngâm ngợi trong một thời gian ngắn ngủi” rồi chìm dần vào quá khứ, vào quên
lãng theo thời gian. Cùng viết về nỗi đau tình riêng nhưng những vần thơ ấy không tạo
nên phong trào lãng mạn cho văn học Việt Nam mà chỉ khơi gợi cho dòng văn học
lãng mạn với những tâm hồn đa cảm thế hệ 1930-1945.
Tiếp theo, Vũ Ngọc Phan cũng đã chỉ ra hai bài “tuyệt xướng” trong những sáng
tác thơ của Tương Phố: “Nhưng thơ của Tương Phố mà tuyệt xướng thì chỉ có hai bài:
thứ nhất là bài Khúc thu hận (N.P. số 164 - tháng Bảy 1931) rồi đến bài Tái tiếu sầu
ngâm (N.P. số 147 – tháng Hai 1930)” [15; tr.162]. Cụ thể, ông đã so sánh Khúc thu
hận với Chinh phụ ngâm và Truyện Kiều: “Bài Khúc thu hận làm thể song thất lục
bát là một bài rất điêu luyện và ý cực hay, nhiều câu không khác gì những câu trong
Chinh phụ ngâm… không kém gì những câu hay nhất của Nguyễn Du trong Kim Vân
3


Kiều”[15; tr.163]. Nhà phê bình lại còn khẳng định: “… cái điệu thảm sầu ai oán ấy
vẫn cảm người ta một cách ngây ngất như xưa, đủ biết bài thơ hay đã vượt ra ngoài
thời gian rồi”[15; tr.163]. Điều này chứng tỏ Vũ Ngọc Phan đã hiểu thấu với nỗi lòng
và cảm thông với nữ sĩ bằng một tấm lòng chân thành, tha thiết. Rồi đến tác phẩm Đời
đáng chán, vẫn bằng giọng điệu cảm thương, chia sẻ với thơ, với cuộc đời của nhà
thơ: “Ở đời, thói thường là vừa gặp cảnh sung sướng mới thì lấy làm tự mãn và quên
cảnh xưa, nhưng Tương Phố là một người “cửa hầu gửi áng xuân tàn, chén vinh hoa
nhắp muôn vàn đắng cay”, nên đọc thơ bà, ai cũng phải thương cảm” [15; tr.165].
Phải nói rằng, Vũ Ngọc Phan đã rất tỉ mỉ khi xem xét thơ và thể hiện cách nhìn nhận
về cuộc đời Tương Phố.

Bên cạnh Vũ Ngọc Phan, chúng tôi còn tìm thấy một số ý kiến đóng góp khác về
thơ Tương Phố. Trong bài viết Những giọt lệ ấm tình người, tác giả Hoài Anh có dẫn
ra ý kiến của Hoàng Ngọc Phách - người bạn cùng thời với Tương Phố, ông nhận xét:
“… Theo ý tôi, thì sự chết của ông Thái Văn Du chỉ là một cái bi hứng cho bà Tương
Phố thành ra tác giả Giọt lệ thu, chớ cái bản chất của bà vẫn đáng cho ta phải cảm
phục mến yêu”[1; tr.384-385]. Nhận định này đã chỉ ra cái duyên cớ - “cái bi hứng” để
Tương Phố đến với văn chương và cái tấm lòng đáng mến của nhà thơ dành cho
chồng. Ngoài ra, Hoài Anh còn đưa ra nhận định: thơ Tương Phố “vượt xa những bài
thơ giả tạo, mòn sáo đăng nhan nhản ở mục Văn tuyển của tạp chí Nam Phong đương
thời, vì lời tuy cổ kính nhưng vẫn thành thật”[1; tr.385]. Và “Về sau tôi được đọc bài
Khúc thu hận của bà, còn điêu luyện hơn Giọt lệ thu, chứng tỏ bà không ngừng rèn
luyện về nghệ thuật…
…Còn về thành thật thì không gì hơn bài Tái tiếu sầu ngâm bà làm khi tục huyền
với ông Phạm Khắc Chánh, chứa tình ý đậm đà lại thiết tha của một người nuốt lệ
ngậm cười mà ôm cầm thuyền khác vì nghĩ đến đứa con côi không nơi nương
tựa…”[1; tr.385]. Ở nhận định này, Hoài Anh đã hết mực khen ngợi Tương Phố: “vượt
xa”, “điêu luyện” và “thành thật” hơn so với những bài thơ của những tác giả cùng
thời. Nhận định này có phần đồng nhất với nhận định của Hoàng Ngọc Phách khi đề
cập đến cái “tình ý đậm đà lại thiết tha”của Tương Phố trong thơ.
Không chỉ thế, trong Từ điển Tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam, Chu Huy
cũng có viết: “Giọt lệ thu là một tiếng khóc dài não nùng giữa mưa thu, sầu thu không
dứt, sụt sùi như Chức Nữ biệt Ngưu Lang, nên đọc thơ, đọc văn bà, ai cũng thương
4


cảm. Vào khoảng những năm 30 của thế kỉ XX, thơ Tương Phố réo rắt, lâm ly làm cảm
động cả một văn đàn công khai mới đang hình thành và với Giọt lệ thu, bà đã tạo lập
cho mình một phong cách riêng: phong cách trữ tình ai oán, cá biệt hóa từng hồn thơ,
phong cách thơ. Về phương diện lý luận văn học nói chung, sự phát lộ phong cách là
bước khởi đầu của sự sáng tạo văn chương. Vô tình hay hữu ý, nhà thơ Tương Phố đã

đi tiên phong về lĩnh vực này”[12; tr.764]. Đến với Giọt lệ thu, Chu Huy đã nhận ra
tiếng khóc não nùng của người cô phụ, và cảm thương với tâm sự của nhà thơ. Và
trong nhận định của mình, ông cũng đã khẳng định vai trò của Tương Phố ở một vị trí
“tiên phong” trên con đường phát lộ phong cách, mặc dù ý kiến này của ông có đôi
chút khoa trương.
Cũng cùng quan điểm với Chu Huy, khi nhận ra vai trò của Tương Phố, Nguyễn
Huệ Chi cũng có nhận định: “Tương Phố đã góp vào văn chương hợp pháp 30 năm
đầu thế kỉ XX một tiếng khóc ảo não. Ít nhiều bà có làm sống lại trong tâm trạng của
người chinh phụ trong văn học quá khứ. Bà cũng tiếp nhận âm hưởng tiếng khóc của
bao nhiêu văn nhân thi sĩ qua nhiều bài văn tế, văn điếu, bài vãn của nhiều đời. Nhưng
nỗi đau xót bất hạnh của bà có nhiều sầu thảm, vô vọng hơn, cũng nhuốm màu sắc
hiện đại hơn, vì trong đó không chỉ có nỗi đau riêng mà còn gói cả “Trời sầu” của thế
hệ thanh niên tiểu tư sản thành thị Việt Nam những năm sau Đại chiến I…” (dẫn lại
theo Từ điển Tác giả văn học Việt Nam thế kỉ XX) [22; tr.1167-1168]. Đánh giá này
có phần mở rộng hơn khi cho rằng “trong nỗi đau xót bất hạnh” của Tương Phố
“nhuốm màu sắc hiện đại” như tác giả đã giải thích.
Về tác phẩm Giọt lệ thu, Trần Mạnh Thường cũng có đề cập: “Và cái tột cùng
của nỗi nhớ mong khắc khoải đó là Giọt lệ thu. Giọt lệ thu… là tiếng khóc thảm thiết
của người vợ trẻ chờ chồng đằng đẵng 3 năm, nay về quê chưa kịp gặp mặt vợ con đã
mất:“Thôi thế là thôi, một dải khăn ngang, năm thân gấu sổ, trăm năm tâm sự, còn
nói năng gì”. Nỗi đau của người vợ quyện vào mùa thu, mùa ân ái, thu chia ly, thu
tang tóc”[22; tr.1167]. Tác giả đã chỉ ra được cái đặc trưng về khía cạnh nội dung
trong Giọt lệ thu, đó là nỗi đau tột cùng của người phụ nữ trẻ khi khóc biệt chồng.
Trong phần nội dung, có lẽ vì xuất phát từ nỗi đau riêng nên xuyên suốt những
sáng tác của Tương Phố chúng ta có thể thấy nỗi đau ấy tái đi tái lại như thấm vào
từng trang thơ. Nhưng vì nỗi đau ấy trải dài và đôi khi được lặp lại nên khi đọc thơ bà
5


chúng ta sẽ cảm nhận được một giọng điệu quen thuộc, song trong mỗi bài thơ vẫn có

điểm riêng đáng chú ý.
Về nghệ thuật trong thơ Tương Phố, chúng tôi xét thấy có một số ý kiến đánh giá
như sau. Đầu tiên là một số đánh giá theo quan điểm tích cực. Theo quan điểm của Vũ
Ngọc Phan thì: “… thơ mà âm điệu cũng du dương, nhưng tính tình lại thấm thía mà
gần gụi với người đời, trước hết phải kể thơ Tương Phố”[15; tr.156]. Nhận xét này của
ông dường như đã bao quát được nét chung về giọng điệu trong nghệ thuật thơ Tương
Phố. Đó là một âm điệu du dương, nhẹ nhàng nhưng tiếng thơ lại thấm sâu và lắng
đọng trong tâm tưởng người đọc. Nó khiến cho người đọc cảm thấy “gần gụi” và
“thấm thía” với tâm sự của nhà thơ.
Hơn thế nữa, nhà phê bình còn dành sự ưu ái cho Tương Phố khi so sánh với thi
sĩ Đông Hồ vì cả hai đều là những cây bút thường xuyên góp mặt cho tạp chí Nam
Phong: “Nếu đem so sánh Đông Hồ với Tương Phố - hai người cùng là bỉnh bút của
tạp chí Nam Phong – người ta thấy Đông Hồ là tay thợ thơ, còn Tương Phố mới thật
có tâm hồn thi sĩ. Cái tâm hồn này lại là một tâm hồn đặc Việt Nam, không chịu ảnh
hưởng một cái đặc ngoại lai nào cả”[15; tr.157]. Và sở dĩ nói như vậy là vì ông nhận
thấy, về nghệ thuật thì: “thơ của bà nhẹ nhàng, dễ dãi như những câu ca dao cẩm tú,
nên có cái sức cảm người ta về âm điệu trước rồi về ý sau”[8; tr.157]. Qua đây, Vũ
Ngọc Phan đã chỉ ra cái âm điệu ca dao trong thơ Tương Phố: ngọt ngào, sâu lắng.
Tiếp theo đó, tác giả Nhà văn hiện đại còn đưa ra nhận định về lối hành văn
trong thi phẩm Giọt lệ thu: “Giọt lệ thu là một bài vừa văn xuôi, vừa văn vần, mà mỗi
đoạn văn vần là một tiếng khóc thiết tha, ai oán. Văn xuôi của Tương Phố trong bài
này, ngày nay chắc nhiều người cho là cổ nhưng thật là một lối văn đặc biệt, vì nó gần
như thơ”[15; tr.158]. Và “cũng như về văn vần, về văn xuôi trong bài Giọt lệ thu,
Tương Phố cũng hay dùng những chữ cổ đượm màu xưa, để diễn tả nỗi u hoài, những
điều uất ức”[15; tr.158]. Ông cũng nhìn nhận về thể thơ của nữ sĩ: “Tương Phố chỉ sở
trường về thơ lục bát hay song thất lục bát. Dùng hai thể thơ đặc biệt Việt Nam để
diễn tả những tính tình đặc Việt Nam là rất hợp; vì lẽ ấy mà hai thể thơ đó, bà đã có
những bài tuyệt tác”[15; tr.167].
Vũ Ngọc Phan đã có không ít lời khen dành cho nữ sĩ, tuy nhiên ông cũng không
quên dành cho Tương Phố những lời nhận xét khách quan thẳng thắn trong lối viết:

“Thơ của Tương Phố lắm khi lời rất sáo, nhưng nhờ âm điệu du dương mà gây được
6


những cảm tưởng man mác, cho nên muốn thưởng thức thơ của bà, cần phải ngâm lên
mới được”[8; tr.160] hay “Những đoạn văn xuôi trong Giọt lệ thu đã là những đoạn kể
lể của người thiếu phụ khóc chồng, tất nhiên nhiều chỗ nó cũng lôi thôi và dài dòng
như những lời kể lể”[15; tr.160]. Ông thực sự tỉ mỉ khi đánh giá về thơ Tương Phố.
Sự tỉ mỉ đó còn được thể hiện trong cách nhìn nhận về thể thơ. Về thể Đường luật
thì nhà phê bình cho rằng “không được hay”: “Câu “Lửa hương thôi đã lỡ muôn vàn”
và những chữ “đường danh lợi” và “lối đoạn tràng” không đi được với nhau. Câu
“Nửa chăn bụi lấp nửa canh tàn” tuy tác giả muốn tả cái cảnh cô đơn, nhưng thật là
vô nghĩa, vì thiếu thứ gì có thể lấp bụi mà tác giả lại chọn cái chăn nó vừa không
thanh cao vừa không đúng sự thật. Câu kết “Chi xiết lòng em nỗi dở dang” khí quá
nhẹ đối với cái tình rất nặng của tác giả đối với người đã qua”[15; tr.166-167]. Như
vậy, qua những đánh giá trên, có thể thấy Vũ Ngọc Phan đã thật khách quan khi nhìn
nhận về một số khía cạnh trong thơ Tương Phố. Song song đó, ông cũng dẫn ra những
dẫn chứng thật xác đáng chứng minh cho nhận định của mình.
Nhìn chung, những ý kiến đánh giá trên đã góp phần chuyển tải một số khía cạnh
về nội dung và nghệ thuật trong một số thi phẩm của Tương Phố. Qua những lời khen,
một số ý kiến phê bình khách quan của những nhà nghiên cứu đã dẫn, chúng tôi mong
muốn khơi gợi lại những thi phẩm mà Vũ Ngọc Phan từng nhận xét là “chỉ được ngâm
ngợi trong một thời gian ngắn ngủi rồi cũng tàn tạ theo lòng sốt sắng của người Việt
Nam” [15; tr.157]. Đồng thời, chúng tôi cũng mong muốn người đọc có cái nhìn khách
quan và tiếp nhận những thi phẩm của nữ sĩ theo một chiều hướng tích cực hơn. Mặt
khác, những ý kiến, nhận định trên phần nào đã khơi gợi hướng tiếp cận cho người viết
trong quá trình thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài Đặc điểm thơ Tương Phố với những mục đích sau:
Trước hết, chúng tôi mong muốn người đọc cảm nhận được những nét đặc sắc về

phương diện nội dung trong hầu hết các sáng tác thơ của Tương Phố mà chúng tôi
khảo sát. Qua đó, phần nào hiểu được nỗi lòng chất chứa tâm sự của người góa phụ trẻ
với duyên kiếp bẽ bàng và tình cảnh trái ngang cũng như trò đùa trớ trêu của tạo hóa
đối với số phận của người phụ nữ.
7


Tiếp theo, chúng tôi cũng mong muốn người đọc thấy được những nét tiêu biểu
về nghệ thuật trong những sáng tác thơ của Tương Phố. Đồng thời, có thể dễ dàng tiếp
nhận và công nhận sự đóng góp của bà về một số phương diện nghệ thuật trong thơ.
Cuối cùng, chúng tôi hy vọng qua đề tài nghiên cứu này, những sáng tác thơ của
nữ sĩ Tương Phố sẽ ngày càng phổ biến hơn và được người đọc đón nhận với sự cảm
thông chân thành và sâu sắc. Và hơn hết, chúng tôi mong muốn khẳng định phần nào
sự cống hiến của nữ sĩ trong nền văn học nước nhà giai đoạn 1900 - 1930.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài Đặc điểm thơ Tương Phố, chúng tôi chủ yếu tìm hiểu và khai
thác sâu vào những sáng tác thơ tiêu biểu của nữ sĩ Tương Phố để phát hiện ra những
khía cạnh về mặt nội dung và nghệ thuật mà nhà thơ thể hiện.
Song song đó, chúng tôi cũng tìm hiểu một số bài thơ của Đông Hồ, Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm,… để so sánh một vài phương diện cả
về nội dung lẫn nghệ thuật thể hiện. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng có tham khảo một số
bài viết có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu: Đặc điểm thơ Tương Phố, chúng tôi sử dụng một
số phương pháp dưới đây:
 Phương pháp tiểu sử: chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm tìm hiểu và
giới thiệu sơ nét về cuộc đời (nhất là những mối quan hệ riêng tư) và sự nghiệp văn
chương của nhà thơ Tương Phố. Qua đó thấu hiểu được sự đối ứng giữa thơ và biến cố
đời tư trong một giai đoạn tương thích của cuộc đời nữ sĩ.
 Phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương

pháp này để so sánh, đối chiếu một số luận điểm được nêu ra trong nội dung nghiên
cứu. Sự so sánh này diễn ra giữa những bài thơ được khảo sát của Tương Phố và một
số bài thơ của những tác giả khác có cùng phương diện. Qua đó, thấy được những nét
riêng tiêu biểu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật trong thơ Tương Phố.
 Phương pháp phân tích – tổng hợp: Đây là phương pháp được chúng tôi sử
dụng chủ yếu khi nghiên cứu đề tài này. Với phương pháp này, chúng tôi có thể làm rõ
từng khía cạnh trong những phương diện nội dung và nghệ thuật thể hiện trong những
sáng tác thơ của nữ sĩ. Sau khi sử dụng phương pháp phân tích, chúng tôi sẽ kết hợp
8


với phương pháp tổng hợp để có thể đúc kết lại những luận điểm đã nêu ra trong đề tài
nghiên cứu. Từ đó, chúng tôi mong muốn thuyết phục người đọc trong cách nhìn tổng
quát hơn và nắm bắt chính xác vấn đề nghiên cứu đã được đặt ra.

9


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Những vấn đề cơ bản về thơ
1.1.1 Một số quan niệm về thơ
Thơ hay thơ ca, là thể loại có lịch sử hình thành lâu đời nhất trong lịch sử hình
thành của các thể loại văn chương. Theo Hà Minh Đức thì từ xa xưa, thơ đã bắt đầu
xuất hiện dưới những hình thức đầu tiên “là những bài hát trong lao động của người
nguyên thủy, những lời cầu nguyện nói lên những mong ước tốt lành cho mùa màng,
và đời sống trong các bài niệm chú”[5; tr.165]. Theo như Trần Đình Sử trong quyển Lí
luận văn học (tập 2) thì “Thơ là dạng thức ban đầu của văn học”[19; tr.255] và thơ có
thể được hiểu theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng thì thơ được dùng để chỉ chung những
tác phẩm nghệ thuật; theo nghĩa hẹp, thơ dùng để chỉ một thể loại văn học riêng biệt

(dùng để phân biệt với trữ tình và kịch). Qua quá trình phát triển lâu dài cùng với sự
tiến bộ của nền văn minh nhân loại, thơ đã hình thành và phát triển với nhiều thể thức
khác nhau. Và do vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về thơ, nhưng chủ yếu xoay
quanh mối quan hệ về đặc trưng thể loại.
Khi bàn về thơ, Trần Mạnh Tiến có dẫn ra một số quan niệm của những tác giả
đã đóng góp cho nền văn học viết bằng chữ Quốc ngữ: “Nhà cựu học Phan Kế Bính
vẫn đồng tình với quan niệm “thi dĩ ngôn chí” trong truyền thống lí luận thơ cổ điển
Trung Hoa và quan niệm về thơ của Lưu Hiệp trong tác phẩm Văn tâm điêu long cho
rằng: “Thơ để nói chí của mình, thơ để ngâm vịnh tính tình”. Phan Khôi lại dựa vào
truyền thống thơ dân tộc và nêu ra ý kiến: “Thi là một lối văn có vần theo thanh âm từ
điệu của một thứ tiếng mà làm ra”. Nhìn từ thơ truyền thống đến thơ phương Tây,
Phạm Quỳnh cũng nhất trí cho rằng: “Thơ là tiếng kêu tự nhiên của con tâm”. Nhìn
từ hình thức biểu đạt, Nguyễn Văn Ngọc cho rằng: “Thơ là một thể văn có thanh, có
vận ngâm vịnh được” v.v…”[20; tr.90].
Trong quyển Tìm hiểu thơ, Mã Giang Lân có trích dẫn ý kiến của Lưu Trọng Lư
đăng trên tạp chí Tao Đàn năm 1939. Nhà thơ cho rằng: “Thơ sở dĩ là thơ, bởi vì nó
súc tích gọn gàng, lời ít mà ý nhiều và nếu cần, phải tối nghĩa, mà tối nghĩa chỉ vì thi
nhân không xuất diện một cách trực tiếp, lời nói của thi nhân phải là hình ảnh”[9;
tr.14]. Các cách hiểu này nghiêng về đặc trưng hình thức của thơ. Và theo ý này thì
10


ngôn từ trong thơ phải giàu tính đặc tả, phải “súc tích”, mà cốt yếu phải thể hiện được
bản chất “ý tại ngôn ngoại” của thơ. Còn riêng Mã Giang Lân thì nêu ra định nghĩa:
“Thơ là một thông báo thẩm mỹ trong đó kết hợp bốn yếu tố Ý - Tình - Hình - Nhạc”
[9; tr.22]. Và theo đó, khi tạo ra một sản phẩm thơ, nhà thơ phải bộc lộc thái độ, tình
cảm (một cách trực tiếp hay gián tiếp) thông qua hình ảnh được thể hiện qua ngôn từ,
phối hợp với cách ngắt nhịp nào đó để tạo nhạc điệu cho thơ. Có thể nói, cách định
nghĩa này sẽ rất phù hợp với những bài thơ được đánh giá là thiên tuyệt bút, vì nó phù
hợp với quan niệm “thi trung hữu họa” và “thi trung hữu nhạc” có trong văn học trung

đại.
Còn theo Phan Ngọc, trong Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học thì:
“Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ,
phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức ngôn ngữ này”[13; tr.29]. Theo cách
giải thích này thì chính cách sắp xếp ngôn ngữ có chủ ý của nhà thơ có sức ảnh hưởng
lớn, nó mang tính quyết định giá trị của một bài thơ. Và người đọc tiếp nhận, thưởng
thức và phát hiện ra những nét đặc sắc đó, nhận ra cái hay của bài thơ nhờ sự sắp xếp
ngôn từ hết sức quái đản. Chúng ta có thể hiểu cách giải thích này là lạ về hình thức và
hay về nội dung, tuy nhiên, cái hay và lạ ở mỗi nhà thơ là không giống nhau.
Có một quan niệm khác, cũng khẳng định tầm quan trọng của ngôn ngữ trong thơ
nhưng hoàn chỉnh hơn, đó là quan niệm của Hữu Đạt trong Ngôn ngữ thơ Việt Nam.
Ông quan niệm rằng: “Thơ ca chính là vẻ đẹp của cuộc sống, được biểu hiện một cách
tập trung, khái quát nhất. Khác với văn xuôi, thơ ca là loại chỉ dùng một lượng hữu
hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện cái vô hạch của cuộc sống, bao gồm các sự kiện
tự nhiên và xã hội cũng như những điều thầm kín trong tâm tư con người.” [4; tr.4].
Đồng thời, ông cũng khẳng định: “Chính cách tổ chức đặc biệt của ngôn từ thơ ca đã
tạo nên biết bao cuộc tranh luận gay gắt và thú vị ở nhiều thời đại, đồng thời tạo ra sự
phân hóa mạnh mẽ, có lúc cực đoan giữa các nhà nghiên cứu” [4; tr.4]. Trong nhận
định này, có thể thấy Hữu Đạt rất quan tâm đến sự thú vị của ngôn ngữ thơ. Ông đã
đúng khi chỉ ra rằng thơ khác với văn xuôi ở chỗ “chỉ dùng một lượng hữu hạn các
đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện cái vô hạch của cuộc sống”[4; tr.4]. Theo đó thì ngôn
ngữ là cái biểu hiện, còn ý thơ, tứ thơ là cái được biểu hiện nhờ ngôn ngữ và cách tổ
chức ngôn ngữ.
11


Cũng cùng quan niệm xem hình thức thơ nghiêng về hình thức ngôn ngữ, Hà
Minh Đức cho rằng: “So với các thể loại văn học và nghệ thuật khác, thơ trữ tình tự
bộc lộ mình bằng chính ngôn ngữ của đời sống một cách trực tiếp không có sự hỗ trợ
nào khác của sự kiện, cốt truyện, tình huống… từ tiếng nói quen thuộc của đời sống,

ngôn ngữ thơ ca đã tạo cho mình những năng lực mới rất kì diệu. Ngôn ngữ thơ là
ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu, biến hóa qua rất nhiều sắc thái bất ngờ…”[5;
tr.167]. Bằng nhận định này chúng ta có thể nhận ra sự kì diệu của ngôn ngữ. Đó là
nhờ vào khả năng biểu lộ sự gợi cảm, nhạc điệu và cả khả năng “biến hóa qua rất
nhiều sắc thái bất ngờ” của chính nó.
Thơ là một thể loại văn học mà hầu như ai cũng biết đến, ít nhất cũng một hay
một vài bài. Thế nhưng khi nêu lên quan niệm về thơ thì dường như rất khó, vì chúng
ta chỉ có thể dựa vào những đặc trưng và những mối quan hệ trên chứ không thể định
nghĩa thơ một cách rõ ràng, rành mạch. Và cũng như các thể loại khác, thơ vẫn ngày
càng được biết đến với những dạng thức riêng và vẫn còn đang vận động trong loại
hình của nó như nhận định của Hà Minh Đức: “là một thể loại nằm trong phương thức
trữ tình nhưng bản chất của thơ rất đa dạng với nhiều biến thái và màu sắc phong
phú”[5; tr.165]. Do vậy chúng tôi xin đưa ra quan niệm về thơ như sau: thơ là một thể
loại văn học, gồm những sáng tác ngôn từ có vần, có điệu, được sắp xếp theo một hình
thức nhất định nào đó đảm bảo tính cô đọng, hàm súc, gợi cảm, tạo được nhạc tính và
phải biểu lộ được tâm tư, tình cảm của chủ thể trữ tình.
1.1.2 Đặc trưng của thơ
Vốn “là một thể loại nằm trong phương thức trữ tình nhưng bản chất của thơ rất
đa dạng, với nhiều biến thái và màu sắc phong phú. Thơ tác động đến người đọc vừa
bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm xúc, suy nghĩ cụ thể, vừa
gián tiếp qua những liên tưởng và những tưởng tượng phong phú, vừa theo những
mạch cảm nghĩ, vừa bằng sự cảm động của ngôn từ giàu nhạc điệu” [5; tr.165]. Vậy
nhờ đâu mà thơ có được những chức năng đó? Đó là nhờ những đặc trưng về hình thức
và nội dung của thơ, cái làm nên bản chất của thơ. Khi khảo sát đặc trưng của thơ,
chúng tôi chủ yếu dựa vào giáo trình Lí luận văn học (tập 2) của Trần Đình Sử để chỉ
ra những đặc trưng về hình thức và đặc trưng về nội dung của thơ một cách cơ bản
nhất.
12



1.1.2.1 Đặc trưng hình thức của thơ
Trong phần khái niệm về thơ mà chúng tôi vừa nêu ở trên có một đặc điểm thuộc
về ngôn ngữ mà dường như trong bản thể tự nó trái ngược với nhau. Đó là tính hàm
súc. Tính hàm súc ở đây được hiểu là ngôn từ trong thơ (cái biểu đạt) thì ngắn gọn
nhưng có thể tạo ra nhiều ý nghĩa (cái được biểu đạt) khác nhau vì sự đa nghĩa của từ
ngữ. Và tính chất này có liên quan đến đặc trưng hình thức đầu tiên của thơ.
Đặc trưng hình thức đầu tiên của thơ được Trần Đình Sử đề cập là thơ được biểu
hiện bằng biểu tượng, ý tượng. Để hiểu đặc trưng này, trước hết chúng ta cần tìm hiểu
khái niệm biểu tượng và ý tượng trong thơ. Về khái niệm biểu tượng, Từ điển Thuật
ngữ văn học của Lê Bá Hán có chỉ ra: “Biểu tượng như là thuật ngữ của mĩ học, lí
luận văn học và ngôn ngữ học còn được gọi là tượng trưng, nó có nghĩa rộng và nghĩa
hẹp”[7; tr.24]. Từ điển này chỉ ra rằng: “Bằng hình tượng, nghệ thuật sáng tạo ra một
thế giới hoàn toàn mang tính biểu tượng. Cho nên, trong nghĩa rộng, biểu tượng là
đặc trưng phản ánh bằng hình tượng của văn học nghệ thuật”[7; tr.24]. Và theo nghĩa
hẹp thì: “biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình
đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng
nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về con
người, về cuộc đời…”[7; tr.24]. Đồng thời, như chúng tôi đã dẫn ở trên, biểu tượng
còn được gọi là tượng trưng và theo như Lê Bá Hán đã giải thích thì “Theo nghĩa rộng,
tượng trưng được biểu hiện ở bình diện kí hiệu, là kí hiệu chứa tính đa nghĩa của hình
tượng. Mọi tượng trưng đều là hình tượng (và hình tượng là tượng trưng ở những mức
khác nhau), nhưng phạm trù tượng trưng nhằm chỉ cái phần mà hình tượng vượt khỏi
chính nó, chỉ sự hiện diện của một nghĩa nào đó, vừa hòa hợp với hình tượng, vừa
không đồng nhất hoàn toàn với hình tượng… Hình ảnh khách thể và nghĩa hàm là hai
cực không tách rời nhau của tượng trưng (bởi vì tách khỏi hình tượng thì sẽ mất tính
hiển hiện, mà tách khỏi nghĩa thì hình tượng sẽ bị phân rã thành các yếu tố), nhưng
tượng trưng được bộc lộ chính là qua cả sự phân li lẫn sự liên kết giữa chúng”[7;
tr.390-391]. Còn theo nghĩa hẹp thì “tượng trưng là một dạng chuyển nghĩa (tương tự
phúng dụ). Khi kết hợp hai bình diện: nội dung “vật thể” và nghĩa bóng của nó sẽ tạo
thành một đối ứng tượng trưng”[7; tr.390]. Như vậy, theo nghĩa rộng thì biểu tượng và

tượng trưng đều mang tính hình tượng, còn theo nghĩa hẹp thì đều là một phương thức
chuyển nghĩa của từ. Trở lại với ý kiến của Trần Đình Sử: “Thơ biểu hiện bằng biểu
13


tượng mang nghĩa, các ý tượng, hình ảnh có ngụ ý”[19; tr.266]. Theo đó, chúng ta có
thể hiểu các biểu tượng, ý tượng trong thơ cũng chính là những hình ảnh có trong thơ,
và những hình ảnh đó mang một hay nhiều ý nghĩa hàm ẩn nào đó mà nhà thơ muốn
gửi gắm tâm sự. Và Trần Đình Sử cũng chỉ ra rằng: “Thơ là nghệ thuật của biểu
tượng, là cái làm nên giá trị họa của thơ”[19; tr.266]. Chẳng hạn các hình ảnh như
“con diều biếc”, “con đò nhỏ”, “cầu tre nhỏ” hay “đêm trăng tỏ”,… trong bài thơ Quê
hương của Đỗ Trung Quân là những biểu tượng mang ý nghĩa tượng trưng, khi nhắc
đến quê hương là nhắc đến những gì bình dị, thân thuộc nhất, gần gũi với tuổi thơ
trong cảm nhận của Đỗ Trung Quân. Trong đặc trưng này, Trần Đình Sử đã dẫn ra câu
nói của Hegel: “Thơ cũng như nhạc đều xây dựng trên nguyên tắc dùng nội cảm để tri
giác nội cảm, tức là một nguyên tắc không có trong kiến trúc, trong điêu khắc và trong
hội họa. Hơn thế nữa, thơ còn mở rộng đến mức độ dùng các biểu tượng, các trực giác
và các tình cảm bên trong đặng dựng lên một thế giới khách quan”[19; tr.266]. Và
trong ý kiến này, Trần Đình Sử có nhấn mạnh “nguyên tắc dùng nội cảm để tri giác
nội cảm”, nghĩa là cách người đọc thâm nhập vào thế giới nội tâm của nhà thơ để cảm
nhận một cách chân thật nhất với những tình cảm mà nhà thơ đã gửi vào trong tác
phẩm của mình. Bên cạnh đó, thơ còn phải đảm bảo tính hàm súc thì nhà thơ mới có
thể đạt được mục đích của mình khi sử dụng các biểu tượng. Với yêu cầu này thì:
“Biểu tượng cho phép thơ không phải kể lể, không chạy theo tính liên tục bề ngoài mà
nắm bắt thẳng những hình ảnh nổi bật nhất, cô đọng nhất, giàu hàm ý nhất của đời
sống vào mục đích biểu hiện”[19; tr.266]. Và không phải trong thơ, mỗi biểu tượng chỉ
có một ý nghĩa nhất định, mà có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau (mang tính
biểu trưng- đa nghĩa). Và cũng có thể cùng một biểu tượng nhưng lại mang những hàm
nghĩa khác nhau trong cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ mà theo như Trần Đình Sử
đánh giá là: “Mỗi nhà thơ cũng có những biểu tượng không lặp lại”[19; tr.267].

Đặc trưng hình thức thứ hai của thơ, đó là sự cấu tạo đặc biệt của ngôn từ thơ.
Đặc trưng này có 3 đặc điểm cơ bản. Thứ nhất, ngôn từ thơ là ngôn từ có nhịp điệu. Và
theo Trần Đình Sử thì “sự phân dòng của lời thơ nhằm mục đích nhịp điệu, tạo thành
đơn vị nhịp điệu. Cuối mỗi dòng đều là chỗ ngừng”[19; tr.267]. Theo đó, mỗi dòng thơ
là một đơn vị nhịp điệu và có thể ở mỗi dòng có một nhịp điệu riêng. Cách ngắt nhịp
thơ có thể phụ thuộc vào từng thể thơ, và từng cung bậc cảm xúc khác nhau, từng
trạng thái tâm lý khác nhau mà mỗi nhà thơ tạo nên những nhịp thơ riêng biệt. Có bài
14


thơ chỉ có một nhịp (Tiếng chổi tre của Tố Hữu), nhưng thường là hai nhịp trở lên.
Chẳng hạn cách ngắt nhịp 3/4 của hai câu thơ thất ngôn sau:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
(Đất nước, Nguyễn Đình Thi)
Cách ngắt nhịp trên tạo nên nhịp điệu nhịp nhàng cho hai câu thơ như nhịp chân
hành quân của những chiến sĩ. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng có thể cảm nhận được
nhịp điệu dồn dập vì “bồn chồn nhớ mắt người yêu” trong khi đang “nung nấu” lòng
yêu nước. Đặc điểm thứ hai trong đặc trưng này là “ngôn từ trong thơ không có tính
liên tục và tính phân tích như ngôn từ văn xuôi; ngược lại, nó có tính nhảy vọt gián
đoạn, tạo nên những khoảng lặng giàu ý nghĩa”[19; tr.267]. Về điểm này chúng ta có
thể khảo sát đoạn thơ cuối trong bài Tràng giang của Huy Cận:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đang đắm chìm trong cảnh sắc hoàng hôn, với “mây
cao”, “núi bạc” với từng cánh chim nhỏ đang chao nghiêng khi “bóng chiều” sa xuống
thì ở câu thơ tiếp theo lại chợt bày tỏ “lòng quê dợn dợn” vì nhớ nhà. Qua đó chúng ta
có thể thấy, không phải những dòng thơ không có tương quan gì với nhau, mà nó

tương quan về ý nghĩa. Như trong bài thơ trên thì đó là nỗi buồn khi bóng chiều sa
xuống, khi từng cánh chim nhỏ đang nghiêng nghiêng cánh bay về tổ ấm thì nhà thơ
lại một mình nơi trời rộng sông dài, nơi đất khách quê người mà lòng thì “dợn dợn”
nhớ nhà. Và chính vì vậy mà tính nhảy vọt, gián đoạn của ngôn từ thơ tạo nên những
khoảng lặng giàu ý nghĩa mà đáng để cho người đọc phải suy ngẫm. Chính vì vậy mà,
ngôn từ trong thơ còn là ngôn từ phức hợp để có thể vừa nói về cảnh, vừa nói về tình
một cách trọn vẹn. Trong đặc điểm này, Trần Đình Sử còn nhấn mạnh: “Do đặc điểm
trên mà nhà thơ sử dụng nhiều phép tu từ ẩn dụ, nhiều tỉnh lược, nhiều định
ngữ…”[19; tr.269]. Chúng ta có thể hiểu các biện pháp tu từ trên được nhà thơ sử
dụng cốt ý tạo nên “sự phá vỡ logic kết hợp thông thường của ngôn từ để tạo thành
những kết hợp mới, bất ngờ theo nguyên tắc lạ hóa” [19; tr.269]. Cái “nguyên tắc lạ
hóa” mà Trần Đình Sử đưa ra là cách sáng tạo những hình ảnh và những từ ngữ giàu
15


sức gợi chủ yếu dựa trên những cảm giác, liên tưởng của nhà thơ để tạo nên một hoặc
nhiều ý nghĩa trong cảm nhận của người thưởng thức. Đặc điểm thứ ba trong sự cấu
tạo đặc biệt của ngôn từ thơ đó là ngôn từ thơ giàu nhạc tính. Hữu Đạt trong quyển
Ngôn ngữ thơ Việt Nam cũng có đề cập: “Hơn bất cứ ngôn ngữ ở thể loại nào khác,
ngôn ngữ thơ với tính cách là một thứ ngôn ngữ giàu nhịp điệu, phong phú về cách
hòa âm, tiết tấu, giàu từ láy âm, tượng hình, chính là thứ ngôn ngữ giàu tính nhạc”[4;
tr.162-163]. Và ông cũng khẳng định rằng: “tính nhạc là một đặc điểm rất quan trọng
của ngôn ngữ thơ ca”[4; tr.167]. Còn Trần Đình Sử cũng đã chỉ ra rằng: “ngôn từ thơ
giàu nhạc tính với những âm thanh luyến láy, những từ trùng điệp, sự phối hợp bằng
trắc và những cách ngắt nhịp có giá trị gợi cảm”[19; tr.269]. Theo nhận định này thì
trước hết nhạc tính trong thơ được thể hiện qua những âm thanh luyến láy, những từ
trùng điệp. Chúng ta có thể hiểu, đây là sự hòa phối về âm, vần trong ngôn từ thơ.
Chẳng hạn, hai câu thơ của Huy Cận:
“Sóng gợn tràng giang, buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái, nước song song”

(Tràng giang, Huy Cận)
Ở đây ta thấy ngôn từ thơ có sự hòa phối về âm thanh: “tràng giang”, gợi nên
một cảm giác mênh mông, vừa dài, vừa rộng của con sông; còn những từ được láy như
“điệp điệp”, “song song” gợi nên sự liên tục của nỗi buồn, sự liên tục của nhịp chèo
đưa. Nó thể hiện sự miên man, lan tràn của nỗi buồn khi nhịp chèo song song lướt tới:
mỗi nhịp chèo là một nhịp buồn và sự lặp lại của nhịp chèo cũng chính là sự lặp lại của
nỗi buồn: “điệp điệp”.
Tiếp theo, nhạc tính trong ngôn ngữ thơ còn được thể hiện qua “sự phối hợp
bằng trắc và những cách ngắt nhịp có giá trị gợi cảm”. Chính điều này tạo nên sự
trầm bổng cho bài thơ. Các cách luân phiên bằng trắc theo quy luật hay phá vỡ luật thơ
có chủ ý đều có thể tạo nên những âm vực cao hay thấp, dài hay ngắn mà tạo nên nhạc
điệu riêng cho từng dòng thơ, từng bài thơ. Cả trong cách ngắt nhịp cũng thế, cũng tạo
nên nhạc tính cho thơ, nó tạo nên tiết tấu cho thơ. Và tùy theo cách ngắt nhịp mà tiết
tấu có thể khoan thai, dàn trải, hay dồn dập, gấp rút. Cũng bàn về tính nhạc của ngôn
ngữ thơ, trong bài viết Mối cảm tưởng về thơ ca của nước ta trên tờ An Nam tạp chí,
có đoạn viết: “Thơ ca không phải là dàn nhạc mà có cái mĩ thiện của dàn nhạc, không
ti, không trúc, không kim, không thạch, không thổ, không cắc mà đọc lên tiếng nghe
16


vào tai thật như thể cung đàn réo rắt, sắt vàng chen nhau” [20; tr.191]. Nhờ có nhạc
tính của ngôn từ thơ mà mỗi bài thơ có thể tạo một ấn tượng riêng cho người đọc tùy
vào cảm hứng của chủ thể trữ tình. Trần Đình Sử cũng chỉ ra rằng: “Nhạc trong thơ là
nhạc của cảm xúc và tâm hồn… Nhạc điệu thơ rất đa dạng, tương ứng với sự đa dạng
của cảm xúc dâng trào”[19; tr.270]. Và do vậy, “Nhạc điệu trong thơ là một đặc điểm
cơ bản của ngôn từ thơ”[11; tr.370]. Cũng từ ba đặc điểm trên của ngôn từ thơ mà
chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa: Ngôn từ thơ có cấu tạo đặc biệt. Chính đặc
trưng này cùng với đặc trưng biểu hiện bằng biểu tượng, ý tượng đã làm nên đặc trưng
hình thức của thơ, cái để phân biệt thơ với những thể loại văn học khác.
1.1.2.2 Đặc trưng về nội dung của thơ

Khi bàn về thơ, có ý kiến cho rằng: “Thơ ca không phải là tranh ảnh, mà có cái
mĩ thiện của tranh ảnh. Mắt trông bài thơ ở mặt giấy, thật không có thấy gì là đẹp,
song mà đọc lên tiếng, nghe vào tai thì tự thấy như hiện ra ở trước mặt một bức tranh
cả tình cả cảnh”[20; tr.190]. Phải chăng, đó chính là cái hồn của thơ, cái tư tưởng, tình
cảm chủ đạo mà nhà thơ đã đưa vào trong sáng tác của mình. Và đó cũng là nội dung
mà thơ biểu hiện.
Trong những đặc trưng về nội dung của thơ, đặc trưng nổi bật nhất là tính trữ
tình, mà theo Trần Đình Sử quan niệm thì “thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được
ý thức” [19; tr.256]. Quả vậy, thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt của chủ thể sáng tạo.
Cái đặc sắc của thơ không chỉ thể hiện ở hình thức ngôn từ bên ngoài mà hơn hết nó
còn là tiếng lòng trong tâm tư của người thi sĩ. Chỉ khi nào có được một sự rung động
mãnh liệt trong tâm hồn đang trào dâng thì người thi sĩ mới có thể thốt lên những tiếng
thơ, những lời tâm sự chân thật, sâu kín nhất. Những tiếng thơ, những lời tâm sự chân
thành, sâu kín ấy có thể bắt nguồn từ niềm vui hay nỗi buồn, hy vọng hay tuyệt vọng,
đau khổ hay hạnh phúc… Có thể nói, tiếng thơ chính là tiếng lòng của nhà thơ.
Nguyễn Văn Ngọc cũng từng có ý kiến: “thơ là tiếng nói, là lời ngậm ngùi than thở
của người nhân thấy vật mà dựng nên hình, nhân gặp đề mà ngâm thành vận” [20;
tr.93]. Như vậy, có thể nói, thơ là phương tiện hữu hiệu để khơi dậy chiều sâu niềm
tâm cảm của nhà thơ. Và tình cảm mãnh liệt là nhân tố chi phối khả năng sáng tạo thơ
ca của chủ thể sáng tạo. Chính vì vậy mà Trần Đình Sử đã khẳng định: “Tình cảm
mãnh liệt là điều kiện hàng đầu của thơ” [19; tr.258], và ông cũng nhấn mạnh: “Tình
cảm trong thơ là tình cảm đã được ý thức, siêu thăng, tình cảm được lắng lọc qua cảm
17


xúc thẩm mỹ gắn liền với khoái cảm của sự tự ý thức về mình và về đời”[19; tr.258].
Nhận định này đề cập đến tình cảm trong thơ, đó là những tình cảm đẹp, mang tính
chất nhân văn như tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình,
bè bạn,… và những tình cảm cao đẹp này được nhà thơ ý thức bằng xúc cảm thẩm mỹ
thì thơ mới có thể trở thành nghệ thuật của cái đẹp. Xét hai câu thơ: “Anh bạn dãi dầu

không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Hình ảnh hy sinh của người lính Tây
Tiến được Quang Dũng khắc họa thật nhẹ nhàng: “bỏ quên đời”. Và quả thật người
lính ấy không chết trong tâm tưởng nhà thơ, người trực tiếp cầm súng bảo vệ quê
hương, mà vẫn tồn tại bởi cái nhìn thẩm mỹ, lạc quan, thi vị hóa… Như vây, thơ là sự
bộc lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức, và chính đặc trưng này làm cho thơ thêm
giàu tính trữ tình và đẹp hơn về ý thơ.
Có thể nói, thơ là nghệ thuật của trí tưởng tượng. Đây là đặc trưng thứ hai về
mặt nội dung của thơ. Và Trần Đình Sử đã ví : “Nếu tình cảm là sinh mệnh của thơ thì
tưởng tượng là đôi cánh của thơ”[19; tr.260]. Và chính ông cũng đã giải thích: “Tưởng
tượng là hoạt động tâm lí phân giải, tổ hợp các biểu tượng đã có để tạo ra hình tượng
hoàn toàn mới” [19; tr.260]. Sở dĩ nói như vậy là vì tình cảm là đặc trưng bản chất
quan trọng bậc nhất của thơ mà chúng tôi đã đề cập ở trên, còn nói “tưởng tượng là đôi
cánh của thơ” là vì nhờ trí tưởng tượng của người thi sĩ mà sản phẩm của anh ta - tác
phẩm thơ được nâng lên, có giá trị hơn. Điều này có nghĩa là nhà thơ căn cứ trên
những biểu tượng trong cuộc sống thực hay có sẵn trong tự nhiên rồi xây dựng nên
những hình ảnh mới, mang một ý nghĩa hoàn toàn mới qua một quá trình hoạt động
tâm lý. Chúng ta phải nhìn nhận rằng, tưởng tượng phản ánh hiện thực một cách gián
tiếp và khái quát bởi những hình ảnh được sáng tạo rất độc đáo. Và tưởng tượng trong
thơ mang đặc điểm là “xây dựng hình tượng của bản thân dòng ý thức, cảm xúc đang
diễn ra”[19; tr.260]. Nói như vậy, bởi lẽ thơ phải dựa trên xúc cảm, dòng ý thức đang
diễn ra bên trong nội tâm của người thi sĩ. Còn về hình thức của tưởng tượng trong thơ
thì “chủ yếu là liên tưởng, giả tưởng, huyễn tưởng” [19; tr.260]. Về liên tưởng trong
thơ, chúng ta có thể hiểu, đó là hiện tượng nhìn việc này, hình ảnh này mà nghĩ tới
việc khác, hình ảnh khác, nó diễn ra trong tâm lý người tiếp nhận dựa trên một vài
điểm tương đồng nào đó. Và việc liên tưởng có thể dựa trên các biện pháp tu từ so
sánh, ẩn dụ, tương phản… Trong bài thơ Người con gái Việt Nam của Tố Hữu, nhà
thơ đã gợi nên sự liên tưởng bằng cách so sánh: “mái tóc” với “mây”, “suối”; “ánh
18



mắt” với “chớp lửa đêm giông”; “thịt”, “da” với “sắt”, “đồng”. Cách liên tưởng này
tạo nên sự lay động mạnh mẽ cho người đọc với niềm tự hào và trân trọng đối với
người nữ du kích Việt Nam anh hùng. Còn về hình thức giả tưởng, đó là sự bộc lộ
những điều mà nhà thơ cảm nhận bằng xúc giác của mình, rồi từ đó biểu lộ cảm xúc
qua những cách riêng đầy thi vị. Ta có thể thấy điều đó qua hai câu thơ sau:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”
(Nhớ rừng, Thế Lữ)
Hay:
“Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo buốt xương da”
(Lời kỹ nữ, Xuân Diệu)
Một hình thức nữa của tưởng tượng, đó là huyễn tưởng. Như Trần Đình Sử đã
nêu: “Huyễn tưởng là cách mượn giấc mơ, ảo giác để biểu hiện cảm xúc”[19; tr.262].
Theo ý kiến này thì người thi sĩ đã mượn những điều không có thật để diễn tả tâm
trạng của chính mình, có thể những điều đó là những điều mà thi sĩ mong muốn hay
chờ đợi:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
(Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử)
Ở đây Hàn Mặc Tử đã mơ về bóng dáng người con gái mà ông yêu mến, vì trông
đợi nàng sẽ đến thăm mình nhưng vẫn chưa thấy nên nhà thơ mới mượn ảo giác để gửi
tâm sự vào trong thơ.
Có ý kiến cho rằng: “Cái lĩnh vực phong phú ít được biết nhất, cái lĩnh vực có
một chiều rộng không bờ là tưởng tượng, vì vậy không có gì lạ nếu người ta đã dành
danh hiệu nhà thơ chủ yếu là cho những người đi tìm những niềm vui mới rải rác trên
những không gian đồ sộ của sự tưởng tượng.”[5; tr.177]. Bản chất của nhà thơ phải là
người dồi dào cảm xúc thì những câu thơ mới có sức lắng đọng và giàu sức biểu hiện.

Và do vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định: thơ là nghệ thuật của trí tưởng
19


×