Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

tiểu thuyết phố của chu lai từ góc nhìn thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.09 KB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN


NGUYỄN THÚY TÀI
MSSV: 6116149

TIỂU THUYẾT PHỐ CỦA CHU LAI
TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI

Luận văn tốt nghiệp
Ngành Ngữ văn

Cán bộ hướng dẫn: Ths. BÙI THANH THẢO

Cần Thơ, năm 2014


ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3. Mục đích – yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1.1 Vài nét về thể loại tiểu thuyết


1.1.1 Khái niệm và sự hình thành của tiểu thuyết
1.1.2 Đặc điểm tiểu thuyết
1.2 Vài nét về tác giả Chu Lai
1.2.1 Cuộc đời và sự nghiệp văn chương
1.2.2 Quan niệm nghệ thuật và những nguồn cảm hứng chính
1.3 Vài nét về tiểu thuyết Phố
CHƯƠNG 2:ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA TIỂU THUYẾT PHỐ TỪ GÓC
NHÌN THỂ LOẠI
2.1 Bức tranh hiện thực rộng lớn trong tiểu thuyết Phố
2.1.1 Hiện thực rộng lớn về khu phố Lý Nam Đế thời kì mở cửa
2.1.2 Sự đa dạng màu sắc thẩm mỹ từ hiện thực trong tiểu thuyết Phố
2.2 Góc độ đời tư trong tiểu thuyết Phố
2.2.1 Những nỗi niềm sâu kín của mỗi con người
2.2.2 Bi kịch người lính thời hậu chiến
2.3 Con người nếm trải tư duy trong tiểu thuyết Phố


2.4 Yếu tố thừa trong tiểu thuyết Phố
CHƯƠNG 3:ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT PHỐ TỪ GÓC
NHÌN THỂ LOẠI
3.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Phố
3.1.1 Xây dựng nhân vật từ những tình tiết, tình huống
3.1.2 Xây dựng nhân vật thông qua miêu tả tâm lý
3.2 Kết cấu trong tiểu thuyết Phố
3.2.1 Kết cấu sự kiện – lịch sử
3.2.2 Kết cấu đảo tuyến đồng hiện
3.3 Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết Phố
3.4 Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Phố
3.4.1 Điểm nhìn của người kể chuyện
3.4.2 Điểm nhìn di động

3.5 Bản chất tổng hợp của tiểu thuyết Phố

PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong loại hình văn xuôi nghệ thuật, tiểu thuyết là một thể loại chiếm vị trí
quan trọng. Với dung lượng lớn và những đặc trưng về thể loại, tiểu thuyết đã khẳng
định vị trí ưu việt của mình không chỉ ở việc tái hiện lại thời kì chiến đấu máu lửa của
dân tộc mà còn phản ánh được cuộc sống thường nhật thời hậu chiến. Từ chất liệu về
những vấn đề bức bối của xã hội trong cuộc sống đời thường, thể loại tiểu thuyết đã và
đang không ngừng tiến đến những thành tựu vẻ vang mà trước đó, các nhà văn chưa
thật sự quan tâm và đạt được trong những năm tháng đất nước chìm trong khói lửa. Vì
thế, nghiên cứu, tìm hiểu về tiểu thuyết đặc biệt là tiểu thuyết hiện đại thời kì đổi mới
là việc làm quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc.
Tiểu thuyết thời kì đổi mới không ngừng vận động và biến đổi. Phương diện nội
dung tiểu thuyết thời kì này chủ yếu hướng vào phản ánh đời sống con người cá nhân
trước nhịp sống bề bộn sau chiến tranh. Vì thế, tiểu thuyết thời kì đổi mới đã có bước
chuyển mình sâu sắc từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư. Có thể thấy,
việc tìm hiểu tiểu thuyết thì có rất nhiều cách và việc tìm hiểu tiểu thuyết dựa trên cơ
sở thể loại cũng là việc làm có ý nghĩa hiện nay. Hơn nữa, nghiên cứu tiểu thuyết từ
góc độ thể loại sẽ mở ra một cái nhìn mới lạ hơn về tiểu thuyết. Dựa vào nền tảng lý
luận văn học, nghiên cứu đặc trưng của thể loại tiểu thuyết sẽ góp phần đánh giá
những thành công về mặt nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết, bên cạnh đó thấy
được những ưu thế của thể loại tiểu thuyết khi sáng tác một tác phẩm.
Trong dòng chảy chung của tiểu thuyết Việt Nam những năm đổi mới, tiểu
thuyết của Chu Lai phần nào đã mang lại sức hấp dẫn từ trang viết của một đời đam

mê sáng tạo. Trong quá trình sáng tác của mình, Chu Lai đã thử nghiệm qua nhiều thể
loại như truyện ngắn, ký sự, kịch bản sân khấu và kịch bản phim. Tuy nhiên theo đánh
giá của các nhà nghiên cứu phê bình văn học và theo sự đánh giá của chính nhà văn thì
tiểu thuyết mới chính là sở trường của Chu Lai và tên tuổi của ông cũng được khẳng
định ở thể loại này. Với hành trình mười năm cầm súng và hơn ba mươi năm cầm bút,
nhà văn đã tạo cho mình một chỗ đứng vững vàng trên văn đàn, đã neo lại trong trí bạn
đọc những dấu ấn khó phai mờ với những tiểu thuyết về đề tài chiến tranh và hậu
chiến góp phần phong phú thêm diện mạo tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.


Chu Lai là nhà văn nặng thủy chung với đề tài chiến tranh và nó luôn gợi trong
nhà văn những trăn trở, suy tư để khơi lên dào dạt những nguồn cảm hứng. Tuy vậy,
sự phức tạp và bề bộn cuộc sống thời bình cũng được ông đặc biệt quan tâm thể hiện
trên nhiều mặt. Bởi lẽ, thực tế đòi hỏi nhân vật cần phải cất lên tiếng nói biểu hiện
những tâm tư tình cảm, những nhu cầu phong phú, đa dạng của đời sống cũng như
khát vọng đi tìm hạnh phúc chân thực và xây dựng cuộc đời mới.
Phố là tác phẩm viết về số phận con người đặc biệt số phận người lính thời hậu
chiến – thời cơ chế thị trường mới bắt đầu manh nha vì thế việc nghiên cứu tác phẩm
là một việc làm thiết thực. Bên cạnh đó, đây là tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết nên
việc nghiên cứu tác phẩm dựa trên góc nhìn thể loại là việc làm có ý nghĩa quan trọng
để đi sâu khám phá những giá trị mà tác phẩm mang lại. Với những lí do trên, chúng
tôi quyết định tìm hiểu “Tiểu thuyết Phố của Chu Lai từ góc nhìn thể loại”. Dẫu biết
rằng trong quá trình nghiên cứu sẽ gặp không ít khó khăn nhưng chúng tôi sẽ cố gắng
hoàn tất đề tài này, để góp phần thấy được bước phát triển trong chính ngòi bút viết
tiểu thuyết của Chu Lai.

2. Lịch sử vấn đề
Chiến tranh và người lính đã trở thành đề tài chủ đạo trong sáng tác của nhà
văn. Đánh giá chung về Chu Lai và tiểu thuyết của ông, hầu hết các bài viết đều đi đến
thống nhất trong việc khẳng định sự thuỷ chung của Chu Lai với mảng đề tài chiến

tranh – người lính trong chiến đấu hay ở thời hậu chiến và nét riêng của nhà văn khi đi
sâu vào phản ánh đề tài này. Sau đây chúng tôi xin đưa ra một số nhận định về tiểu
thuyết của Chu Lai nói chung và ý kiến về tác phẩm Phố nói riêng để có thể minh
chứng cho luận điểm vừa nêu. Chúng tôi tạm chia các nhận định, các ý kiến thành hai
mảng cụ thể như sau:
Mảng thứ nhất gồm ý kiến của các nhà nghiên cứu trên báo chí về tác giả Chu
Lai, hay những cuộc trả lời phỏng vấn cũng như những cuộc trò chuyện của chính nhà
văn với độc giả:
Chu Lai là nhà văn thủy chung với đề tài chiến tranh và người lính. Trên Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, tháng 2/1993 Bùi Việt Thắng trong bài viết Một đề tài không
cạn kiệt cho rằng: “Tiểu thuyết Chu Lai giới thiệu nhiều vấn đề đáng quan tâm trên đề
tài chiến tranh với ý nghĩa như một đề tài lịch sử” [15; tr.104], “Chu Lai làm người
đọc bất ngờ vì những khám phá nghệ thuật của mình: nhân vật trong tác phẩm Chu


Lai thường tự soi tỏ mình, khám phá mình, khám phá một bản ngã hay là một con
người trong con người” [15; tr.104]. Trong bài viết trên, Bùi Việt Thắng đã chỉ rõ
được đề tài chủ đạo trong tiểu thuyết của Chu Lai, đặc biệt, ông đã khẳng định được
thành công của ngòi bút Chu Lai khi vận dụng, thể hiện “yếu tố đời tư” một trong
những đặc trưng thể loại tiểu thuyết vào trong sáng tác. Trong bài viết Người chiến sĩ
viết văn hôm nay – đội ngũ kế tục những nhà văn chiến sĩ, Trần Quốc Huấn đi vào
khẳng định phẩm chất người lính: “Trong truyện Chu Lai, vốn tri thức văn hóa, trí tuệ
sáng suốt của người lính trẻ đã thấm nhuyễn một cách tự do vào từng chi tiết nhỏ của
truyện, trong từng phán đoán nhạy bén, quả quyết, để dẫn đến chiến thắng cuối cùng ở
nhân vật” [11; tr.117]. Viết về Người lính sau hòa bình trong tiểu thuyết chiến tranh
thời kì đổi mới, Nguyễn Hương Giang nhận xét: “sự thật về chiến tranh hôm nay được
nhìn lại là một sự thật đã trải qua những năm tháng day dứt trăn trở trong tâm hồn
nhà văn Chu Lai, hơn thế, nó thật sự là những nếm trải của người “chịu trận” “người
trong cuộc”. [3]. Lý Hoài Thu cũng khẳng định: “Dù trực tiếp viết về dĩ vãng mịt mù
bom đạn hay chuyển dịch sang tiếp cận những “kênh” thông tin xô bồ của thời hiện

tại, bao giờ Chu Lai cũng suy ngẫm suy tư về hiện thực với sự nhiệt tâm và lòng trung
thực của người lính” [17;tr.376]. Hay đến với bài viết Nội lực Chu Lai, Bùi Việt
Thắng cũng đưa ra những nhận định chuẩn xác về người lính trong tiểu thuyết Chu
Lai: “nhân vật người lính trong tiểu thuyết Chu Lai thường ăn sóng nói gió, thường bị
cuộc đời quăng quật, đều được tôi luyện qua lửa đỏ và nước lạnh – vì thế họ trở nên
rắn rỏi, từng trải, quyết đoán và sắc bén trong cách hành xử”.[16;tr.64]. Đồng thời,
tiểu thuyết Chu Lai cũng thể hiện được bi kịch của con người. Vấn đề này được bàn
đến trong Cuộc đời dài lắm – một tiểu thuyết có sức hấp dẫn, Nguyễn Thanh Tú nhận
định về lối xây dựng nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai: “Ngòi bút tiểu thuyết Chu Lai
vẫn cách xây dựng nhân vật đẩy đến tận cùng của bi kịch. Có thể nói một cách khái
quát là con người của bi kịch, con người của những mâu thuẫn, có khi thật quyết liệt
dữ dội, có số phận tận cùng ngang trái, có nhân cách vô cùng cao thượng.”
[18;tr.101]. Người đọc có thể nhận thấy điều này qua thế giới nhân vật trong tiểu
thuyết của ông, nhất là đối với nhân vật chính. Từ đó, Chu Lai đã gửi gắm những vấn
đề hiện thực và cuộc sống xô bồ của xã hội đương thời.
Về phương diện nghệ thuật tiểu thuyết Chu Lai, Phan Cự Đệ trong bài viết Tiểu
thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới cho rằng, tiểu thuyết Chu Lai “không


chỉ đa dạng trong các phương thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật, kết
hợp độc thoại nội tâm, “dòng ý thức”, nghệ thuật đồng hiện và có những thành công
nhất định” [1;tr.18]. Phan Cự Đệ đã khẳng định những đóng góp của Chu Lai về nghệ
thuật tự sự, tuy nhiên sự khẳng định chưa thật khái quát và sâu sát trên mọi phương
diện đặc trưng thể loại. Với bài viết Nhà văn quân đội – lực lượng sáng tác sau năm
1975, Nguyễn Hữu Quý đã đưa ra những nhận định khá sâu sắc về các tác phẩm văn
học hậu chiến. Ông cũng nhận xét về ngòi bút Chu Lai: “thật hơn trong việc miêu tả
hành động cao cả hay thấp hèn, những cảnh huống trắc trở éo le và cũng không né
tránh những điều thầm kín, bản năng của con người”. [12;tr.94]. Cũng trong bài viết
Nội lực Chu Lai, Bùi Việt Thắng nhận xét: “Đọc tiểu thuyết Chu Lai người ta nhận ra
một giọng nồng nhiệt bàn luận, giọng nồng nhiệt và đắm đuối, giọng từng trải và

chiêm nghiệm ...” [16;tr.64 - 65]. Trên cơ bản, qua bài viết, Bùi Việt Thắng đã khẳng
định được những đóng góp của Chu Lai vào thể loại tiểu thuyết cũng như sự vận dụng
những đặc trưng thể loại vào hành trình tạo tác tác phẩm. Thế nhưng, những vấn đề mà
ông đưa ra thì mang tính sơ nét và điển hình.
Trong những công trình khác các nhà nghiên cứu cũng đã bàn luận về các tác
phẩm của Chu Lai với các bài viết: Tiểu thuyết Việt Nam năm 2005 – Những tín hiệu
tốt lành của Nguyễn Hòa, Tiểu thuyết Việt Nam trong những năm đầu thời kì đổi mới
của Phan Cự Đệ… Đánh giá về Chu Lai và tiểu thuyết của ông, các ý kiến, nhận định
đều đã khẳng định được khả năng đào sâu hiện thực và con người trong tác phẩm của
Chu Lai, vấn đề đổi mới nghệ thuật của tiểu thuyết, đánh giá được thành tựu ở đề tài
số phận người lính thời hậu chiến. Tuy nhiên chưa có ý kiến, nhận định nào thật khái
quát nhìn từ đặc trưng thể loại tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai.
Thủy chung với đề tài chiến tranh, chính nhà văn cũng tâm sự: “…dù có ngả
sang bất cứ một hướng đề tài nào nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn quay về đề tài người
lính và chiến tranh cách mạng như là một đề tài quen thuộc, gần gũi nhất mà người ta
chỉ có thể viết tâm huyết được những gì người ta sờ thấy…” [24]. Có thể thấy, những
năm tháng chiến tranh đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn.
Không những vậy, chất liệu từ hiện thực cuộc sống sau chiến đấu cũng được khai thác
sâu trong từng tác phẩm, như có ý kiến đã nhận xét: “Hiện thực trong những tác phẩm
của ông được đẩy đến tận cùng của sự trần trụi và tàn khốc, bên cạnh những trang
viết về những mối tình người lính lãng mạn như những bài thơ… Song Chu Lai cũng


gặt hái được những thành công nhất định khi thể hiện cái nhìn sắc sảo của mình về đề
tài kinh tế thị trường.” [21].
Trong một bài phỏng vấn bàn về hình tượng người lính giữa thời chiến và thời
bình, Chu Lai nhận xét: “Người lính đại diện cho phẩm cách dân tộc, mà người lính
không chỉ bộc lộ phẩm cách trong chiến tranh. Gần đây, trong cơ chế thị trường người
lính cũng đóng góp lớn về ý chí và nghị lực làm kinh tế(…). Họ vừa biết đánh giặc,
vừa biết làm kinh tế. Và đánh giặc quen rồi, khi làm kinh tế họ phải chuyển đổi toàn

bộ con người của mình và phải trả giá” [21]. Nhận định này, nhà văn đã thể hiện được
cái nhìn về người lính trong và sau chiến tranh, từ đó bạn đọc sẽ hiểu rõ về đời sống
chiến đấu cũng như cuộc sống đời thường của người lính. Đặc biệt, khi kể về điều ám
ảnh nhất của mình, nhà văn chia sẽ “Con gái… Con gái làm mềm cuộc chiến tranh.
Con gái làm xanh lại chết chóc. Con gái làm tác phẩm nghệ thuật trở nên giàu có…”
[23]. Từ vẻ đẹp của những người con gái đã làm điểm tựa tinh thần cho ý chí chiến
đấu của người lính. Cũng chính vì thế, tình yêu trong chiến tranh cũng trở thành tâm
điểm trong quan niệm cũng như trong sáng tác của nhà văn: “Ở thời nào, tình yêu
cũng là trận mạc, huy hoàng mà khốc liệt. Tôi tin rằng, chiến thắng và thôn tính trái
tim một người đàn bà có khi khó khăn và vinh quang hơn một trận giặc. Bởi trận giặc
là nơi ta còn nhìn thấy rõ kẻ thù còn trận địa kia làm sao mà thấy được.” [19]. Quan
niệm của nhà văn khi viết về tình dục trong đời sống mỗi con người, đặc biệt người
lính cũng được đề cập đến ở nội dung bài phỏng vấn Chu Lai: Viết sex bằng trải
nghiệm [20]. Vấn đề tính dục cũng được khai thác trong sáng tác của Chu Lai. Nhà
văn đã quan niệm rằng tính dục là vấn đề thiêng liêng cao quý, tôn vinh phẩm giá con
người chứ không phản tình yêu, phản văn chương, chính vì thế nó phải: “phát ra từ
nội dung ứ đầy, khi đó nó tự trào ra và người viết không thể nhắm mắt bỏ qua. Còn
nếu tính dục lấy được, tính dục bôi nhọ phụ nữ, tính dục phản tình yêu, phản văn
chương thì tôi phản đối.” [20]. Nhà văn cũng đưa ra những quan niệm mới hơn về tính
dục trong xã hội hiện nay: “tính dục là cảm hứng tương đối chủ đạo của loài người,
cũng như cơm ăn áo mặc. Trước người ta tránh vì xu thế xã hội như vậy, bây giờ cởi
mở hơn, họ có thể nhìn thẳng chứ không phải nhìn nghiêng, không phải liếc. Văn học
cũng thế.” [20]. Đồng thời nhà văn còn phân biệt: “đối với những hiện tượng tính dục
thông thường và miêu tả khoái trá, hứng khoái thoát ra khỏi văn cảnh với mục đích
gợi dục là bôi nhọ ngòi bút của chính mình. Còn những cảnh tình dục ghê gớm nhưng


miêu tả bằng cái nhìn trầm tĩnh, xuyên suốt thì chuyện đó sẽ mềm đi, đẹp lên, sâu
hơn.” [20]. Quả thật, những khát khao bản năng xuất hiện trên trang văn của Chu Lai
đều mang đậm giá trị nhân văn sâu sắc. Đồng thời, điều này giúp nhân vật người hơn,

gần gũi hơn và thật hơn.
Mảng thứ hai là những ý kiến về tiểu thuyết Phố:
Trong bài viết Chu Lai: “Phố”, sự vặn mình thay đổi của khu phố lính được
chú ý. Với giọng kể “đều đều nghiêm túc như một thước phim chính luận quay chầm
chậm, góc quay lia hết các ngả, các ngóc ngách của các gia đình” [28], Phố hiện lên
“không phô trương, màu mè, không bi tráng, lãng mạn, không thô tục (…), là nơi tập
hợp những ngôi nhà binh, những giao tranh của giá trị cũ – cái truyền thống và các
giá trị mới trong thời buổi đất nước mới mở cửa chuyển mình từ cơ chế bao cấp sang
cơ chế thị trường. Cái chất tình người lính với nhau cũng như nhịp đập nhanh gấp,
trầm lắng của mọi người trong khu phố. Các xung đột luôn được đẩy nhanh, mừng
vui, bi kịch… chuyện của nhân vật chính, phụ. Tất cả các chi tiết đan xen với nhau tạo
nên “Phố” hay một bức tranh chung của toàn xã hội.” [28]. Phố không chỉ thể hiện sự
thay đổi của phố nhà binh mà đó còn là nghĩa tình người lính. Và đâu đó còn nổi bật
lên là bi kịch của một thế hệ đi qua chiến tranh. Tất cả đã toát lên được tính chân thực
hiện thực cuộc sống cũng như những trăn trở của nhà văn về những vấn đề nóng bỏng
của xã hội.
Với bài Người lính sau hoà bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kỳ đổi mới,
Nguyễn Hương Giang chỉ ra rằng: “Phố của Chu Lai là một cuốn tiểu thuyết trong
tiểu thuyết: Một cuốn về gia đình Thảo – Nam với sự phá vỡ và làm tan nát những giá
trị truyền thống, một cuốn khác về cuộc đời Lãm, một người lính từ hai bàn tay trắng
đi lên, bảo vệ và tha thiết gìn giữ những giá trị ấy. Cái chết thương tâm của Thảo,
Lãm ở cuối tác phẩm đẩy suy nghĩ của người đọc về hai hướng khác nhau nhưng đều
thấm một nỗi buồn cao cả” [3;tr.110]. Qua bài viết, Nguyễn Hương Giang cũng chỉ
dừng lại nhận định ở phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết Phố. Nhìn chung chưa
có sự khái quát cho tất cả các phương diện, những vấn đề nhà nghiên cứu nêu ra vẫn
còn mang tính chất chung chung và sơ nét chưa nổi bật lên những vấn đề về thể loại.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu cũng như các bài báo, cuộc phỏng vấn
đều đi đến khẳng định sự son sắt, thủy chung của nhà văn với mảng đề tài chiến tranh,
đặc biệt là hình tượng người lính trong và sau chiến tranh, song, vẫn chưa có một nhận



định đánh giá trên nhiều bình diện. Đồng thời, những ý kiến về tác phẩm Phố còn rất
hạn chế. Do đây là tác phẩm khá mới nên chưa có công trình nghiên cứu nào cụ thể.
Tuy nhiên, chúng tôi rất trân trọng những bài viết cũng như ý kiến của chính nhà văn.
Từ đó, chúng tôi có thể tiếp thu những quan niệm phù hợp và kết hợp những tìm hiểu
của bản thân mà xây dựng nên Tiểu thuyết Phố của Chu Lai từ góc nhìn thể loại.

3. Mục đích – yêu cầu
Khi chọn nghiên cứu đề tài tiểu thuyết Phố của Chu Lai từ góc nhìn thể loại,
chúng tôi đặt ra những mục đích và yêu cầu sau:
Trước hết, chúng tôi tìm hiểu về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm từ
góc nhìn thể loại. Chúng tôi tập trung phân tích, đối chiếu tác phẩm với những biểu
hiện của đặc trưng thể loại tiểu thuyết trên phương diện nội dung và hình thức nghệ
thuật.
Trên cơ sở của quá trình nghiên cứu, chúng tôi đưa ra những nhận định, đánh
giá về tác phẩm Phố nhằm nhận ra những thành công của tác phẩm cũng như những
đóng góp của Chu Lai trong thể loại tiểu thuyết thời kì đổi mới nói riêng và văn học
Việt Nam hiện đại nói chung.

4. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu này, chúng tôi dựa trên những đặc điểm của thể loại tiểu
thuyết làm cơ sở. Bên cạnh đó, chúng tôi đã khảo sát một số bài viết về Chu Lai cũng
như những bài viết về tiểu thuyết Phố để nhận ra giá trị của tác phẩm trong nền văn
học Việt Nam hiện đại.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này có hiệu quả, chúng tôi vận dụng những phương pháp
nghiên cứu sau đây:
Phương pháp phân loại: Đây là phương pháp có chức năng nhận dạng sự vật,
qua đó xác định được tính chất và ý nghĩa của nó. Với đề tài này, chúng tôi sử dụng

phương pháp loại hình để tìm ra những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết biểu hiện
trong tác phẩm Phố.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để
phân tích đặc trưng của thể loại tiểu thuyết biểu hiện trong tác phẩm Phố. Từ đó có thể
nhận định được những ảnh hưởng cùng với sự đóng góp của thể loại tiểu thuyết trong
quá trình sáng tác. Sau khi phân tích đặc trưng của thể loại tiểu thuyết cũng như tìm


hiểu những vấn đề của xã hội, hoàn cảnh xã hội có ảnh hưởng đến tác phẩm Phố,
chúng tôi dùng phương pháp tổng hợp để trình bày khái quát về nội dung đã nghiên
cứu.
Phương pháp xã hội: Sử dụng phương pháp xã hội sẽ giúp cho việc lí giải cơ sở
thực tiễn và hiện thực mà nhà văn đã phản ánh qua ngôn từ nghệ thuật. Hoàn cảnh lịch
sử trong tác phẩm Phố chính là hoàn cảnh đất nước trong giai đoạn đầu đổi mới, thời
kì hậu chiến. Vấn đề này có ảnh hưởng ít nhiều đến thể loại và sáng tác của nhà văn.
Chúng tôi tìm hiểu những đặc trưng của tiểu thuyết có trong tác phẩm Phố và xem xét
những tác động của hoàn cảnh xã hội đối với văn học để có cái nhìn toàn diện.
Ngoài ra khi nghiên cứu vấn đề này chúng tôi còn sử dụng thao tác chứng minh,
giải thích… nhằm mục đích sáng tỏ vấn đề rõ ràng, thuyết phục.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1.1 Vài nét về thể loại tiểu thuyết
1.1.1 Khái niệm và sự hình thành thể loại tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một hình thức tự sự cỡ lớn, tiểu thuyết có những khả năng riêng
trong việc tái hiện với một qui mô lớn những bức tranh hiện thực đời sống, trong đó
chứa đựng nhiều vấn đề sâu sắc của đời sống xã hội, của số phận con người, của lịch
sử đạo đức, của phong tục… Nghĩa là tiểu thuyết có năng lực phản ánh hiện thực một
cách bao quát và sinh động theo hướng tiếp cận trên cả bề rộng lẫn chiều sâu của

nó.[2;tr.184]. Có thể hiểu tiểu thuyết là một thể loại của văn học, dưới hình thức tự sự
và có dung lượng lớn. Tiểu thuyết có khả năng tái hiện cuộc sống với những chi tiết
giống như thật một cách sinh động và miêu tả số phận con người trong các mối quan
hệ của xã hội.
Như chúng ta đã biết, lịch sử ra đời của tiểu thuyết là một quá trình trải dài từ
cổ chí kim, trên bình diện rộng lớn từ phương Tây đến phương Đông.
Có thể nói tiểu thuyết xuất hiện sớm nhất ở Châu Âu, khi nền nghệ thuật cổ đại
của Hy Lạp chấm dứt thời kỳ khủng hoảng. Ý thức cá nhân con người với vấn đề đời
sống riêng tư được đặt ra và thu hút sự quan tâm của các nhà văn. Tiểu thuyết trở
thành thể loại có thể đáp ứng nhu cầu phản ánh cuộc sống và số phận con người một
cách chân thực.
Ban đầu tiểu thuyết khá đơn giản về mặt đề tài, cốt truyện, cách xây dựng nhân
vật. Các tiểu thuyết Châu Âu hầu hết đều theo khuôn phiêu lưu, mạo hiểm và ái tình.
Chẳng hạn như tiểu thuyết Con lừa vàng của nhà văn La Mã cổ đại Apuleius, tiểu
thuyết Don Quijote xứ Mantra của M. Cervantes thời đại Phục hưng. Nhưng cũng bắt
đầu từ thời kì Phục hưng (thế kỷ XIV – thế kỷ XVI), tiểu thuyết đã có bước phát triển
đáng kể khi xã hội dần nảy sinh mầm mống chủ nghĩa tư bản. Tiểu thuyết không chỉ
dừng lại ở mô tả con người, cá nhân riêng lẻ mà còn khái quát cả hiện thực rộng lớn
với ý thức phê phán. Ở giai đoạn này tiểu thuyết không còn mang nặng yếu tố li kì
mạo hiểm nữa mà đi sâu vào số phận, bản chất của con người trong xã hội. Tiểu thuyết
xây dựng được nhân vật điển hình trong các hoàn cảnh điển hình. Tiêu biểu là tiểu
thuyết Tấn trò đời của Balzac với nội dung đi sâu vào các mối quan hệ phức tạp cùng
với sự phê phán những điều thối nát của xã hội đương thời. Sang thế kỷ XX với trào


lưu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, tiểu thuyết đã bắt đầu đặt mối quan hệ giữa số
phận con người với số phận dân tộc… Những nhà văn với ngòi bút đặc sắc như
L.Tolstoy , M.Gorki, Solokhov, Ehrenburg,… đã cho ra đời những thành tựu rực rỡ cho

thể loại tiểu thuyết trong nền văn học nhân loại.

Theo Trần Đình Sử “Có người nói tiểu thuyết là công trình của Châu Âu”
[14;tr.292], song có lẽ không hẳn như vậy. Tiểu thuyết phương Đông cũng xuất hiện
sớm ở Trung Quốc. Tên gọi “tiểu thuyết” xuất hiện trong thư tịch Trung Quốc từ rất
sớm. Tuy tiểu thuyết xuất hiện sớm nhưng mãi đến thời Đường, tiểu thuyết mới bắt
đầu chú ý đến đời sống riêng tư của cá nhân thông qua loại tiểu thuyết truyền kì. Thời
Tống, tiểu thuyết có sự phát triển hơn với tiểu thuyết thoại bản. Đến thời Thanh (thế
kỷ XIV – XIX), sự ra đời của tiểu thuyết chương hồi đã góp phần vào sự phát triển
đỉnh cao của văn học Trung Quốc. Những tiểu thuyết nổi tiếng như Tam quốc diễn
nghĩa của La Quán Trung, Thủy Hử của Thi Nại Am, Tây du ký - Ngô Thừa Ân, Hồng
lâu mộng – Tào Tuyết Cần… là sự kết tinh của văn xuôi Trung Quốc từ chất liệu yếu
tố lịch sử đến vấn đề thế sự, đời tư con người. Và khái niệm tiểu thuyết hiện đại phải
đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX mới có ở Trung Quốc, gọi là tiểu thuyết trường
thiên, tiểu thuyết trung thiên, tiểu thuyết đoản thiên.
Ở Việt Nam, tuy tiểu thuyết xuất hiện có phần muộn hơn nhưng mầm mống sơ
khai tiểu thuyết đã có từ thế kỷ XIV – XVI trong các sáng tác cổ xa xưa Việt Điện u
linh, Lĩnh Nam chích quái… Thế kỷ XIX xuất hiện tiểu thuyết chương hồi Hoàng Lê
nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái, tiểu thuyết đánh dấu được sự phát triển của văn
xuôi thời phong kiến tuy chưa khai thác sâu vào đời sống cũng như số phận con người.
Đến đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ ra đời thì mới có sự đầy đủ về ý
nghĩa của thể loại tiểu thuyết. Từ đó tiểu thuyết Việt Nam đã bước vào thời kỳ phát
triển và ngày càng khẳng định vị thế của thể loại này cho nền văn học nước nhà.

1.1.2 Đặc điểm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là thể loại văn học có dung lượng lớn vì vậy nó có khả năng bao
quát bức tranh cuộc sống một cách chân thực và sinh động nhất theo cả chiều rộng của
không gian và chiều dài của thời gian. Tiểu thuyết tái hiện lại cuộc đời với tất cả sự bề
bộn vốn có. Đây là ưu điểm của tiểu thuyết trong việc phản ánh tối đa hiện thực, giúp
người đọc hình dung được toàn diện bối cảnh, cốt truyện, nội dung tác phẩm. Bên cạnh
đó, tiểu thuyết còn chứa đựng những vấn đề triết lý, đạo đức, nhân sinh quan con



người, đồng thời còn chứa đựng các lĩnh vực lịch sử chính trị như tiểu thuyết Chiến
tranh và hòa bình của L.Tolstoy … Sức chứa hiện thực của tiểu thuyết còn được thể
hiện ở khả năng phản ánh nhiều cuộc đời của nhiều con người với những số phận khác
nhau. Chính vì vậy, tiểu thuyết mang đặc điểm là có sức chứa hiện thực rộng lớn.
Một đặc điểm tiêu biểu nữa của tiểu thuyết đó là tiểu thuyết nhìn cuộc sống từ
góc độ đời tư. Yếu tố đời tư miêu tả cuộc sống hiện tại không ngừng biến đổi sinh
thành trên cơ sở kinh nghiệm cá nhân, đồng thời phạm trù đời tư cũng thể hiện sâu sắc
những vấn đề mà tiểu thuyết quan tâm như ý thức cuộc sống cá nhân con người, tình
yêu hạnh phúc cũng như những bi kịch của cuộc sống với sự chân thật, gần gũi. Tiểu
thuyết Việt Nam từ khi ra đời cũng đã chú trọng khai thác đến góc độ đời tư ở cốt
truyện. Tiểu thuyết Sống mòn của nhà văn Nam Cao cũng thể hiện rõ ràng vấn đề nhân
tình thế thái, cảnh sống mòn mỏi theo năm tháng của số phận con người trong xã hội
đương thời, đặc biệt là tầng lớp trí thức nghèo mà Thứ là đại diện. Góc độ đời tư là
một đặc điểm tạo sự khác biệt giữa tiểu thuyết và sử thi, nhưng khi góc độ đời tư kết
hợp với vấn đề lịch sử sẽ tạo ra tiểu thuyết sử thi hiện đại.
Chất văn xuôi trong tiểu thuyết cũng là đặc điểm quan trọng để tạo nên sự đa
dạng các màu sắc thẩm mỹ trong tác phẩm. Chất văn xuôi không phải là được viết
bằng văn xuôi mà có thể hiểu là sự tái hiện cuộc sống với những chi tiết giống như
thật, không thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tưởng hóa. Nói như vậy không có nghĩa là tiểu
thuyết không lãng mạn mà tiểu thuyết miêu tả đời sống như đời sống vốn có. Mọi vấn
đề đều hiện lên với đầy đủ những góc cạnh, từ sự hài hòa đẹp đẽ đến cái gai góc xù xì,
cả ánh hào quang lẫn sự tăm tối. Theo Hà Minh Đức nhận định: “Tiểu thuyết tái hiện
hiện thực khách quan với đầy đủ tính chất phức tạp và đa dạng của nó. Tính chất văn
xuôi, vì vậy trở thành đặc trưng tiêu biểu cho nội dung thể loại” [2;tr.190]. Vì thế chất
văn xuôi miêu tả cuộc sống như thực tại cùng thời đang sinh thành, tiểu thuyết hấp thụ
vào bên trong nó mọi yếu tố ngổn ngang của cuộc đời, bao gồm cái cao cả lẫn tầm
thường, nghiêm túc và buồn cười, bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ. Sự muôn màu muôn
vẻ đó khi được đưa vào tiểu thuyết sẽ trở thành sự đa dạng các màu sắc thẩm mỹ. Màu
sắc thẩm mỹ chính là cái cao cả, cái thấp hèn, cái bi, cái hài, cái đẹp…, có thể mỗi loại

hình văn học đều mang một màu sắc thẩm mỹ đặc trưng nhưng với tiểu thuyết thì
không có quá trình chọn lựa màu sắc thẩm mỹ. Đó là vì tiểu thuyết luôn tiếp nhận và
hướng đến phản ánh hiện thực. Điểm này liên quan đến chất văn xuôi của tiểu thuyết.


Tóm lại chất văn xuôi đã mở ra một vùng tiếp xúc tối đa với thời hiện tại đang sinh
thành làm cho tiểu thuyết không bị giới hạn nào trong nội dung phản ánh và chất văn
xuôi có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo sự đa dạng các màu sắc thẩm mỹ cho tiểu
thuyết.
Bên cạnh đó, tiểu thuyết còn chứa nhiều yếu tố nằm ngoài cốt truyện hay còn
gọi là yếu tố thừa. Tiểu thuyết có dung lượng lớn nên bên cạnh cốt truyện chính thì
tiểu thuyết còn chứa đựng bao nhiêu cái “thừa”. Đó là cái chính yếu thể hiện những
suy nghĩ triết lý về cuộc sống của nhân vật, về đời người, giải thích cặn kẽ về các
chuyển biến trong dòng tâm tư tình cảm con người hoặc giới thiệu chi tiết về quan hệ
giữa người với người, về lai lịch của sự vật, không gian, thời gian trong tác phẩm…
Những điều đó tạo được một chỉnh thể nghệ thuật vượt hơn sự đầy đủ cho tiểu thuyết,
nên mạch truyện của tiểu thuyết không lệ thuộc vào cốt truyện. Sống mòn của Nam
Cao đã thể hiện suy nghĩ của Thứ về mọi vấn đề như: về nghề, về đồng nghiệp, về ước
mơ, về cái đói, về thói thành kiến nghi kị, về bản thân, về tính yếu đuối của con
người…, những tình tiết về San, về Mô, về đôi vợ chồng nhà lá, về bữa ăn… đều
không thiết thực cho một cốt truyện nào nhưng nó phơi bày ra toàn bộ xã hội cuộc
sống. Chính những yếu tố thừa đó tạo nên sự linh hoạt trong giọng điệu tiểu thuyết,
đồng thời những phần thừa được xen lẫn vào tác phẩm sẽ thể hiện rõ hơn tư tưởng tác
phẩm, suy nghĩ của nhà văn và làm đậm chất tiểu thuyết hơn cho tác phẩm thuộc thể
loại này, cho nên gọi là thừa nhưng lại không thể thiếu trong tác phẩm.
Và nhân vật trong tiểu thuyết là con người nếm trải tư duy. Nhân vật không
phải có nhiều đau khổ là nếm trải mà đó là kiểu nhân vật được đặt vào những thử
thách và thông qua biến cố để có sự trưởng thành về tư duy, nhận thức, tâm lý hoặc
hành động… Họ phải chịu đựng những sóng gió, trải qua những thăng trầm mới có
phát triển hay nói cách khác cuộc đời sẽ dạy nhân vật trong tiểu thuyết trưởng thành.

Julien sorrel trong tiểu thuyết “Đỏ và Đen” của Shtendtal cũng là đại diện cho kiểu
nhân vật nếm trải, chàng là một thanh niên thuộc giai cấp bình dân luôn ấp ủ trong
mình giấc mơ thành đạt và tự khẳng định cá nhân mình bằng con đường danh vọng,
vinh quang cho dù bằng con đường nào. Cuộc hành trình lập nghiệp của chàng thanh
niên cũng là cuộc hành trình tha hóa. Tuy nhiên, ở cuối tác phẩm, chàng đã nhận thức
được rằng bản thân đã mắc tội ác lớn và cũng nhận ra tình yêu chân thật dành cho bà
De Rênal. Quá trình trưởng thành đó có được từ chính sự nếm trải của nhân vật, tạo sự


phát triển logic trong tư duy, tính cách nhân vật. Và để có được điều đó, nhà văn sẽ
chú trọng khai thác những khía cạnh tâm lý nhân vật, tâm lý là một yếu tố không thể
thiếu khi khắc họa kiểu nhân vật nếm trải tư duy của tiểu thuyết. Nhân vật trong tiểu
thuyết đạt được một sự toàn diện khi xuất hiện từng bước thăng trầm trong cuộc đời.
Tất cả đều được miêu tả một cách đầy đủ, toàn diện và chi tiết, làm cho nhân vật trong
tiểu thuyết trở nên sinh động, linh hoạt và chân thực với cuộc đời hơn tất cả các kiểu
nhân vật khác.
Sự xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội dung trần thuật là đặc
điểm sẽ được tìm thấy trong tiểu thuyết. Khoảng cách ấy như một khoảng cách về giá
trị dẫn đến lí tưởng hóa trong anh hùng ca, còn tiểu thuyết hướng về miêu tả hiện thực
như cái hiện tại đương thời của người trần thuật. Tiểu thuyết cho phép người trần thuật
tiếp xúc, nhìn nhận các nhân vật một cách gần gũi như những người bình thường, có
thể hiểu họ bằng kinh nghiệm của mình. Hay giữa người kể và nội dung kể đã không
còn khoảng cách nữa. Đồng thời, người viết có cái nhìn nhiều chiều, nhiều điểm nhìn
và sử dụng nhiều giọng nói. Bên cạnh đó, các cuộc đối thoại trong tiểu thuyết còn
mang tính chất đa thanh, đa giọng do tiểu thuyết hấp thu nhiều loại giọng điệu khác
nhau của đời sống.
Một đặc điểm mang tính chất ưu việt trong tiểu thuyết đó chính là bản chất tổng
hợp. Với dung lượng lớn, tiểu thuyết có khả năng tổng hợp thi pháp của các loại hình
nghệ thuật khác trong văn học như thơ ca, ký, kịch… Trong tiểu thuyết đôi khi thể loại
ký xuất hiện dưới hình thức của những mảng hiện thực nóng hổi, chân thật và chi tiết,

đặc biệt là tiểu thuyết có yếu tố lịch sử dân tộc, tiểu thuyết về đề tài chiến tranh thì
chất ký đậm đặc. Không chỉ vậy, trong tiểu thuyết còn xuất hiện những nhân vật có
tâm tư tình cảm mang sự rung động tinh tế của thơ ca và chính lúc ấy nhân vật tiểu
thuyết sẽ trở thành nhân vật trữ tình giàu cảm xúc. Trong những lúc tiểu thuyết đi đến
cao trào của mâu thuẫn, xung đột thì đó chính là hình thái của kịch. Bên cạnh đó, tiểu
thuyết còn có khả năng tổng hợp thủ pháp của các loại hình nghệ thuật ngoài văn học
hay gọi là loại hình phi văn học: âm nhạc, hội họa, điêu khắc… Những hiện tượng
tổng hợp đó làm cho bản thân tiểu thuyết cũng đang vận động, không đứng yên. Đồng
thời những bức tranh thiên nhiên được phác họa với những gam màu sống động,
những tiếng ngân nga xúc cảm, những âm thanh cuộc sống tất cả là kết quả của khả
năng tổng hợp trong tiểu thuyết.


Với những đặc trưng của thể loại, có thể nhận định: “tiểu thuyết là thể loại tự
sự dân chủ, năng động, giàu khả năng phản ánh đời sống nhiều mặt bất nhất trong các
thể loại văn học” [14;tr.307].

1.2 Vài nét về tác giả Chu Lai
1.2.1 Cuộc đời và sự nghiệp văn chương
Chu Lai tên thật là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946 tại xã Hưng
Đạo, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, tuy nhiên, gia đình ông chuyển lên Hà Nội sống
từ lâu. Từ đó, nhà văn không chỉ được sở hữu cái dịu mát, thanh bình và ngọt ngào của
đồng quê Hưng Yên mà còn lẫn cốt cách thanh lịch của con người ở vùng đất Hà
Thành. Bên cạnh đó, ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi, vì thế chất nghệ sĩ và
tâm hồn văn chương của nhà văn đã được nuôi dưỡng từ bé.
Chu Lai nhập ngũ khi ông kết thúc năm đầu tiên tại Đại học Quân y. Trong thời
gian đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Chu Lai xin nhập ngũ và được
công tác trong Đoàn Kịch nói Tổng cục Chính trị. Tuy nhiên, nhà văn vẫn chưa thỏa
nguyện với vai trò người diễn viên mặc áo lính nên ông xin cầm súng trực tiếp chiến
đấu, và trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng ven Sài Gòn. Sau 1975, ông

về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Cuối năm 1976, ông tham dự trại sáng tác văn
học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du, khóa I. Sau khi
tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông là đảng viên
Đảng cộng sản Việt Nam và là hội viên Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1980. Ông về
hưu năm 2006.
Chu Lai được biết đến với nhiều tác phẩm nổi tiếng, sau đây là một số tác phẩm
của ông :
Tiểu thuyết:


Nắng đồng bằng (1978)



Đêm tháng hai (1979)



Gió không thổi từ biển (1984)



Sông xa (1986)



Vòng tròn bội bạc (1987)




Bãi bờ hoang lạnh (1990)



Khúc tráng ca về biển (1991)




Ăn mày dĩ vãng (1992)



Phố (1992)



Gió xanh (1988)



Ba lần và một lần (1999)



Cuộc đời dài lắm (2001)



Khúc bi tráng cuối cùng (2004)




Người im lặng (2005)



Chỉ còn một lần (2006)



Hùng Karô (2009)

Đó là những bức tranh về hiện thực trong và sau chiến tranh của đất nước và
con người Việt Nam đầy bi tráng nhưng cũng đầy tính nhân văn. Bên cạnh những
thành công về thể loại tiểu thuyết thì truyện ngắn cũng là thành tựu trên bước đường
nghệ thuật của nhà văn, với các tác phẩm như sau:
Truyện ngắn:



Kỉ niệm vùng ven (1976)



Người im lặng (1976)



Đôi ngả thời gian (1979)




Vùng đất xa xăm (1981)



Út Teng (1983)



Truyện ngắn Chu Lai, Vũ Thị Hồng (1986)



Phố nhà binh (1992)



Truyện ngắn Chu Lai (2005)

Từ những cống hiến trên bước đường nghệ thuật, nhà văn đã đạt được nhiều
giải thưởng trên văn đàn văn học nước nhà như: Giải thưởng Hội đồng Văn học chiến
tranh Cách mạng và Lực lượng vũ trang (Hội Nhà văn Việt Nam) với tiểu thuyết Ăn
mày dĩ vãng năm 1993, giải thưởng Văn học Bộ quốc phòng năm 1994, giải thưởng
tiểu thuyết Nhà xuất bản Hà Nội với tiểu thuyết Phố năm 1993, giải thưởng Nhà nước
về Văn học nghệ thuật năm 2007.

1.2.2 Quan niệm nghệ thuật và nguồn cảm hứng chính
Với Chu Lai, văn chương là duyên nợ, là cuộc sống, là tình yêu. Tác phẩm là sự

cộng hưởng thăng hoa của tình yêu nghề, của lương tâm, trách nhiệm với ngòi bút và


khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ [22]. Chu Lai luôn đặt cái tâm sáng tạo của
người cầm bút lên hàng đầu. Trong một lần tâm sự về nghề nghiệp văn chương, ông
từng nói: “Sở dĩ văn của tôi được nhiều người đọc là vì cái gì cũng được đẩy đến tận
cùng của mọi buồn vui. Tôi không thích chơi những gam màu nhợt nhạt. Vì sao ư? Vì
một tuổi thơ nhọc nhằn, đói khổ, một thời trai trẻ đi qua chiến tranh, cộng thêm tính
cực đoan nên văn khốc liệt thế thôi. Nhưng chính sự khốc liệt đó tạo ra một thứ mùi
rất Chu Lai đấy!”. “Nó bao giờ cũng có hai gam: dữ dội đến tận cùng nhưng cũng
lãng mạn đến tận cùng” [25]. Chính nhà văn cũng đã từng nói: “nếu viết về chiến
tranh mà chỉ là những trận đánh kinh hoàng và chết chóc thì sẽ không ai đọc cả. Vì
vậy, phải có nguyên lý sáng tạo như sau: Viết về đề tài nào cũng được nhưng nếu
không có một nền tình yêu chắc chắn thì cuốn sách ấy đổ. Dĩ nhiên tình yêu trong
chiến tranh có đặc thù riêng. Trong chiến tranh, tình yêu mạnh hơn bình thường gấp
nghìn lần, bởi đó là yêu một lần cho mãi mãi, yêu để chết, thậm chí chưa kịp yêu đã
chết” [26]. Vì thế ta cảm nhận được ngòi bút của nhà văn đã neo đậu tâm hồn mình
vào cuộc đời và con người bằng những tác phẩm giàu chất sống và mang đậm giá trị
nhân văn.
Những quan niệm nghệ thuật của nhà văn đã đi đến sự vận động trên bình diện
về quan niệm phản ánh hiện thực. Hiện thực trong các sáng tác của Chu Lai đều hiện
lên trong cái nhìn một chiều với quan niệm đối lập địch – ta của tiểu thuyết sử thi và
cảm hứng lãng mạn như được “tráng lên một lớp men trữ tình” tiêu biểu qua các tiểu
thuyết: Nắng đồng bằng và Gió không thổi từ biển. Đến sau 1986, Chu Lai đã đổi mới
quan niệm về hiện thực, hướng đến phản ánh hiện thực đa chiều. Trang viết của Chu
Lai đã thể hiện sự thấm thía trước tác động ghê gớm của chiến tranh và cuộc sống đời
thường đa tạp đến tính cách, số phận con người. Nhà văn không chú ý viết để tái hiện
chiến tranh xảy ra như thế nào, mà đặc biệt quan tâm đến những số phận cá nhân đã
sống ra sao trong cuộc chiến và khi họ bước ra nó quay về với đời thường.
Đồng thời, tiểu thuyết Chu Lai cho ta thấy được những quan niệm về con

người, nhà văn đi sâu vào số phận cá nhân, len vào ngõ ngách sâu kín của tâm hồn để
bước lên những tầng bật tâm lí, tiềm thức… [22]. Qua đó, nhân vật được trải lên trên
trang văn với những đau đớn bi kịch với những khát khao bản năng dồn nén. Hơn nữa,
Chu Lai đã đi sâu vào những cá nhân riêng lẻ, đời sống, số phận riêng và thế giới riêng
đầy bí ẩn. Với quan niệm mới mẻ về con người, Chu Lai xây dựng nên thế giới nhân


vật trong tiểu thuyết là những con người có tính cách riêng biệt. Nhà văn đặt nhân vật
trong nhiều mối quan hệ để nhân vật bộc lộ tận cùng bản chất rất “người” của mình.
Nhiều năm trải qua chiến tranh, Chu Lai viết về nó như là nợ, là nghiệp, là ân
tình. Trả lời phỏng vấn nhà văn tâm sự “không phải tôi tới với văn học mà sự cam go
và nỗi cô đơn của cuộc chiến đã đem văn học đến với tôi” [26]. Hay có lần nhà văn
bộc bạch: “Còn sống, còn viết chiến tranh để đền đáp ân tình đồng đội..” [26]. Và từ
đó chiến tranh đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong ngòi bút của nhà văn. Cảm
hứng này in đậm trên từng trang viết dưới những chủ đề khác nhau. Đó là viết về
người lính cách mạng mang đậm chất sử thi Nắng đồng bằng, Gió không thổi từ biển,
Sông xa, Khúc bi tráng cuối cùng và Người im lặng... Bên cạnh cảm hứng chiến tranh
ở ngòi bút Chu Lai vẫn toát lên được cảm hứng từ những cuộc sống thường nhật thời
hậu chiến trong cuộc vật lộn mưu sinh. Cảm hứng này được xuất hiện trong các tác
phẩm như Phố, Hùng Karô, Vòng tròn bội bạc, Ăn mày dĩ vãng Ba lần và một lần,
Cuộc đời dài lắm… Đó là số phận người lính thời hậu chiến mang bi kịch lạc thời, cô
đơn, phải đối diện với cơ chế thị trường. Vinh quang của ngày hôm qua còn đấy,
những người lính của ngày hôm nay nào là Nam, Thảo, Lãm, Sáu Nguyện, Hai
Hùng… bị vùi dập, thương tích bởi vòng xoay của đồng tiền, của trắng - đen, xấu - tốt.

1.3 Vài nét về tiểu thuyết Phố
Tiểu thuyết Phố của nhà văn Chu Lai viết về cuộc sống con người Hà Nội giai
đoạn đầu đổi mới. Đây là quyển tiểu thuyết được xem là đặc sắc nhất của Chu Lai viết
về cuộc sống của người lính, người bộ đội sau chiến tranh. Được sáng tác năm 1992
dựa trên truyện ngắn Phố nhà binh, lúc đầu Chu Lai đặt tên cho quyển tiểu thuyết là

Phố Lính, nhưng sau này được đổi là Phố. Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Pháp với
tên Rue des soldats (Phố nhà binh) và được chuyển thể thành bộ phim truyền hình
được nhiều người ưa thích Người Hà Nội trên Đài phát thanh truyền hình Việt Nam.
Tác phẩm nhận được giải thưởng năm 1993.
Dù rằng không tạo được tiếng vang như tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng nhưng Phố
cũng là một trong những thành công của nhà văn Chu Lai trên bước đường nghệ thuật.
Nhà văn đã từng tâm sự: “Ví dụ viết Ăn mày dĩ vãng xong, khá ầm ĩ, bạn bè bảo:
“Thôi, ông nghỉ đi, cuốn này đã như một quả pháo đùng, pháo nổ tan tành rồi, ông
còn cái quái gì để viết nữa!” thế là tự ái, chả lẽ cả cuộc đời cứ chỉ chúi vào đề tài
chiến tranh thôi à? Quá kém. Vậy là chơi luôn cuốn Phố, một cuốn sách viết về ngay


cái phố Lý Nam Đế mà ngày nào cũng đi qua đi lại. Viết cũng khá nhanh, thậm chí
viết gần xong còn xé đi viết lại, oai ra phết. Cuốn này cũng tạm ổn, khối cô gái thích,
thậm chí có cô ở tận Huế bay ra tò mò đi dọc phố để xem các nhân vật nó lấp ló ở
đâu, thêm nữa, cũng từ đó cái phố Lý Nam Đế này nhiều người đổi thành Phố Nhà
Binh theo tên gọi văn chương của nó.” [27].
Phố là quyển tiểu thuyết xoay quanh cuộc sống của những số phận con người
thời hậu chiến, đặc biệt là đời sống người lính và những cựu chiến binh sống trên khu
phố Lý Nam Đế.
Xuất hiện trên những trang văn đầu tiên của Phố là hình ảnh đôi vợ chồng Nam
– Thảo với cuộc sống êm ấm, hạnh phúc. Người chồng là kĩ sư công binh đóng quân
tại bên kia cầu Thăng Long còn vợ là bác sĩ quân y. Mối tình của Nam và Thảo được
nảy sinh từ thuở còn ở chiến trường, họ đã yêu nhau và trao cho nhau những gì liêng
thiêng nhất trong buổi tối mưa rừng đầy kỉ niệm. Định mệnh đã đẩy họ cách xa nhau
sau đêm mưa ở rừng ấy và duyên số lại cho họ bất ngờ tái ngộ trong một ngày Nam
được triệu tập ra Hà Nội để báo cáo chiến tích trong một hội nghị mừng công toàn
binh chủng. Ngay giữa đại hội tràn ngập cờ hoa và tiếng vỗ tay, họ đã gặp nhau để rồi
trở thành chồng vợ cho đến bây giờ. Vợ chồng anh sinh được một người con tên là
Niên Thảo – là kỷ niệm thiêng liêng nhất của hai vợ chồng. Những chuỗi ngày hạnh

phúc như cù lao bình yên của vợ chồng họ cứ ngỡ là mãi mãi nhưng không hẳn vậy.
Đời sống khó khăn, chật vật đã vây lấy ngôi nhà hạnh phúc bé nhỏ kia. Bởi lẽ, Nam
vốn chiến đấu dũng cảm ở chiến trường nhưng lại hiền lành, không biết tính toán và
thụ động trước nhịp sống sau chiến tranh. Cũng vì cuộc sống mưu sinh quá khó khăn
khiến Thảo phải quyết định sang Đức lao động kiếm tiền. Nam sống cảnh gà trống
nuôi con và chờ ngày vợ hết hạn lao động trở về.
Không chỉ riêng gia đình Nam, Phố còn xoay quanh cuộc sống của gia đình
Lãm. Lãm gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, sau khi giải ngũ anh bị bố anh - ông
Khang, vốn là một hiệu trưởng trường Đảng, đuổi khỏi nhà vì cưới một cô gái người
miền xuôi có nhiều điều tai tiếng. Hai vợ chồng anh phải sống tạm bợ ngay trên vỉa hè
của con phố Lý Nam Đế. Họ đã cho ra đời hai đứa con ngay chính trên con phố này.
Cuộc sống khó khăn nhưng Lãm đã vươn lên từ chính bàn tay của mình. Anh làm rất
nhiều công việc với hy vọng có thể có nhiều tiền để trang trải, để nuôi sống gia đình.
Lãm đã trải qua rất nhiều khó khăn và cuối cùng anh đã tạo dựng được cơ ngơi danh


tiếng. Về sau, ông Khang tuổi ngày càng cao cùng với tình thương con bất tận nên ông
tìm và mong Lãm quay trở về.
Trong thời gian vắng vợ, Nam vẫn giữ vẹn lòng son sắt thủy chung với Thảo.
Những lúc cô đơn, anh thường tâm sự cùng với Trọng Bình – đạo diễn phim, cựu
phóng viên quay phim chiến trường và là bạn thân của Nam. Bình luôn quan tâm đến
người khác và nói rất hay về triết lý cuộc sống nhưng lại có cuộc sống riêng không
hạnh phúc. Vợ Bình ly dị chỉ sau một thời gian ngắn chung sống với lý do anh chỉ làm
tình nhân chứ không thể trở thành người chồng. Từ đó, Bình sống một mình và luôn né
tránh tình cảm của Loan – em gái Thảo. Bình cũng là cha nuôi của bé Niên Thảo, rất
thương bé Niên Thảo, mỗi lần đến nhà thường hay có quà cho bé. Cũng nhờ vậy, mà
Niên Thảo đỡ nhớ mẹ hơn. Bé Niên Thảo thường qua nhà ngoại chơi, ở bên đó có dì
Loan cũng hết mực yêu thương. Khi chị của mình đi xa thì Loan cũng thường qua nhà
Nam, giúp anh đi chợ, nấu ăn. Loan là một cô gái có cá tính thẳng thắn, mạnh mẽ và
có những nhận xét tinh tế về những người xung quanh. Cũng có đôi lần, Loan suy nghĩ

hết sức vu vơ cô muốn bên cạnh Nam để an ủi anh, thậm chí vỗ về, vuốt ve anh và táo
tợn hơn là cô muốn tự nguyện thay thế chị của mình làm tất cả kể cả “chuyện ấy”,
nhưng rồi ý nghĩ ấy cũng vụt qua. Đồng thời bức tranh trong Phố, không chỉ tái hiện
đời sống mưu sinh của những người lính, cựu chiến binh mà còn có cả cuộc sống của
những kiếp người từ chị hàng chè chén vốn là giảng viên đại học nghỉ tạm đến anh
công an đường phố… Tất cả đã toát lên mảng hiện thực chân thực về cuộc sống sau
chiến tranh.
Trở lại với cuộc sống vợ chồng Nam – Thảo, Thảo đã trở về trong sự nhớ
thương của chồng con sau bao năm lao động nơi đất khách. Chính lúc ấy, biến cố xuất
hiện trong hạnh phúc vợ chồng họ. Thảo trở về mang nhiều nét thay đổi, chính Nam
dường như cũng nhận ra được điều đó. Thảo bị ám ảnh về một người đàn ông Việt
Kiều khi cô ở bên Đức. Hình ảnh người đàn ông ấy cứ ám ảnh Thảo mãi cho đến khi
cô gặp Hùng hợp tác kinh doanh. Hùng đã có ấn tượng với Thảo khi nhìn ảnh của
Thảo và Thảo cũng có cảm tình với anh. Chính đêm tân gia nhà mới của Thảo là thời
điểm hai người thố lộ tình cảm với nhau và Hùng có ý mời Thảo đi mạn bắc hồ Tây,
phía chân cầu Thăng Long. Chuyến đi ”ngoại tình” ấy tưởng chừng chỉ có hai người
biết nhưng không ngờ đã có một người tận mắt chứng kiến tất cả, đó chính là Lãm. Từ
chuyến đi ấy, Thảo càng trở nên xa lạ và hoàn toàn thay đổi, điều này Loan và cả Nam


đều biết rõ. Nam đã níu kéo, vun đắp vào tình yêu và hi vọng Thảo sẽ được như xưa
nhưng tình cảm vợ chồng họ vẫn rạn nứt. Cảm giác tội lỗi nghĩ về gia đình bé nhỏ
khiến Thảo quyết định gặp Hùng và chấm dứt tất cả. Buổi hẹn gặp mặt cuối cùng ở
Sầm Sơn của đôi nhân tình đã được truyền đến Lãm. Quả thật, chuyến đi ấy đã chấm
dứt tất cả. Sầm Sơn biển động, Thảo và Hùng đã rơi vào dòng xoáy của bão biển
nhưng Lãm đã kịp thời xuất hiện và cứu được Hùng. Thảo và Lãm ra đi mãi mãi. Mặc
dù Hùng được cứu thoát nhưng sau này Hùng trở nên điên loạn, không còn lý trí. Tác
phẩm kết thúc trong bi kịch người của ở lại.

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA TIỂU THUYẾT PHỐ

TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI
2.1 Bức tranh hiện thực rộng lớn và đa dạng trong tiểu thuyết Phố
2.1.1 Hiện thực về khu phố Lý Nam Đế thời kì mở cửa


Tiểu thuyết là một thể loại không hạn chế về dung lượng, nó có khả năng phản
ánh tối đa cuộc sống trên nhiều phương diện khác nhau đúng với bản chất và chiều sâu
hiện thực. Với Phố của Chu Lai, nhà văn đã tái hiện chân thật nhất cuộc sống của
những người lính hậu chiến tại khu phố Lý Nam Đế - Phố lính. Dù trong nền khung
cảnh ở một khu phố, nhưng đó chính là một xã hội thu nhỏ nổi bật lên toàn vẹn bức
tranh hiện thực cuộc sống thời hội nhập để góp phần cho sự phản ánh mọi bề bộn của
toàn xã hội.
Có thể nói, Phố là một bức tranh toàn cảnh về khu phố Lý Nam Đế, mà ở đấy
tập trung những cơ quan quan trọng và còn là khu tập thể bộ đội “Đây là khu phố bộ
đội, là tòa soạn báo, là toàn những cơ quan quan trọng cả… là cái phố có nhiều các
đồng chí sĩ quan cao cấp…” [8;tr.38]. Thoạt đầu, khu phố Lý Nam Đế hiện lên trong
bản phác thảo của đạo diễn Trọng Bình vốn dĩ là một nơi yên bình và trầm lắng “Có
một thời, không, mới cách đây vài ba năm chứ mấy, cảnh sắc nơi đây còn thâm trầm
ắng lặng lắm… hầu như tất cả các căn hộ cao thấp, to nhỏ, ngắn dài vẫn bảo nhau
khinh khỉnh xây lưng ra mặt đường, khiến cho dãy phố đã tăm tối lại càng hun hút nỗi
đe dọa…” [8;tr.9]. Thế nhưng, khi thời kì chuyển sang nền kinh tế thị trường được bắt
đầu manh nha thì đồng loạt khu phố ấy cũng bắt đầu chuyển mình như mọi khu phố
khác. Đó như là quy luật tất yếu phải thay đổi để kịp với nhịp náo nhiệt của thời đại
“sau vài đêm hối hả đục tường, trổ cửa, nới mái…phắp một cái, các căn hộ đã bắt đầu
rùng rùng chuyển động… bao mảnh tường rêu phong tựa hồ bị quên lãng… bỗng phát
khởi thành những khuôn sáng vuông tròn méo lệch…” [8;tr.9]. Nếu như trước đó, khu
phố Lý Nam Đế tỏ thái độ “khinh khỉnh” quay lưng trước sự biến thiên của vạn vật thì
giờ đây, nó cũng hòa vào nhịp huyên náo để đổi mới. Hiện thực về khung cảnh khu
phố đã được nhà văn thể hiện chân thật. Trước hết, sự thay đổi được bắt đầu ngay từ
tên gọi của khu phố “Hà Nội dạo này sinh ra lắm cái tên kép cho những con đường…

Tất nhiên trong đó không thể không có phố Nhà Binh đè lên tên một vị hoàng đế thời
lập nước… Những cái tên chắc chắn chẳng thể nào có được trong thời kì bao cấp
nghiêm ngắn và ảm đạm.” [8;tr.195]. Cơ chế mới, chế độ mới dường như đã cởi mở
hơn, những quy định, quy tắc khắt khe của thời kì trước giờ đây cũng được nới lỏng,
sự trầm lắng đã được thay vào bởi sự xôn xao, hỗn tạp của nhịp cuộc sống thời kì đổi
mới “Mình có đi dạo một vòng dọc phố. Vui đáo để. Ánh sáng xen lẫn bóng tối, nhạc
ngoại xen lẫn muỗi nội…” [8;tr.19]. Khung cảnh khu phố cũng trở nên nhịp nhàng, tấp


nập qua những cảnh sinh hoạt, mưu sinh. Dẫu phố Lính đang từng ngày thoát xác kia
đã cố gắng giữ gìn nét trầm lặng, uy nghiêm nhưng đó lại là sự níu giữ mỏng manh
“Có lẽ chỉ về đêm cái phố nhà binh đang biến tướng này mới yếu ớt phục hồi lại được
cái vẻ thâm trầm xưa cũ của mình.” [8;tr.57]. Vẫn là những âm thanh xưa cũ của tự
nhiên, của công việc thường nhật giữa đêm khuya vắng lặng “Vẫn lại tiếng cành sấu
rơi, tiếng giày đinh quân cảnh, tiếng quét rác, tiếng mèo động tình trên mái ngói…”
[8;tr.57]. Nhưng giờ đây khi nền kinh tế thị trường đang được áp dụng thì tình cảm
giữa mỗi con người đã vơi dần đi theo nhịp sống cũng như chính tại phố nhà binh đã
mất đi những hình ảnh lãng mạn của tình yêu đôi lứa “Chỉ khác, cả chiều dài dãy phố,
dù người tinh mắt đến mấy cũng không còn nhìn thấy những đôi tình nhân lả người
trong tay nhau!” [8;tr.57]. Con người trong giai đoạn đầu đổi mới cũng trở nên thiết
thực hơn. Và như thế, sự hội nhập bắt đầu len lỏi ngày càng nhanh chóng vào từng ngõ
ngách của căn phố cùng với những cửa hàng hiện đại đồng loạt mọc lên – hệ quả của
cơ chế mới “Chỉ sau gần một năm mà căn phố tiếp tục thay đổi đến nao lòng. Số nhà
không có, chỉ thấy biển hàng biển hiệu, cửa sổ không còn, chỉ còn đập mặt vào pa nô,
áp phích quảng cáo. Trên mặt đường, xe máy nhiều hơn xe đạp. Trong vỉa hè, nhà cao
tầng nhiều hơn nhà một tầng. Hàng sấu ngày nào vạm vỡ vút lên cao đến thế mà giờ
đây chỉ còn là những tán lá xanh đọng đầy bóng tối…” [8;tr.321]. Có thể thấy, những
biến động trong lòng con phố ấy chính là những chuyển biến mạnh mẽ của cơ chế mới
đang diễn ra trong toàn bộ đời sống kinh tế, đạo đức, văn hóa xã hội. Hơn nữa, cuộc
sống mới ở khu phố đã hiện lên với tất cả sự bề bộn và phức tạp, cơ chế kinh tế thị

trường thời kì mở cửa tồn tại cả hai mặt tốt – xấu đan xen nhau, những mặt tích cực,
những tiêu cực, nghịch lí. Đồng thời, cơ chế kinh tế mới của nền kinh tế thị trường đã
tạo ra những cơ hội và thách thức cũng như những thuận lợi và khó khăn. Tất cả đã
được thể hiện qua sự thay đổi của phố nhà binh. Sự thay đổi đó có tác động sâu sắc
đến đời sống con người, mặc dù cũng có chiều hướng tích cực nhưng thực tế trong tác
phẩm lại thấy những mặt tiêu cực. Chu Lai đã nhìn thẳng vào hiện thực để mổ xẻ,
xoáy sâu, để bày tỏ và để phê phán. Từ những cảnh thay đổi của khu phố, những con
đường trải nhựa bằng phẳng không còn lầy lội, vùng trũng đến mùi vị no ấm lan tỏa
khắp phố đã được nhà văn thể hiện cụ thể và toàn diện. Chính thể loại tiểu thuyết đã
giúp Chu Lai tái hiện lại toàn diện hiện thực phố nhà binh.


×