Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

pháp luật về bảo vệ môi trường không khí thực trạng tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.26 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA: 2011 - 2015

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ
THỰC TRẠNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiên:

VÕ HOÀNG YẾN

NGUYỄN VĂN ĐẤU

Bộ môn: Luật Thương mại

MSSV: 5118688
Lớp: HG1165A1

CẦN THƠ, 11/ 2014


NHẬN XÉT CỦA HÔI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN

 ..............................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................


..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………………………..1
2. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………………….2
3. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………………...2
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………….2
5. Bố cục của đề tài…………………………………………………………..................2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ
1.1. Khái quát chung về môi trường không khí………………………………………...4
1.1.1. Các khái niệm cơ bản………………………………………………………….4
1.1.2. Các nguyên nhân ô nhiễm không khí………………………………………….5

1.1.3. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đến đời sống cộng đồng………………….6
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật …………………12
1.3. Khái quát chung về pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt
Nam………………………………………………………………………………….14
1.3.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí………………………..14
1.3.2. Vai trò của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam…………14
1.3.2.1. Pháp luật quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi tác
động vào môi trường không khí………………………………………………………15
1.3.2.2. Pháp luật quy định các chế tài để buộc con người phải thực hiện đầy đủ
các đòi hỏi của pháp luật khi tác động vào môi trường không khí …………………...17
1.3.2.3. Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức bảo vệ
môi trường không khí…………………………………………………………………19
1.3.2.4. Pháp luật tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các
quan hệ hợp tác quốc tế vì bảo vệ môi trường không khí……………………………..20
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG
KHÍ
2.1. Những quy định của pháp luật về quy chuẩn và tiêu chuẩn môi trường không khí ở
Việt Nam hiện nay…………………………………………………………………..23
2.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về quy chuẩn môi trường không
khí…………………………………………………………………………………...23
2.1.1.1. Khái quát chung về quy chuẩn môi trường không khí…………………....23
2.1.1.2. Một số quy chuẩn môi trường không khí cụ thể theo pháp luật Việt
Nam…………………………………………………………………………………24

GVHD: Võ Hoàng Yến

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh


2.1.2. Quy định pháp luật Việt Nam về tiêu chuẩn môi trường không khí…………27
2.1.2.1. Khái quát chung về tiêu chuẩn môi trường không khí……………………27
2.1.2.2. Một số tiêu chuẩn môi trường không khí cụ thể theo pháp luật Việt
Nam………………………………………………………………………………….28
2.2. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ môi trường
không khí…………………………………………………………………………....28
2.2.1. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung………………......29
2.2.1.1. Chính phủ……………………………………………………………...….29
2.2.1.2. Ủy ban nhân dân các cấp…………………………………………...……..29
2.2.2. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chuyên môn …………...30
2.3. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong bảo vệ môi trường không khí……….....33
2.3.1. Tuân thủ các quy định về lập và thực hiện và thực hiện các nôi dung trong báo
cáo đánh giá tác động môi trường…………………………………………………...33
2.3.2. Tuân thủ các quy định về lập và thực hiện các nội dung trong cam kết bảo vệ
môi trường………………………………………………………………………...…37
2.4. Trách nhiệm pháp lý áp dụng áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm..............39
2.4.1.Trách nhiệm hành chính……………………………………………………....40
2.4.2. Trách nhiệm hình sự………………………………………………………….42
2.4.3. Trách nhiệm dân sự…………………………………………………………..43
2.4.4. Trách nhiệm kỷ luật…………………………………………………………..45
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
KHÔNG KHÍ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1 Thực trạng môi trường không khí và việc áp dụng pháp luật ở Thành phố Hồ Chí
Minh…………………………………………………………………………………47
3.1.1. Thực trạng môi trường không khí hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh………47
3.1.2. Tình hình thưc thi pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt
Nam………………………………………………………………………………….51
3.1.3. Những bất cập đối với pháp luật về bảo vệ môi trường không khí…..............52
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường không

khí ở Việt Nam ………………………………………………………………….......54
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước
trong bảo vệ môi trường không khí…………………………………………………55
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các tổ chức ,cá nhân trong bảo vệ
môi trường không khí……………………………………………….........................58
KẾT LUẬN.................................................................................................................60

GVHD: Võ Hoàng Yến

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt tại các đô thị không
còn là vấn đề riêng lẻ của một quốc gia hay một khu vực mà nó đã trở thành vấn đề
toàn cầu. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới trong
thời gian qua đã có những tác động lớn đến môi trường, và đã làm cho môi trường
sống của con người bị thay đổi và ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Những năm gần đây
nhân loại đã phải quan tâm nhiều đến vấn đề ô nhiễm môi trường không khí đó là: Sự
biến đổi của khí hậu – nóng lên toàn cầu, sự suy giảm tầng ôzôn và mưa axít.
Ở Việt Nam ô nhiễm môi trường không khí đang là một vấn đề bức xúc đối
với môi trường đô thị, công nghiệp và các làng nghề. Một vấn đề nóng bỏng, gây bức
xúc trong dư luận xã hội cả nước hiện nay là tình trạng ô nhiễm môi trường không
khí do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người gây ra. Vấn đề này ngày
càng trầm trọng, đe doạ trực tiếp sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sự tồn tại,
phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai. Công nghiệp hóa càng mạnh, đô thị
hóa càng phát triển thì nguồn thải gây ô nhiễm môi trường không khí càng nhiều, áp

lực làm biến đổi chất lượng không khí theo chiều hướng xấu càng lớn. Ở Việt Nam,
tại các khu công nghiệp, các trục đường giao thông lớn đều bị ô nhiễm với các cấp
độ khác nhau, nồng độ các chất ô nhiễm đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Và sự gia
tăng dân số, gia tăng đột biến của các phương tiện giao trong khi cơ sở hạ tầng còn
thấp làm cho tình hình ô nhiễm trở nên trầm trọng. Nhưng pháp luật về bảo vệ môi
trường không khí của Việt Nam trong những năm qua chưa theo kịp với sự phát triển
của xã hội, chỉ đến khi gần đây tình trang ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng
thì nó mới được quan tâm đúng mức, thiếu vắng những văn bản chuyên biệt về bảo
vệ bảo vệ môi trường không khí sạch ,ta chỉ thấy một số quy phạm pháp luật về vấn
đề này trong các văn bản liên quan.Trong bản thân mỗi văn bản và giữa các văn bản
pháp luật về bảo vệ môi trường không khí vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn, chồng
chéo làm giảm hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. Hiệu quả công tác tổ chức thực
hiện pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở nước ta còn thấp, tình trạng vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường không khí còn khá phổ biến. Cơ chế phối kết hợp
giữa các cơ quan, ban ngành và chính quyền địa phương trong công tác bảo vệ môi
trường còn nhiều bất cập cần tiếp tục nghiên cứu cải tiến để nâng cao hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nước và tính khả thi của pháp luật bảo vệ môi trường. Xuất phát từ

GVHD: Võ Hoàng Yến

1

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

vấn đề trên, người viết đã chọn đề tài: “Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
– Thực trang tại thành phố Hồ Chí Minh.
2. Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi của luận văn này, người viết chỉ dừng lại ở việc phân tích nội
dung các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiên
nay, tìm hiểu thực trạng về việc áp dụng các quy định này trên thực tiễn trong thời
gian qua ở thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này với mục tiêu tìm hiểu và phân tích các quy định
pháp luật về bảo vệ môi trường không khí. Trên cơ sở đó người viết đặt ra một số
yêu cầu hoàn thiện và đưa ra một số giải pháp cơ bản cho việc hoàn thiện các quy
định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thưc hiện đề tài này người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp như so
sách, đối chiếu, phân tích luật viết, phương pháp quy nạp và phương pháp thống kê
số liệu thực tế.
5. Bố cục đề tài
Luận văn bao gồm: Lời nói đầu, tài liệu tham khảo, kết luận và ba chương.
Chương 1: Những vấn đề chung về môi trường không khí và pháp luật về bảo
vệ môi trường không khí.
Chương 2: Quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp bảo vệ môi trường không khí ở thành phố
Hồ Chí Minh.

GVHD: Võ Hoàng Yến

2

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ
1.1. Khái quát chung về môi trường không khí
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
Theo Luật Bảo vệ môi trường 2005, Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên
và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự
tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.1
Không khí là vật chất tồn tại ở thể khí, bao phủ toàn bộ bề mặt của trái đất. Nó
không màu, không mùi, không vị. Không khí phủ lên trái đất một lớp rất dày. Không
khi được định nghĩa “là hỗn hợp khí gồm có thành phần như khí Nitơ chiếm 78,9%,
Oxi chiếm 20,95%, Acgong chiếm 0,93%, Đioxit Cacbon chiếm 0,32% và một số khí
khác như Nêon, Hêli, Mêtan, Krypton cần cho hô hấp của động vật cũng như quá
trình quang hợp của thực vật, là nguồn gốc của sự sống. Trong điều kiện bình
thường của độ ẩm tuyệt đối, hơi nước chiếm gần 1-3% thể tích không khí”2. Nhưng
hiện nay trong quá trình hoạt động của mình con người đã gây nhiều tác động tiêu
cực cho môi trường nói chung và cho môi trường không khí nói riêng, và hiện nay
những tác động này là nguyên nhân chủ yếu gây ra ô nhiễm không khí.
Ô nhiễm không khí là sự có một một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng
trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự toả mùi,
có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa (do bụi)”. Vấn đề ô nhiễm không khí là một trong
những vấn nạn rất khó giải quyết không chỉ riêng với một quốc gia nào mà là đối với
toàn thế giới. Ô nhiễm không khí bao gồm: ô nhiễm do bụi, ô nhiễm khí độc, ô
nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm mùi.
Ô nhiễm môi trường không khí gây ra rất nhiều các hiện tượng biến đổi môi
trường đáng lo ngại là một trong những nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu và có
tác động nguy hiểm đến sức khỏe và cuôc sống con người cũng như các sinh vật
khác. Ô nhiễm không khí gây ra các hiện tượng như sự lắng đọng axit, hiệu ứng nhà
kính, thủng tầng ôzon, các hiện tượng quang hóa, axit đại dương. Theo phương diện
pháp lý, căn cứ vào khái niệm “ô nhiễm môi trường” được quy định tại Luật Bảo vệ

1
2

Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005.
Trường Đại học luật Hà Nội, giáo trình luật môi trường, NXB Công an nhân dân, Hà Nội-2003, trang 235.

GVHD: Võ Hoàng Yến

3

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

môi trường 2005 thì ô nhiễm không khí được hiểu là sự biến đổi của các thành phần
môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con
người, sinh vật.3
1.1.2. Các nguyên nhân gây ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí do nhiều nguyên nhân có cả từ tự nhiên và do con người
tác động vào nhưng chủ yếu ô nhiễm không khí là do con người gây ra trong quá
trình sinh hoạt và sản xuất. Các nguyên nhân do tự nhiên như do hoạt động của núi
lửa, do cháy rừng, do bão cát, ô nhiễm đai dương, ô nhiễm do phân hủy các chất hữu
cơ trong tự nhiên. Các nguồn ô nhiễm không khí do con người gây ra như sau:
 Ô nhiễm do sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Ví dụ các nhà
máy sản xuất hóa chất, sản xuất giấy, luyện kim loại, nhà máy nhiệt điện (sử
dụng các nhiên liệu than, dầu …).
 Ô nhiễm do giao thông: khí thải xe cộ, tàu thuyền, máy bay.
 Sinh hoạt: Nấu nướng phục vụ sinh hoạt hàng này của con người (gia đình,
công sở…).

 Hoạt động nông nghiệp: Sử dụng phân bón, phun thuốc trừ sâu diệt cỏ.
 Vui chơi, giải trí: khu du lịch, sân bóng … Các nguồn trên có thể coi là các
nguồn cố định.
 Dịch vụ thương mại: Chợ buôn bán.
Tùy vào các nguồn gây ô nhiễm mà trong quá trình hoạt động thải vào môi
trường các tác nhân ô nhiễm không khí khác nhau về thành phần cũng như khối
lượng, nhưng nguồn nhân tạo lớn nhất là do quá trình đốt nhiên liệu (than, dầu khí)
và do sản xuất công nghiệp gây ra vì đây là nguồn gắn liền với cuộc sống của con
người nhiều nhất.
Ô nhiễm không khí, bao gồm cả môi trường bên trong và bên ngoài, bây giờ
trở thành vấn đề lớn nhất ảnh hưởng đến sức khỏe, và nó tác động đến mọi người, cả
các quốc gia phát triển và quốc gia đang pháp triển, vì vậy các nước trên thế giới hãy
hành động mạnh mẽ lên, hợp tác chặt chẽ trong việc bảo vệ và kiểm soát ô nhiễm

3

Khoản 6 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005.

GVHD: Võ Hoàng Yến

4

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

không khí vì đó là vấn đề toàn cầu. Việt Nam là một nước đang phát triển nên vấn đề
này phải đặt biệt xem trọng.
1.1.3. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường không khí đến đời sống cộng đồng

Cùng đi lên với sự phát triển của con người, sự phát triển của xã hội thì ô
nhiễm không khí ngày càng chứng tỏ đó là một vũ khí hủy hoại mạnh đến môi
trường sống của chúng ta. Như một quy luật tất yếu của tự nhiên, khi con người đối
xử không tốt với tự nhiên thì tự nhiên cũng có những đáp trả không tốt đẹp gì. Chúng
ta làm cho môi trường không khí bị ô nhiễm nặng nề, thì lập tức chính môi trường
không khí đó lại tác động ngược lại, vấn đề ô nhiễm môi trường không khí xuất hiện
cách đây rất lâu, hơn 300 trăm năm trước nhà khoa học Jonh Evalyn chuyên về bút kí
và ghi chép khoa học đã minh họa với độ chính xác cao về tác động của ô nhiễm môi
trường không khí do đốt cháy nhiên liệu. Ô nhiễm không khí do các nguồn từ đun
nấu tới khí thải xe hơi đã trở thành vấn đề sức khỏe môi trường tồi tệ nhất của thế
giới, góp phần vào con số gây sốc 7 triệu người chết trong năm 2012, Tổ chức Y tế
Thế giới cho biết mới đây. Theo thông tin từ AFP ngày 26/3/2014, tính chung trên
toàn cầu cứ 8 người chết thì có một là do ô nhiễm không khí trong năm 2012. Những
thủ phạm gây chết nhiều nhất liên quan đến ô nhiễm là bệnh tim, đột qụy, bệnh phổi
và ung thư phổi. Ngoài ra nó còn để lại những hậu quả lâu dài như khuyết tật bẩm
sinh và suy giảm chức năng tâm thần do chất lượng không khí kém. Số tử vong bao
gồm 4,3 triệu người chết do ô nhiễm không khí trong nhà, chủ yếu do đun nấu bằng
bếp than, củi. Tác động của ô nhiễm không khí ngoài trời ước tính là 3,7 triệu, với
nguồn gây ô nhiễm từ đốt than tới động cơ Điêzen4. Con người càng ngày càng nhận
thấy rõ ràng là sự ô nhiễm môi truờng không khí gây thiệt hại rất lớn đến kinh tế và
ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng, đã đến lúc thế giới ngồi lại bàn cách giải
quyết vấn đề môi trường, hội nghị Stockhom tháng 6/1972 Hội nghị Liên hợp quốc
về biến đổi khí hậu ở Copenhagen, Đan Mạch tháng 12/2009 và gần đây nhất là hội
nghị thượng đỉnh trái đất 2012 chứng tỏ thế giới rất quan tâm đên vấn đề ô nhiễm
môi trường ,đặt biệt là ô nhiễm không khí. Trong lịch sử, hàng loạt thảm họa khủng
khiếp về môi trường đã xảy ra với con người, điểm qua một số thảm họa như
- Luân Đôn: Năm 1873, đợt sương mù lớn do một đợt khói than khổng lồ tạo
thành đã làm cho 2600 người dân thành phố thiệt mạng vì mắc bệnh viêm khí quản.
Tiếp đó vào các năm 1880 và 1892 lại có hơn 1000 người bị khói than dày đặc như
4


Đặng Thiên Yến Nhi, Ô nhiễm không khí: Sát nhân thầm lặng, Đời sống & Pháp luật online,
truy cập 15/9/2014].

GVHD: Võ Hoàng Yến

5

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

sương mù cướp đi tính mạng. Không chỉ riêng thủ đô Luân Đôn mà các khu công
nghiệp khác của nước Anh cũng xảy ra những sự kiện tương tự làm thiệt mạng hơn
1000 người dân vô tội. Điều đáng trách là chính phủ Anh hồi đó đã nhắm mắt làm
ngơ kiến cho nạn ô nhiễm khói than ngày càng trầm trọng, dẫn đến hậu quả lớn nhất
làm chấn động toàn thế giới là ”sự kiện sương mù” ở Luân Đôn từ 5 đến 8-12-1952.
Trong thời gian đó, cả thành phố Luân Đôn chìm ngập trong màn sương mù dày đặc,
người ta có cảm giác như có một chiếc vung lớn úp trên vùng trời Luân Đôn. Khói
than do các nhà máy và các hộ dân cư xả ra bị dồn tụ dưới chiếc vung đó kiến không
khí trong thành phố ô nhiễm nghiêm trọng. Người đi bộ trên đường phố luôn bị cay
xè mắt mũi vì khói than, hàng vạn người dân London bị tức ngực, đau họng và các
bệnh khác, chỉ trong 4 ngày cả thành phố có hơn 4000 người tử vong trong đó số nạn
nhân trên 45 tuổi chiếm đông nhất, gấp 4 lần so với ngày bình thường, tỉ lệ trẻ em
dưới 3 tuổi cũng gấp 3 lần ngày thường. Trong số các nạn nhân thiệt mạng vì khói
than có 704 chết vì bệnh viêm khí quản, 281 người vì bệnh nhồi máu cơ tim, 77
người vì lao phổi, ngoài ra là các bệnh viêm gan, ung thư phổi, và các bệnh về đường
hô hấp khác5.
- Têhêran: Vào tháng 12 năm 2005, các trường học và các văn phòng công

cộng đã phải đóng cửa ở Têhêran - Iran và 1600 người đã nhập viện do sương mù đã
xâm nhập vào bộ lọc khói của xe hơi. 30-31 tháng 10 năm 1948, Donora – PA 20
người chết, 600 người phải nhập viện, hàng ngàn người chịu ảnh hưởng. Thảm họa
lớn nhất trong lịch sử loài người thảm họa Bhopal là một thảm họa công nghiệp xảy
ra tại nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu sở hữu và điều hành bởi Union Carbide (UCIL)
ở Bhopal, Madhya Pradesh, Ấn Độ ngày 3 tháng 12 năm 1984. Khoản 12 giờ trưa,
nhà máy rò rỉ ra khí Methyl isocyanate (MIC) và các khí độc khác, gây ra phơi
nhiễm trên 500,000 người. Những đánh giá về số lượng người chết có sự không
thống nhất. Đánh giá chính thức ban đầu về số người chết là 2,259 và chính quyền
bang Madhya Pradesh đã xác nhận tổng số 3737 cái chết liên quan đến vụ rò rỉ khí
ga. Các cơ quan chính quyền khác ước tính khoảng 15,000 người chết. Một số tổ
chức đưa ra con số khoảng 8000 đến 10,000 người chết trong 72 giờ đầu và 25,000
người chết vì các căn bệnh liên quan đến khí ga rò rỉ.6

5

Sưong mù ở Luân Đôn, Thư viện điện tư khoa học Quảng Trị, Hệ thống thông tin khoa học,
/>uy cập ngày 16/9/2014].
6
Bách khoa toàn thư tự do, thảm họa Bhopal,
[truy cập ngày 18/8/2014].

GVHD: Võ Hoàng Yến

6

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh


Chất lượng môi trường không khí tại các thành phố lớn trên thế giới đang ở
mức báo động rất cao. Ví dụ: Tình trạng ô nhiễm không khí tại thủ đô Bắc Kinh,
Trung Quốc, lần đầu tiên được xếp vào nhóm báo động vàng, mức độ cao thứ hai
trong hệ thống cảnh báo ô nhiễm 4 bậc. Báo động vàng là mức cao thứ hai, sau báo
động đỏ, trong thang cảnh báo ô nhiễm không khí và khói bụi dày đặc ở các thành
phố của Trung Quốc, với mức độ cảnh báo này, trường học phải hủy các lớp học
ngoài trời, một số lượng trường học sẽ được yêu cầu đóng cửa và các phương tiện sẽ
phải hạn chế đi lại. Tình trạng ô nhiễm ở thủ đô Bắc Kinh được nâng lên mức báo
động mới sau làn sóng chỉ trích từ các phương tiện truyền thông và Internet cho rằng
chính quyền Bắc Kinh không thể ngăn chặn mức độ ô nhiễm cao. Sương mù và khói
trắng bao phủ khắp thủ đô Bắc Kinh. Theo dữ liệu của Cơ quan Bảo vệ Môi trường
Mỹ, nồng độ hạt bụi phân tử PM 2.5 trong không khí ở mức 300 sẽ được coi là rất
nguy hiểm. Trong khi đó, nồng độ PM 2.5 được ghi nhận ở đây vào tuần trước đã lên
đến 500.7
Sự biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng,
tiếp đến phải nói đến tác hại có ảnh hưởng lớn đến môi trường không khí gây ra đó là
sự thay đổi của khí hậu toàn cầu có nhiều yếu tố tác động như: Nhu cầu năng lượng
ngày càng tăng tạo nên một vòng luẩn quẩn của biến đổi khí hậu. Từ năm 1970, nhu
cầu sưởi ấm của toàn cầu đã giảm trong khi nhu cầu làm mát tăng vọt. Nhiệt độ sẽ
ngày càng tăng lên trong các thập kỉ tới, sự gia tăng nhanh chóng của dân số toàn cầu
cũng kéo theo nhu cầu sử dụng năng lượng ngày một tăng. Điều này góp phần thúc
đẩy sự phát triển trong việc xây dựng các nhà máy. Cho tới những năm đầu thế kỷ
XXI, với những bằng chứng xác thực, các nhà khoa học đã chứng minh được sự can
thiệp thô bạo của con người vào môi trường trái đất, đó là việc sử dụng các chất hóa
thạch như than đá, dầu lửa, khí đốt; là việc tàn phá các cánh rừng; việc phát triển
công nghiệp hóa đã và đang thải ra bầu khí quyển nhiều loại khí gây hiệu ứng nhà
kính, làm cho trái đất nóng lên từng ngày. sự nóng lên toàn cầu của hệ thống khí hậu
hiện nay là chưa từng có và rất rõ ràng từ những quan trắc nhiệt độ và đại dương
trung bình toàn cầu; sự tan chảy của băng, tuyết trên phạm vi rộng lớn dẫn đến sự

dâng cao của mực nước biển. Mười năm trở lại đây được xem là những năm nóng
nhất theo chuỗi quan trắc từ năm 1850. Sự nóng lên của Trái đất, băng tan đã dẫn
đến mực nước biển dâng cao. Nếu khoảng thời gian 1962 - 2003, lượng nước biển
trung bình toàn cầu tăng 1,8mm/năm, thì từ 1993 - 2003 mức tăng là 3,1mm/năm.
Tổng cộng, trong 100 năm qua, mực nước biển đã tăng 0,31m. Theo quan sát từ vệ
7

Thuỳ Linh, Báo điện tử Vnexpress, Bắc Kinh báo động về ô nhiễm không khí, [truy cập ngày 18/8/2014].

GVHD: Võ Hoàng Yến

7

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

tinh, diện tích các lớp băng ở Bắc cực, Nam cực, băng ở Greenland và một số núi
băng ở Trung Quốc đang dần bị thu hẹp. Chính sự tan chảy của các lớp băng cùng
với sự nóng lên của khí hậu các đại dương toàn cầu (tới độ sâu 3.000m) đã góp phần
làm cho mực nước biển dâng cao. Dự báo đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ trung bình
sẽ tăng lên khoảng từ 2,0 - 4,50C và mực nước biển toàn cầu sẽ tăng từ 0,18m 0,59m. Việt Nam là 1 trong 4 nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của sự biến đổi khí
hậu và dâng cao của nước biển. Theo thống kê, số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến
Việt Nam giảm rõ rệt trong vòng 2 thập kỷ qua. Từ 29 đợt mỗi năm (từ 1971 - 1980)
xuống còn 15 - 16 đợt mỗi năm từ 1994 - 2007. Số cơn bão trên biển Đông ảnh
hưởng đến nước ta cũng ngày càng ít đi nhưng ngược lại số cơn bão mạnh có chiều
hướng tăng lên, mùa bão kết thúc muộn, quỹ đạo của bão trở nên dị thường và số cơn
bão ảnh hưởng đến khu vực Nam Trung bộ, Nam bộ ngày càng tăng. Bên cạnh đó, số
ngày mưa phùn ở miền Bắc giảm một nửa (từ 30 ngày/năm trong thập kỷ 1961 1970 xuống còn 15 ngày/năm trong thập kỷ 1991 - 2000). Lượng mưa biến đổi

không nhất quán giữa các vùng, hạn hán có xu hướng mở rộng, đặc biệt là ở khu vực
Nam Trung bộ (trong đó có Khánh Hòa), dẫn đến gia tăng hiện tượng hoang mạc
hóa. Không khí nóng lên dẫn đến sự thay đổi bất thường của khí hậu biểu hiên tiêu
biêu là hiện tượng El Nino và La Nina ảnh hưởng mạnh đến nước ta trong vài thập
kỷ gần đây, gây ra nhiều đợt nắng nóng, rét đậm rét hại kéo dài có tính kỷ lục.8
Ô nhiễm không khí cũng là nguyên nhân chính gây thủng tầng Ôzôn. Từ năm
1979 cho đến năm 1990 lượng Ôzôn trong tầng bình lưu đã suy giảm vào khoảng 5%
trên vùng Nam cực và 4% trên toàn thế giới. Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO)
khẳng định các nước cần ít nhất 4 thập kỷ nữa để phục hồi tầng Ôzone về mức trước
năm 1980.9 Tầng Ôzône là một lớp sâu trong tầng bình lưu , bao quanh Trái Đất, có
số lượng lớn của Ôzône trong đó. Lớp lá chắn toàn bộ Trái Đất từ nhiều của bức xạ
cực tím có hại từ mặt trời. Tầng Ôzône rất nhỏ nhưng nó có vai trò vô cùng quan
trọng vì khả năng hấp thụ về mặt sinh học những bức xạ có hại mà mặt trời phát ra.
Tia bức xạ UV mà mặt trời tỏa ra chia làm 3 loại: UV-A (400-315nm), UV-B (315280nm), và UV-C (280-100 nm). Trong đó, UV-C rất có hại cho con người, UV-B
gây tác hại cho da và có thể gây tổn thương tế bào dẫn đến ung thư da. Tầng Ôzône
đã giúp cản trở tia bức xạ UV-B và UV-C. Cường độ bức xạ UV-B trên bề mặt trái

8

Trang cổng thông tin thành phố Đà Nẵng, Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới và những tác hại,
/>97682&p_main_news_id=29776798&p_year_sel=,[truy cập ngày 18/8/2014].
9
Trang Nguyên, Trang thông tin điện tử VnExpress, Tầng ozon chỉ phục hồi sau 40 năm nữa,
cập ngày
18/8/2014].

GVHD: Võ Hoàng Yến

8


SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

đất nhờ sự ngăn cản của tầng Ôzône trở nên yếu hơn tới 350 tỉ lần so với trên tầng
khí quyển. Hầu hết tia UV-A chiếu được tới bề mặt trái đất, nhưng may mắn là tia
sáng này ít gây hại cho sinh vật trên trái đất. Nếu không có sự cản trở bức xạ của
tầng Ôzône, con người có thể dễ dàng bị mắc ung thư da, bệnh đục thủy tinh thể...
Đồng thời, bức xạ UV-B cũng gây tác động xấu đến đa dạng sinh học do làm giảm
số lượng sinh vật phù du trong các đại dương dẫn đến giảm số lượng các loài cá, ảnh
hưởng đến sự phát triển của các loài thực vật trên trái đất… gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến chuỗi sinh thái và sự cân bằng sinh thái.10
Một trong những hậu quả của ô nhiễm không khí là mưa axit. Mưa axít là hiện
tượng mưa mà trong nước mưa có độ pH dưới 5,6 được tạo ra bởi lượng khí thải Lưu
Huỳnh Điôxit và Ôxyđê Nitơ từ các quá trình phát triển sản xuất con người tiêu thụ
nhiều than đá, dầu mỏ và các nhiên liệu tự nhiên khác. Hầu hết tất cả, mưa axit ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe con người. Nó có thể làm hại chúng ta thông qua không khí
và ô nhiễm đất. Mưa axit dẫn đến sự hình thành các hợp chất độc hại bằng cách phản
ứng với các hợp chất hóa học tự nhiên. Một khi các hợp chất độc hại được hình
thành, họ có thể thấm vào nước uống, và cũng thâm nhập vào chuỗi thực phẩm. Thực
phẩm bị ô nhiễm này có thể gây tổn hại các dây thần kinh ở trẻ em, hoặc dẫn đến tổn
thương não nghiêm trọng, thậm chí tử vong. Cguác nhà khoa học nghi ngờ rằng
Nhôm, một trong những kim loại bị ảnh hưởng bởi mưa axit, có liên quan đến bệnh
Alzheimer. Lượng khí thải của Nitơ oxit và các vấn đề nguyên nhân Sulfur dioxide
như kích thích cổ họng, mũi và mắt, đau đầu, hen suyễn và ho khan. Khói mù quang
hóa là hiện tượng ô nhiễm không khí rất nguy hiểm khác. Bình thường, các loại khí
thải, bụi mù được khuếch tán lên không trung nên người ta không nhìn thấy khói, bụi
hoặc nếu có thì cũng với mật độ ít hơn. Nhưng khi khí độc, khí thải ô nhiễm, khói,
bụi mù không thoát lên cao mà tập trung ở dưới mặt đất gây nên hiện tượng “khó mù

quang hóa.” Không khí có nhiều chất bụi, ô nhiễm, cộng với bức xạ mặt trời, lại bị
ảnh hưởng bởi hiệu ứng đô thị nên dễ gây ra hiện tượng này. Khi xảy ra hiện tượng
khói mù quang hóa, cả một bầu không khí bị bao phủ bởi tổ hợp nhiều chất độc ô
nhiễm khác nhau nên ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe con người.
Ô nhiễm không khí đang là vấn đề “thảm họa” của nhân loại khi mỗi năm có
hàng triệu người chết vì nguyên nhân này. Ngày nay với sự phát triển mạnh của xã
hội, điều đó đáp ứng được những nhu cầu của con người nhưng qua đó cũng gây
những tác động xấu đến môi trường đặc biệt là môi trường không khí, môi trường
10

Nguyễn Lý, Báo điện tử Thanh niên online, Tầng ozone áo giáp mỏng manh của loài người,
cập ngày 18/8/2014].

GVHD: Võ Hoàng Yến

9

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

không khí đã vượt ngưỡng chịu đựng của mình và đang tác động ngược trở lại theo
hướng bất lợi cho cuộc sống của con người và hệ sinh quyển gây ra những thảm họa
khủng khiếp. Mà sự ô nhiễm đó chính do hoạt động của con người gây ra với quy
mô, phương thức và mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp. Bảo vệ môi trường
không khí hiện nay không hoàn toàn là chỉ là vấn đề của riêng nước nào mới bảo vệ
mà đó là vấn đề quốc tế.
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật
Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có không khí ô nhiễm nhất thế giới. Công

nghiệp hoá càng mạnh, đô thị hoá càng phát triển thì nguồn thải gây ô nhiễm môi
trường không khí càng nhiều, áp lực làm biến đổi chất lượng không khí theo chiều
hướng xấu càng lớn, yêu cầu bảo vệ môi trường không khí càng quan trọng. Của cải
quý nhất mà xã hội để lại cho con cháu không chỉ là những thứ được làm ra mà còn
là giữ gìn môi trường sống trong lành, cân bằng giữa sự phát triển và môi truờng
sống. Nhiệm vụ quan trong và cấp bách là bảo vệ môi truờng không khí, một trong
những hình thức hữu hiệu để quản lý và bảo vệ môi trường không khí là bằng pháp
luật. Trong thời gian qua, pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở nước ta từng
bước được xây dựng và hoàn thiện góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội liên quan trực tiếp tới lĩnh vực môi trường không khí. Thực tiễn đã cho
thấy vị trí, vai trò của pháp luật đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường. Là công cụ
đảm bảo thực hiện cho các biện pháp bảo vệ môi trường không khí. Tuy nhiên, hiện
tượng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí vẫn diễn ra phổ biến với
tính chất và mức độ khác nhau; môi trường không khí ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống
cấp đến mức báo động. Tính đặt thù của pháp luật có ý nghĩa rất lớn, là công cụ
mạnh mẽ để bảo vệ môi truờng, nó điều chỉnh các hành vi tác động đến môi truờng.
Pháp luật bao gồm một hệ thống các quy phạm pháp luật là những quy tắc mang tính
xử xự mang tính bắt buộc chung nhằm điều chỉnh hành vi con người khi tác động
vào môi truờng không khí và nó được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế của
nhà nước. Sự cưỡng chế của pháp luật không phải đơn thuần nhằm mục đích trừng trị
mà trước hết là răn đe, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, giáo dục người
vi phạm. Tính chất cưỡng chế của pháp luật không chỉ là răng đe, ngăn chặn, trừng
trị, mà còn là sự giáo dục sâu sắc đối với các chủ thể pháp luật. Bản thân quy phạm
pháp luật là chuẩn mực để con người rèn luyện ý thức công dân, hình thành ý thức
pháp luật, tạo ra cho mỗi công dân một khả năng tư duy pháp lý, tránh được những
ngẫu nhiên, tùy tiện, coi thường pháp luật Nhà nước. Do đó, bảo vệ môi trường
không khí bằng pháp luật vô cùng quan trọng.
GVHD: Võ Hoàng Yến

10


SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

Sự quan trọng phải bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật còn có thể ly
giải bởi các lý do khach quan khác như sau:
 Không khí có tầm quan trọng rất lớn đối với sự sống của con người, không
khí cung cấp ôxy, có lẽ là nguyên tố duy nhất mà con người cần đưa vào
cơ thể liên tục trong suốt cuộc đời mà thời gian ngắt quãng không được
quá vài phút, không khí còn là nguồn dưỡng khí không thể thiếu với các
sinh vật trên trái đất này, vì vậy việc bảo vệ môi truờng không khí chính là
bảo vệ chất lượng cuộc sống của con nguời.
 Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã kéo theo quá trình đô
thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh. Dẫn đến hệ quả là các nguồn ô nhiễm khí
thải phát sinh từ hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông
vận tải, thi công xây dựng, cũng như từ sinh hoạt của nhân dân ngày càng
lớn và phức tạp, độc hại. Điều đáng nói là sự ô nhiễm khí thải này đã và
đang gây nên những tác động hết sức tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng.
 Do các quan hệ phức tạp phát sinh trong quá trình bảo vệ môi trường
không khí vì hoạt động bảo vệ vì hoạt động bảo vệ môi trường không khí
không phải là trách nhiệm riêng của nhà nước mà là trách nhiệm của toàn
xã hội nên phải đảm bảo các quan hệ xã hội phát sinh, cần hài hòa trách
nhiệm của nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường không khí.
Bảo vệ môi trường không khí phải thực hiện nhiều biện pháp kết hợp lại với
nhau trong đó có biện pháp kinh tế, khoa học – kỹ thuật, biện pháp giáo dục ,nhưng
tất cả các biện pháp trên chỉ thực hiện được khi dựa trên các quy định của pháp luật,
pháp luật tạo cơ sở, nền tảng để thực hiên các biện pháp trên một cách có hiệu quả và

không thể lợi dụng các pháp đó để thực hiên hành vi phạm pháp luật bởi pháp luật
được sử dụng để tác động trực tiếp tới hành vi gây ô nhiễm môi trường không khí,
cũng như khuyến khích họ thực hiện các hành vi có lợi cho môi trường không khí.
1.3. Khái quát chung về pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
1.3.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
Bảo vệ môi trường bằng pháp luật là một định hướng cơ bản của hoạt động
bảo vệ môi trường ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, dù đã có luật cũng như chính sách về
bảo vệ môi trường, nhưng việc thực thi ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn và tiến
GVHD: Võ Hoàng Yến

11

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

hành khá muộn so với các nước khác. Luật Bảo vệ môi trường là một lĩnh vực pháp
luật tương đối mới trong hệ thống pháp luật Việt Nam mà còn cả hệ thống pháp luật
của các nước đang phát triển. Các nước đua nhau phát triển kinh tế bằng mọi giá, hủy
hoại môi trường sống miễn sao kinh tế tăng trưởng mà bỏ qua việc vô cùng quan
trọng là bảo vệ môi trường trong đó có môi trường không khí, đến lúc môi trường ô
nhiễm báo động thì pháp luật bảo vệ môi trường mới được các nước cấp bách đặt ra.
Pháp luật về bảo vệ môi trường Việt Nam đang dần hoàn thiện.
Là một bộ phận của pháp luật bảo vệ môi trường, nên ta có thể dựa vào khái
niệm pháp luật bảo vệ môi trường để suy ra định nghĩa về pháp luật bảo vệ môi
trường không khí như sau: “pháp luật về bảo vệ môi trường không khí là tổng hợp
các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh
giữa các chủ thể trong quá trình các chủ thể sử dụng hoặc tác động đến môi trường
không khí hoặc các quan hệ giữa các chủ thể và môi trường không khí trên cơ sở kết

hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi
trường không khí vì lợi ích của thế hệ hôm nay và mai sau”.
Khái niệm về bảo vệ môi trường không khí cho ta hiểu được phần nào cơ bản
nhất về vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường không khí và mở ra câu
hỏi là pháp luật có vai trò như thế nào trong việc bảo vệ môi trường không khí.
1.3.2. Vai trò của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí
Các biện pháp bảo vệ môi trường không khí nói tuy có tác động nhưng chắc
chắn không phát huy tác dụng nếu không có sự trợ giúp của pháp luật và pháp luật có
vị trí đặc biệt quan trọng. Môi trường không khí bị hủy hoại chủ yếu là do sự tàn phá
của con người và đối tượng để thực hiện việc bảo vệ môi trường không khí cũng
chính là con người. Vì vậy, muốn bảo vệ môi trường không khí trước hết là tác động
đến hành vi con người. Pháp luật thông qua các hệ thống quy phạm để điều chỉnh
hành vi xử sự của con người và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước sẽ
có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ môi trường không khí. Vai trò đó được thể hiện
trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí như sau:
1.3.2.1. Pháp luật quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện
khi tác động vào môi trường không khí
Theo tuyên bố của Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường con người
(Stốckhôm - năm 1972), con người được sống trong một môi trường trong lành là
một trong những nguyên tắc trọng tâm của quan hệ giữa các quốc gia. Nguyên tắc
GVHD: Võ Hoàng Yến

12

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

một nêu rõ: “Con người có quyền cơ bản được tự do, bình đẳng và được hưởng đầy

đủ các điều kiện sống, trong một môi trường chất lượng cho phép cuộc sống có phẩm
giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm trong bảo vệ và cải thiện cho các thế
hệ hôm nay và mai sau”.
Từ giác độ thực tế ,có thể liệt kê các quan hệ xã hội mà các quy phạm pháp
luật bảo vệ môi trường không khí, bao gồm:
 Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình khai thác sử dụng hoặc tác động tới
môi trường không khí.
 Nhóm quan hệ hình thành trong hoạt động quản lý nhà nước về môi trường
không khí.
 Nhóm quan hệ về các biện pháp khắc phục suy thoái, ô nhiễm, phòng chống
sự cố môi trường không khí.
 Nhóm quan hệ giải quyết tranh chấp môi trường không khí, xử lý vi phạm
pháp luật môi trường không khí.
 Nhóm quan hệ về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không
khí.
Quyền con người được sống trong môi trường trong lành là nguyên tắc trụ cột,
là quyền tự nhiên của con người, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, liên quan trực
tiếp đến chất lượng cuộc sống. Đó là quyền con người được sống trong một môi
trường với chất lượng cho phép, cuộc sống được đảm bảo về mặt vệ sinh môi trường,
được hài hòa với tự nhiên. Hay nói cách khác, là quyền được sống trong một vùng
không bị ô nhiễm, không bị suy thoái môi trường. Để đảm bảo được quyền đó của
mình thì mỗi cá nhân, tổ chức phải biết bảo vệ môi trường sống bằng những hành
động văn minh bằng cách tuân thủ những quy tắc xử sự mà pháp luật đặt ra.
Các quy phạm pháp luật được áp dụng đối với những người thuộc đối tượng
được các quy phạm pháp luật đó điều chỉnh. Quy định là bộ phận của quy phạm pháp
luật nêu lên cách xử sự hay quy tắc xử sự cho chủ thể (các tổ chức, cá nhân) ở vào
điều kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả định của quy phạm. Đây là bộ phận trực
tiếp thể hiện ý chí, mong muốn của Nhà nước, là mệnh lệnh của Nhà nước đối với
các chủ thể, nó chỉ rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia vào quan
hệ xã hội do quy phạm điều chỉnh. Vì vậy, bộ phận quy định của quy phạm pháp luật

GVHD: Võ Hoàng Yến

13

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

thường trả lời cho các câu hỏi: có quyền gì? có nghĩa vụ gì? được làm gì? không
được làm gì? phải làm gì và làm như thế nào? văn bản quy phạm pháp luật có tính áp
dụng chung, tính trừu tượng, không đặt ra cho người này, người kia một cách xác
định mà nhằm tới phạm vi đối tượng ít nhiều rộng hơn.
Trong bảo vệ môi trường không khí, pháp luật quy định các quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể, xác định rõ nghĩa vụ bảo vệ môi trường không khí của các tổ
chức, cá nhân, bắt buộc các chủ thể này phải thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật. Chính các quy tắc này tạo cho các chủ thể thực hiện hành vi bảo vệ môi trường
không khí được thống nhất.
Ví dụ: Môi trường không khí chỉ có sức chịu đựng giới hạn chỉ có thể tiếp
nhận một lượng chất các chất gây ô nhiễm nhất định có thể để tự động đồng hóa,
khuấy trộn để không làm xấu đi chất lượng vốn có của nó, do đó pháp luật thông qua
hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí, buộc mỗi chủ nguồn của mỗi loại khí thải
khác nhau chỉ được thải ra không khí một số lượng các chất gây ô nhiễm nhất định.
Hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí hiện hành chưa quy định cụ thể về tổng
lượng thải và về thời điểm thải. Thực tế cho thấy, cùng một lĩnh vực hoạt động,
nhưng các cơ sở sản xuất lớn thường thải vào môi trường không khí một lượng khí
thải lớn hơn các cơ sở sản xuất nhỏ. Điều đó có nghĩa, các cơ sở sản xuất có tổng
lượng khí thải không giống nhau. Lượng khí thải được thải vào môi trường không
khí nhiều hay ít hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô, lĩnh vực hoạt động của cơ sở đó.
Vì thế, việc xử lý các khí thải đó cũng đòi hỏi các quy trình xử lý khác nhau. Nếu

trong tiêu chuẩn thải khí không quy định tổng lượng thải mà áp dụng đồng đều nồng
độ tối đa cho phép các chất độc hại như hiện nay là rất bất hợp lý. Tình trạng đó sẽ
gây ra sự bất bình đẳng giữa các cơ sở lớn và các cơ sở nhỏ, đồng thời cũng có thể
dẫn đến tình trạng xử lý khí thải mang tính chất đối phó, giả tạo. Thông qua hệ thống
tiêu chuẩn môi trường không khí quy tắc xử xự mà pháp luật quy định chính là trị số
tối thiểu và trị số tối đa nồng độ cho phép của các chất gây ô nhiễm môi trường
không khí.
Pháp luật sẽ góp phần rất lớn trong việc hình thành ý thức tôn trọng và chấp
hành những quy phạm chung, giúp con người có những hành vi ứng xử văn minh với
môi trường, đặt biệt là môi trường không khí phù hợp với chiều hướng phát triển tiến
bộ của thời đại. Pháp luật không loại trừ một ai và không phân biệt đối xử với bất kỳ
ai. Đứng trước pháp luật thì mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau.

GVHD: Võ Hoàng Yến

14

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

Pháp luật là công cụ hữu hiệu để quản lý môi trường không khí, đẩy lùi các hành vi
xấu ảnh hưởng xấu đến môi trường không khí.
1.3.2.2. Pháp luật quy định các chế tài để buộc con người phải thực hiện đầy
đủ các đòi hỏi của pháp luật khi tác động vào môi trường không khí
Cưỡng chế nhà nước gồm nhiều nhóm biện pháp cưỡng chế khác nhau như:
Pháp luật quy định các chế tài để bảo vệ môi trường không khí bao gồm các chế tài
dân sự, hành chính và tăng cường áp dụng các biện pháp hình sự đối với các vi phạm
pháp luật về môi trường không khí, các chủ thể phải gánh chịu những chế tài này khi

họ không tuân thủ theo các quy tắc xự sự của pháp luật, tức là họ không làm những
gì mà pháp luật buộc phải làm hoặc đã làm những gì mà pháp luật không cho phép.
Nhóm các biện pháp cưỡng chế mang tính trừng phạt được xác định trong chế tài
pháp luật; nhóm các biện pháp cưỡng chế nhằm ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm
pháp luật và bảo đảm việc áp dụng các chế tài pháp luật; nhóm các biện pháp cưỡng
chế nhà nước được áp dụng vì mục đích đảm bảo lợi ích của cộng đồng hoặc vì lí do
an ninh quốc gia.
Pháp luật quy định các tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các
thông số về chất lượng môi trường không khí xung quanh, về hàm lượng của chất
gây ô nhiễm không khí trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường không khí. Tức là đã đưa ra những
thông số tối thiểu và tối đa họ được phép làm như sau: Vi phạm về thải bụi, khí thải
có chứa các thông số môi trường nguy hại vào môi trường, vì lợi ích trước mắt mà họ
không xử lý, xả thẳng vào môi trường, khỏi cần phải đầu tư trang thiết bị tốn kém để
xử lý, khi đó các chế tài hành chính sẽ xử phạt họ. Ví dụ: Phạt tiền từ 3.000.000 đồng
đến 5.000.000 đồng đối với hành vi làm phát tán hóa chất, hơi dung môi hữu cơ
trong khu sản xuất hoặc khu dân cư gây mùi đặc trưng của hóa chất, hơi dung môi
hữu cơ đó11.
Ngoài việc quy định các quy tắc xử sự của con người khi họ có hành vi tác
động vào môi trường không khí, pháp luật còn quy định các chế tài cụ thể đối với các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật môi trường không khí khi họ không tuân theo các
quy tắc xử sự đó. Sự nghiệp bảo vệ môi truờng nói chung và bảo vệ môi trường
không khí nói riêng chỉ thành công nếu có sự góp sức của cả doanh nghiệp, cộng
đồng và cơ quan quản lý nhà nước. Bảo vệ môi trường có vai trò hết sức quan trọng
11

Khoản 1 Điều 16 Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường.

GVHD: Võ Hoàng Yến


15

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

đối với chúng ta, là trách nhiệm của các cơ quan tổ chức cá nhân và toàn xã hội. Bảo
vệ môi trường lấy phòng ngừa là chính, kết hợp với khắc phục giảm thiểu ô nhiễm.
Bên cạnh đó có những chủ thể chỉ vì lợi ích trước mắt của mình mà gây ô nhiễm môi
trường không khí. Do vậy việc thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường không khí là
việc làm sống còn, thường xuyên, tạo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn
với bảo vệ môi trường, đảm bảo phát triển bền vững. Vì vậy pháp luật cần có các chế
tài đủ mạnh để những hành vi gây ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi
trường không khí bị xử lý nghiêm để những hành vi gây ô nhiễm môi trường không
khí không còn tái diễn, góp phần phục hồi môi trường không khí trong lành.
Thông qua việc quy định các chế tài này, pháp luật đã thể hiện vai trò to lớn
trong sự nghiệp bảo vệ môi trường không khí. Bảo vệ môi trường không khí cần một
hành lang pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức xã hội hoạt động trong lĩnh
vực môi trường không khí tiến hành các hoạt động của mình để răn đe các chủ thể vi
phạm môi trường tránh để họ tiếp tục vi phạm pháp luật môi trường, tạo cho một ý
thức bảo về môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng góp phần quan
trọng vào việc bảo vệ chất lượng môi trường không khí, hạn chế những tác động tiêu
cực đến môi trường từ các hoạt động phát triển; nâng cao ý thức bảo vệ môi trường
trong dân chúng; nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với vấn đề môi
trường; tạo ra những định hướng ban đầu cho việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế
với bảo vệ môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững.
1.3.2.3. Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức
bảo vệ môi trường

Ngày nay, bảo vệ môi trường ngày càng được các cá nhân, cơ quan, tổ chức
mà đặc biệt là nhà nước quan tâm. Khi quy định các quy tắc xử sự, các quyền và
nghĩa vụ cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội khi các chủ thể này tác động vào môi
trường không khí, pháp luật bảo vệ môi trường không khí còn thể hiện vai trò to lớn
trong việc ra cơ chế hoạt động hiệu quả cho các tổ chức bảo vệ môi trường. Hiến
pháp đã quy định nghĩa vụ “bảo vệ môi trường” là một nghĩa vụ pháp lý của mọi tổ
chức, cá nhân trong xã hội, bởi vậy bảo vệ môi trường vừa là nhiệm vụ phức tạp, vừa
cấp bách, có tính liên ngành và liên vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo
chặt chẽ của các cấp ủy Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích
cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Thông qua pháp luật, nhà nước xây dựng một hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước được tổ chức chặt chẽ từ địa phương đến trung ương, trong đó có cơ quan bảo
GVHD: Võ Hoàng Yến

16

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

vệ môi trường không khí, nhà nước quy định đầy đủ về nhiệm vụ, chức năng, quyền
hạn của mỗi cơ quan. Bảo vệ môi trường con nảy sinh nhiều vấn đề cần đuộc giải
quyết, cần nhiêu tổ chức vào cuộc, bởi vậy cần phải có các quy định về quyền hạn cụ
thể để không xảy ra tình trạng lạm quyền sẽ không giải quyết được vấn đề.
Thực tiễn đã chứng minh vai trò thống nhất quản lý nhà nước tất cả các lĩnh
vực của đời sống, xã hội, bảo vệ môi trường là lĩnh vực phức tạp, cần kết hợp nhiều
bộ, nghành, chỉ có nhà nước đứng ra đảm nhiệm vai trò quy định quyền hạn cụ thể
cho các cơ quan quản lý, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan này thưc hiện nhiệm vụ
bảo vệ môi trường được tốt hơn.

Môi trường là một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên ngoài
của một hệ thống nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và
tình trạng tồn tại của nó. Môi trường có thể coi là một tập hợp, trong đó hệ thống
đang xem xét là một tập hợp con. Môi trường của một hệ thống đang xem xét cần
phải có tính tương tác với hệ thống đó. Môi truờng là tổng thể nhiều thành phần khác
nhau có mối quan hệ với nhau, trong đó có môi trường không khí, môi trường không
khí chỉ được bảo vệ khi tính đến sự bền vững, bảo vệ các yếu tố, thành phần khác.
Bởi vậy bảo vệ môi trường không khí phải kết hợp nhiều cơ quan chuyên môn lại với
nhau với các cơ quan chuyên ngành, pháp luật ở đây đóng vai trò then chốt quy định
quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước.
Tranh chấp môi trường nổi lên như một hiện tượng bức bách của đời sống xã
hội, nó có thể phát sinh giữa cá nhân và tổ chức với nhau, hoặc giữa cá nhân, tổ chức
với cơ quan quản lý nhà nước. Các tranh chấp này cần giải quyết kịp thời không sẽ
để lại những hậu quả to lớn cho môi trường không khí. Thông qua pháp luật nhà
nước quy định một cách chặt chẽ về cơ chế giải quyết tranh chấp, xung đột về môi
trường không khí thông qua việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho
từng cơ quan quản lý nhà nước về môi trường không khí, Khi có tranh chấp môi
trường xảy ra sẽ giải quyết thuận tiện, êm đẹp, đảm bảo lợi ích cho từng bên, ngăn
chặn các hành vi xấu đến môi trường và có ý thức giáo dục sâu sắc.
1.3.2.4. Pháp luật tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện
các quan hệ hợp tác quốc tế vì bảo vệ môi trường không khí
Bảo vệ môi trường ngày nay không còn là vấn đề của riêng mỗi quốc gia mà
nó đã trở thành vấn đề có tính quốc tế bởi chính tính toàn cầu của ô nhiễm môi
trường. Ô nhiễm môi trường xuyên biên giới bao gồm năm vấn đề:

GVHD: Võ Hoàng Yến

17

SVTH: Nguyễn Văn Đấu



Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

 Sự vận chuyển tầm xa của các khí bị ô nhiễm.
 Sự vận chuyển xuyên biên giới của các sản phẩm và chất thải nguy hại.
 Sự suy giảm tầng ôzôn.
 Sự thay đổi khí hậu.
 Sự ô nhiễm đại dương.
Do tính xuyên biên giới nên sự ô nhiễm môi trường ở quốc gia này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến môi trường của các quốc gia lân cận, đặc biệt là ô nhiễm môi
trường không khí. Không khí bị ô nhiễm ở quốc gia này không phải đến biên giới của
quốc gia đó, các chất ô nhiễm sẽ bị giữ lại, người ta cũng không thể gom riêng vùng
không khí đã bị ô nhiễm để xử lý mà nó sẽ có ảnh hưởng đến các quốc gia khác bởi
sự vận chuyển tầm xa của các khí bị ô nhiễm. Vì thế trong bảo vệ môi trường không
khí sự hợp tác giữa các quốc gia càng trở nên hết sức cần thiết. Hợp tác quốc tế ở đây
không thể đơn thuần là sự hợp tác giữa các cá nhân hoặc giữa các tổ chức của các
quốc gia khác nhau với nhau mà chính là quan hệ hợp tác giữa các quốc gia. Thông
qua sự hợp tác, các quốc gia sẽ xây dựng được một chương trình cho việc bảo vệ môi
trường không khí, các quốc gia sẽ có được sự hỗ trợ về mặt tài chính và học hỏi được
kinh nghiệm trong quản lý môi trường, trong kỹ thuật bảo vệ môi trường không khí.
Vì vậy hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường không khí là cần thiết và quan trọng,
chính pháp luật đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc hợp tác quốc tế đó.
Ví dụ: cuối năm 1997, các Bộ trưởng Môi trường ASEAN đã nhất trí Kế
hoạch hành động khói mù khu vực (RHAP) nhằm thực hiện các nỗ lực chung trong
việc quan sát, ngăn ngừa và giảm tình trạng ô nhiễm khói mù xuyên biên giới do nạn
cháy đất, cháy rừng gây ra. Tiếp đó, Hiệp định ASEAN về ô nhiễm khói mù xuyên
biên giới đã được ký kết vào tháng 6/2002 và có hiệu lực vào tháng 11/2003 sau khi
được 6 nước hành viên ASEAN phê chuẩn. Bên cạnh những hoạt động được triển
khai theo RHAP, đã có những bước tiến lớn trong việc thực thi Hiệp định ASEAN về

nhiễm khói mù xuyên biên giới. Đến nay, đã có 9 nước thành viên ASEAN, gồm
Brunei Darussalam, Campuchia, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Malaixia,
Myanma, Singapo, Thái Lan, Việt Nam và Philipin đã phê chuẩn hiệp định này.12

12

Tổng cục môi trường, Ô nhiễm khói mù xuyên biên giới thách thức đối với ASEAN và giải pháp ngăn chặn,
/>
GVHD: Võ Hoàng Yến

18

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

Từ những phân tích trên ta thấy biện pháp pháp luật có vai trò vô cùng quan
trọng đối với hoạt động bảo vệ môi trường ở Việt nam, Luật Bảo vệ môi trường được
ban hành ngày 27/12/1992, ngay sau hội nghị quốc tế về môi trường ở Rio de Janero
tại Brazil năm 1992 đã thể hiện sự cam kết của Chính phủ Việt Nam triển khai ngay
chương trình nghị sự 21 của Liên hợp quốc. Trên cơ sở pháp lý đó, Nhà nước ta đã
ban hành một hệ thống văn bản pháp quy về bảo vệ các yếu tố của môi trường, trong
đó có môi trường không khí. Điều này đã thể hiện nhận thức rõ và đầy đủ về vai trò
và tầm quan trọng của pháp luật trong bảo vệ môi trờng không khí ở Việt Nam.

%C4%91%E1%BB%91i-v%E1%BB%9Bi-ASEAN-v%C3%A0-gi%E1%BA%A3i-ph%C3%A1png%C4%83n-ch%E1%BA%B7n.aspx[truy cập ngày 24/8/2014].

GVHD: Võ Hoàng Yến


19

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ
2.1. Những quy định của pháp luật về quy chuẩn và tiêu chuẩn môi trường
không khí ở Việt Nam hiện nay
Ô nhiễm môi trường không khí hiên nay đang đặt ra một thách thức lớn cho
chúng ta, môi trường không khí là vấn đề được cả cộng đồng quan tâm, ô nhiễm môi
trường không khí ảnh hưởng đến cả cộng đồng, không khí là một tài nguyên vô cùng
quan trọng với con người, ta sống không thể nào thiếu không khí trong vài phút, bởi
vậy bảo vệ môi trường không khí chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta và con
cháu sau này.
Một vấn đề cấp bách được đặt ra hiện nay là trước tình trạng ô nhiễm không
khí càng trầm trọng là đưa ra những tiêu chuẩn và quy chuẩn để làm công cụ nền
tảng cho việc bảo vệ môi trường không khí.
2.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về quy chuẩn môi trường không khí
2.1.1.1. Khái quát chung về quy chuẩn môi trường không khí
Theo Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam 2006, quy chuẩn kỹ
thuật là quy định về mức giới hạn của đặt tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh
tế - xã hội phải tuân thủ để đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người, bảo vệ
động vật, thực vật, môi trường, bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của
người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác. Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng.13
Trên cơ sở đó ta hiểu quy chuẩn môi trường không khí là những quy tắc,

chuẩn mực liên quan đến việc thiết lập một cách thức ứng xử bắt buộc chung đối với
môi trường không khí do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Quy chuẩn môi
trường không khí được xem là nền tảng của cho hoạt động bảo vệ môi trường không
khí.
Quy chuẩn môi trường không khí do từng quốc gia xây dựng trên cơ sở các
điều kiện tự nhiên - xã hội ở quốc gia mình. Các cơ sở này dựa vào điều kiện tự

13

Khoản 2 Điều 3 Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006.

GVHD: Võ Hoàng Yến

20

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí – Thực trạng tại thành phố Hồ Chí Minh

nhiên như cây xanh che phủ, độ phì nhiêu của đất,.. hoặc có các điều kiên về trình độ
khoa học kỹ thuật, tốc độ phát triển kinh tế,… nên việc quy định về quy chuẩn môi
trường không khí cũng khác nhau. Quy chuẩn môi trường không khí thường mang
tính chất đặt thù.
2.1.1.2. Một số quy chuẩn môi trường không khí cụ thể theo pháp luật Việt
Nam
Pháp luật Việt Nam hiện nay có 41 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường,trong đó 10 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia liên quan đến môi trường không khí
14


. Các quy chuẩn về môi trường không khí đáng chú ý sau đây:
Thứ nhất. Quy chuẩn quốc gia về khí thải lò đốt chất thải rắn y tế. Quy chuẩn

Việt Nam 02:2008/BNTMT do Ban soạn thảo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí
thải lò đốt chất thải rắn y tế biên soạn, Vụ Môi trường và Vụ Pháp chế trình duyệt và
được ban hành theo Quyết định số 04/2008/QĐ-BTNMT ngày 18 tháng 7 năm 2008
của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. Quy chuẩn này quy định giá trị tối đa
cho phép của các thông số ô nhiễm trong khí thải lò đốt chất thải rắn y tế, Quy chuẩn
này áp dụng đối với cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, mọi tổ chức, cá nhân
sản xuất, nhập khẩu, sử dụng lò đốt chất thải rắn y tế trên lãnh thổ Việt Nam.
Quy định kỹ thuật đối với giới hạn cho phép đối với lò đốt chất thải rắn y tế.
Giá trị tối đa cho phép các thông số ô nhiễm trong khí thải lò đốt chất thải rắn y tế
trong quá trình vận hành đốt bình thường, khí thải ra môi trường, không được vượt
quá giới hạn quy định như sau: Đối với bụi giới hạn cho phép là 115/Nm3, đối với
Axít flohydric là 2mg/Nm3, đối với Cacbon mônôxyt là 100mg/Nm3, Nitơ ôxyt là
250mg/Nm3, Lưu huỳnh dioxyt là 30mg/Nm3,Thủy ngân 0,55mg/Nm3,….Các giới
hạn này nhìn chung không đồng nhất về thông số, nhưng những thông số quy định
này vừa phải và đảm bảo an toàn cho con nguời và sinh vật.
Quy định kỹ thuật đối với tro xỉ. Tro xỉ còn lại của quá trình đốt, tro bay thu
giữ từ các bộ phận xử lý và ống khói phải được thu gom và xử lý theo quy định hiện
hành.
Thứ hai. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng không khí xung quanh.
Quy chuẩn Việt Nam 05: 2009/BTNMT do Ban soạn thảo quy chuẩn kỹ thuật quốc
14

Tổng cục môi trường, các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia Việt Nam, Các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia Việt
Nam về môi trường, truy cập ngày9/7/2014].

GVHD: Võ Hoàng Yến


21

SVTH: Nguyễn Văn Đấu


×