Lời nói đầu
Trong thời đại hiện nay, với các sản phẩm, dịch vụ ngày càng đa
dạng và không ngừng đợc hoàn thiện, ngân hàng đang giữ một vai trò
hết sức quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, do
tính chất phức tạp và tiềm ẩn rủi ro cao của cac hoạt động nghiệp vụ,
ngân hàng là một tổ chức dễ bị tổn thơng, chấn động, gây nguy cơ đổ
vỡ hàng hoạt cho hệ thống, ảnh hởng đến nền kinh tế, thậm chí có thể
gây nên những cuộc khủng hoảng trầm trọng, (cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ Châu á 1997 là một ví dụ điển hình). Một trong những
nguyên nhân quan trọng của sự suy yếu của ngân hàng chính là tình
trạng nợ xấu tồn đọng quá cao, lại trong một thời gian dài, mà không
đợc xử lý, khiến tình hình tài chính của ngân hàng rơi vào khó khăn,
nhiều ngân hàng mất khả năng thanh toán và đi đến chỗ phá sản. Vì
vậy, vấn đề nợ đọng đang đợc nhiều quốc gia quan tâm, đặc biệt là
những nớc có tỷ lệ nợ đọng quá cao so với mức giới hạn an toàn, và
những nớc nằm trong vùng ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính
Châu á vừa diễn ra. Trong số các biện pháp xử lý nợ đọng, thành lập
công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đợc coi là cách hiệu quả nhất,
tiết kiệm chi phí nhất, thời gian xử lý lại ngắn nhất
ở nớc ta, trớc yêu cầu cơ cấu lại ngân hàng, lành mạnh hoá tình
hình tài chính nhằm củng cố và tăng cờng sức mạnh cho hệ thống
ngân hàng, công tác xử lý nợ tồ đọng của các ngân hàng thơng mại
đang đợc gấp rút triển khai.Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
cũng đang là một trong những lựa chọn của Chính phủ để giải quyết
vấn đề này. Để có thể phát huy đợc tối đa các u điểm của phơng thức
này, công tác nghiên cứu, xem xét, đánh gía kỹ lỡng về mô hình tổ
chức cũng nh những hoạt động nghiệp vụ của công ty, từ đó xây dựng,
đa ra một mô hình phù hợp và có thể phát huy hiệu quả hoạt động cao
nhất trong điều kiện nớc ta hiện nay là điều vô cùng cấp thiết, cần làm
ngay.
1
Trớc yêu cầu đó của thực tế, đề tài mong muốn đợc đóng góp một
phần nhỏ vào việc nghiên cứu, tìm hiểu về công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản nói chung, đa ra những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện
hơn nữa mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đang đợc sử
dụng ở các ngân hàng thơng mại. Mục đích nghiên cứu của đề tài là
nhằm hệ thống và làm sáng tỏ các mặt lý thuyết của vấn đề nghiên
cứu, tức là về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Sau đó, dựa trên
những lý luận đ có, đề tài sẽ đi vào phân tích, đạnh giá thực trạng củaã
vấn đề nghiên cứu tại một đơn vị cụ thể, là công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, chỉ
rõ những tồn tại, và nguyên nhân của tồn tại trong hoạt động của công
ty này. Cuối cùng sẽ là hệ thống những giải pháp, kiến nghị để giải toả
những khó khăn, tạo đà phát triển cho công ty trong thời gian tới, và
những kinh nghiệm tổ chức công ty quản lý nợ và khai thác tài sản tại
một số quốc gia trên thế giới nh Trung Quốc, Thái Lan.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đ sử dụng một số phã ơng
pháp nh: thống kê, phân tích, so sánh... để tiếp cận và làm rõ vấn đề
nghiên cứu.
Kết cấu của đề tài đợc chia thành 3 chơng:
Chơng I là những vấn đề mang tính lý luận, tổng quát nhất về
hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Chơng II viết về thực trạng hoạt động của công ty quản lý nợ
và khai thác tài sản Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam
Cuối cùng, chơng III là một số các giải pháp nhằm hoàn thiện
và phát triển công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
2
Chơng I:
Hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản -
Những vấn đề mang tính lý luận.
1. Tổng quan về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Ngày nay chúng ta đợc nghe nhắc rất nhiều tới nền kinh tế tri
thức, nơi mà sự tăng trởng, ổn định của nhiều lĩnh vực với hàm lợng
chất xám cao, nhân viên có tay nghề đợc coi là nhân tố trọng tâm của
sự phát triển. Một trong những khu vực trọng tâm đó chính là khu vực
Tài chính - Ngân hàng. Trên thực tế, hệ thống Tài chính Ngân hàng
cũng đang ngày càng khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng và tầm
ảnh hởng vô cùng rộng lớn của mình tới sự phát triển của nền kinh tế
từng quốc gia nói riêng cũng nh sự phát triển chung của cả khu vực và
toàn thế giới. Sự lành mạnh, ổn định của hệ thống ngân hàng là tiền
đề cho sự hng thịnh của nền kinh tế. Ngợc lại, sức khỏe của nền kinh
tế cũng sẽ phản ánh và ảnh hởng sâu sắc tới tình trạng hoạt động của
các ngân hàng. Qua nhiều cuộc khủng hoảng, mà gần đây nhất là cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997, nhận định này càng
đợc khẳng định. Một trong những nhân tố dẫn tới khủng hoảng 1997
chính là nguy cơ dễ bị tổn thơng (Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông á)
của khu vực Tài chính Ngân hàng, là các bất cập, thiếu hợp lý trong
đờng lối phát triển, huy động và cho vay của hệ thống các ngân hàng.
Và khi khủng hoảng nổ ra, ngành ngân hàng, đến lợt mình, lại cũng là
nạn nhân chịu những cú sốc nặng nề nhất. Các nớc đ phải thực hiệnã
một loạt các biện pháp nhằm cơ cấu lại, tăng cờng sức mạnh cho hệ
thống ngân hàng, trong đó có việc thành lập công ty khai thác nợ và
quản lý tài sản (Asset Management Company AMC) để xử lý số nợ
tồn đọng khó đòi khổng lồ, làm sạch bảng cân đối tài sản của các
ngân hàng. Một bài học rút ra là không nên chỉ coi công ty khai thác
nợ và quản lý tài sản nh một hình thức xử lý hậu quả, để sự việc đã
xảy ra rồi mới nghĩ tới chuyện thành lập công ty mà nên sử dụng công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản nh một biện pháp phòng ngừa, ngăn
chặn tình trạng xấu đi của hệ thống ngân hàng, tăng cờng sự lành
3
mạnh, và do đó, sức cạnh tranh của ngân hàng trong điều kiện hội
nhập phát triển ngày càng cao nh hiện nay.
2. Khái niệm về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Loại hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đợc sử dụng ở
nhiều nớc. Tại mỗi nớc, tuỳ theo điều kiện kinh tế và chính sách phát
triển từng nớc mà công ty quản lý nợ và khai thác tài sản lại có những
tên gọi, đặc trng, quyền và nghĩa vụ riêng. Nhng chung nhất, có thể coi
công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là một định chế có
mục tiêu đặc biệt, có trách nhiệm và quyền lực đặc biệt trong
việc thực hiện chức năng mua, quản lý các khoản nợ khó đòi
từ hệ thống ngân hàng và xử lý các khoản nợ đó một cách tối -
u.
Mục tiêu hoạt động: Nh vậy, công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản đợc thành lập nên nhằm mục tiêu phục hồi sức mạnh cho hệ thống
ngân hàng. Ngân hàng chính là kênh dẫn truyền các khoản tiết kiệm
trong dân c, trong x hội vào việc đầu tã cho các hoạt động kinh tế. Một
khi các khoản đầu t, cho vay của ngân hàng là không có hiệu quả, mà
thể hiện trớc tiên và trực quan nhất là qua tỷ lệ các khoản nợ quá hạn
khó đòi trên tổng d nợ cao, thì có nghĩa sự lành mạnh cũng nh năng
lực tài chính của ngân hàng đang bị suy giảm, ngân hàng đang đứng
trớc các nguy cơ rủi ro lớn. Khi đó, để củng cố lại hệ thống ngân hàng,
các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ mua, tiếp quản các
khoản nợ khó đòi đó và tìm cách xử lý chúng một cách thông minh và
hiệu quả nhất. Hoạt động của công ty này sẽ luôn hớng tới việc làm sao
để tối đa hoá đợc giá trị của các khoản nợ tồn đọng đợc giao và giảm
thiểu chi phí cho quá trình cải tổ hệ thống ngân hàng và các doanh
nghiệp. Khác với các loại hình công ty khác, ở hầu hết các nớc, công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận.
Hơn nữa, đối tợng mua bán của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
là các khoản nợ khó đòi tồn đọng với ít tài sản đảm bảo có giá trị, thậm
chí có giá trị bằng 0 hoặc tài sản không đủ giấy tờ, không còn đối tợng
để thu nợ... nên hầu nh công ty cũng không thể tạo ra lợi nhuận đợc.
4
Chức năng: Nh khái niệm đ trình bày rõ, hai chức năng cơ bảnã
nhất của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là mua lại nợ tồn
đọng khó đòi và tối đa hoá khả năng thu hồi các khoản nợ đó.
Việc mua lại nợ khó đòi từ hệ thống ngân hàng đợc thực hiện theo
những phơng thức và các mức giá cả khác nhau, tuỳ thuộc vào tình
trạng của khoản nợ cũng nh sự thoả thuận giữa 2 bên, bên bán và bên
mua. Thờng, ngân hàng sẽ có nhu cầu bán lại nợ khê đọng cho quản lý
nợ và khai thác tài sản khi tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống đ vã ợt quá
5% (mức tối đa cho phép theo thông lệ quốc tế).
Vì nợ đợc mua bán là những khoản nợ tồn đọng khó đòi, với rất
nhiều khó khăn và vớng mắc trong việc thu hồi nợ từ khách nợ hay từ
việc xử lý tài sản đảm bảo, nên khả năng thu hồi toàn bộ giá trị món
vay gần nh là không thể. Để có thể tối đa hóa đợc giá trị thu hồi của
khoản vay và các nguồn lực từ khoản vay, công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản phải rất linh hoạt và chủ động trong việc xử lý số nợ khê
đọng đ mua. Một số biện pháp công ty quản lý nợ và khai thác tài sảnã
thờng sử dụng là: dùng tài sản thế chấp để góp vốn liên doanh liên kết
hay cho thuê, sửa chữa, đầu t để tăng giá trị tài sản trớc khi đem bán,
chuyển nợ thành vốn cổ phần...
Quyền lực hoạt động: Để giải quyết các khoản nợ tồn đọng, công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản cần có một quyền lực đặc biệt.
Quyền lực này đợc quy định và bảo vệ bởi những nghị định, quy định,
quyết định do các cơ quan chức năng ban hành, thậm chí là cả một đạo
luật riêng do Quốc hội ban hành. Việc xử lý nợ khê đọng, tài sản đảm
bảo tiền vay có liên quan tới rất nhiều các nhánh luật khác nhau nh
luật phá sản, luật doanh nghiệp, luật đất đai, pháp lệnh về hợp đồng
kinh tế... và nhiều khi sự mâu thuẫn giữa các luật này trong hoạt động
nghiệp vụ của công ty là điếu khó tránh khỏi. Đồng thời, quá trình xử
lý tài sản đảm bảo cũng luôn làm phát sinh những mâu thuẫn về lợi
ích giữa các bên: chủ nợ, khách nợ, chính quyền địa phơng... và các bên
liên quan khác. Vì vậy, xét riêng trên khía cạnh giải quyết cho hết tất
cả những mâu thuẫn, tranh chấp về mặt pháp lý, nếu không có đợc
những quyền hạn và kỹ năng đặc biệt, việc giải quyết các khoản nợ
khê đọng khó đòi của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ rất
5
mất thời gian, thậm chí trong nhiều trờng hợp, có nhiều món nợ vì lý
do này mà không thể đợc xử lý.
1.1.1.Lịch sử hình thành - Sự cần thiết thành lập công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản.
1.1.2. Lịch sử hình thành.
Nền kinh tế thế giới đ chứng kiến nhiều những bã ớc thăng trầm,
những đợt khủng hoảng nặng nề của hệ thống tài chính ngân hàng.
Hậu quả của những cuộc khủng hoảng này là sự suy yếu, xáo động của
không chỉ bộ máy ngân hàng mà còn của cả nền kinh tế. Những khoản
nợ khó đòi khổng lồ là một trong những nguyên nhân khiến cho hệ
thống ngân hàng rơi vào khó khăn, đồng thời nó cũng lại là một trở lực
trong quá trình cải cách và phục hồi kinh tế sau khủng hoảng.
Có nhiều cách để xử lý số nợ này. Đơn giản nhất là xoá nợ hoặc
cơ cấu lại các khoản nợ này bằng nguồn vốn của Chính phủ. Nhng với
số nợ của hệ thống ngân hàng vô cùng lớn thì chi phí sẽ rất tốn kém.
Mặt khác, làm nh vậy sẽ không thúc đẩy đợc quá trình cải cách nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động cho hệ thống ngân hàng. Có một phơng
pháp khác, đáp ứng đợc cả hai mục tiêu tiết kiệm chi phí và thúc đẩy
quá trình cải cách hệ thống ngân hàng, đó là mô hình công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản.
Mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đợc đa ra áp
dụng lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1989. Trong những năm 80, một
cuộc khủng hoảng các quỹ tiết kiệm và cho vay (S&L) với quy mô lớn
đ diễn ra ở Mỹ. Do một số quỹ tiết kiệm quá lớn để có thể đóng cửaã
một cách đơn giản mà không gây ra những tác động nhất định tới xã
hội nên Chính phủ Mỹ đ phải đã a ra giải pháp thành lập Công ty uỷ
thác xử lý tài sản (Resolution Trust Company) (hay Công ty tín thác
xử lý các đổ vỡ ngân hàng), một loại hình công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản. Công ty này với t cách là một cơ quan Trung ơng đứng ra
mua lại các khoản nợ khó đòi của các quỹ tiết kiệm và sau đó tìm cách
6
làm tối đa hoá khả năng thu hồi của các khoản nợ thông qua việc bán
trên thị trờng.
Sau Mỹ, vào những năm 1992-1995, một loạt các công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản cũng đợc thành lập ở các nớc Châu Âu nh Thuỵ
Điển, Na Uy, Phần Lan khi những nớc này rơi vào khủng hoảng ngân
hàng với khối lợng lớn nợ tồn đọng trong nền kinh tế.
Tại Đông Nam á, để giải quyết hậu quả của cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ và phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản cũng đợc thành lập ở các nớc nh Indonesia,
Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc. Đến nay, trên toàn thế
giới đ có khoảng trên 20 công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đã ợc
thành lập.
ở Việt Nam, mặc dù những ảnh hởng của cuộc khủng hoảng
Châu á tới hoạt động của hệ thống ngân hàng không mạnh và khốc liệt
nh đối với trờng hợp của nhiều nớc trong cùng khu vực, nhng nó cũng
gây ra những tác động nhất định. Bài học quý giá từ cuộc khủng hoảng
là phải xây dựng cho đợc một hệ thống tài chính ngân hàng thật sự
lành mạnh, vững chắc. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế, hệ
thống ngân hàng đứng trớc sự canh tranh ngày càng cao, đòi hỏi củng
cố, tăng cờng sức mạnh cho các ngân hàng càng trở nên cấp thiết. Trớc
tình hình đó, ngày 15/9/2000 Ngân hàng Nhà nớc đ ban hành quyếtã
định số 305/2000/QĐ-NHNN5 về việc thành lập Công ty quản lý nợ và
khai thác tài sản thế chấp của ngân hàng thơng mại. Năm 2001, quyết
định 1389/2001/QĐ-NHNN do phó thống đốc Ngân hàng Nhà nớc
Trần Minh Tuấn ký ngày 07/11/2001, ban hành quy định về việc thành
lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng th-
ơng mại ra đời thay thế cho quyết định 305/2000 ở trên. Hiện nay,
nhiều công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các ngân hàng thơng
mại quốc doanh và cả ngân hàng thơng mại cổ phần đ đã ợc thành lập
nh công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của Ngân hàng Đầu t và
phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sài Gòn
thơng tín...
1.1.3. Sự cần thiết thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
7
Trong nền kinh tế thị trờng, sự cạnh tranh luôn diễn ra vô cùng
khốc liệt, muốn tồn tại các doanh nghiệp buộc phải làm ăn có hiệu quả
thì mới có thể trụ vững. Mà để tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu
quả, bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần có một lợng vốn nhất định. Tuy
nhiên, trong quá trình sản xuất kinh doanh, không phải lúc nào doanh
nghiệp cũng có đủ nguồn vốn cần thiết để tiến hành hoạt động, sẽ có
lúc doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu vốn, nhng cũng có lúc sẽ d
thừa vốn. Do vậy, việc phát sinh các khoản công nợ giữa các doanh
nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với nhà nớc, doanh nghiệp với
ngân hàng trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các
nguồn vốn là một điều tất yếu.
Nh vậy, có thể nói các khoản nợ cũng chính là một phần nguồn
vốn của doanh nghiệp. Khi các khoản nợ này thành nợ tồn đọng khó
đòi với số lợng ngày càng lớn thì có nghĩa nguồn vốn đang bị chiếm
dụng, đang bị sử dụng một cách không hiệu quả của doanh nghiệp
ngày càng nhiều. Đối với một doanh nghiệp, đây là điều vô cùng nguy
hiểm, nó báo hiệu sự suy yếu của doanh nghiệp đó. Suy rộng ra, đối với
một nền kinh tế, các khoản nợ tồn đọng khó đòi thể hiện sự l ng phíã
nguồn lực, ngăn trở sự phát triển, thậm chí có thể gây nên những tác
động hết sực tiêu cực tới nền kinh tế. Tựu chung lại, nợ tồn đọng cần
phải đợc xử lý vì:
Nợ tồn đọng có tác động xấu tới nền kinh tế, thể hiện:
- Thứ nhất, vốn tồn đọng trong nền kinh tế làm ảnh hởng trực tiếp
đến thu nhập quốc dân (GNP) của một quốc gia. Theo lý thuyết về
cầu tiền tệ của Irving Fisher thì:
P.Y = M.V = GNP
Trong đó:
P: mức giá cả
Q: tổng sản phẩm
M: khối lợng tiền tệ
V: vòng quay tiền tệ
Vốn tồn đọng chính là đại diện cho một lợng lớn vồn bị nằm chết
trong nền kinh tế. Lợng vốn chết này sẽ khiến cho vòng quay tiền
8
tệ (V) bị chậm lại. Vốn tồn đọng càng lớn thì V sẽ càng nhỏ. Và nh
vậy, giả sử M không đổi, V giảm càng nhiều dẫn đến GNP cũng sẽ
giảm nhiều tơng ứng. Hơn nữa, thu nhập quốc dân thấp lại ảnh h-
ởng rất lớn tới đời sống của nhân dân quốc gia đó, thu nhập bình
quân đầu ngời thấp, phúc lợi x hội giảm...ã
- Thứ hai, tình trạng nợ đọng sẽ làm ảnh hởng đến lợng vốn đầu t từ
bên ngoài vào. Đối với những nhà đầu t nớc ngoài, quyết định có
đầu t vào một quốc gia nào hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Đó là sự thông thoáng và u đ i trong hệ thống luật pháp, sự ổn địnhã
về môi trờng đầu t cũng nh môi trờng chính trị x hội, sự hấp dẫnã
của những cơ hội làm ăn có khả năng sinh lời cao, của nguồn lực,
khả năng hấp thụ và sử dụng vồn một cách hiệu quả của nền kinh
tế... Khối lợng những khoản nợ tồn đọng lớn trong nền kinh tế, có
thể nói, là sự thể hiện rõ ràng nhất của việc sử dụng kém hiệu quả
các nguồn lực về vốn. Và tất nhiên, khi nguồn lực đ không đã ợc sử
dụng một cách có hiệu quả thì môi trờng đầu t của quốc gia đó cũng
khó có thể đợc gọi là hấp dẫn nữa. Kết quả là nguồn vốn đầu t từ
bên ngoài không tăng trởng, quốc gia không có đủ số vốn cần thiết
để đầu t cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng các cơ sở
hạ tầng kinh tế và x hội. Một khi nền kinh tế bị thu hẹp vào nội bộã
của một nớc thì sẽ rất bất lợi cho quốc gia đó trong bối cảnh các nớc
trên thế giới đang tiến nhanh tới toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế.
Nợ tồn đọng khó đòi ảnh hởng đến hoạt động của ngân
hàng, thể hiện:
- Thứ nhất, nợ tồn đọng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn
đến việc các ngân hàng mất khả năng thanh toán, có nguy cơ rủi ro
gây đổ vỡ ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng thực chất là việc sử
dụng nguồn vốn tiền gửi của dân c và nguồn đi vay để tiến hành
cho vay, đầu t trở lại cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Khoản
thu đợc từ những món đầu t đó chính là nguồn ngân hàng thanh
toán cho các khản tiền tiết kiệm và các khoản ngân hàng đ đi vay,ã
đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Khi việc cho vay,
đầu t của ngân hàng là không hiệu quả, các khoản nợ tồn đọng khó
đòi ngày càng nhiều, khả năng thanh toán của ngân hàng sẽ bị yếu
9
đi, và đến một lúc nào đó, ngân hàng không còn khả năng đáp ứng
đợc những đợt rút tiền ồ ạt của dân chúng, ngân hàng sẽ bị phá sản.
Trong điều kiện mỗi ngân hàng đều có quan hệ giao dịch, trao
đổi với những ngân hàng khác, mỗi ngân hàng đều giữ một vai trò
nhất định trong cả bộ máy thì chỉ cần một ngân hàng bị phá sản sẽ
gây ảnh hởng đến toàn hệ thống, thậm chí trầm trọng hơn, có thể
gây ra khủng hoảng tài chính tiền tệ và gây ảnh hởng trực tiếp,
nghiêm trọng đến đời sống kinh tế x hội của một quốc gia, làmã
suy giảm uy tín và vị thế của quốc gia đó trên trờng quốc tế. Vì vậy,
nhìn chung, tuỳ theo đặc điểm, tình hình từng nớc mà có nớc thành
lập một tổ chức xử lý nợ tồn đọng cho cả hệ thống, có nớc chỉ thành
lập riêng cho những ngân hàng mà sự sụp đổ của nó có thể có tác
động dây chuyền đến cả hệ thống.
- Thứ hai, việc mua bán nợ tồn đọng ngân hàng không chỉ giúp lành
mạnh hoá, đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng mà còn
giúp các tổ chức tín dụng:
+) Đa dạng hoá các nghiệp vụ hoạt động: Bên cạnh những nghiệp
vụ mà ngân hàng vẫn thực hiện từ trớc đến nay nh huy động, cho
vay, thanh toán,... thì nh còn đợc thực hiện việc bán những khoản
nợ cho các công ty, tổ chức khác trong và ngoài ngành ngân hàng.
+) Khắc phục khó khăn về tài chính trong kinh doanh: Việc bán
các khoản nợ tồn đọng sẽ giải phóng một phần nguồn vốn đang bị ứ
đọng tại những dự án đầu t không hiệu quả. Nguồn thu từ hoạt
động bán nợ khó đòi này sẽ góp phần bù đắp chi phí, đáp ứng yêu
cầu về thanh khoản, tái tạo vốn đầu t, giải quyết những khó khăn
về tài chính. Hơn nữa, với quy định trích lập quỹ dự phòng rủi ro
cho các khoản nợ quá hạn, các ngân hàng sẽ gánh một chi phí rất
lớn trong trờng hợp các khoản nợ tồn đọng khó đòi phát sinh nhiều.
Nhng nếu ngân hàng đợc phép bán nợ tồn đọng cho công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản xử lý thì sẽ không còn phải trích lập dự
phòng cho những khoản vay đó nữa, điều này sẽ giúp giảm bớt căng
thẳng về tài chính cho ngân hàng.
+) Mở rộng cho vay đối với khách hàng, tăng cờng khả năng
chuyển dịch cơ cấu đầu t: Với nguồn vốn có hạn, một khi đ đầu tã và
10
khoản cho vay này thì ngân hàng sẽ mất đi cơ hội đầu t vào những
hoạt động khác. Đặc biệt khi không thể thu hồi lại đợc vốn từ
những khoản vay không hoạt động (Non-performing Loans) hoặc
các tài sản có không sinh lời khác (Non-performing Assets) thì sự
l ng phí sẽ là rất lớn. Nhã ng nếu có thể bán đi những khoản nợ tồn
đọng, ngân hàng sẽ có thể tiếp tục mở rộng hoạt động cho vay của
mình, đầu t vào những dự án, lĩnh vực có triển vọng phát triển tốt.
Cơ cấu đầu t của ngân hàng cũng theo đó mà đợc thay đổi linh hoạt
hơn từ lĩnh vực rủi ro cao, tiềm năng phát triển sang những lĩnh
vực có khả năng sinh lời lớn hơn.
+) Khôi phục và mở rộng các mối quan hệ của tổ chức tín dụng:
Việc mua bán các khoản nợ tồn đọng khó đòi sẽ giúp làm sạch bảng
tài sản của ngân hàng. Ngân hàng sẽ đợc củng cố về mặt tài chính,
đợc cơ cấu lại theo hớng hợp lý và lành mạnh. Nhờ vậy tạo dựng lại
đợc lòng tin và mối quan hệ với giới đầu t, với dân chúng cũng nh
những ngời gửi tiền. Hơn nữa, khả năng mở rộng cho vay đối với
khách hàng cũng sẽ giúp ngân hàng có đợc những mối quan hệ với
khách hàng mới, hứa hẹn tiềm năng phát triển của ngân hàng
trong tơng lai.
+) Quản lý rủi ro tín dụng: Cùng với các biện pháp quản lý và
phòng ngừa rủi ro khác, mua bán nợ tồn đọng sẽ giúp nh giữ cho tỷ
lệ nợ quá hạn trên tổng d nợ của mình trong phạm vị cho phép, xử
lý những món cho vay không hiệu quả, tập trung vào những khoản
cho vay hiệu quả, nâng cao chất lợng hoạt động tín dụng, ngăn
ngừa những rủi ro do tình trạng nợ đọng gây nên.
Nh vậy, nợ tồn đọng là một vấn đề nhức nhối mà nhiều quốc gia
cần phải tập trung giải quyết triệt để. Các quốc gia đ áp dụng nhiềuã
biện pháp truyền thống để xử lý nh: xử lý nội bộ, khoanh nợ chờ xử lý,
xoá nợ, mua bán nợ giữa các nh... nhng hiệu quả không cao, không xử
lý đợc dứt điểm và vì thế họ phải áp dụng một phơng thức đặc biệt là
thành lập các công ty quản lý tài sản để xử lý nợ tồn đọng của mình.
Việc thành lập các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để giải
quyết vấn đề nợ đọng khó đòi là hiệu quả và tiết kiệm chi phí hơn so
với những phơng thức thông thờng khác do:
11
Thứ nhất, các ngân hàng không có đủ nguồn lực và kỹ năng cần
thiết để xử lý các khoản nợ trong khi đó công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản đợc chuyên môn hoá để thực hiện công việc này. Xử lý nợ
đọng đòi hỏi phải có một lợng vốn không nhỏ. Hơn nữa, công việc này
hết sức phức tạp, nó liên quan tới nhiều hoạt động, nhiều ngành, cần
có sự linh hoạt và những kỹ năng đặc biệt nhất định. Nếu ngân hàng
tập trung đáp ứng những yêu cầu đó để giải quyết nợ tồn đọng của
mình thì chi phí xử lý cũng nh những khoản chi phí cơ hội của ngân
hàng sẽ rất lớn. Nhng với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đợc
chuyên môn hoá thì hoạt động này sẽ trở nên dễ dàng và tiết kiệm
hơn.
Thứ hai, các ngân hàng bị hạn chế và thiếu quyền lực đặc biệt
để xử lý nợ trong khi công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có thể
thúc đẩy các thay đổi pháp lý cần thiết. Nh đ phân tích, hoạt động xửã
lý nợ liên quan tời nhiều nhánh luật khác nhau, để tạo hành lang pháp
lý đảm bảo cho sự thuận lợi và trôi chảy của công việc thì đơn vị xử lý
nợ phải đợc pháp luật trao cho những quyền lực đặc biệt. Do vậy, nếu
ngân hàng tự mình đứng ra xử lý mà không chuyển giao cho công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản thì sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn về
mặt pháp lý.
Thứ ba, các ngân hàng chỉ đợc áp dụng biện pháp duy nhất để
thu hồi nợ là bán đấu giá các tài sản thế chấp trong khi công ty quản
lý nợ và khai thác tài sản có thể tối đa hoá khả năng thu hồi nợ thông
qua nhiều biện pháp. Các khoản nợ tồn đọng khó đòi nếu chỉ đợc xử lý
bằng một cách là bán tài sản thì chắc chắn sẽ không tối đa hoá đợc giá
trị thu hồi vì trong nhhiều trờng hợp, đó không phải là giải pháp tối u,
cha kể đến những khoản vay không có tài sản cầm cố, thế chấp hay tài
sản cầm cố, thế chấp có giá trị bằng 0. Nếu nợ tồn đọng đợc bán cho
công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, công ty sẽ có thể xử lý một
cách linh hoạt bằng nhiều biện pháp khác nhau, do đó nâng cao đợc
khả năng thu hồi giá trị từ khoản vay.
1.1.4.Các mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
12
Tuỳ theo điều kiện từng nớc, công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản có thể do Nhà nớc hoặc t nhân sở hữu. Hiện nay trên thế giới tồn
tại 5 loại hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Đó là:
1. Các cơ quan xử lý trung ơng (của Chính phủ): Chính phủ
đứng ra thành lập một cơ quan xử lý nợ tồn đọng cho cả hệ
thống ngân hàng nói chung. Đây là mô hình đợc áp dụng ở
Malaysia, Hàn Quốc.
2. Các công ty quản lý tài sản riêng của từng ngân hàng: Các
ngân hàng tự đứng ra thành lập công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản trực thuộc ngân hàng mình với nhiệm vụ trọng
yếu là giải quyết nợ đọng trớc tiên cho bản thân ngân hàng
đó. Mô hình này đợc áp dụng ở Trung Quốc, Thái lan.
3. Các bên thứ ba đợc uỷ quyền theo hợp đồng, áp dụng tại Phần
Lan
4. Bán nhanh, bán/chuyển nhợng khối lợng lớn: Tài sản có của
những tổ chức có nguy cơ đổ vỡ sẽ đợc bán, chuyển nhợng lại
một phần hay toàn bộ cho một tổ chức có tình hình tài chính
lành mạnh... Mô hình này đợc áp dụng ở Mỹ.
5. Ngân hàng thu nợ/toà thu nợ, áp dụng tại ấn Độ.
Trong các mô hình trên, theo ý kiến của các chuyên gia thì mô
hình thứ nhất, cơ quan xử lý trung ơng, là có khả năng đạt mức độ
thành công cao nhất. Nguyên do là một mô hình cơ quan xử lý trung -
ơng do Chính phủ thành lập đợc xem là mang tính khả thi cao và theo
hớng tiếp cận này Chính phủ sẽ đạt đợc nhiều mục đích đồng thời.
Thứ nhất, Chính phủ thuận lợi trong việc thiết lập một phơng
tiện (công ty quản lý nợ và khai thác tài sản) thuộc sở hữu của nhà nớc
cho việc mua tậu tài sản, tối đa hoá giá trị của chúng và việc đem bán
các tài sản đó cho các nhà đầu t sẽ dễ dàng hơn nhờ vào uy tín và sự
bảo l nh của Chính phủ.ã
Thứ hai, qua đó Chính phủ có thể có sự kiểm soát trung ơng hoá
đối với chơng trình tái cơ cấu chuyển nhợng dài hạn đối với các khoản
vay không hoạt động.
Thứ ba, Chính phủ có đủ năng lực để trao các đặc quyền cho các
công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của mình để hỗ trợ cho việc
13
chuyển giao các tài sản hiệu quả cũng nh cung cấp các cơ chế bên
ngoài t pháp để tạo các thuận lợi cho việc giải quyết tranh tụng giữa
các bên đi vay và bên cho vay, tạo cơ hội cho các cuộc bán tài sản với
giá trị tối đa thông qua việc thiết lập các cơ chế nhằm đảm bảo quyền
sở hữu vừa sạch vừa sáng đối với các tài sản và một cơ chế nhợng
bán minh bạch.
Tóm lại, với những đặc trng trên có thể nói công ty quản lý tài
sản là một định chế đặc biệt có một không hai trong lịch sử.
1.1.5.Vai trò của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
1.1.6. Vai trò của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đối với ngân
hàng.
Nh trên đ trình bày, việc thành lập công ty quản lý tài sản làã
một tất yếu khách quan đối với các nớc kinh tế thị trờng có tỷ lệ nợ quá
hạn trên 5% hoặc gặp các vấn đề nghiêm trọng về nợ tồn đọng. Công
ty quản lý tài sản còn đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu đợc
trong các chơng trình quốc gia về cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, lành
mạnh hoá hệ thống tài chính và là một phần trong chơng trình khôi
phục hệ thống kinh tế.
Công ty đợc thành lập với các hoạt động chính là: mua lại nợ khó
đòi tồn đọng của các tổ chức tín dụng trên cơ sở giá thị trờng; quản lý
và xử lý các khoản nợ này bằng các biện pháp và kỹ năng đặc biệt;
quản lý và xử lý các tài sản thế chấp, cầm cố gắn liền với các khoản nợ
đ mua; tập trung vào việc bán tối đa hoá giá trị ròng cao nhất trongã
một khoảng thời gian hợp lý, nhằm giảm thiểu tổn thất cho quốc gia.
Với các nhiệm vụ trên, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
đóng một vai trò quan trọng trong việc cơ cấu lại ngân hàng. Cụ thể,
công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đóng vai trò chủ động, tích cực
trong việc thúc đẩy phát triển khu vực ngân hàng thông qua xử lý các
khoản nợ xấu, làm lành mạnh tình hình tài chính của các nh và cho
phép các nh trở lại các hoạt động kinh doanh thơng mại với chất lợng
hoạt động đợc cải thiện.
14
Ngoài mục đích cải thiện tình hình nợ xấu, nợ đọng, công ty
quản lý nợ và tài sản còn đợc thành lập với mục đích là để ngăn chặn
khủng hoảng nh bằng cách cung cấp một cơ chế cho các ngân hàng yếu
kém bán tài sản có vấn đề để lấy tiền hay giấy nhận nợ. Việc này giúp
bơm tiền vào các ngân hàng, cải thiện khả năng thanh toán của khu
vực ngân hàng, trợ giúp các ngân hàng yếu kém quay trở lại cách thức
hoạt động cho vay thận trọng, làm cho các ngân hàng thơng mại thoát
khỏi gánh nặng xử lý các khoản vay có vấn đề, đồng thời cải thiện đợc
tỷ lệ vốn đối với ngân hàng, tuỳ thuộc vào việc trích lập dự phòng ban
đầu và giá trị bán tài sản thu đợc để hệ thống ngân hàng thu hồi đợc
vốn tiếp tục quay vòng phục vụ các doanh nghiệp, tăng lợi nhuận,
giảm chi phí, ngăn ngừa các nguy cơ đổ vỡ cục bộ trong hệ thống.
Nh vậy, bằng các biện pháp kỹ năng đặc biệt của mình trong việc
xử lý nợ và tồn đọng ngân hàng, các công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản ngân hàng đ giúp lành mạnh hoá hoạt động của các ngân hàng,ã
góp phần cơ cấu lại hệ thống ngân hàng một cách hiệu quả. Có thể nói
thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản chính là một phần
thiết yếu quan trọng trong chơng trình cơ cấu lại các ngân hàng.
1.1.7. Đối với nền kinh tế.
Trong nền kinh tế, hệ thống tài chính ngân hàng đóng một vai
trò vô cùng quan trọng, sự tăng trởng hay suy yếu của nền kinh tế đợc
thể hiện qua sự hùng mạnh hay yếu kém của hệ thống tài chính ngân
hàng. Ngợc lại, sức khỏe của hệ thống ngân hàng cũng xẽ có ảnh hởng
lớn đến sức khỏe của nền kinh tế. Vì thế, công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản giúp lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng cũng chính là
giúp tăng cờng sức mạnh, lành mạnh hoá các hoạt động của nền kinh
tế. (Điều này càng đợc thể hiện rõ hơn qua việc các quốc gia khắc phục
những hậu quả do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ gây ra. Để khôi
phục, cơ cấu lại kinh tế, một trong những biện pháp quan trọng trớc
tiên các quốc gia đ làm là tiến hành cơ cấu, phục hồi lại sức mạnh choã
hệ thống ngân hàng với biện pháp thành lập công ty quản lý nợ và
khai thác tài sản để xử lý các khoản nợ khó đòi khổng lồ.) Nền kinh tế
15
tăng trởng bền vững, ổn định chính là một trong những yếu tố quan
trọng thu hút đầu t từ bên ngoài cũng nh kích thích đầu t trong nớc để
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển khoa học kỹ thuật, tạo động lực cho
sự phát triển kinh tế.
Khi nợ tồn đọng khó đòi đợc công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản xử lý, vốn sẽ đợc thu hồi lại một phần để đầu t vào những dự án
khả thi khác, với khả năng sinh lời cao hơn. Xét trên góc độ cả nền
kinh tế, hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ giúp
đẩy nhanh quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế theo hớng lợp lý và hiệu
quả. Nguồn lực sẽ đợc tập trung vào những ngành, lĩnh vực có tiềm
năng phát triển và đem lại lợi nhuận cao, tránh tình trạng vốn bị sử
dụng một cách làng phí, đọng tại những dự án đầu t kém hiệu quả.
Điều này, nh đ phân tích, sẽ đẩy nhanh vòng quay của vốn, nhờ đóã
làm tăng thu nhập quốc dân (GNP), đời sống nhân dân đợc nâng cao,
x hội ổn định...ã
Tóm lại, mua bán nợ thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn và hàng
hoá trong nền kinh tế, giúp ổn định và lành mạnh hoá hệ thống tài
chính ngân hàng, giúp tăng cờng uy tín, vị thế của quốc gia nói
chung và các doanh nghiệp trong nớc nói riêng trong cộng đồng tài
chính quốc tế, tham gia hội nhập vào thị trờng vốn, công nghệ ngân
hàng với các nớc trong khu vực và thế giới.
2. Hoạt động mua bán nợ tại các công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản.
2.1.1.Các khái niệm cơ bản.
2.1.1. Mua, bán nợ.
2.1.1.1. Khái niệm
Mua bán nợ là hoạt động mà trong đó bên bán chuyển quyền
đòi nợ cho bên mua nợ để sớm thu hồi vốn của mình.
16
Thực ra, thực hiện bán khoản cho vay có nghĩa là tạo điều kiện
cho bên bán nợ các ngân hàng thay đổi quy mô hoạt động. Bán
khoản cho vay xuất phát từ một số yêu cầu trong quản trị kinh doanh
nh: cải thiện khả năng thanh toán của ngân hàng, cải thiện danh mục
cho vay và đầu t, ngăn chặn rủi ro, tăng thu nhập...
Bản chất của mua bán nợ là chuyển giao quyền yêu cầu, là thay
đổi quyền sở hữu đối với các khoản nợ. Mà vấn đề sở hữu là vấn đề rất
nhậy cảm trong hoạt động kinh tế. Hơn nữa, các khoản nợ phát sinh
trong hoạt động cho vay của ngân hàng là rất phong phú với các đặc
điểm hoàn toàn khác nhau, mà trớc hết là đặc điểm đa dạng của loại
hình, kì hạn, l i suất... của khoản vay và ngã ời vay nợ. Sự thay đổi
thành phần (nhà nớc, t nhân, liên doanh...) trong sở hữu nợ qua mua
bán nợ thể hiện sự phức tạp của hoạt động này, nhất là ở những nớc
mà còn tồn tại sự khác biệt đáng kể trong hoạt động của các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Bên cạnh đó, việc mua bán nợ còn bị giới hạn bởi một số yếu tố
khác.
Thứ nhất, ngân hàng phải giải quyết tốt các mâu thuẫn nh vừa
muốn bán với giá tối u (thu hồi đợc giá trị lớn nhất có thể từ món cho
vay) vừa muốn tăng sự an toàn (giảm d nợ xấu). Hay việc bán khoản
cho vay thờng đi kèm với chuyển giao thông tin về khách hàng mà
ngân hàng không có đủ, và vừa phải có nghĩa vụ bảo mật những thông
tin đó.
Thứ hai, để đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống, việc mua bán nợ
bị hạn chế và chịu sự kiểm soát của nhà nớc bằng các quy định và tính
thuế.
ở Việt Nam, theo Quy chế mua bán nợ của tổ chức tín dụng ban
hành kèm theo Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 thì mua bán nợ
là hoạt động mua bán, theo đó bên bán nợ chuyển giao khoản nợ mà
bên nợ hiện đang nợ bên bán nợ (bao gồm nợ gốc, lãi, lãi phạt) cho
bên mua nợ và nhận tiền thanh toán, bên mua nợ có nghĩa vụ trả tiền
cho bên bán nợ và tiếp nhận các quyền của chủ nợ đối với khoản nợ
theo thoả thuận của hai bên.
17
2.1.1.2. Các điều kiện cho hoạt động mua bán nợ.
a. Điều kiện cần :
Điều kiện cần thiết cho giao dịch mua, bán nợ chính là trình độ
phát triển thị trờng cao trong hoạt động kinh tế, hoạt động ngân hàng.
Nó đợc thể hiện ở hai mặt.
Trớc hết, đó là tính linh hoạt trong giao dịch của các doanh
nghiệp và của ngân hàng. Khi cờng độ hoạt động thị trờng của các
doanh nghiệp đạt đến một trình độ nhất định, các doanh nghiệp sẽ
hoạch định chặt chẽ và linh hoạt hoạt động tài chính của mình nhằm
tối đa hoá lợi nhuận và tối thiểu hoá rủi ro. Nẩy sinh sự cần thiết về
nội dung và tăng cờng nhịp độ giao dịch để xử lý tình trạng này.
Tiếp theo đó là sự chặt chẽ, linh hoạt trong phục vụ, điều phối
hoạt động kinh doanh của bộ máy ngân hàng. Các ngân hàng sẽ mở
rộng dần khả năng xử lý các yêu cầu về dịch vụ tài chính ngày càng
cao và phức tạp của các trung gian tài chính và của các doanh nghiệp.
b. Điều kiện đủ :
Điều kiện đủ cho giao dịch mua, bán nợ chính là khung pháp lý,
khả năng giải toả về mặt pháp lý cho giao dịch này. Chính sự phức tạp
trong mua, bán nợ đặt ra sự cần thiết phải có một khuôn khổ pháp lý
chặt chẽ và đầy đủ cho hoạt động này nhằm đảm bảo không chỉ cho sự
an toàn của các giao dịch, mà còn đảm bảo sự ổn địnhh cho các mối
qua hệ kinh tế, x hội rộng r i khác có liên quan.ã ã
Nhiều nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển, thực hiện giao
dịch nợ rất năng động. Tuy nhiên, hầu hết các nớc đều không có một
khuôn khổ chung, thống nhất cho hoạt động mua bán nợ. Đa số các nớc
thực hiện phơng án tạo khung pháp lý cho hoạt động mua, bán nợ
theo từng lĩnh vực nhất định. Các giao dịch này tuỳ theo tính chất của
khoản nợ đợc thực hiện theo những quy định riêng. Hoạt động ngân
hàng trong giao dịch mua, bán nợ cũng là một trong những lĩnh vực
chủ yếu.
Điều kiện về phơng tiện giao dịch: Thực tế là không có một
khoản nợ nào chỉ đợc ghi sổ đơn thuần. Hơn nữa, việc ghi sổ chỉ là xác
nhận, còn chủ nợ khi nào cũng có trong tay một chứng từ, hay chứng
18
chỉ nào đó xác nhận quyền của mình về khoản nợ đó. Do vậy, về bản
chất, trong mọi trờng hợp các khoản nợ đều đợc ghi nhận (xác nhận)
bằng các chứng chỉ. Vấn đề đặt ra là các chứng chỉ phải nh thế nào để
đáp ứng đợc các yêu cầu giao dịch là tin cậy, an toàn, phổ thông. Tất
yếu, khả năng giao dịch (đợc mua, bán hay không đợc mua, bán) các
khoản nợ cũng phải đợc xác định rõ ràng không chỉ trong các chứng chỉ
nợ, mà cả trong các hợp đồng về quan hệ vay nợ. Ngoài ra, các giao
dịch các khoản nợ cũng có liên quan rất mật thiết với giao dịch các
quyền. Nh vậy, phải có các quy định pháp lý về điều kiện vật chất của
phơng tiện giao dịch.
Điều kiện về khuôn khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động giao
dịch mua, bán nợ: Phải có các quy định cần thiết về các nội dung chủ
yếu nh hình thức, quy cách, quyền phát hành các chứng chỉ giao dịch;
điạ điểm, phơng thức giao dịch; các quy định về kiểm tra, giám sát, th-
ởng phạt...
Hoạt động mua bán nợ tại các công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản chỉ là một nhánh của hình thức hoạt động mua bán nợ nói chung.
Nó gắn liền với đối tợng, phạm vi cũng nh mục tiêu mua bán đặc trng
riêng. Tuy vậy, cũng nh hình thức mua bán nợ nói chung, hoạt động
mua bán nợ tại công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là hết sực phức
tạp và cần có những điều kiện hỗ trợ thuận lợi từ phía luật pháp, cơ
chế, thị trờng để có thể phát triển và đạt đợc những mục tiêu đề ra một
cách hiệu quả nhất.
2.1.2. Phạm vi mua bán nợ trong hoạt động của công ty quản lý nợ
và khai thác tài sản.
Trong nghiệp vụ mua bán khoản cho vay nói chung, ngân hàng
có thể mua bán cả những khoản cho vay còn thời hạn thanh toán,
những khoản cho vay có tính thanh khoản, khả năng thu hồi cao, hay
khoản cho vay không có đảm bảo bên cạnh những khoản nợ quá hạn
hoặc nợ có khả năng thu hồi thấp. Tuy nhiên, với công ty quản lý nợ và
khai thác tài sản, loại hình công ty đợc thành lập với một mục tiêu đặc
biệt là xử lý nợ tồn đọng khó đòi cho hệ thống ngân hàng, thì đối tợng
19
mua bán, xử lý của công ty là các khoản nợ tồn đọng ngân hàng, hay
còn gọi là các khoản vay không hoạt động, hoặc các tài sản có không
sinh lời khác dùng làm tài sản thế chấp cho khoản vay đ quá thời hạnã
trả nợ gốc hoặc l i trên sổ sách kế toán của ngân hàng. Chính vì đối tã -
ợng xử lý của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản chỉ là những
khoản nợ tồn đọng khó đòi nên công ty có điều kiện tập trung nguồn
lực, chuyên sâu vào các kỹ năng, nghiệp vụ xử lý nợ và tài sản thế
chấp, nâng cao tính chuyên môn hoá và hiệu quả trong hoạt động của
mình.
Các nớc khác nhau có các quy định khác nhau khi xếp một
khoản vay vào danh mục các khoản vay không hoạt động. Chẳng hạn ở
Thái Lan, các khoản vay không hoạt động là các khoản vay đ quá 3ã
tháng kể từ thời hạn phải hoàn trả nợ gốc.
ở Việt Nam, dựa trên tinh thần quyết định 149/2001/QĐ-TTTg
ngày 5 tháng 10 năm 2001 của Thủ tớng Chính phủ, chỉ thị số
01/2002/CT-NHNN của thống đốc Ngân hàng Nhà nớc về việc xử lý nợ
tồn đọng của các ngân hàng thơng mại quy định: phạm vi xử lý nợ tồn
đọng của các ngân hàng thơng mại là các khoản nợ tồn đọng còn d nợ
đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2000. Việc xử lý các khoản nợ
tồn đọng của các ngân hàng thơng mại sau thời điểm ngày 31 tháng 12
năm 2000 thực hiện theo các quy định hiện hành.
2.1.3. Đối tợng tham gia.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ tiến hành mua bán và
xử lý nợ của những tổ chức, ngân hàng mà tỷ lệ nợ khê đọng khó đòi
quá lớn, gây ảnh hởng tiêu cực đến hoạt động của bản thân ngân hàng
đó cũng nh sự ổn định của cả hệ thống, hay thực hiện giải quyết tình
trạng nợ đọng cho cả hệ thống theo chơng trình cơ cấu lại ngân hàng,
lành mạnh hoá tình hình tài chính. Nh vậy, nói chung các đối tợng đợc
tham gia xử lý nợ tồn đọng là các tổ chức tín dụng trong hệ thống tài
chính ngân hàng. Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không có
trách nhiệm, không có quyền mua các khoản nợ khó đòi của doanh
nghiệp, và các tổ chức phi ngân hàng.
20
Trong quá trình xử lý nợ của công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản, công ty có thể tiến hành việc bán lại các khoản nợ hay những tài
sản cầm cố thế chấp tiền vay ra thị trờng. Pháp luật thờng không có
quy định hạn chế các chủ thể công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
có thể quan hệ hợp tác mua bán nhằm đảm bảo tính chủ động và linh
hoạt của công ty trong việc tìm nguồn, tối đa hoá giá trị thu hồi từ nợ
vay.
ở Việt Nam, cũng theo Quyết định 149/2001/QĐ-TTg của Thủ t-
ớng Chính phủ, đối tợng đợc xử lý nợ tồn đọng là ngân hàng thơng mại
nhà nớc, ngân hàng thơng mại cổ phần của nhà nớc và nhân dân.
2.1.2.Cơ chế hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản.
2.1.3. Hoạt động huy động vốn.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là hình thức công ty đợc
thành lập nên chủ yếu nhằm mục tiêu xử lý nợ tồn đọng khó đòi chứ
không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Hơn nữa, do đặc thù của đối t-
ợng xử lý là những khoản nợ tồn đọng và tài sản thế chấp với khả năng
thu hồi lại giá trị thấp, các chi phí bỏ ra để tối u hoá các khoản nợ trớc
khi đem bán lại không hề nhỏ, nên để có thể hoạt động đợc thì công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản cần có một lợng vốn lớn.
Tuỳ theo quy định của mỗi nớc mà công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản có thể huy động vốn ban đầu cũng nh bổ sung vốn trong
quá trình hoạt động bằng những con đờng khác nhau. Điều này cũng
còn tuỳ thuộc vào mô hình công ty quản lý nợ và khai thác tài sản và
tình trạng sở hữu. Nhng nhìn chung, nguồn vốn hoạt động ban đầu
của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thờng là do Chính phủ cấp
qua Bộ Tài chính hoặc qua việc mua cổ phần của công ty.
Vốn hoạt động đang là một trong những vấn đề gây khó khăn
cho hoạt động của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Nh đã
nói ở trên, các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản hầu nh không
thể tạo ra lợi nhuận, do đó rất khó có thể duy trì đợc hoạt động nếu
21
không có sự hỗ trợ về vốn từ bên ngoài. Mà một khi đ bị phụ thuộcã
nhiều vào nguồn vốn từ bên ngoài thì sự chủ động và hiệu quả trong
hoạt động của công ty sẽ bị giảm sút, nhất là khi đó lại là nguồn vốn
do Chính phủ cấp, nơi mà những quyết định mang nhiều tính chủ
quan hơn là tính thị trờng, kèm theo sự chậm trễ đáng kể trong việc
thực thi do bộ máy cơ chế cồng kềnh. Trong trờng hợp của Mĩ, công ty
uỷ thác xử lý tài sản (RTC) đ gặp rất nhiều khó khăn trong việc lậpã
các kế hoạch xử lý dài hạn do chậm nhận đợc các khoản tiền từ ngân
sách và đ bị giải thể vào năm 1993 bằng Luật đóng cửa RTC do khôngã
đủ nguồn vốn để giải quyết thêm các tổ chức tiết kiệm bị đổ vỡ.
2.1.4. Hoạt động xử lý nợ của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản.
Tuy cơ chế xử lý tài sản của các công ty quản lý nợ và khai thác
tài sản của từng nớc cũng khác nhau, các nớc có thể phát triển các ph-
ơng pháp xử lý cho riêng mình, nhng nhìn chung việc xử lý thờng đợc
thực hiện theo trình tự sau: các khoản vay không hoạt động và tài sản
có vấn đề của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng đợc chuyển đến công
ty quản lý tài sản. Tại đây chúng đợc phân loại theo các mức độ khác
nhau và đợc chuyển thành các tài sản có. Sau đó tuỳ theo từng loại mà
chúng đợc xử lý theo các phơng pháp khác nhau nh cơ cấu lại, tài trợ,
tối đa hoá giá trị... để trở thành các hình thức dễ chuyển nhợng hơn và
cuối cùng đem bán, thu hồi lại vốn.
a. Mua, tiếp nhận các khoản nợ tồn đọng
Trớc tiên, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản sẽ mua các
khoản nợ không hoạt động từ các ngân hàng. Việc tiếp nhận nợ tồn
đọng có thể đợc tiến hành dới các hình thức khác nhau. Ngân hàng có
thể uỷ thác cho công ty; ngân hàng mua trái phiếu của công ty, công ty
dùng số tiền đó để mua lại nợ tồn đọng của chính ngân hàng; nhng phổ
biến nhất có lẽ là công ty trực tiếp mua lại các khoản nợ cần xử lý của
ngân hàng.
Khi việc mua bán các khoản nợ khê đọng đợc thực hiện giữa
ngân hàng và công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, giá cả là yếu tố
22
quan trọng cần đợc xem xét. Thông thờng, trong giao dịch bán khoản
cho vay cần phân biệt một số khái niệm có liên quan đến giá:
Thứ nhất là giá trị của khoản cho vay đợc chuyển giao, đó là giá
trị của trái quyền có thể bao gồm cả gốc và l i mà khách hàng nợ sẽã
phải thanh toán cho ngời mua.
Thứ hai là giá bán của khoản cho vay, đó là số tiền mà ngời mua
(công ty quản lý nợ và khai thác tài sản) trả cho ngân hàng bán.
Thứ ba là giá hạch toán khoản cho vay tại ngân hàng bán, là giá
vốn của khoản cho vay.
Đối với ngân hàng bán, khoản chênh lệch giữa giá bán với giá
vốn của khoản cho vay đợc quan tâm nhiều vì nó thể hiện mức độ bù
đắp tổn thất của khoản vay kém hiệu quả từ tiền bán. Còn đối với công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản, khoản chênh lệch giữa giá mua với
giá trị lại đợc quan tâm hơn. Trong hoạt động của mình, công ty quản
lý nợ và khai thác tài sản luôn hớng tới việc làm sao thu hồi đợc tối đa
giá trị của khoản vay, bù đắp đợc chi phí đ bỏ ra. Tuy nhiên, phảiã
khẳng định lại một điều, do đây là những khoản nợ có vấn đề nên việc
thu hồi giá trị, bù đắp chi phí là điều không dễ dàng.
b. Xử lý nợ và tài sản bảo đảm.
Sau khi tiếp nhận các khoản nợ tồn đọng khó đòi, trong hầu hết
các trờng hợp, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không thể ngay
lập tức bán chúng đi đợc mà phải tiến hành một loạt các nghiệp vụ xử
lý tuỳ theo điều kiện và tình trạng của các món nợ đọng.
Trớc tiên, công ty sẽ tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ
theo nhiều tiêu thức khác nhau để đánh giá tình trạng của món nợ,
con nợ và tài sản bảo đảm nếu có. Đây là khâu rất quan trọng vì nó sẽ
quyết định đến tính đúng đắn và tối u của những phơng thức xử lý mà
công ty sử dụng cho từng khoản nợ sau này.
Đối với những khoản nợ mà công ty nhận thấy còn khả năng thu
hồi từ con nợ, công ty sẽ tiến hành phân tích kỹ càng tình hình tài
chính hiện tại của con nợ và đề ra những biện pháp cơ cấu lại khoản
nợ theo hớng hợp lý, phù hợp với tình hình, tạo điều kiện giúp con nợ
vực dậy hoạt động kinh doanh, có khả năng trả đợc nợ trong thời gian
tới. Các biện pháp cơ cấu lại nợ mà công ty sử dụng có thể là: miễn,
23
giảm l i suất hoàn toàn hay chỉ trong một thời gian nhất định; gi n nợã ã
(kéo dài thời hạn trả nợ); cho doanh nghiệp vay vốn đầu t thêm...
Các khoản nợ có thể đợc bán ra trên thị trờng theo mức giá thoả
thuận giữa bên mua và bên bán (công ty quản lý tài sản). Bên mua th-
ờng là những đơn vị có mối quan hệ, hoặc quan tâm đặc biệt tới doanh
nghiệp nợ, nhìn thấy ở khoản nợ này một cơ hội kinh doanh có thể tận
dụng đợc.
Còn một phơng thức xử lý khác cũng hay đợc các công ty quản lý
tài sản sử dụng, đó là chuyển nợ thành cổ phần của doanh nghiệp. Đây
là một trong những cách đợc các nhà nghiên cứu kinh tế đánh giá cao,
vì khi công ty quản lý nợ và khai thác tài sản có cổ phần trong doanh
nghiệp, công ty sẽ có quyền can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp
đó, buộc doanh nghiệp phải thực hiện những biện pháp cần thiết để
khôi phục tình hình tài chính cho doanh nghiệp. Và nh vậy, quá trình
cơ cấu lại ngân hàng sẽ đợc gắn liền với quá trình cơ cấu lại các doanh
nghiệp.
Đối với các tài sản cầm cố, thế chấp, công ty cũng có thể xử lý
bằng nhiều cách khác nhau. Công ty có thể tiến hành sửa chữa, nâng
cấp tài sản để tăng tính khả mại cũng nh giá trị của tài sản khi đem
bán ra thị trờng. Công ty còn có thể đa tài sản vào hoạt động kinh
doanh của bản thân công ty, hay đem tài sản góp vốn, liên doanh...
Tóm lại, để thu hồi giá trị tối đa của khoản nợ, hoạt động xử lý tài sản
của công ty là hết sức linh hoạt và đa dạng.
3. Kinh nghiệm hoạt động của các công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản một số quốc gia trên thế giới - bài học đối với
Việt Nam.
3.1. Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới.
3.1.1. Kinh nghiệm của Thái Lan.
3.1.1.1. Bối cảnh ra đời các công ty quản lý tài sản ở Thái Lan.
24
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt nguồn từ Thái lan xảy
ra vào giữa năm 1997 đ gây ra những tác hại nghiêm trọng đến nềnã
kinh tế của một loạt các nớc trong khu vực vào những năm cuối cùng
của thế kỷ 20. Trong số đó, chính Thái Lan là nớc chịu ảnh hởng nhiều
nhất với mức thiệt hại nặng nề nhất: sự mất ổn định của đồng tiền và
của các thị trờng tiền tệ trong nớc, sự giảm sút các luồng vốn nớc ngoài
đổ vào, giảm sút ngay cả đầu t trong nớc do l i suất cao và yếu tố lòngã
tin, nợ tồn đọng trong nớc, nợ nớc ngoài tăng mạnh, tỷ lệ tăng trởng
âm...
Thêm vào đó, việc Thái Lan tuyên bố phá giá tiền tệ đ làm tăngã
các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần lên vai các công
ty con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn đến
phá sản các công ty này và các nh rơi vào tình trạng gánh chịu một
đống nợ khó đòi hoặc phải giữ gìn bất đắc dĩ một lợng lớn tài sản thề
chấp ngày càng mất giá và khó bán. Trên bảng cân đối của các nh, các
tổ chức tín dụng số lợng các khoản vay không hoạt động liên tục tăng,
vào cuối năm 1998 tăng lên đến 2675 tỷ Baht chiếm 45,02% tổng số
tiền vay và đến tháng 5/1999 tăng lên con số đỉnh điểm là 2729 tỷ
Baht tơng đơng 47,7% tổng trị giá các khoản vay. Điều tệ hại hơn là
các khoản vay không hoạt động này lại chủ yếu ở trên bảng cân đối của
các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nớc và tập trung vào các ngành
kinh tế chủ chốt nh ngành công nghiệp và thơng mại dịch vụ, và một
số ngành liên quan đến bất động sản.
Để thoát ra khỏi khủng hoảng, giải quyết triệt để vấn đề nợ tồn
đọng, tăng cờng năng lực tài chính của các tổ chức tài chính ngân
hàng và góp phần ổn định, lành mạnh hoá khu vực này nhằm tạo điều
kiện tiên quyết cho kinh tế tiếp tục tăng trởng, Chính phủ Thái Lan đã
khẩn trơng ban hành một nghị định khẩn cấp thành lập công ty quản
lý tài sản, một cơ quan nhà nớc chịu trách nhiệm thực hiện các biện
pháp xử lý nợ tồn đọng theo thông lệ quốc tế. Việc thành lập công ty
quản lý tài sản để quản lý nợ tồn đọng của các tổ chức tài chính là một
phần của chơng trình cơ cấu lại khu vực tài chính của Thái Lan.
3.1.1.2. Uỷ ban tái cơ cấu ngành tài chính Thái Lan.
25