Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở việt nam – thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 36 (2010 – 2014)

TRỤC LỢI TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN Ở
VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN

Giáo viên hướng dẫn:
Đoàn Nguyễn Minh Thuận

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Lan
MSSV: 5105873
Lớp: Luật Thương mại 1- K36

Cần Thơ, 2013


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện
LỜI CẢM ƠN

Trải qua gần 4 năm học tập tại trường Đại Học Cần Thơ, được sự chỉ bảo tận tình
của các Thầy Cô, nhất là Thầy Cô Khoa Luật đã tạo cho em một nền tảng kiến thức khá
vững chắc trước khi bước vào cuộc sống thực tế. Đặc biệt trong quá trình học tập, nghiên
cứu em đã nhận được sự quan tâm, ủng hộ của gia đình, Giáo viên hướng dẫn nhờ đó mà
em đã hoàn thành khá tốt luận văn của mình. Với kiến thức và điều kiện nghiên cứu có
hạn nên nội dung luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự chỉ dạy và góp ý


của quý Thầy Cô để luận văn của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại Học Cần Thơ, quý Thầy Cô Khoa Luật
đã trang bị kiến thức cho em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Em xin cảm ơn Cô Đoàn Nguyễn Minh Thuận đã tận tình hướng dẫn, chỉnh sửa
để em hoàn thành tốt Luận văn của mình.
Sau cùng, em xin chúc quý Thầy Cô, Ban lãnh đạo nhà trường dồi dào sức khỏe
và luôn thành công trong cuộc sống.
Chân thành cảm ơn!

Cần Thơ, ngày 30 tháng 11 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Lan

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2013
Giáo viên hướng dẫn

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2013
Giáo viên phản biện

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


DNBH


Doanh nghiệp bảo hiểm

BHTS

Bảo hiểm tài sản

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………………………….1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TÀI SẢN VÀ TRỤC LỢI
TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN…………………………………………………….….5
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm tài sản………………………………………….….5
1.1.1. Lý luận chung về bảo hiểm……………………………………………….….5
1.1.2. Khái quát chung về bảo hiểm tài sản……………………………………..…15
1.1.2.1. Khái niệm tài sản…..................................................................................15
1.1.2.2. Khái niệm bảo hiểm tài sản......................................................................15
1.1.2.3. Đặc điểm của bảo hiểm tài sản.................................................................16
1.1.2.4. Bản chất của bảo hiểm tài sản.................................................................17
1.1.2.5. Các loại tài sản được bảo hiểm................................................................18
1.2. Lý luận chung về trục lợi trong bảo hiểm tài sản……………………………....19
1.2.1. Khái niệm trục lợi trong bảo hiểm tài sản……………………………….....19
1.2.2. Bản chất của trục lợi trong bảo hiểm tài sản……………………………....21

1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trục lợi trong bảo hiểm tài sản………...22
1.2.4. Các hình thức trục lợi trong bảo hiểm tài sản………………………………23
1.3. Pháp luật điều chỉnh về trục lợi trong bảo hiểm tài sản……………………….25
CHƯƠNG 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC ĐIỀU
CHỈNH VẤN ĐỀ TRỤC LỢI TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN Ở VIỆT NAM..….28
2.1. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài
sản……………………………………………………………………………………...28
2.1.1. Quyền của doanh nghiệp bảo hiểm…………………………………………29
2.1.1.1. Quyền trước khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết.....................................29
2.1.1.2. Quyền trong quá trình thực hiệp hợp đồng...............................................29
2.1.1.3. Quyền trong việc chấm dứt thực hiện hợp đồng.......................................33
2.1.1.4. Các quyền khác theo quy định của pháp luật...........................................35
2.1.2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm………………...................................35
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện
2.1.2.1. Nghĩa vụ thông tin....................................................................................35
2.1.2.2. Nghĩa vụ cấp hợp đồng hoặc bằng chứng về hợp đồng............................36
2.1.2.3. Nghĩa vụ bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm....................................37
2.1.2.4. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.......................................38
2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản...38
2.2.1. Quyền của bên mua bảo hiểm……………………………..................……..38
2.2.1.1. Quyền trong việc xác lập, giao kết hợp đồng............................................38
2.2.1.2. Quyền trong quá trình thực hiện hợp đồng...............................................40
2.2.1.3. Quyền trong việc chấm dứt thực hiện hợp đồng.......................................42
2.2.1.4. Các quyền khác theo quy định của pháp luật............................................42
2.2.2. Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm………………………………...................43

2.2.2.1. Nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm.......................................................................43
2.2.2.2. Nghĩa vụ cung cấp thông tin cho việc giao kết hợp đồng..........................44
2.2.2.3. Nghĩa vụ thông báo những thay đổi liên quan đến việc thực hiện hợp
đồng.................................................................................................................................44
2.2.2.4. Nghĩa vụ thông báo xảy ra sự kiện bảo hiểm............................................45
2.2.2.5. Nghĩa vụ thực hiện các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất................46
2.2.2.6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.......................................46
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG TRỤC LỢI TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN, HƯỚNG
HOÀN THIỆN ĐỂ HẠN CHẾ TRỤC LỢI TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN Ở VIỆT
NAM……………………………………………………………………….…………..48
3.1. Thực trạng trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam hiện nay……………….48
3.2. Hướng hoàn thiện để hạn chế trục lợi trong bảo hiểm tài sản…………………..54
3.2.1. Hướng hoàn thiện về hệ thống pháp luật điều chỉnh……………………....54
3.2.2. Hướng hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo
hiểm……………………………………………………………………………………58
3.2.3. Hướng hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm...60
3.2.4. Hướng hoàn thiện về bộ máy quản lý của cơ quan Nhà nước……………..62
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu đề tài
Bảo hiểm không chỉ đáp ứng nhu cầu của người dân trong nước mà còn rất quan
trọng trong việc hợp tác, giao lưu quốc tế, đặc biệt là trong thời kỳ xây dựng một đất

nước Việt Nam phát triển về mọi mặt. Chính vì thế Nhà nước rất quan tâm trong vấn
đề xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm cũng như có các hình thức
quản lý các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm trong nước, ưu đãi thu hút đầu tư từ
nước ngoài rất hiệu quả.
Tuy nhiên, do không thể dự đoán được tình hình phát triển của bảo hiểm cũng
như sự cố phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật về bảo hiểm, nên dẫn đến nhiều
hệ lụy khó giải quyết. Điển hình là tình trạng trục lợi bảo hiểm ngày càng gia tăng.
Đặc biệt là các quy định điều chỉnh hành vi trục lợi bảo hiểm còn rất mơ hồ, làm cho
tranh chấp giữa các bên chưa được giải quyết triệt để.
Bên cạnh đó, việc áp dụng pháp luật về kinh doanh bảo hiểm cũng khó khăn đối
với doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm vì họ không thể nắm rõ hết các quy
định của pháp luật. Cơ quan quản lý Nhà nước cũng gặp rắc rối trong việc thi hành
pháp luật vì một số lý do nào đó như trình độ chuyên môn về bảo hiểm còn yếu kém
hoặc thiếu trách nhiệm trong công việc. Những yếu tố này đã vô hình dẫn đến tình
trạng một số cá nhân, tổ chức có cơ hội thực hiện hành vi gian dối khi tham gia bảo
hiểm – đó là trục lợi bảo hiểm.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc nghiên cứu đề tài “Trục lợi
trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện” là cấp thiết
và mang tính thời sự. Đó cũng chính là lý do thúc đẩy người viết lựa chọn và nghiên
cứu đề tài này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Về mặt khoa học, mục đích nghiên cứu đề tài “Trục lợi trong bảo hiểm tài sản
ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện” nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận, pháp lý và thực tiễn về trục lợi trong bảo hiểm tài sản.
Về lý luận, trục lợi trong bảo hiểm tài sản là hành vi gian dối và gây ra nhiều
hậu quả nghiêm trọng vì nó liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội (bao
gồm doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm,
cán bộ y tế, công an…). Do đó cần phải có những biện pháp ngăn ngừa hành vi trục
lợi bảo hiểm nói chung, bảo hiểm tài sản nói riêng.


GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

1

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
Về mặt pháp lý, hiện tại người viết nhận thấy chưa có văn bản quy phạm pháp
luật nào điều chỉnh về vấn đề chế tài đối với hành vi trục lợi bảo hiểm. Các thuật ngữ
chuyên ngành thường không được giải thích thành quy phạm pháp luật làm cho bên
mua bảo hiểm không hiểu hoặc hiểu sai ý nghĩa của các thuật ngữ đó, dẫn đến bên
bảo hiểm có cơ hội thực hiện ý đồ trục lợi. Mặt khác sẽ không đảm bảo sự công bằng
về quyền và nghĩa vụ của các bên.
Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm tài sản thường do doanh nghiệp bảo hiểm soạn
thảo sẵn – hợp đồng mẫu, hiếm có hợp đồng bảo hiểm tài sản nào được thông qua do
sự thỏa thuận của hai bên và pháp luật cũng không can thiệp vào vấn đề này, do quy
định tại Điều 388 của Bộ luật Dân sự là “hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận của các
bên…”. Điều này gây ra sự không công bằng cho bên mua bảo hiểm. Vấn đề phí bảo
hiểm cũng không được quy định thống nhất, từ đó làm xuất hiện nhiều hành vi gian
dối trong bảo hiểm tài sản. Giải pháp đề ra là cần hoàn thiện các quy định của pháp
luật về kinh doanh bảo hiểm, đặc biệt là các quy định điều chỉnh hành vi trục lợi bảo
hiểm tài sản. Đó sẽ là tiền đề cho một nền kinh tế phát triển nói chung, kinh doanh
bảo hiểm nói riêng. Đồng thời phòng chống hành vi trục lợi trong bảo hiểm tài sản.
Về thực tiễn, đề tài luận văn này có thể sử dụng làm tài liệu cho việc nghiên cứu,
tham khảo và góp phần mở rộng hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng chống
trục lợi bảo hiểm nói chung, bảo hiểm tài sản nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Theo quy định của pháp luật hiện hành, vấn đề về bảo hiểm rất rộng bao gồm
bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm tiền gửi.

Vì thế, trong bài này người viết chỉ nghiên cứu về phần bảo hiểm phi nhân thọ, đi sâu
hơn về bảo hiểm tài sản và trục lợi trong bảo hiểm tài sản. Về bảo hiểm nói chung thì
người viết chỉ đề cập đến khái niệm, đặc điểm, bản chất, phân loại, sơ lược về lịch sử
hình thành và phát triển của bảo hiểm. Do thời gian nghiên cứu hạn chế nên người
viết không thể nghiên cứu tất cả các khía cạnh của bảo hiểm tài sản được. Đề tài luận
văn này chỉ tập trung vào vấn đề trục lợi trong bảo hiểm tài sản như khái niệm, bản
chất, nguyên nhân, các hình thức trục lợi chủ yếu trong bảo hiểm tài sản, tìm hiểu quy
định của pháp luật để thấy được nguyên nhân xảy ra trục lợi bảo hiểm tài sản nhằm
đưa ra một số giải pháp hạn chế hành vi trục lợi bảo hiểm nói chung, bảo hiểm tài sản
nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài luận văn này, người viết đã sử dụng một số phương phương pháp
nghiên cứu sau:
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

2

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
Phương pháp sưu tầm tài liệu: Trong quá trình nghiên cứu người viết cần tham
khảo nhiều tài liệu liên quan đến đề tài để có cái nhìn tổng quát hơn về trục lợi trong
bảo hiểm tài sản. Từ đó có thể tránh được những sai lầm, thiếu sót trong đề tài nghiên
cứu.
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Phương pháp này giúp cho việc xác
định và đánh giá vấn đề cần nghiên cứu được chính xác hơn. Người viết đã tiến hành
việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, tạp chí, truy cập vào
các trang web để việc nghiên cứu hoàn chỉnh hơn.
Phương pháp phân tích câu chữ: Việc người viết sử dụng phương pháp này

nhằm mục đích hiểu rõ ý chí của người làm luật. Từ đó có thể đưa ra những đánh giá
không trái với quy định của pháp luật, những giải pháp hoàn thiện các quy định đó.
Đồng thời hoàn thiện hơn về nội dung của đề tài.
Ngoài ra, người viết còn sử dụng một số phương pháp phân tích khác như quy
nạp, diễn dịch, liệt kê, phân tích…để hoàn thành tốt đề tài luận văn này.
5. Cấu trúc của đề tài
Đề tài nghiên cứu luận văn này gồm có ba chương:
- Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm tài sản và trục lợi trong bảo hiểm tài
sản. Trong phần này, người viết sẽ khái quát chung về bảo hiểm tài sản, trục lợi trong
bảo hiểm tài sản và các hình thức trục lợi bảo hiểm thường gặp để có thể đề phòng
hành vi trục lợi trong quan hệ bảo hiểm tài sản.
- Chương 2: Các quy định của pháp luật liên quan đến việc điều chỉnh vấn đề
trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam. Ở chương này, người viết trình bày các
quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm tài
sản để tìm ra một số nguyên nhân dẫn đến việc trục lợi của các bên nhằm hạn chế
hành vi trục lợi trong bảo hiểm tài sản. Đồng thời, phân tích những thiếu sót trong các
quy định của pháp luật có thể dẫn tới hành vi trục lợi ngày càng gia tăng.
- Chương 3: Thực trạng trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, hướng
hoàn thiện để hạn chế trục lợi trong bảo hiểm tài sản. Ở chương 3, người viết nêu
ra một số vụ việc điển hình về trục lợi trong bảo hiểm tài sản. Đồng thời đưa ra ý kiến,
giải pháp để hạn chế hành vi trục lợi.
Đề tài nghiên cứu “Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng
và hướng hoàn thiện” là một vấn đề liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau trong xã
hội, quyền và nghĩa vụ của các bên đòi hỏi người nghiên cứu đề tài này cần có kiến
thức sâu rộng về bảo hiểm, các lĩnh vực trong đời sống xã hội và cả kiến thức về lý

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

3


SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
luận lẫn thực tiễn. Là một sinh viên, lần đầu tiên làm quen với việc nghiên cứu một
đề tài khoa học luật mà thời gian nghiên cứu còn hạn chế cũng như vốn hiểu biết có
giới hạn. Vì vậy, việc có những khiếm khuyết, thiếu sót hay sai lầm trong đề tài nghiên
cứu này là điều không thể tránh khỏi.
Từ đó, người viết rất mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến
đóng góp, đánh giá, phê bình của quý Thầy (Cô), các nhà nghiên cứu pháp luật và các
bạn sinh viên để Luận văn được hoàn thiện hơn và là cơ sở để người viết tiếp tục
nghiên cứu sau này.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

4

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TÀI SẢN VÀ TRỤC LỢI
TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN
Bảo hiểm Việt Nam ra đời khá muộn, không phát triển cũng như không được tin
dùng so với các nước trên thế giới. Tuy nhiên, để chứng tỏ vai trò quan trọng của
mình, ngành nghề kinh doanh bảo hiểm đã không ngừng hoàn thiện, cho ra đời các
sản phẩm bảo hiểm chất lượng được nhiều người sử dụng. Từ đó, các công ty bảo
hiểm xuất hiện ngày một nhiều góp phần tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho
ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, là một thị trường non trẻ, kinh nghiệm quản lý của Nhà nước cũng

như các doanh nghiệp bảo hiểm còn yếu kém nên dẫn đến phát sinh nhiều vấn đề bất
lợi. Mặt khác, cơ chế chính sách về bảo hiểm chưa hoàn thiện, phương thức cạnh tranh
không đạt hiệu quả cũng góp phần làm cho kinh doanh bảo hiểm bị ngưng trệ, tồn
đọng nhiều vấn đề chưa được giải quyết triệt để. Một nguyên nhân khác không kém
phần quan trọng làm cho thị trường bảo hiểm bước từng bước chậm chạp trên đà phát
triển chính là “trục lợi bảo hiểm”. Trục lợi bảo hiểm đã và đang gặm nhấm từ từ sự
phát triển của nền kinh tế nói chung, kinh doanh bảo hiểm nói riêng. Hành vi trục lợi
bảo hiểm diễn ra trên tất cả các loại hình nghiệp vụ, làm cho doanh nghiệp bảo hiểm
tổn thất nặng nề về tài chính cũng như uy tín bị giảm sút, từ đó làm cho người dân
không còn lòng tin vào bảo hiểm. Các hợp đồng bảo hiểm theo đó cũng ngày càng ít
đi, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ lâm vào nguy cơ phá sản, nền kinh tế cũng bị ảnh
hưởng ít nhiều vì nó có mối liên hệ về tài chính rất mật thiết với doanh nghiệp bảo
hiểm. Do hành vi trục lợi bảo hiểm khó bị phát hiện và chế tài của pháp luật chưa đủ
sức răn đe nên tình trạng trục lợi bảo hiểm ngày càng gia tăng.
Vậy nên, để có thể biết rõ về hành vi trục lợi bảo hiểm nói chung, bảo hiểm tài
sản nói riêng, trước tiên ta cần tìm hiểu một số vấn đề lý luận chung về bảo hiểm để
hiểu rõ các quy định của pháp luật bảo hiểm. Qua đó có thể hạn chế phần nào hành vi
trục lợi của các chủ thể khi tham gia quan hệ bảo hiểm.
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm tài sản
1.1.1. Lý luận chung về bảo hiểm
Để tìm hiểu về bảo hiểm tài sản cũng như cách thức thực hiện hành vi trục lợi
bảo hiểm tài sản, trước tiên ta cần nghiên cứu để có thể hiểu một cách khái quát hơn
về bảo hiểm nói chung. Từ đó có cái nhìn sâu sắc hơn về bảo hiểm tài sản, để khi tham
gia vào quan hệ bảo hiểm đó sẽ không lúng túng hay bị một số tổ chức, cá nhân lừa
gạt với mục đích hưởng lợi bất chính.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

5


SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
 Khái niệm bảo hiểm
Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa, đề phòng nhưng con người vẫn luôn phải đối mặt
với nguy cơ rủi ro trong mọi lĩnh vực từ đời sống, kinh tế đến xã hội. Các rủi ro này
vẫn luôn rình rập và ập đến một cách không ngờ như bão, lũ lụt, hạn hán, bệnh dịch,
tai nạn…Đương nhiên các rủi ro đó đều đe dọa đến khả năng tài chính của mỗi cá
nhân, tổ chức, họ là những người không may gặp tai nạn. Như một điều tất yếu, người
ta sẽ nghĩ đến việc đoàn kết cộng đồng, liên hợp nhiều người lại để chia sẻ mất mát
với những người kém may mắn. Đó cũng là nguyên nhân làm các công ty bảo hiểm
dần dần xuất hiện và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Theo Dennis Kessler thì: “Bảo hiểm chính là sự đóng góp vốn hay tài sản của số
đông bù vào sự bất hạnh của số ít”1. Còn theo Monique Gaullier: “Bảo hiểm là một
nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi
là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong
trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản tiền đền bù các tổn thất được trả bởi
một bên khác - đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn
bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê”2.
Tập đoàn bảo hiểm AIG (American International Group) của Mỹ lại định nghĩa:
“Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ
chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người
được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa
tất cả những người được bảo hiểm”3.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam năm
2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010 (sau đây người viết gọi là Luật Kinh doanh bảo hiểm)
thì: “Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích
sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm,

trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm”. Theo đó thì Luật Việt Nam không định nghĩa bảo hiểm là gì mà
chỉ định nghĩa về kinh doanh bảo hiểm. Ta có thể hiểu, cũng như các doanh nghiệp
kinh doanh các lĩnh vực khác nhau có hoạt động kinh doanh khác nhau thì kinh doanh
Các khái niệm và nguyên tắc cơ bản trong bảo hiểm, />2
Các khái niệm và nguyên tắc cơ bản trong bảo hiểm, />3
Các khái niệm và nguyên tắc cơ bản trong bảo hiểm, />1

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

6

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
bảo hiểm là hoạt động chính và chủ yếu của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) để thu
về lợi nhuận.
Tóm lại, bảo hiểm là một hình thức góp vốn để đề phòng rủi ro, là sự chia sẻ rủi
ro của số ít cho số đông thông qua một quỹ chung – quỹ dự trữ bảo hiểm, do DNBH
làm trung gian thanh toán.
 Đặc điểm của bảo hiểm
Thứ nhất, bảo hiểm là một dịch vụ tài chính đặc biệt. Đây là một dịch vụ mang
tính chuyên biệt trong nền kinh tế thị trường. Là một dịch vụ mang tính vô hình, là sự
bảo đảm về mặt tài chính trước rủi ro cho người được bảo hiểm và kèm theo các dịch
vụ có liên quan. Người tham gia bảo hiểm nộp phí cho DNBH để đổi lấy lời hứa hay
cam kết là sẽ trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Như vậy, ở đây có sự
cam kết từ hai phía, DNBH và người tham gia bảo hiểm, trong đó người tham gia bảo
hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn DNBH là bên trung gian nhận tất cả rủi ro của

người tham gia bảo hiểm và cam kết sẽ bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi có sự
kiện bảo hiểm xảy ra.
Thứ hai, bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Trong
thời gian bảo hiểm không có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì DNBH không phải trả tiền
hay bồi thường bảo hiểm. Ngược lại nếu có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì DNBH phải
bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm. Đặc điểm này tạo ra khả năng nhàn rỗi trong quỹ
bảo hiểm, DNBH đã sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi này đem đầu tư sinh lời. Tuy nhiên,
khác với các khâu tài chính khác, chi trả, bồi hoàn của bảo hiểm phụ thuộc vào tính
bất ngờ của rủi ro bảo hiểm cả không gian, thời gian và quy mô. Do đó, DNBH phải
thành lập các quỹ dự phòng để thực hiện cam kết của mình trước bên tham gia bảo
hiểm. Quỹ bảo hiểm được sử dụng để tham gia đầu tư nhưng phải đảm bảo được tính
thanh toán cao. Do số tiền bồi thường trong hợp đồng bảo hiểm là rất lớn, có thể lớn
hơn rất nhiều lần tiền phí bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm đã đóng.
 Bản chất của bảo hiểm
Bảo hiểm thực chất là việc con người phải dành ra một phần sản phẩm hay thu
nhập trong kết quả lao động hằng năm của mình để lập ra quỹ dự trữ đủ lớn về vật
chất hoặc bằng tiền (quỹ đó gọi là quỹ dự trữ bảo hiểm) nhằm hỗ trợ tài chính cho
việc đề phòng và hạn chế tổn thất khi hiểm họa chưa hoặc đang xảy ra, bù đắp và bồi
thường kịp thời những thiệt hại và tổn thất về người và tài sản sau khi xảy ra rủi ro.
Bảo hiểm còn là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những
người tham gia bảo hiểm theo hình thức số đông bù số ít. Mỗi cá nhân hay đơn vị chỉ
cần đóng góp một khoản tiền trích từ thu nhập cho các DNBH. Khi tham gia một
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

7

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện

nghiệp vụ bảo hiểm nào đó, nếu gặp tổn thất do rủi ro gây ra, người được bảo hiểm sẽ
được bồi thường. Khoản tiền bồi thường này được lấy từ số phí mà tất cả những người
tham gia bảo hiểm đã nộp. Tất nhiên chỉ có một số ít người tham gia bảo hiểm sẽ gặp
tổn thất, còn những người không bị tổn thất sẽ mất trắng số phí bảo hiểm đã đóng.
Như vậy, bản chất của bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số
người cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Do đó một nghiệp vụ bảo
hiểm muốn tiến hành được phải có nhiều người tham gia, tức là bảo hiểm chỉ hoạt
động được trên cơ sở luật số đông, càng nhiều người tham gia thì DNBH càng có lời.
Vậy nên, phân chia tổn thất và phòng ngừa rủi ro là bản chất đặc trưng của bảo hiểm.
 Phân loại bảo hiểm
Bảo hiểm là một ngành nghề kinh doanh có nhiều loại hình nghiệp vụ và được
phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Mỗi DNBH sẽ lựa chọn loại nghiệp vụ tùy
theo ý muốn của mình và tất nhiên phải đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước về
kinh doanh bảo hiểm. Để phân loại bảo hiểm ta cần dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau
như:
Thứ nhất, phân loại theo mục đích. Có loại hình bảo hiểm vì mục đích lợi nhuận
và mục đích cho sự phát triển ổn định của xã hội.
 Bảo hiểm vì mục đích lợi nhuận là bảo hiểm thương mại, bao gồm:
 Bảo hiểm nhân thọ: Bảo hiểm trọn đời; bảo hiểm sinh kỳ; bảo hiểm tử kỳ; bảo
hiểm hỗn hợp; bảo hiểm trả tiền định kỳ; bảo hiểm liên kết đầu tư; bảo hiểm hưu trí4.
 Bảo hiểm phi nhân thọ: Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại; bảo hiểm hàng
hóa vận chuyển đường bộ, đường biển, đường thủy nội địa, đường sắt và đường hàng
không; bảo hiểm hàng không; bảo hiểm xe cơ giới; bảo hiểm cháy, nổ; bảo hiểm thân
tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu; bảo hiểm trách nhiệm; bảo hiểm tín dụng và
rủi ro tài chính; bảo hiểm thiệt hại kinh doanh; bảo hiểm nông nghiệp5.
 Bảo hiểm không vì mục đích lợi nhuận bao gồm bảo hiểm xã hội; bảo hiểm tiền
gửi.
Thứ hai, phân loại theo tính chất ràng buộc pháp lý

 Bảo hiểm bắt buộc: Bảo hiểm xã hội; bảo hiểm tiền gửi; bảo hiểm hàng hải;

bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, người vận chuyển hàng không; trách
nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; bảo hiểm cháy, nổ.

4
5

Khoản 1 Điều 7 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010.
Khoản 2 Điều 7 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

8

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện

 Bảo hiểm không bắt buộc: Các loại hình bảo hiểm còn lại như bảo hiểm tai
nạn con người; bảo hiểm y tế; bảo hiểm chăm sóc sức khỏe6.
 Các nguyên tắc của bảo hiểm
Ngành nghề kinh doanh bảo hiểm có những nguyên tắc riêng của nó và mọi hoạt
động đều phải tuân theo những nguyên tắc này, như nguyên tắc chỉ bảo hiểm cho rủi
ro, nguyên tắc trung thực, nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm, nguyên tắc bồi
thường và nguyên tắc thế quyền.
Nguyên tắc thứ nhất, chỉ bảo hiểm cho rủi ro. Những tai nạn hoặc tổn thất chắc
chắn xảy ra hoặc đã xảy ra thì sẽ không được bảo hiểm, mà chỉ bảo hiểm cho những
biến cố ngẫu nhiên, tai nạn xảy ra bất ngờ ngoài ý muốn của con người. Ví dụ như:
Con tàu đã bị hư hao phần thân rồi mà chủ tàu mới mua bảo hiểm cho thân tàu đó thì
sẽ không được bảo hiểm.

Nguyên tắc thứ hai, nguyên tắc trung thực. Các bên phải trung thực trong việc
cung cấp thông tin, không được gian dối lẫn nhau. Bên bảo hiểm thì phải công khai
các điều kiện được bảo hiểm, không được bảo hiểm, thủ tục thông báo và bồi thường.
Còn bên được bảo hiểm thì kê khai rõ ràng và trung thực các thông tin khi được yêu
cầu và khi có sự thay đổi ảnh hưởng đến mức độ rủi ro của đối tượng bảo hiểm.
Nguyên tắc thứ ba, nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm. Đối với tài sản
thì quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt,
khi người nắm giữ tài sản có một trong các quyền này thì khi tài sản bị tổn thất sẽ
được công ty bảo hiểm bồi thường. Còn đối với con người là sức khỏe, tính mạng,
quyền nuôi dưỡng, cấp dưỡng.
Nguyên tắc thứ tư, nguyên tắc bồi thường. Theo nguyên tắc này thì bên công ty
bảo hiểm chỉ bồi thường cho những tổn thất, thiệt hại xảy ra trên thực tế. Tức là, thiệt
hại đó có thể xác định được như nhìn thấy và cầm nắm được. Giá trị bồi thường tối đa
bằng giá trị thiệt hại, tức chỉ có thể bồi thường bằng hoặc thấp hơn mức độ thiệt hại
chứ không vượt quá mức thiệt hại thực tế. Không bên nào được lợi dụng bảo hiểm để
thu lợi bất chính.
Nguyên tắc thứ năm, nguyên tắc thế quyền. Nguyên tắc thế quyền là một trong
những nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm, nó là kết quả tất yếu của nguyên tắc bồi
thường vì nó ngăn ngừa một người có thể đòi bồi thường từ hai nguồn về cùng một
tổn thất và như thế là kiếm lời bất chính. Ví dụ như: Một tài sản đã được mua bảo
hiểm mà người gây ra tổn thất không phải là các bên trong hợp đồng bảo hiểm mà là
bên thứ ba nào đó có thể xác định được trách nhiệm của họ. Khi đó bên bảo hiểm sẽ
6

Khoản 3 Điều 7 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

9


SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
bồi thường cho người được bảo hiểm, sau đó bên bảo hiểm được quyền đòi lại số tiền
đã bồi thường từ bên thứ ba gây ra thiệt hại này. Nếu không có nguyên tắc này thì
một số cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm lợi dụng rủi ro đó để thu lợi từ hai phía,
bên bảo hiểm và bên thứ ba.
Thế quyền là biện pháp mà pháp luật cho phép áp dụng nhằm tránh việc kiếm
lời không hợp lý từ việc tham gia bảo hiểm. Với nguyên tắc thế quyền này, bên bảo
hiểm có quyền thay thế quyền hạn người được bảo hiểm để đòi bên có trách nhiệm
bồi hoàn trong giới hạn số tiền bồi thường đã trả mà không cần có quyền sở hữu được
chuyển qua cho họ. Tuy nhiên, trước khi thực hiện việc thế quyền, bên bảo hiểm phải
trả tiền bồi thường cho bên được bảo hiểm. Bên cạnh đó quyền lợi bảo hiểm còn được
chuyển giao sang người chấp nhận cầm cố, nhận thế chấp tài sản.
 Sự cần thiết của bảo hiểm trong đời sống kinh tế - xã hội
Nghiên cứu về bảo hiểm chúng ta có thể thấy tác dụng của bảo hiểm thể hiện rõ
trên nhiều phương diện. Ngoài việc giúp bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất, bảo hiểm
còn sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn lớn để đầu tư
vào những lĩnh vực khác. Cũng nhờ bảo hiểm mà ngân sách nhà nước hằng năm có
nguồn đóng góp không nhỏ thông qua việc nộp thuế, mọi người có được tâm lý an
tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống. Vì những tổn thất, rủi ro đã được chuyển sang
cho công ty bảo hiểm, công tác để phòng và hạn chế tổn thất được tăng cường, đồng
thời tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới.
Một là, bảo hiểm bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất rất hiệu quả. Bù đắp thiệt
hại, khắc phục tổn thất là tác dụng chủ yếu của bảo hiểm và cũng xuất phát chính từ
nhu cầu này mà bảo hiểm đã ra đời. Nói đến bảo hiểm là nói đến khả năng bồi thường
khi có tổn thất xảy ra, và vai trò của các công ty bảo hiểm là cung cấp các dịch vụ đặc
biệt nhằm khôi phục khả năng vật chất, tài chính như trước khi xảy ra rủi ro, hoặc bồi
thường cho người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm con người. Khi có tổn thất xảy

đến với đối tượng được bảo hiểm thì nhiệm vụ cơ bản của bảo hiểm là khắc phục
những hậu quả đó theo như hợp đồng đã giao kết trước đó với bên mua bảo hiểm, ổn
định đời sống và quá trình sản xuất, kinh doanh. Có thể nói, chỉ có công ty bảo hiểm
mới bù đắp thiệt hại, tổn thất do trước đó công ty đã nhận một khoản phí của bên mua
bảo hiểm.
Các cá nhân, tổ chức khi mua bảo hiểm tức là họ đã chuyển rủi ro cho các công
ty bảo hiểm từ đó tạo tâm lý an toàn để sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn, giúp ổn
định cuộc sống, các tổ chức thì bảo toàn được vốn, tài sản, giữ cho chu kỳ sản xuất –
kinh doanh không bị gián đoạn, không bị phá sản khi gặp thiệt hại quá nặng nề.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

10

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
Hai là, tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Bên cạnh khả năng
giải quyết các hậu quả của rủi ro, bảo hiểm cũng góp phần thực hiện một nội dung
khác quan trọng không kém, đó là đề phòng và hạn chế mức thấp nhất những tổn thất
có thể xảy đến. Do bảo hiểm chỉ đền bù cho những biến cố ngẫu nhiên, có khả năng
xảy ra và đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm khi giao kết chứ không phải
trong mọi trường hợp đều bồi thường. Nhờ đó những thiệt hại đáng tiếc về người và
tài sản được giảm thiểu và những hậu quả về kinh tế - xã hội được chủ động phòng
tránh.
Ba là, sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn lớn để
đầu tư vào lĩnh vực khác. Khoản phí mà bên mua bảo hiểm đóng sẽ không sử dụng để
bồi thường một cách đồng loạt mà sẽ bồi thường rải rác, do không phải lúc nào cũng
có tổn thất đối với đối tượng được bảo hiểm. Vậy nên các công ty bảo hiểm sẽ sử dụng

khoản tiền đó đem đi đầu tư, nhưng vẫn đảm bảo mức độ an toàn tương đối về khả
năng tài chính khi xảy ra rủi ro mà vẫn không gây đọng vốn, qua đó làm tăng thu nhập
cho các công ty bảo hiểm. Ngày nay các công ty bảo hiểm là một kênh huy động vốn
không thể thiếu của nền kinh tế và ngày càng được khai thác hiệu quả do phạm vi hoạt
động rộng và các loại hình bảo hiểm phong phú.
Bốn là, tăng thu ngân sách Nhà nước. Hằng năm, thông qua nộp thuế, bảo hiểm
đã góp một phần không nhỏ vào ngân sách Nhà nước. Như đã nói ở trên, bảo hiểm chỉ
bồi thường cho những biến cố ngẫu nhiên, trong một số trường hợp nhất định nên bảo
hiểm đã góp phần tiết kiệm cho ngân sách thông qua việc phòng ngừa và hạn chế tổn
thất giúp bảo vệ tài sản công cộng, giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại đáng tiếc.
Điều này giúp nhà nước giảm bớt chi tiêu những khoản lớn để bù đắp những tổn thất
như phải xây dựng đường xá, cầu cống, nhà xưởng, công trình. Ngoài ra, một thị
trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ và ổn định sẽ thu hút các cá nhân và tổ chức mua
bảo hiểm của công ty bảo hiểm trong nước, góp phần tiết kiệm một khoản ngoại tệ
lớn cho ngân sách nhà nước.
Năm là, tác dụng của bảo hiểm là tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong
cuộc sống. Môi trường kinh doanh cũng như môi trường xã hội đang dần xuất hiện
những rủi ro mới mà chúng ta không thể lường trước được. Những rủi ro thiên nhiên
như bão, lũ lụt, hạn hán, cháy rừng tự nhiên đang diễn ra hết sức phức tạp, thế giới
diễn biến nhiều điều khó đoán như chiến tranh, khủng bố, xung đột...Vậy nên để bảo
đảm cho tính mạng, sức khỏe và tài sản được an toàn và nếu có tổn thất cũng không
phải lo khắc phục thì bảo hiểm chính là một giải pháp phù hợp góp phần tích cực tạo
ra tâm lý an tâm trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống con người.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

11

SVTH: Nguyễn Thị Lan



Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
 Lịch sử phát triển của bảo hiểm
Thứ nhất, trên thế giới. Trong cuộc sống con người luôn luôn hướng tới mục
tiêu đã đặt ra của bản thân. Để làm được điều đó họ cần có sự đảm bảo an toàn về
tính mạng và tài sản của mình trước những rủi ro, bất hạnh. Ngay từ thời tiền sử đã
xuất hiện các ý tưởng, các tổ chức gần giống với bảo hiểm. Từ thời Trung cổ, các quy
tắc về bảo hiểm hàng hải đã được hình thành như: ở Trung Hoa 500 TCN con người
đã biết chia hàng hóa trên nhiều đoàn thuyền khi vận chuyển trên sông Dương Tử để
phân chia rủi ro, miền bắc Italia: 1182 TCN xuất hiện Polico (đơn mua) chỉ hợp đồng
bảo hiểm hàng hóa…Xong phải đến thế kỷ XIX thì bảo hiểm mới phát triển toàn diện,
mạnh mẽ kéo theo sự ra đời, tồn tại và phát triển của tất cả các loại hình bảo hiểm như
bảo hiểm thương mại, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Những tài liệu khảo cứu về lịch sử nền văn minh thế giới đã ghi nhận những dấu
ấn phôi thai của hoạt động cộng đồng hóa rủi ro – nguyên tắc căn bản của bảo hiểm
thời nay. Các nhà khảo cổ học đã tìm được các vết tích chứng minh ở Ai Cập cổ đại
từ 4500 năm trước Công nguyên những người thợ đẽo đá đã hình thành Quỹ tương
trợ để giúp đỡ các nạn nhân trong các vụ tai nạn. Những người Trung Hoa cổ đại vào
thời nhà Chu 500 năm trước Công nguyên đã biết bảo nhau khi được mùa, thiên tai,
đói kém. Hoặc những nhà buôn chủ yếu đi bằng thuyền trên biển, song đi biển thường
gặp nhiều rủi ro. Để phòng vệ, họ đã san bớt hàng hóa của mình sang những thuyền
buôn khác nhau, khi gặp sự cố họ chỉ bị mất một phần hàng hóa7. Ở Babylone, vào
khoảng 1700 năm trước Công nguyên và ở Athens (Hy Lạp) khoảng 500 năm trước
Công nguyên đã xuất hiện quan hệ tín dụng với lãi xuất cao trong lĩnh vực buôn bán,
vận chuyển hàng hóa trên biển và qua sa mạc. Điều đặc biệt trong quan hệ tín dụng
này là nếu hàng hóa bị tổn thất thì người cho vay phải chịu rủi ro mất vốn và lãi. Tại
Rome, hệ thống cho vay với điều kiện tương tự cũng đã ra đời, lãi xuất có thể lên đến
50%. Thực chất đó đã là một sự kết hợp giữa hoạt động tín dụng với ý đồ bảo hiểm.
Hoạt động này tại Rome kéo dài đến tận thời kỳ Trung Cổ - thời kỳ thống trị của Nhà
thờ Thiên chúa giáo8.

Cần phải tìm một phương thức mới giúp những người cho vay lấy lại được số
vốn của mình đã bỏ ra và người đi vay không phải chịu lãi suất cắt cổ. Phương thức
đó đã ra đời, đó là Bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải, bản hợp đồng bảo hiểm cổ xưa
nhất mà người ta tìm thấy tại Genes vào năm 1347 trước Công nguyên, bản hợp đồng
sẽ bị hủy ngay khi tàu cập bến. Cũng tại Genes (nước Italy ngày nay) công ty bảo
hiểm hàng hải đầu tiên đã ra đời. Từ thế kỷ XIII, các văn bản luật liên quan đến buôn
7
8

Võ Thị Pha, Giáo trình lý thuyết bảo hiểm, Nxb Tài chính, năm 2005, trang 37.
Võ Thị Pha, Giáo trình lý thuyết bảo hiểm, Nxb Tài chính, năm 2005, trang 38.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

12

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
bán đường biển và hàng hải liên tục ra đời, đó là các quy phạm của Orleron năm 1266,
luật Wisby của Thụy Điển năm 1288, các chiếu chỉ Barcelon 1435; các quy định của
phòng bảo hiểm Bruges năm 1310. Như vậy trong lịch sử hình thành và phát triển của
bảo hiểm, bảo hiểm hàng hải là loại hình bảo hiểm thương mại ra đời đầu tiên. Tiếp
đó một số loại hình bảo hiểm thương mại khác đã nhanh chóng ra đời và phát triển.
Hợp đồng bảo hiểm đầu tiên ký vào năm 1583 tại nước Anh, sau vụ hỏa hoạn ngày
2/9/1866, các công ty bảo hiển hỏa hoạn đầu tiên ra đời tại London. Năm 1846, công
ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp đầu tiên ra đời tại CHLB Đức. Trong suốt thế kỷ XIX,
các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại mà ngày nay đang phát triển cũng đã ra đời như:
Bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm trộm cắp, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm

kỹ thuật. Thế kỷ XX, ngành bảo hiểm thương mại có bước phát triển vượt bậc và đã
đóng góp đáng kể vào sự phát triển và tăng trưởng của nềm kinh tế9.
Thứ hai, tại Việt Nam. Bảo hiểm Việt Nam ra đời khá muộn so với sự phát triển
chung của ngành bảo hiểm trên thế giới do điều kiện chủ quan cũng như khách quan.
Tuy nhiên, ngành bảo hiểm đang dần dần bắt kịp xu thế phát triển chung của bảo hiểm
trong khu vực và quốc tế qua đó ngày càng chứng tỏ vai trò không thể thiếu được của
mình đối với nền kinh tế.
Trước năm 1986, hoạt động bảo hiểm ở nước ta ít nhiều cũng có những bước
phát triển ngay từ thời thực dân Pháp. Điển hình như: vào năm 1880 các Hội bảo hiểm
ngoại quốc như hội bảo hiểm Anh, Pháp, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ bắt đầu hoạt động ở Đông
Dương; năm 1926 chi nhánh công ty Franco – Asietique được thành lập, tiếp đó vào
năm 1929 Việt Nam bảo hiểm công ty (trụ sở Sài Gòn): Bảo hiểm xe ô tô chính thức
hoạt động. Cho tới khi miềm bắc được giải phóng, đất nước bị chia cắt, hoạt động
kinh doanh bảo hiểm ở miền Nam khá phát triển dưới chế độ Ngụy quyền.
Ở miền Nam trước năm 1975 có hơn 52 công ty bảo hiểm (trong và ngoài nước)
đã triển khai các loại hình nghiệp vụ khá đa dạng như bảo hiểm hỏa hoạn, bảo hiểm
chuyên chở, bảo hiểm xe tự động, bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn lao
động…Các công ty hoạt động khá mạnh mẽ, đáp ứng được phần nào nhu cầu về bảo
hiểm trên toàn thị trường miền Nam. Các công ty bảo hiểm trong nước được thành lập
dưới dạng Hội vô danh và Hội tương hổ. Các công ty nước ngoài thành lập ở Việt
Nam dưới hình thức công ty chi nhánh. Hầu hết các công ty đều đặt trụ sở chính ở Sài
Gòn. Mạng lưới trung gian bảo hiểm là môi giới và đại lý bảo hiểm được sử dụng phổ
biến để kinh doanh bảo hiểm trên phạm vi toàn miền Nam. Để đảm bảo cho hoạt động
kinh doanh được trôi chảy, cạnh tranh lành mạnh, các công ty bảo hiểm đã sớm thành
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm Việt Nam, truy cập ngày 1/8/2013.
9

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

13


SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
lập hiệp hội nghề nghiệp bảo hiểm của mình. Hiệp hội có chức năng thông tin tư vấn,
đào tạo, tạo ra một môi trường hợp tác. Việc quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo
hiểm được thực hiện thông qua Bộ Tài Chính. Các văn bản pháp luật điều chỉnh như
Luật bảo hiểm cũng sớm ra đời. Ngoài ra, Hội đồng tư vấn bảo hiểm quốc gia cũng
đóng vai trò khá quan trọng10.
Ở miền Bắc trước năm 1975 hoạt động bảo hiểm chỉ thực sự bắt đầu khi có sự
ra đời của Bảo Việt. Để đáp ứng nhu cầu về bảo hiểm trong hoạt động ngoại thương,
ngày 17/12/1964 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập công ty Bảo hiểm
Việt Nam gọi tắt là Bảo Việt. Đến ngày 15/01/1965, Bảo Việt chính thức đi vào hoạt
động. Đây cũng là công ty bảo hiểm Nhà nước duy nhất đại diện cho ngành bảo hiểm
Việt Nam. Từ ngày thành lập cho đến trước năm 1975, do những điều kiện khó khăn
của chiến tranh, hoạt động của Bảo Việt ở miền Bắc chưa phát triển. Lúc bấy giờ, Bảo
Việt chỉ có trụ sở ở Hà Nội và chi nhánh ở Hải Phòng thực hiện chủ yếu ba nghiệp
vụ: bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm thân tàu và tái bảo hiểm. Tỉ lệ tái
bảo hiểm cho Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Ba Lan lúc đó cũng tương đối cao11.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cũng như tất cả các ngành kinh tế khác,
các công ty bảo hiểm cũ của miền Nam được tiến hành quốc hữu hóa. Công ty Bảo
hiểm và Tái bảo hiểm Việt Nam được thành lập để thực hiện tiếp trách nhiệm của
công ty cũ đối với những người được bảo hiểm muốn tiếp tục hợp đồng. Đối với các
công ty bảo hiểm nước ngoài, công ty có trách nhiệm thanh toán và đòi nợ theo đúng
hợp đồng. Năm 1976, khi hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, công ty
được chuyển thành chi nhánh của công ty bảo hiểm Việt Nam tại thành phố Hồ Chí
Minh. Thời kỳ này, Bảo Việt là công ty duy nhất hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại
Việt Nam theo chế độ hoạch toán kế toán kinh tế thống nhất toàn ngành. Công ty trực
thuộc Bộ Tài chính, có chức năng giúp Bộ Tài chính thống nhất quản lý công tác bảo

hiểm Nhà nước và trực tiếp tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm trong cả nước. Trong giai
đoạn này ở Việt Nam, Bảo Việt độc quyền kinh doanh Bảo Hiểm nên các sản phẩm
của Bảo Việt chưa đa dạng, chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ
với khoảng 20 sản phẩm bảo hiểm.
Vào ngày 18/12/1993, Nghị định 100/NĐ-CP về hoạt động kinh doanh bảo hiểm
được ban hành đã đánh dấu bước phát triển mới cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Sau
năm 1995 là sự ra đời của các công ty bảo hiểm khác như: Bảo Minh, PVI (Particle

Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm Việt Nam, truy cập ngày 1/8/2013.
11
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm Việt Nam, truy cập ngày 1/8/2013.
10

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

14

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
Image Velocimetry), PJICO (Petrolimex Joint Stock Insurance Company), và một số
công ty liên doanh như: UIC (Uniersity of IIIinois at Chicago)12.
1.1.2. Khái quát chung về bảo hiểm tài sản
1.1.2.1. Khái niện tài sản
Khi nói đến tài sản, chúng ta sẽ nghĩ ngay: Tài sản là những gì hiện có, những
vật có giá trị như tiền, những thứ có thể lưu trữ và quy đổi ra được bằng tiền. Những
tài sản đó chứng tỏ người sở hữu có khả năng về tài chính hay không, khả năng đó
đến mức độ nào, nhiều hay ít. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì tài sản bao
gồm vật, tiền, các loại giấy tờ có giá và các quyền tài sản13. Giấy tờ có giá là bằng

chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở
hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện
khác14, bao gồm các loại giấy tờ sau: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công
cụ chuyển nhượng khác15; Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ
phiếu16; Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và các công cụ khác làm phát sinh
nghĩa vụ trả nợ17; Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền
mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai,
nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng
khoán khác do Bộ Tài chính quy định)18; trái phiếu doanh nghiệp19.
1.1.2.2. Khái niệm bảo hiểm tài sản
Theo quy định tại Khoản 18 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi
bổ sung năm 2010 thì: “Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản,
trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ”.
Theo khái niệm trên thì bảo hiểm tài sản (BHTS) là một loại hình của bảo hiểm
thương mại. Bên bảo hiểm sẽ thu phí bảo hiểm của bên mua bảo hiểm theo một tỷ lệ
phần trăm nhất định trên giá trị của tài sản và cam kết bồi thường cho bên được bảo
hiểm khi tài sản được bảo hiểm bị những rủi ro trong phạm vi bảo hiểm dẫn đến tổn
thất20. BHTS là một loại hình bảo hiểm phổ biến và xuất hiện sớm nhất so với các loại
hình bảo hiểm khác như bảo hiểm y tế, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm trách nhiệm dân

Võ Thị Pha, Giáo trình lý thuyết bảo hiểm, Nxb Tài chính, năm 2005, trang 40.
Điều 163 Bộ Luật dân sự năm 2005.
14
Điểm 8 Khoản 2 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
15
Điều 1 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005.
16
Điểm c Khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005.
17
Điểm 16 Điều 3 Luật Quản lý nợ công năm 2009.

18
Khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán.
19
Điều 2 Nghị định số 52/2006 NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
20
Nguyễn Thị Thủy, Pháp luật bảo hiểm tài sản tại Việt Nam, Nxb Thanh niên, trang 18.
12
13

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

15

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
sự, vv…Sở dĩ con người cần tới nghiệp vụ BHTS là vì không phải lúc nào có tài sản
con người cũng đem cất giữ, đem gửi ngân hàng hoặc quy đổi ra thành những thứ có
giá trị như vàng để bỏ vào két sắt. Những tài sản chưa sử dụng ngay thì họ mới có thể
áp dụng những cách thức trên để bảo quản tài sản. Còn đại đa số các tài sản mà con
người mua sắm đều để phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu hằng ngày hoặc cho hoạt
động sản xuất kinh doanh. Do đó, để có thể khai thác, sử dụng tài sản cho sản xuất
kinh doanh và đảm bảo an toàn tài chính khi những tài sản này thiệt hại, mất mát do
rủi ro, con người đã mua bảo hiểm cho tài sản đó. Theo đó BHTS là loại bảo hiểm lấy
tài sản làm đối tượng bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro, tổn thất về tài sản như mất mát, hủy
hoại vật chất, bên bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho bên được bảo hiểm căn cứ
vào giá trị thiệt hại thực tế và mức độ đảm bảo thuận tiện hợp đồng, giúp cho người
được bảo hiểm tránh hoặc giảm các thiệt hại về vật chất khi rủi ro xảy ra. Ta cũng có
thể hiểu, hợp đồng bảo hiểm tài sản là sự thỏa thuận của các bên về tài sản được bảo

hiểm và phải xác định được giá trị thực tế của tài sản. Tất nhiên, bên mua bảo hiểm
phải đóng phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho bên mua bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Các điều kiện về phát sinh hiệu lực, bồi thường
(hình thức bồi thường có thể là sửa chữa tài sản bị hiệt hại; thay thế bằng tài sản khác;
trả tiền bồi thường), chấm dứt hợp đồng bảo hiểm phải tuân theo các quy định của
pháp luật hiện hành.
1.1.2.3. Đặc điểm của bảo hiểm tài sản
Là một loại hình bảo hiểm thương mại nên bảo hiểm tài sản cũng có những đặc
điểm của bảo hiểm thương mại như:
Là một trung gian tài chính. Thông qua việc bên tham gia bảo hiểm đóng phí
bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm đã huy động được một nguồn vốn lớn góp phần
phát triển quỹ tài chính. Số tiền nhàn rỗi này được DNBH đem đi đầu tư, tài trợ các
dự án, giải ngân cho các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất
kinh doanh, phát triển kinh tế.
Là một ngành dịch vụ đặc biệt. Với sản phẩm vô hình, bản chất của bảo hiểm là
một dịch vụ, một lời hứa, một lời cam kết mà công ty bảo hiểm đưa ra với khách hàng.
Nhưng khách hàng lại chính là người không muốn sử dụng dịch vụ này, vì bảo hiểm
là sự đề phòng các rủi ro, tổn thất, mất mát mà con người không mong muốn. Nên họ
không thích sử dụng dịch vụ này.
Là hoạt động vừa mang tính tích cực, vừa mang tính rủi ro. Khách hàng chỉ
tham gia bảo hiểm khi có cảm giác không an toàn về tài sản của mình, hoặc những tài
sản đó có giá trị cao, do đó tài sản rất có khả năng bị thiệt hại vậy nên họ mới tham

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

16

SVTH: Nguyễn Thị Lan



Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
gia bảo hiểm. Những cá nhân tham gia bảo hiểm tức là họ biết cách tiết kiệm có kế
hoạch, hợp lý và hiệu quả. Vì khi tài sản gặp rủi ro thì DNBH sẽ đền bù cho họ, ngược
lại nếu tài sản còn nguyên vẹn thì khi hết hợp đồng DNBH sẽ hoàn số tiền bảo hiểm
mà người tham gia bảo hiểm đã đóng. Ngoài ra họ còn bảo vệ cho tài sản của mình
khi xảy ra rủi ro.
Là sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm. Vì bảo hiểm là dựa
trên quy luật số đông bù số ít, là sự phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho
tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Sự chia sẻ này thông qua DNBH,
nhờ có DNBH mà những tài sản gặp rủi ro sẽ được bù đắp.
1.1.2.4. Bản chất của bảo hiểm tài sản
Qua phân tích trên, phần nào đã thấy sự cần thiết của BHTS đối với cuộc sống
của con người. Bản chất của BHTS thể hiện ở một số đặc trưng đáng lưu ý sau:
Thứ nhất, bảo hiểm tài sản được hình thành từ nhu cầu bảo vệ quyền lợi tài chính
của chủ sở hữu tài sản hay người đang chiếm hữu và sử dụng hợp pháp tài sản đó. Nói
đến BHTS là nói đến sự bảo vệ đối với tài sản của người được bảo hiểm với những
tổn thất có thể xảy ra do những rủi ro thiên nhiên, kỹ thuật, xã hội thông qua việc giúp
khôi phục hoặc góp phần khôi phục lại tình trạng tài chính mà người được bảo hiểm
có trước khi rủi ro xảy ra.
Thứ hai, sự chia sẻ mang tính cộng đồng trong bảo hiểm tài sản. Yếu tố chia sẻ
mang tính cộng đồng là một trong những đặc trưng của bảo hiểm nói chung, BHTS
nói riêng. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là quá trình phân phối nguồn tài chính giữa
những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi rủi ro
bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với người được bảo hiểm. Tuy nhiên, sự phân phối
trong BHTS là sự phân phối không đồng đều bởi vì không phải ai tham gia bảo hiểm
cũng nhận được sự phân phối này mà phụ thuộc vào yếu tố rủi ro. Chỉ những người
bị rủi ro về tài sản trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì mới được bồi thường.
Khoản tiền bồi thường này được lấy từ quỹ bảo hiểm của tất cả người tham gia bảo
hiểm, đó là hình thức lấy số đông bù cho thiệt hại của số ít, tính cộng đồng cũng từ đó
mà ra. Vì vậy, mọi hành vi gian dối để hưởng lợi trong trường hợp không có tổn thất

hoặc tổn thất trên thực tế ít hơn đã khai báo với doanh nghiệp bảo hiểm của bên được
bảo hiểm là hành vi vi phạm pháp luật, cần phải có những biện pháp tích cực để ngăn
chặn những ý đồ xấu của các bên trong quan hệ bảo hiểm tài sản.
Thứ ba, bảo hiểm tài sản là cam kết chi trả tài chính từ bên bảo hiểm cho bên
được bảo hiểm. Sở dĩ bên bảo hiểm cam kết sẽ chi trả cho bên được bảo hiểm là vì
bên bảo hiểm đã thu phí bảo hiểm của bên được bảo hiểm, ở đây mang tích chất có
GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

17

SVTH: Nguyễn Thị Lan


Trục lợi trong bảo hiểm tài sản ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện
qua có lại, tức nếu DNBH đã hưởng một lợi ích của bên mua bảo hiểm thì sẽ có nghĩa
vụ thực hiện yêu cầu của bên mua bảo hiểm. Để thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên
được bảo hiểm thì DNBH phải đảm bảo khả năng tài chính ổn định và sẵn sàng khi
có rủi ro xảy ra đối với tài sản được bảo hiểm.
Trên đây là một vài vấn đề phân tích để làm rõ hơn bản chất của BHTS, vậy
pháp luật về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam quy định như thế nào về những loại
tài sản là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản. Người viết sẽ nghiên cứu trong
phần tiếp theo về các loại tài sản thường được mua bảo hiểm.
1.1.2.5. Các loại tài sản được bảo hiểm
Theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm Việt Nam thì không thấy
quy định đề cập đến những loại tài sản nào là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài
sản và những tài sản nào không được bảo hiểm. Vì cuộc sống con người rất đa dạng
và phong phú, khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển. Ngày càng có nhiều thứ giá
trị xuất hiện trên thị trường nên pháp luật không thể liệt kê một cách chi tiết tên các
loại tài sản được bảo hiểm. Quy định mở như thế để các bên tự do trong việc giao kết
hợp đồng bảo hiểm tài sản và làm cho đối tượng của BHTS ngày càng phong phú hơn.

Thông thường các hợp đồng bảo hiểm tài sản có các đối tượng sau đây là chủ yếu21:
 Bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu; bảo hiểm hàng hóa vận chuyển trong
nước.
 Bảo hiểm thân tàu biển; bảo hiểm thân tàu, thuyền khác.
 Bảo hiểm thân máy bay và bảo hiểm tổn thất hệ quả.
 Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới.
 Bảo hiểm công trình xây dựng, lắp đặt
 Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt.
 Bảo hiểm máy móc thiết bị; bảo hiểm máy móc thiết bị điện tử.
 Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
 Bảo hiểm vật nuôi, cây trồng.
 Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
 Bảo hiểm tiền, bảo hiểm trộm cắp.
 Bảo hiểm công trình ngoài khơi, giàn khoan, đường ống…trong thăm dò và
khai thác dầu khí.
Trên đây là một số loại hình BHTS thông dụng được nhiều người biết đến và
tham gia bảo hiểm khi cần.
21

Võ Thị Pha, Giáo trình lý thuyết bảo hiểm, Nxb Tài chính, năm 2005, trang 24.

GVHD: Đoàn Nguyễn Minh Thuận

18

SVTH: Nguyễn Thị Lan


×