1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN CỬU LAN PHƢƠNG
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM -
THỰC TRẠNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN CỬU LAN PHƢƠNG
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM -
THỰC TRẠNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Thu Thủy
HÀ NỘI - 2012
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM
TIỀN GỬI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC BẢO
HIỂM TIỀN GỬI
7
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, bản chất, mục đích và vai trò của bảo
hiểm tiền gửi
7
1.1.1.
Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
7
1.1.1.1.
Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
7
1.1.1.2.
Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
13
1.1.2.
Bản chất, mục đích, vai trò của bảo hiểm tiền gửi
19
1.1.2.1.
Bản chất của bảo hiểm tiền gửi
19
1.1.2.2.
Mục đích của bảo hiểm tiền gửi
20
1.1.2.3.
Vai trò của bảo hiểm tiền gửi
21
1.2.
Mô hình bảo hiểm tiền gửi
29
1.2.1.
Về phương diện cơ chế bảo hiểm tiền gửi
29
1.2.2.
Về phương diện chức năng hoạt động
31
1.2.3.
Về phương thức quản lý hệ thống bảo hiểm tiền gửi
32
1.3.
Vị trí pháp lý, chức năng của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
35
1.3.1.
Vị trí pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
35
1.3.2.
Chức năng của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
38
1.4.
Khái quát về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
40
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
43
4
2.1.
Hoạt động cấp và thu hồi chứng nhận bảo hiểm tiền gửi
44
2.2.
Hoạt động thu phí bảo hiểm tiền gửi
46
2.3.
Hoạt động kiểm tra, giám sát các tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi
52
2.4.
Hoạt động hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả
60
2.5.
Hoạt động chi trả bảo hiểm tiền gửi
64
2.6.
Hoạt động tiếp nhận, xử lý tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi mất khả năng thanh toán
73
2.7.
Một số hoạt động khác của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
79
2.7.1.
Quản lý và sử dụng nguồn vốn
79
2.7.2.
Hoạt động thông tin truyền thông
82
2.7.3.
Hoạt động hợp tác quốc tế
83
2.8.
Mối quan hệ giữa Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với một số
cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến hoạt động bảo
hiểm tiền gửi
84
2.8.1.
Mố i quan hệ giữ a bảo hiểm tiề n gửi Việ t Nam vớ i Ngân
hàng Nhà nước
84
2.8.2.
Mố i quan hệ giữ a Bảo hiểm tiền gửi Việ t Nam vớ i Bộ Tà i chí nh
86
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM
TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
89
3.1.
Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Bảo hiểm tiền gửi
89
3.2.
Nâng cao địa vị pháp lý của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
92
3.3.
Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật về hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
96
KẾT LUẬN
107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
109
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mặc dù nền kinh tế thế giới và khu vực đang trên đà phục hồi và phát
triển sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu bắt nguồn từ năm
2007, nhưng thực tế cho thấy các quốc gia vẫn đang phải đối mặt với những
yếu tố bất trắc tiềm ẩn có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế của mình, đặc biệt là
trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Đây là lĩnh vực luôn chứa đựng nhiều rủi
ro như: rủi ro về lãi suất, rủi ro khi tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán,
rủi ro về tỷ giá hối đoái… Do đó, việc đổ vỡ hay phá sản của các ngân hàng
hoạt động kém hiệu quả là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, để xử lý những
hậu quả do sự đổ vỡ hay phá sản này gây ra lại không hề đơn giản, thậm chí
có thể ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Để đối
phó với vấn đề này, nhiều quốc gia đã đưa ra các cơ chế phòng ngừa hoặc
hành động can thiệp nhằm giúp cho hệ thống ngân hàng trở lại hoạt động ổn
định và phát triển lành mạnh, trong đó cơ chế hữu hiệu được nhiều quốc gia
áp dụng phổ biến hiện nay là cơ chế bảo hiểm tiền gửi.
Chúng ta đều biết rằng, hoạt động chủ yếu và mang tính đặc thù của
các ngân hàng là huy động vốn từ người gửi tiền bằng những hình thức nhất
định và sau đó, ngân hàng sẽ sử dụng nguồn vốn huy động đó để "cho vay lại"
đối với những đối tượng có nhu cầu sử dụng vốn nên nếu có bất kỳ một rủi ro
nào xảy ra trong hoạt động của ngân hàng thì người gửi tiền sẽ là đối tượng bị
ảnh hưởng lớn nhất và trực tiếp nhất. Do đó, một cơ chế bảo hiểm tiền gửi
hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và bảo vệ sự an toàn cho
hoạt động của hệ thống ngân hàng trong các trường hợp rủi ro là vấn đề đã và
đang được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam, pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, trong đó có quy định về
những hoạt động mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi được phép thực hiện, ngày
6
càng được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Văn bản pháp luật
đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam là
Quyết định số 101/TCQĐ-BH của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành
Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của Quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản
tiền gửi có kỳ hạn. Tiếp theo đó là nhiều văn bản pháp luật quy định về tổ
chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam lần lượt được các cơ quan
có thẩm quyền ban hành như: Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999
của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày
09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam, Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 của Chính phủ về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP, Thông tư số
03/2000/TT-NHNN5 ngày 16/3/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam hướng dẫn thi hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999
của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày
28/6/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Điều lệ về tổ chức và
hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Thông tư số 03/2006/TT-NHNN
ngày 25/4/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số nội
dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo
hiểm tiền gửi và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP
Tuy nhiên, những văn bản pháp luật quy định về vấn đề bảo hiểm tiền
gửi nói chung, cũng như quy định về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
nói riêng được ban hành trong thời gian qua mới chỉ là những văn bản dưới
luật nên hiệu lực pháp lý chưa cao và cũng chưa đầy đủ, đồng bộ nên đã thể
hiện một số bất cập trên thực tế. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện một khung pháp lý ổn định để giúp cho tổ chức bảo hiểm
tiền gửi ở Việt Nam hoạt động hiệu quả, thực hiện tốt chức năng và vai trò
của mình trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển cho thị trường tài chính -
tiền tệ quốc gia nói chung, đồng thời cũng chính là bảo vệ quyền lợi cho
7
những người gửi tiền - đối tượng cung cấp nguồn vốn chủ yếu cho thị trường.
Vì vậy, tháng 6/2012 vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo hiểm tiền gửi,
Luật này sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2013. Tuy nhiên, những quy
định của Luật còn chung chung, nhiều vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ, do đó, việc tìm
hiểu và đi sâu nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm tiền gửi nói chung cũng như
hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam nói riêng là việc làm cần
thiết, nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài "Pháp luật về hoạt động của tổ
chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện" làm
đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến bảo hiểm tiền gửi và pháp luật về bảo hiểm tiền gửi đã
có một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học và nhiều bài báo như: sách
chuyên khảo "Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam" của TS. Lê Thị Thu
Thủy, Luận văn thạc sĩ Luật học "Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi
của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" của tác giả Bùi Hữu Toàn, Luận văn
thạc sĩ Luật học "Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam" của tác giả
Nguyễn Thị Vân Hoài, bài báo nghiên cứu "Mô hình bảo hiểm tiền gửi hiện
nay và những vấn đề cần quan tâm khi xây dựng luật bảo hiểm tiền gửi" của
TS. Đinh Dũng Sỹ in trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp… Tuy nhiên , các
công trình trên đây chủ yế u nghiên cứu những vấn đề cơ bản , chung nhất về
bảo hiểm tiền gửi và pháp luật về bảo hiểm tiền gửi mà chưa đi sâu nghiên
cứu về cá c hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam . Do vậ y, tôi
nhậ n thấ y rằ ng cầ n thiế t phả i nghiên cứ u về cá c quy đị nh củ a phá p luậ t hiệ n
hành về các hoạt động chính của tổ chức bảo hiểm tiền gử i Việ t Nam , đá nh
giá thực trạng áp dụng và phân tích một c ách toà n diệ n , có hệ thống những
quy đị nh đó để đưa ra nhữ ng kiế n nghị gó p phầ n hoà n thiệ n phá p luậ t về hoạ t
độ ng củ a tổ chứ c bả o hiể m tiề n gử i ở Việ t Nam trong thờ i gian tớ i , từ đó gó p
8
phầ n nâng cao vị thế cũ ng như hiệ u quả hoạ t độ ng củ a tổ chứ c nà y đố i vớ i hệ
thố ng ngân hà ng nó i riêng và đố i vớ i nề n kinh tế nó i chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống một số vấn
đề lý luận cơ bản về bảo hiểm tiền gửi và đi sâu nghiên cứu về hoạt động của
tổ chức bảo hiểm tiền gửi, đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật
quy định về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam để trên cơ sở
đó đưa ra một số phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động của tổ
chức này sao cho phù hợp với điều kiện phát triển và yêu cầu thực tiễn về hội
nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta.
Để đạt được mục đích trên, luận văn hướng tới việc giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm tiền gửi như
quá trình hình thành , phát triển của bảo hiểm tiền gửi ; khái niệm, đặc điểm,
mục đích, vai trò của bảo hiểm tiền gửi… để từ đó có cơ sở nghiên cứu sâu
hơn về những hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật quy định về hoạt động của tổ chức
bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam hiện nay đồng thời có tham khảo, so sánh với
những quy định tương ứng của pháp luật một số nước trên thế giới về bảo
hiểm tiền gửi để thấy được một số hạn chế, bất cập trong các quy định này, từ
đó có cơ sở kiến nghị những phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động
của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Kiến nghị một số phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động
của tổ chức bảo hiểm tiền gửi sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của nền
kinh tế - xã hội Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định củ a phá p luậ t hiệ n
hành về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam . Trên cơ sở đó
9
nêu ra mộ t số bấ t cậ p và hướ ng hoà n thiệ n phá p luậ t về hoạ t độ ng củ a tổ chứ c
bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong thời gian tớ i.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung phân tích khía cạnh pháp lý ,
cơ sở lý luậ n và nộ i dung cá c quy đị nh hiệ n hà nh củ a phá p luậ t Việ t Nam về
hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi , đồ ng thờ i có tham khả o thêm m ột số
quy đị nh có liên quan củ a phá p luậ t mộ t số nướ c về lĩnh vự c bả o hiể m tiề n
gử i để từ đó thấ y đượ c một số hạn chế , bất cập trong các quy định của pháp
luậ t Việ t Nam và đưa ra kiến nghị nhằ m hoàn thiện pháp luật về hoạt động
của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở phương pháp luận
là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện luận văn, tôi cũng sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp thống kê, phương pháp
so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ những nội dung đã
đưa ra trong đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Sau khi hoà n thà nh luậ n văn nà y, tôi mong muố n gó p p hầ n là m rõ hơn
mộ t số nội dung cơ bản về bảo hiểm tiền gửi, làm rõ một số hạn chế, bấ t cậ p
trong cá c quy đị nh hiệ n hà nh củ a phá p luậ t Việ t Nam về hoạ t độ ng củ a tổ
chứ c bả o hiể m tiề n gử i để từ đó đưa ra nhữ ng kiế n nghị nhằ m gó p phầ n hoà n
thiệ n phá p luậ t về hoạ t độ ng củ a tổ chứ c bả o hiể m tiề n gử i ở Việ t Nam trong
thờ i gian tớ i, cụ thể:
- Làm rõ bản chất của bảo hiểm tiền gửi và mô hình bảo hiểm tiền gửi.
- Phân tích đặc điểm, vị trí pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
- Nêu những đặc điểm pháp lý cơ bản trong hoạt động của tổ chức bảo
hiểm tiền gửi.
10
- Đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động của tổ chức bảo hiểm
tiền gửi, nêu ra một số hạn chế, bất cập trong các quy định này và kiến nghị
phương hướng hoàn thiện pháp luật quy định về hoạt động của tổ chức bảo
hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Mộ t số vấ n đề lý luậ n cơ bả n về bả o hiể m tiề n gử i và hoạ t
độ ng củ a tổ chứ c bả o hiể m tiề n gử i .
Chương 2: Thự c trạ ng phá p luậ t về hoạ t độ ng củ a tổ chứ c bả o hiể m
tiề n gử i ở Việ t Nam.
Chương 3: Mộ t số kiế n nghị nhằ m hoà n thiệ n phá p luậ t về hoạ t độ ng
của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam .
11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Hoạt động tài chính - ngân hà ng luôn gắ n vớ i sự nhạ y c ảm và tiềm ẩn
nhiề u rủ i ro . Việc hoạt động kém hiệu quả hoặc sự sụp đổ của một ngân hàng
không chỉ bó gọn trong ngân hàng riêng lẻ đó mà nó còn có thể tạo ra một
phản ứng dây chuyền dẫn tới sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hà ng , điều này
sẽ có tác độ ng rất tiêu cực đến toàn bộ nề n kinh tế củ a quố c gia , vì vậy các
quố c gia cầ n phả i có mộ t cơ chế hữu hiệu nhằ m củ ng cố , đả m bả o cho sự phát
triển an toà n củ a hệ thố ng ngân hà ng và bả o vệ quyề n lợ i củ a ngườ i gử i tiề n -
đối tượng cung cấp nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động của hệ thống ngân
hàng, đó chính là cơ chế bảo hiểm tiền gửi.
Hiện nay, thuật ngữ "bảo hiểm tiền gửi" đã không còn xa lạ đối với
chúng ta, nhưng để hiểu một cách cụ thể về cơ chế đó thì có lẽ không phải ai
cũng làm được. Chính vì vậy, để có cơ sở đi sâu phân tích, nghiên cứu các
quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở những phần tiếp theo thì trước
tiên chúng ta cần tìm hiểu một số vấn đề lý luận cơ bản nhất về bảo hiểm
tiền gửi.
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, BẢN CHẤT, MỤC ĐÍCH VÀ VAI TRÒ
CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
* Khái niệm tiền gửi:
Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển về hoạt động của các tổ
chức tín dụng có thể thấy rằng, một trong những hoạt động cơ bản của các tổ
12
chức tín dụng là hoạt động huy động vốn từ công chúng bằng nhiều hình thức
khác nhau như nhận tiền gửi dưới dạng tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm; phát hành kỳ phiếu; phát hành chứng chỉ tiền gửi…
Nguồn vốn huy động này sẽ được các tổ chức tín dụng cho các chủ thể khác
trong nền kinh tế vay nhằm mục đích sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt và đời
sống. Như vậy, các tổ chức tín dụng đã trở thành trung gian tài chính giữa
người gửi tiền - người cho vay và người đi vay. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp
lý thì người cho vay và người đi vay không có mối liên hệ pháp lý nào, họ chỉ
biết đến hợp đồng được ký kết giữa mình với tổ chức tín dụng và tổ chức tín
dụng là chủ thể trung chuyển nguồn vốn giữa người thừa vốn và người thiếu
vốn. Điều này có nghĩa là tổ chức tín dụng có toàn quyền sử dụng đồng vốn
mà họ huy động được, chủ động quyết định việc cho chủ thể nào vay và phải
chịu trách nhiệm thanh toán tiền gửi cho người gửi tiền khi đáo hạn hoặc khi
người gửi tiền có nhu cầu.
Như vậy, có thể thấy rằng thuật ngữ "tiền gửi" đã được sử dụng từ rất
lâu và gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của hoạt động ngân hàng.
Ở giai đoạn bắt đầu xuất hiện hoạt động ngân hàng thì thuật ngữ tiền gửi chỉ
được hiểu một cách đơn giản là các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng nhưng
họ không muốn hoặc không biết đầu tư vào đâu nên đem gửi vào ngân hàng
với mục đích tiết kiệm và bảo đảm an toàn cho tài sản của mình. Sau này,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, hoạt động ngân hàng cũng
ngày càng phát triển và kéo theo đó là sự hình thành hàng loạt hoạt động
nghiệp vụ ngân hàng khác như cho vay, thanh toán… thì các khoản tiền gửi
của dân chúng tại ngân hàng không đơn thuần chỉ nhằm mục đích bảo quản
tài sản nữa mà đã được hưởng lãi.
Ngày nay, khi nhu cầu về vốn trong nền kinh tế là rất lớn thì yêu cầu
huy động vốn nhàn rỗi từ dân chúng của các ngân hàng cũng ngày càng tăng
và để khuyến khích việc gửi tiền vào ngân hàng thì các ngân hàng ngày càng
13
phải nâng cao chất lượng dịch vụ, đưa ra các mức lãi suất huy động phù
hợp… Do đó, thuật ngữ tiền gửi cũng được hiểu rộng hơn và được quy định
cụ thể trong các văn bản pháp luật về tài chính ngân hàng của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia cũng lại có quan niệm và sự phân loại tiền gửi
khác nhau.
Chẳng hạn, tại Điều 2 Đạo luật 372 - Luật về các tổ chức tài chính và
ngân hàng năm 1989 của Malaysia quy định:
Tiền gửi có nghĩa là một khoản tiền đã nhận hay được hoàn
trả theo các điều kiện: a) mà theo đó khoản tiền sẽ được hoàn trả,
có hoặc không có lãi hoặc có cộng thêm phí hoặc chiết khấu đi;
hoặc b) mà theo đó khoản tiền phải hoàn trả, toàn bộ hoặc một
phần, với bất kỳ tính toán nào về tiền tệ hoặc trị giá tiền tệ, và
khoản được hoàn trả như vậy không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn hoặc
trong những hoàn cảnh được thỏa thuận bởi hoặc thay mặt cho
người thực hiện thanh toán và người nhận thanh toán, bất kỳ là
giao dịch được coi như là một khoản cho vay, một khoản ứng trước,
một khoản đầu tư, khoản tiết kiệm, mua hoặc mua và bán, nhưng
không tính yếu tố xác thực của khoản tiền được trả [10].
Như vậy, theo định nghĩa này thì tiền gửi là khái niệm được hiểu rất
rộng, nó không đơn thuần chỉ là các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng gửi tại
ngân hàng để tiết kiệm hay nhằm hưởng lãi mà còn là các khoản tiền gửi
nhằm mục đích khác nhau như để đầu tư, đặt cọc hay ứng trước…
Hay tại Phần 3 Luật bảo hiểm tiền gửi của Mỹ cũng đưa ra khái niệm:
Tiền gửi có nghĩa là số dư tiền hoặc giá trị tương đương
chưa được thanh toán đã được nhận hoặc giữ bởi một ngân hàng
hoặc hiệp hội tiết kiệm trong hoạt động kinh doanh thông thường
và từ đó nó cấp hoặc có nghĩa vụ cấp tín dụng, dù là có điều kiện
hay không điều kiện, cho một tài khoản thương mại, séc, tiết kiệm,
14
không kỳ hạn hoặc được chứng minh bằng giấy chứng nhận tiền
gửi, chứng nhận tiết kiệm, chứng nhận đầu tư, chứng nhận nợ, hoặc
những tên tương tự, hoặc séc hay hối phiếu rút từ tài khoản tiền gửi
và được chứng nhận bởi ngân hàng hoặc hiệp hội tiết kiệm, hoặc
thư tín dụng hoặc séc du lịch mà ngân hàng hoặc hiệp hội tiết kiệm
có nghĩa vụ đầu tiên [4].
Tại Việt Nam, khái niệm tiền gửi cũng đã được quy định trong các
văn bản pháp luật. Theo quy định tại khoản 20, Điều 9 Luật Các tổ chức tín
dụng năm 1997 thì "Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín
dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và
phải được hoàn trả cho người gửi tiền" [35]. Theo định nghĩa này có thể biết
được những khoản tiền nào của khách hàng được coi là tiền gửi, nhưng những
khoản tiền đó phải được gửi tại các tổ chức tín dụng, còn những khoản tiền
gửi tại các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng thì không được coi là tiền
gửi. Đây chính là một điểm bất cập của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Chính vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng
năm 2004 đã có sự thay đổi lớn về phạm vi và chủ thể gửi tiền khi xác định:
"Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức
khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc
không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền" [37, khoản 3 Điều 1].
Tuy nhiên, hiện nay, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 lại không đưa ra
khái niệm tiền gửi nữa mà thay vào đó là khái niệm "nhận tiền gửi" với ý
nghĩa là một trong những nghiệp vụ của hoạt động ngân hàng, theo đó:
"Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền
gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn
trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận" [44, khoản 13 Điều 4].
15
Theo định nghĩa này, phạm vi và nguyên tắc hoàn trả tiền gửi đã được mở
rộng hơn so với các định nghĩa nêu trên và phù hợp hơn với điều kiện phát
triển kinh tế hiện nay, cụ thể là tiền gửi còn được ghi nhận dưới hình thức
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và tiền gửi được hoàn trả theo "nguyên
tắc thỏa thuận".
Qua phần dẫn chiếu ở trên có thể thấy rằng ở mỗi quốc gia lại có một
quan niệm khác nhau về tiền gửi, song có thể khái quát ngắn gọn khái niệm
về tiền gửi như sau: Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại các tổ chức tín
dụng hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới những hình thức
được pháp luật công nhận và được hoàn trả cho khách hàng trên nguyên tắc
thỏa thuận nhưng không trái với các quy định của pháp luật
Trên thực tế, các tổ chức được phép nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân
trong xã hội không phải là chủ thể "giữ hộ" tài sản của người gửi tiền mà họ
chính là những trung gian tài chính trong nền kinh tế, họ sử dụng khoản tiền
gửi của khách hàng để thực hiện các hoạt động đầu tư, cấp tín dụng cho các
đối tượng có nhu cầu sử dụng vốn trong xã hội… Điều này có nghĩa là các tổ
chức được phép nhận tiền gửi sẽ có trách nhiệm phải hoàn trả cho người gửi
tiền cả gốc và lãi số tiền họ đã gửi khi đáo hạn hoặc khi người gửi tiền có nhu
cầu (trong những trường hợp được thỏa thuận có thể rút tiền trước hạn) mà
không phụ thuộc vào việc các tổ chức này có thu được nợ từ việc cho các đối
tượng khác vay hay không? Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động ngân hàng
luôn chứa đựng sự rủi ro rất lớn và dân chúng sẽ có tâm lý e ngại việc gửi tiền
vào các tổ chức tín dụng bởi nếu xảy ra trường hợp các tổ chức này đổ vỡ thì
tiền gửi của họ cũng sẽ mất theo. Do đó, để huy động được nguồn vốn trong
dân cư, thúc đẩy kinh tế phát triển thì việc tạo dựng niềm tin đối với dân
chúng là hết sức quan trọng. Chính vì vậy, sự ra đời của tổ chức bảo hiểm tiền
gửi là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế nhằm tạo ra sự ổn định và phát
triển bền vững cho hoạt động của hệ thống tài chính - tiền tệ nói riêng cũng
như an ninh kinh tế - chính trị nói chung của toàn xã hội.
16
* Khái niệm bảo hiểm tiền gửi:
Bảo hiểm tiền gửi là thuật ngữ đã xuất hiện từ khá lâu nhưng cho đến
nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về nó. Hiện nay, pháp luật các
nước thường không đưa ra khái niệm về bảo hiểm tiền gửi nói chung mà chỉ
xác định mục tiêu, mô hình hoạt động, liệt kê các hoạt động của tổ chức bảo
hiểm tiền gửi. Theo tài liệu chuyên khảo Bảo hiểm tiền gửi và quản lý khủng
hoảng do Quỹ Tiền tệ Quốc tế phát hành năm 1996 của tác giả Carl Johan
Lindgren và Gilian Garcia thì bảo hiểm tiền gửi được hiểu là "một cơ chế có
giới hạn nhưng chính thức cung cấp sự bảo đảm mang tính pháp lý cho các
khoản gốc (và thường cả lãi) của các khoản tiền gửi" [11], hay theo tài liệu
về Cơ cấu của những hệ thống bảo hiểm tiền gửi ở Châu Á của tác giả Choi J.
B. phát hành năm 2000 thì "Bảo hiểm tiền gửi là chính sách bảo đảm tất cả
hoặc một phần tiền gửi cùng lãi nhập gốc trên tài khoản tiền gửi sẽ được
thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng nhận tiền gửi bị phá sản hay mất
khả năng thanh toán" [12], hay theo Luật bảo hiểm tiền gửi Canada năm 2010
thì bảo hiểm tiền gửi được hiểu ngắn gọn là "bảo hiểm cho những tổn thất
một phần hoặc toàn bộ tiền gửi" [5].
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam đã được hình thành và đi vào
hoạt động hơn 10 năm, chúng ta cũng đã có những văn bản pháp luật để điều
chỉnh hoạt động này và thực tế cho thấy Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thể
hiện được phần nào vai trò của mình trong việc bảo vệ người gửi tiền cũng
như tạo được sự ổn định cho hoạt động ngân hàng, nhưng trước khi Luật bảo
hiểm tiền gửi năm 2012 được ban hành thì trong tất cả những văn bản pháp
luật đó lại chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về bảo hiểm tiền gửi, trong khi
đó một định nghĩa cụ thể, rõ ràng về bảo hiểm tiền gửi là hết sức cần thiết đối
với công chúng gửi tiền bởi nó tạo sự ổn định trong việc thanh toán bảo hiểm
và tạo điều kiện cho việc xử lý các tranh chấp phát sinh liên quan đến tiền
gửi. Với sự ra đời của Luật bảo hiểm tiền gửi, Việt Nam đã có thêm một bước
tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động bảo hiểm
17
tiền gửi, trong đó đã đưa ra được khái niệm cơ bản là khái niệm "bảo hiểm
tiền gửi". Theo quy định của Luật thì bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn
trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo
hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng chi trả tiền
gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản.
Hay nói cách khác, bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức
bảo hiểm tiền gửi với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi về việc sẽ thanh
toán một khoản tiền (hạn mức chi trả bảo hiểm tùy theo quy định pháp luật
của mỗi nước) cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị
mất khả năng thanh toán và chấm dứt hoạt động. Cam kết công khai này được
thực hiện bằng hợp đồng bảo hiểm giữa ba chủ thể là tổ chức bảo hiểm tiền gửi,
tổ chức nhận tiền gửi (tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi) và người gửi tiền.
1.1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
- Bảo hiểm tiền gửi là loại hình bảo hiểm phi thương mại. Pháp luật về
bảo hiểm tiền gửi của đa số các nước trên thế giới đều có quy định tổ chức
bảo hiểm tiền gửi hoạt động không nhằm mục tiêu sinh lời mà thực hiện
những mục tiêu xã hội, vì lợi ích của cộng đồng. Điều này phân biệt bảo hiểm
tiền gửi với các loại hình bảo hiểm khác hoạt động theo luật kinh doanh bảo
hiểm như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tài sản…
- Bảo hiểm tiền gửi trên thực tế có thể được thực hiện một cách công
khai hoặc ngầm. Tuy nhiên, bảo hiểm tiền gửi công khai sẽ hữu ích hơn đối
với người gửi tiền vì mô hình này được pháp luật điều chỉnh, thường gắn với
trách nhiệm của tổ chức tài chính nhà nước (tổ chức thay mặt nhà nước bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền), lợi ích của người gửi tiền được bảo đảm bằng
những thông tin minh bạch và dịch vụ tư vấn của hệ thống bảo hiểm tiền gửi,
nhờ đó mà người gửi tiền có thể yên tâm là số tiền gửi của mình sẽ không bị
"mất trắng" kể cả khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị lâm vào tình trạng
phá sản. Thêm vào đó, một hệ thống bảo hiểm tiền gửi công khai cũng giúp
18
cảnh bảo sớm về những "trục trặc" trong hoạt động liên quan đến khả năng tài
chính của các tổ chức nhận tiền gửi, thông qua đó giảm thiểu rủi ro cho hệ
thống ngân hàng. Nhờ có chức năng giám sát an toàn hệ thống mà hoạt động
bảo hiểm tiền gửi công khai thông qua tổ chức tài chính nhà nước có những
ưu điểm nhất định so với bảo hiểm của các quỹ bảo hiểm tiền gửi. Các quỹ
này chỉ thực hiện chức năng chi trả tiền mặt cho người gửi tiền sau khi tổ
chức nhận tiền gửi bị phá sản. Trong khi đó, bảo hiểm của tổ chức tài chính
nhà nước không chỉ thực hiện chức năng đó mà còn nhằm ngăn chặn sự gia
tăng các khoản nợ xấu, nợ khó đòi, hạn chế những rủi ro tiềm ẩn dẫn đến sự
đổ vỡ của các ngân hàng thông qua hoạt động giám sát, hoạt động hỗ trợ tài
chính dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ… cho các ngân hàng
trước khi lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng hệ
thống bảo hiểm tiền gửi dù được thiết lập theo mô hình nào đi chăng nữa đều
cần một hệ thống quy phạm pháp luật minh bạch, trên cơ sở đó mới đảm bảo
thực hiện được mục đích của bảo hiểm tiền gửi.
- Bảo hiểm tiền gửi có thể được thực hiện trong phạm vi hạn chế (tức
là các khoản tiền gửi được bảo hiểm đến một giới hạn nhất định; hiện được áp
dụng ở các quốc gia như Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mêhicô, Việt Nam…)
hoặc được bảo hiểm hoàn toàn (tức là mọi người gửi tiền và tất cả các khoản
tiền gửi đều được bảo hiểm; hiện được áp dụng ở các quốc gia như Hồng Kông,
Áo, Đan Mạch, Braxin…). Điều này phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã
hội của từng nước, trong từng giai đoạn khác nhau. Ví dụ, vào thời kỳ nền kinh
tế ổn định, thị trường tài chính phát triển, các quốc gia thường áp dụng cơ chế
bảo hiểm có giới hạn các khoản tiền gửi nhằm củng cố lòng tin của công chúng
vào hệ thống tài chính, duy trì sự ổn định hoạt động của hệ thống này. Khi
nền kinh tế bị khủng hoảng, các nước thường áp dụng cơ chế bảo hiểm hoàn
toàn nhằm ngăn chặn một cách hữu hiệu hiện tượng rút tiền hàng loạt, bởi lẽ
người gửi tiền trong trường hợp này hoàn toàn tin tưởng rằng bảo hiểm tiền
gửi sẽ bảo vệ quyền lợi của họ một cách triệt để khi ngân hàng nào đó bị đổ vỡ.
19
- Chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi chỉ có thể là tổ chức tài chính
được phép nhận tiền gửi của công chúng dưới các hình thức được pháp luật
công nhận. Với một hệ thống bảo hiểm tiền gửi công khai thì sự tham gia của
các tổ chức này là bắt buộc, nhằm tạo sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức tín
dụng, tạo nguồn vốn hoạt động cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Bên cạnh đó,
rủi ro sẽ được phân bổ cho các đối tượng đa dạng, tránh tình trạng chỉ có ngân
hàng, tổ chức tín dụng yếu kém mới mua bảo hiểm, còn những ngân hàng, tổ
chức tín dụng hoạt động tốt thì không mua bảo hiểm. Trên cơ sở đó làm giảm
mức độ rủi ro của bản thân tổ chức bảo hiểm tiền gửi và gánh nặng của Chính
phủ trong việc hỗ trợ tài chính chi trả bảo hiểm.
- Đối tượng được bảo hiểm là đối tượng rất đặc biệt, đó là các khoản
tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức nhận tiền gửi. Người nộp phí bảo hiểm
tiền gửi tách rời người thụ hưởng bảo hiểm. Có thể nói, tiền gửi là một tài sản
có tính rủi ro cao, rủi ro của nó có mối liên quan mật thiết với hoạt động của
các tổ chức nhận tiền gửi. Việc xác định loại tiền gửi nào được bảo hiểm là cơ
sở tính phí bảo hiểm tiền gửi định kỳ, phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của
mỗi quốc gia. Nguyên tắc hoạt động bảo hiểm tiền gửi nói chung là bảo vệ
người gửi tiền nhỏ. Tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi của cá nhân bằng nội tệ là
loại tiền gửi mà đến nay tất cả các hệ thống bảo hiểm tiền gửi trên thế giới
đều bảo vệ. Việc loại trừ những khoản tiền gửi được bảo hiểm cũng như quy
định mức bảo hiểm tiền gửi tối đa nhằm giảm thiểu rủi ro cho chính tổ chức
bảo hiểm tiền gửi và nâng cao trách nhiệm quản lý hoạt động kinh doanh của
các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Các khoản tiền gửi không được bảo
hiểm thường là các khoản tiền gửi bằng đồng ngoại tệ hoặc là của các tổ chức.
Việc quyết định bảo hiểm cho đồng ngoại tệ hay không là một vấn đề nan giải
đối với mỗi quốc gia. Ở những quốc gia mà tiền gửi bằng đồng ngoại tệ chiếm
tỷ lệ thấp, các giao dịch chủ yếu được thực hiện bằng đồng nội tệ thì việc loại
trừ đối tượng bảo hiểm là đồng ngoại tệ là điều dễ dàng được chấp nhận. Ở
những nước đang phát triển, việc loại trừ đồng ngoại tệ thường gắn với lý do
20
tổ chức bảo hiểm tiền gửi không có đủ số ngoại tệ để thanh toán cho người
gửi tiền khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Theo nghiên cứu của Kunt D. A. và
Sobaci T. được công bố trong tài liệu Deposit Insurance around the world: A
date base của Ngân hàng Thế giới vào năm 2000 cho thấy trong 68 hệ thống
bảo hiểm tiền gửi trên thế giới thì có 20 hệ thống không bảo hiểm tiền gửi là
ngoại tệ. Tiền gửi liên ngân hàng thường cũng không được bảo hiểm vì đây là
tiền gửi của các tổ chức kinh doanh trực tiếp tiền tệ, có cơ hội tiếp cận tốt các
thông tin và kiểm soát được mức độ rủi ro đối với các khoản tiền của họ.
Theo nghiên cứu của Garcia G. G. H. được công bố trong tài liệu Deposit
Insurance: Actual and Good Practices của Quỹ tiền tệ Quốc tế vào năm 2000
thì trong 72 hệ thống bảo hiểm tiền gửi được nghiên cứu có 45 nước loại trừ
tiền gửi liên ngân hàng. Trong khi đó, mục tiêu của chính sách bảo hiểm tiền
gửi là bảo vệ người gửi tiền nhỏ, lẻ, có thu nhập thấp và bị hạn chế bởi khả
năng tiếp cận thông tin ngân hàng. Ngoài ra, tiền của các tổ chức kinh tế,
chính trị, xã hội cũng thường bị loại trừ, không được bảo hiểm bởi lẽ tiền gửi
trong tài khoản của các chủ thể này không thuần túy nhằm mục tiêu tích lũy,
tiết kiệm mà thường để thực hiện các giao dịch thanh toán liên quan đến hoạt
động của tổ chức. Vì vậy, các tổ chức này có cơ hội nắm bắt các thông tin về
ngân hàng mà họ quyết định gửi tiền, không nhất thiết phải thuộc đối tượng
được bảo vệ trực tiếp của chính sách bảo hiểm tiền gửi.
Trên cơ sở những đặc điểm nêu trên của bảo hiểm tiền gửi, chúng ta
có thể thấy rằng bảo hiểm tiền gửi và các loại hình bảo hiểm khác bên cạnh một
số điể m giố ng nhau cơ bả n như hoạ t độ ng dự a trên nguyên tắ c lấ y số đông bù số
ít; phải mua bảo hiểm (nộp phí) trước kỳ bảo hiểm ; chỉ được áp dụng khi có
rủi ro xảy ra trong tương lai… thì còn có nh iều điể m khá c biệ t, cụ thể là:
Thứ nhấ t , về tí nh chấ t hoạ t độ ng . Mặ c dù đề u hoạ t độ ng dự a trên
nguyên tắ c lấ y số đông bù số ít như ng ở bảo hiểm tiền gửi lại mang tính chất
đặ c thù ở chỗ nó là công cụ thự c hiệ n chính sá ch công vớ i vai trò cơ bả n là
bảo vệ người gửi tiền , góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh
21
của hệ thống tài chính quố c gia. Tính đặc thù của bảo hiểm tiền gửi so vớ i cá c
loại hình bảo hiểm thương mại khác thể hiện ở các khía cạnh như cơ chế bảo
hiể m, chủ thể tham gia bảo hiểm , đố i tượ ng nộ p phí , đố i tượ ng đượ c hưở ng
các quyền lợi bảo hiểm…
Thứ hai, về cơ chế bả o hiể m . Ở các loại hình bảo hiểm thương mại
khác, khi chủ thể tham gia bả o hiể m sẽ xuấ t hiệ n mố i quan hệ trự c tiế p giữ a
mộ t bên là đố i tượ ng bả o hiể m và bên kia là đố i tượ ng đượ c bả o hiể m. Còn ở
bảo hiểm tiền gửi, ngườ i gử i tiề n là ngườ i đượ c hưở ng lợ i trự c tiế p từ chính
sách bảo hiểm nhưng họ lại không có mối quan hệ trực tiếp với tổ chức bảo
hiểm tiền gửi, quan hệ nà y chỉ xuấ t hiệ n trong trườ ng hợ p tổ chức tín dụng mà
ngườ i đó gử i tiề n bị đó ng cử a , mất khả năng thanh toán .
Thứ ba, về chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi. Chủ thể tham gia quan
hệ bảo hiểm tiền gửi luôn là ba bên: tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi và người gửi tiền . Trong khi đó , các quan hệ bảo hiểm
khác chủ yếu là quan hệ hai bên , giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham
gia bảo hiểm đồng thời là người thụ hưởng bảo hiểm . Trong quan hệ bảo
hiểm tiền gửi, tổ chứ c tham gia bảo hiểm tiền gửi là các tổ chức tín dụng hoặ c
không phả i là tổ chức tín dụng nhưng được phép thực hiện hoạt động huy
độ ng tiề n gử i củ a dân cư thì bắ t buộ c phả i tham gia bảo hiểm tiền gửi. Trách
nhiệ m đó ng phí cho tổ chứ c bảo hiểm tiền gửi để được bảo hiểm cho tiền gửi
của người gửi tiền thuộc về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Thứ tư, về đố i tượ ng đượ c hưở ng cá c quyề n lợ i bả o hiể m . Trong quan
hệ bảo hiểm tiền gửi, ngườ i gử i tiề n là đố i tượ ng đượ c hưở ng cá c quyề n lợ i
trự c tiế p từ chính sá ch bảo hiểm tiền gửi, nhưng lạ i không phả i trự c tiế p tham
gia và o mố i quan hệ nà y . Trong trườ ng hợ p tổ chứ c tham gia bảo hiểm tiền
gửi bị giải thể hoặc phá sản thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ thay mặt Chín h
phủ đứng ra chi trả tiền tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền theo quy
đị nh củ a phá p luậ t mỗ i quố c gia . Đối với số tiền vượt quá hạn mức chi trả tiền
gử i đượ c bả o hiể m , ngườ i gử i tiề n sẽ đượ c nhậ n trong quá trì nh thanh lý tổ
22
chứ c tham gia bảo hiểm tiền gửi vớ i thứ tự ưu tiên về vị trí chủ nợ theo quy
đị nh phá p luậ t về giả i thể hoặ c phá sả n củ a mỗ i quố c gia .
Không chỉ ngườ i gử i tiề n đượ c hưở ng cá c quyề n lợ i từ chính sá ch bảo
hiểm tiền gửi mà chính tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cũng được hưởng
lợ i giá n tiế p từ việ c tham gia bảo hiểm tiền gửi. Điề u nà y thể hiệ n ở chỗ : tổ
chứ c tham gia bảo hiểm tiền gửi sẽ dễ dàng huy động được vốn từ dân cư để
duy trì và phát triển hoạt động của mình bởi người dân khi gửi tiền vào một tổ
chức tín dụng có tham gia bảo hiểm tiền gửi sẽ yên tâm hơn khi biết tổ chức
tín dụng đó đượ c giá m sá t bở i mộ t cơ quan nhà nướ c và cơ quan đó sẽ bả o
hiể m cho khoả n tiề n gử i củ a họ trong trườ ng hợ p tổ chức tín dụng tham gia
bảo hiểm tiền gửi bị giải thể hoặc phá sản .
Thứ năm, về đố i tượ ng tham gia bảo hiểm tiền gửi. Đối tượng tham
gia bảo hiểm tiền gửi chỉ là các tổ chức tín dụng hoặ c không phả i là tổ chức
tín dụng nhưng có hoạ t độ ng huy độ ng tiề n gử i , còn đối tượng tham gia các
loại hình bảo hiểm thương mại khác là các tổ chức hoặc cá nhân .
Thứ sá u, về cơ chế tham gia bả o hiể m . Cơ chế tham gia bảo hiểm tiền
gửi là bắt buộc . Các tổ chức tín dụng hoặ c không phả i là tổ chức tín dụng
nhưng đượ c phé p thự c hiệ n mộ t số hoạ t độ ng ngân hà ng theo quy đị nh củ a
pháp luật , trong đó có hoạ t độ ng nhậ n tiề n gử i , phải tham gia bảo hiểm tiền
gửi bắ t buộ c, còn đối với các loại hình bảo hiểm khác thì việc tham gia hay
không do cá c bên tự nguyệ n hoặ c thả o thuậ n .
Thứ bả y, về hì nh thứ c phá p lý tham gia bả o hiể m . Tham gia bảo hiểm
tiền gửi là sự tham gia bắt buộc đối v ới các tổ chức tín dụng hoặ c không phả i
tổ chức tín dụng nhưng đượ c phé p thự c hiệ n mộ t số hoạ t độ ng ngân hà ng do
đó không xuấ t hiệ n hợ p đồ ng bả o hiể m giữ a tổ chứ c bảo hiểm tiền gửi và tổ
chứ c tham gia bảo hiểm tiền gửi. Còn ở cá c loạ i hì nh bả o hiể m thương mạ i
khác thì mối quan hệ giữa các bên là sự thỏa thuận , do đó phả i thông qua hợ p
đồ ng bả o hiể m . Đây có thể coi là điể m khá c biệ t đặ c trưng để phân biệ t bảo
hiểm tiền gửi vớ i cá c loạ i hình bả o hiể m thương mạ i khá c .
23
Thứ tá m, về nộ i dung bả o hiể m. Nộ i dung bả o hiể m ở bảo hiểm tiền gửi
là sự bắt buộc phải tuân theo các quy định của pháp luật, còn ở các loại hình bảo
hiể m khá c thì cá c chủ thể tham gia quan hệ bả o hiể m có thể tự do thỏ a thuậ n để
lự a chọ n nộ i dung bả o hiể m trong khuôn khổ phá p luậ t cho phép thực hiện.
Thứ chí n, về sự kiệ n bả o hiể m. Sự kiện bảo hiểm tiền gửi là sự kiện rất
đặc biệt, gắn với việc mất khả năng thanh toán của tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi - tổ chức nhận tiền gửi của khách hàng, do vậy nó ảnh hưởng đến lợi
ích của nhiều chủ thể trong xã hội, ảnh hưởng tới cả tính ổn định của hệ thống
ngân hàng và nền kinh tế. Trong khi đó, đối với các loại hình bảo hiểm khác,
sự kiện bảo hiểm thường được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm giữa
doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, có phạm vi hẹp, thiệt hại
xảy ra thường bó trọn trong một cá nhân hay một nhóm người nhất định.
Thứ mườ i, về mứ c phí tham gia bả o hiể m. Mức phí bảo hiểm tiền gửi
không phụ thuộc vào ý chí của người mua bảo hiểm mà được quy định cụ thể
trong luật. Trong khi đó, đối với các loại hình bảo hiểm khác, mức phí có thể
khác nhau theo thỏa thuận, phí đóng càng cao thì mức bồi thường thiệt hại khi
sự kiện bảo hiểm xảy ra càng lớn và ngược lại.
Ngoài một số điểm khác biệt cơ bản nêu trên , bảo hiểm tiền gửi và các
loại hình bảo hiểm thương mại khác còn có sự khác biệt về mô hình tổ chức ,
về cá ch thứ c tổ chứ c hoạ t độ ng…
1.1.2. Bản chất, mục đích, vai trò của bảo hiểm tiền gửi
1.1.2.1. Bản chất của bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi cũng mang bản chất của các loại hình bảo hiểm nói
chung, tứ c là hoạ t độ ng theo nguyên tắ c lấ y số đông bù số í t , nhưng bên cạ nh
đó cò n mang tí nh chấ t đặ c thù , cụ thể là:
- Hoạt động bảo hiểm tiền gửi là hoạt động cung cấp dịch vụ công , tứ c
là bảo hiểm tiền gửi là công cụ được sử dụng để thực hiện chính sách công
của từng quốc gia . Dịch vụ bảo hiểm tiền gửi là loại hàng hóa mang tính xã
24
hội cao. Theo cách phân loại của các nhà kinh tế học, dịch vụ bảo hiểm tiền
gửi thuộc loại hàng hóa công không thuần túy . Cơ sở để gọi nó là hàng hóa
công không thuần túy, căn cứ vào tính không loại trừ thụ hưởng một cách
tuyệt đối của dịch vụ này. Xuất phát từ một trong các mục đích của hoạt động
bảo hiểm tiền gửi là góp phần đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính quốc
gia, người thụ hưởng dịch vụ bảo hiểm tiền gửi là toàn xã hội. Người gửi tiền có
tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được lợi trực tiếp từ chính sách bảo
hiểm tiền gửi qua việc họ được tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả tiền bảo hiểm
khi ngân hàng nhận tiền gửi của họ bị đóng cửa, mất khả năng thanh toán.
Người đi vay sẽ được hưởng lợi từ dịch vụ bảo hiểm tiền gửi ở chỗ tính ổn định
của hệ thống tài chính giúp cho họ sử dụng tiền vay được an toàn và thuận tiện
hơn. Có được hệ thống tài chính ổn định sẽ giúp cho các ngành kinh tế khác phát
triển thuận lợi. Như vậy, việc loại trừ tuyệt đối một cá nhân, hoặc một tổ chức
trong xã hội ra khỏi sự thụ hưởng lợi ích của dịch vụ bảo hiểm tiền gửi là rất
khó khăn. Chính vì đặc tính không loại trừ thụ hưởng tuyệt đối mà dịch vụ
bảo hiểm tiền gửi được xếp vào loại hàng hóa công không thuần túy.
- Hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi thông thườ ng không vì mụ c
tiêu lợ i nhuậ n . Chính phủ các quốc gia thành lậ p tổ chức bảo hiểm tiền gửi
nhằ m mụ c đí ch thự c hiệ n chính sá ch công bở i trên thự c tế , hoạt động tài chính
- ngân hà ng là hoạ t độ ng nhạ y cả m , gắ n vớ i tí nh lan truyề n rấ t cao ; nế u xả y ra
trườ ng hợ p đổ vỡ hệ thố ng tà i chí nh - ngân hà ng sẽ ả nh hưở ng rấ t lớ n đế n
toàn bộ nền kinh tế và gây ra những bất ổn về mặt xã hội . Do đó , Chính phủ
các quốc gia đã sử dụng công cụ tài chính là bảo hiểm tiền gửi nhằ m gó p phầ n
đả m bả o sự phá t triể n an toà n, lành mạnh của hệ thống tài chính - ngân hà ng
nói riêng cũng như sự ổn định của toàn xã hội nói chung .
1.1.2.2. Mục đích của bảo hiểm tiền gửi
Trên thực tế, mỗi hệ thống bảo hiểm tiền gửi có thể được thiết kế theo
một mô hình khác nhau nhưng tựu chung đều nhằm đạt được 4 mục đích cơ
bản sau:
25
- Nhằ m thự c hiệ n chính sá ch công là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của số đông người gửi tiền , đối tượng có những hạn chế trong tiếp cận thông
tin về quản trị, điều hành và tình hình hoạt động của các tổ chức huy động
tiền gửi;
- Góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính - ngân hàng hoạt động ổn
định và tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính đạt hiệu quả hơn bằng cách
phòng tránh đổ vỡ ngân hàng thông qua các hoạt động nghiệp vụ;
- Góp phần xây dựng một thị trường tài chính là nh mạ nh , có tính cạnh
tranh và bình đẳng giữ a các tổ chức tài chính có quy mô và loại hình khác nhau;
- Quy định rõ trách nhiệm và quyền của người gửi tiền, tổ chức tài
chính, Chính phủ và giảm thiểu gánh nặng tài chính cho người dân phải đóng
thuế trong trường hợp có ngân hàng đổ vỡ . Bở i trong trườ ng hợ p ngân hà ng
đơn lẻ bị đổ vỡ , nế u Chính phủ phả i tự bỏ tiề n từ ngân sá ch để chi trả cho
ngườ i gử i tiề n , gánh vác cho sự sụp đổ của tổ chức tín dụng thì điều này
không phù hợ p vớ i quy luậ t củ a nề n kinh tế thị trườ ng là đã kinh doanh thì
phải gán h chị u rủ i ro . Chính vì vậy , xu hướ ng chung củ a cá c quố c gia là rấ t
hạn chế sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý đổ vỡ của các tổ chức tín dụng.
Đồng thời, vớ i sự hình thà nh hệ thố ng bảo hiểm tiền gửi, rủi ro đã được phân
tán, chia sẻ cho nhiề u bên liên quan . Như vậ y, xét về hệ thống tài chính - ngân
hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung , điề u nà y sẽ tạ o ra tí nh ổ n
đị nh cho toà n xã hộ i.
1.1.2.3. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi
Xuất phát từ những mục đích cơ bản của bảo hiểm tiền gửi như đã nêu
ở trên, có thể thấy rằng hoạt động bảo hiểm tiền gửi có vai trò rất quan trọng
đối với người gửi tiền, đối với hệ thống tài chính - ngân hàng, đối với nền
kinh tế và toàn xã hội. Bảo hiểm tiền gửi là sản phẩm của nền kinh tế thị
trườ ng và chỉ xuấ t hiệ n trong nề n kinh tế thị trườ ng nên vai trò củ a bảo hiểm
tiền gửi xuấ t phá t từ bả n chấ t củ a hoạ t độ ng tà i chí nh luôn gắ n liề n vớ i yế u tố