Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

ẢNH HƯỞNG của NHO học đến hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.57 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Nói đến Nho giáo thì việc đầu tiên không thể không nhắc tới đó là
Khổng Tử. Khổng tử sống trong thời kỳ thay thay đổi lớn, từ lâu thiên tử
nhà Chu đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư hầu, cục
thể xã hội biến chuyển nhanh chóng, người ta mỗi người chọn cho mình
một thái độ sống khác nhau. Là một triết nhân thái độ của khổng tử hết sức
phức tạp, ông vừa hoài cổ vừa thượng đổi mới. Trong tâm trạng phân vân,
dần dần ông hình thành tư tưởng lấy nhân nghĩa để giữ vững sự tồn tại
chung và khai sáng hệ thống tư tưởng lớn nhất thời Tiên Tần là học phái
Nho Giáo tạo ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc. Kể từ đó trong
thập kỷ vừa qua, Nho giáo bỗng nổi lên như một trong những vấn đề có
tính hấp dẫn.Khổng Tử không những trở lại vị trí được tôn kính nhất trong
nền văn hoá rực rỡ và lâu đời của Trung Quốc, mà còn được coi như một
trong những bộ mặt quang vinh nhất của toàn thể nhân loại.
Việt Nam là một nước từ lâu đời chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Nho
giáo.Nho giáo từ trên một ngàn năm được giới thống trị ở Việt Nam sử
dụng như tư tưởng chủ đạo trong kiến trúc thượng tầng của xã hội. Trong
suốt thời kỳ phong kiến ở Việt Nam toàn thể giới tri thức, dù khác nhau về
quan điểm chính trị và văn hoá đều tự coi mình là những đệ tử của Nho
giáo, đều lấy tiêu chuẩn đạo đức của Nho giáo làm phương châm suy nghĩ
và hành động.
Ngày nay, nhiều cuộc hội thảo bàn về lịch sử và về vai trò của Nho
giáo đều được liên tiếp tổ chức ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên,
Singapore và ở Việt Nam. Trên phạm vi thế giới, ở nhiều nước như Mỹ,
Anh, Nga, Pháp, cũng có rất nhiều cuộc hội thảo được tổ chức và rất nhiều
sách báo được phát hành nhằm nghiên cứu về Khổng Tử và đánh giá lại vai
trò của ông đối với quá trình phát triển chung của nhân loại, cả hôm nay và
ngày mai. Phải chăng Nho giáo sau hơn một ngàn năm phát huy ảnh hưởng
1



vẫn còn có một sức mạnh tiềm ẩn nếu được đánh thức dậy sẽ đóng vai trò
to lớn trong quá trình phát triển của đất nước chúng tôi hôm nay ? Phải
chăng những thành công của việc vận dụng Nho giáo ở nhiều nước phương
Đông cũng đang trở thành những bài học quý giá đối với Việt Nam chúng
ta ?
Hồ Chí Minh đã từng tiếp cận và tiếp thu nhiều dòng tư tưởng khác
nhau, đã từng " mưu cầu hạnh phúc cho loài người”. Tư tưởng Hồ Chí
Minh không chỉ tiếp thu Nho giáo, Phật giáo, Tôn Trung Sơn ,MacLênin… Đặc biệt Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo
và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt
tích cực của tư tưởng Nho giáo. Bác cũng bị ảnh hưởng nhiều của Nho
giáo.Bác hiểu được những mặt hạn chế của Nho giáo.Tuy nhiên, Hồ Chí
Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó, và Nho giáo cũng ảnh
hưởng đến con đường cứu nước của Bác.
2.Phương pháp chọn đề tài
Sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là phương pháp
chủ yếu.

Ngoài ra còn sử dụng phương pháp hệ thống, phân tích,

thống kê, tổng hợp trong các tài liệu về tư tưởng của Hồ Chí Minh.
3. Ý nghĩa của việc chọn đề tài
Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò
to lớn của đạo đức đối với xã hội.Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo
là luận bàn về đạo đức, lấy việc tu thân làm gốc, đề cao văn hóa, lễ nghĩa
truyền thống, coi trọng việc học hành.Nho giáo ảnh hưởng rất lớn đến tư
tưởng của Bác và quá trình giải phóng dân tộc.
Bác tiếp thu nhiều dòng tư tưởng khác nhau, song tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống nhất quán, không lẫn lộn với bất cứ nhà tư tưởng nào
của dân tộc và của nhân loại, mặc dù Người tiếp nhận các giá trị từ truyền

thống văn hoá của dân tộc và loài người tiến bộ. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã
vận động trong lịch sử dân tộc và loài người, xác lập thành nền tảng tư
2


tưởng của thời đại Hồ Chí Minh. Đó là thời đại mà nhân dân Việt Nam đã
nâng các giá trị truyền thống lên một tầm cao mới và hiện diện trước loài
người như một dân tộc anh hùng, văn minh, lịch thiệp, hiện đại.
Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó
là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư
tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực
nghiệm, doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt
tích cực của nó và khuyên chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực
của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với
châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho
giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ
trương ngu dân để dễ cai trị. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn
những yếu tố tich cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
Để mọi người hiểu thêm về Nho giáo và về ảnh hưởng của Nho giáo
với Hồ Chí Minh với tư tưởng của người trong giai đoạn cách mạng Việt
Nam ở cuối thế kỷ 19 đầu 20 thì nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài:”
Ảnh hưởng của Nho giáo đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh”
làm đề tài nghiên cứu để thầy cô và cácc bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này.

3


NỘI DUNG
I.Bối cảnh vấn đề
1. Cội nguồn của Nho giáo

Nho giáo ( 儒儒 ) còn được gọi là Khổng giáo ( 儒儒 ), là một hệ
thống đạo đức, triết lý và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một
xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á là Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên, và sớm du nhập vào Việt Nam. Cốt lõi của Nho giáo
là Nho gia.Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức
xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai
trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quântử.

Khổng Tử
Nho giáo bắt nguồn từ Trung Quốc và đã phát triển qua nhiều thời
kỳ.Giai đoạn Khổng Tử - Mạnh Tử - Tuân Tử là giai đoạn sơ kỳ.Ở giai
4


đoạn này nó không mang tính chất tôn giáo mà mang tính chất một học
thuyết chính trị-đạo đức-xã hội, nên gọi là Khổng học hoặc Nho học mới
đúng. Nho giáo trở thành một tôn giáo phải tính từ thời Hán Nho, Đường
Nho, Minh Nho... Từ Hán Nho trở đi Nho học đã biến tướng các tư tưởng
của mình cho thích hợp với chế độ phong kiến Trung ương tập quyền
Trung Quốc.
2.Nho giáo ở Việt Nam
Nho giáo Trung Quốc truyền vào Việt Nam từ đầu công nguyên trải
qua các triều đại Lý, Trần càng ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc. Nhưng thế
kỷ XV về sau, vào cáctriều Hậu Lê và Nguyễn mới hình thành một đội ngũ
đông đảo các văn nhân học sĩ giả thích, bàn luận về Nho giáo.
Nho giáo vào Việt Nam thời đấu tranh giành độc lập dân tộc của
Việt Nam là Hán Nho, Tống Nho, Minh Nho, nó không còn là tư tưởng
Khổng học nữa, mà đã bị tôn giáo hoá, đặc biệt là sự kết hợp chặt chẽ giữa
hai yếu tố chính trị và tôn giáo mà Nho giáo đã dần trở thành công cụ tinh
thần và chỗ dựa của các triều đại phong kiến Việt Nam, áp bức nhân dân

lao động Việt Nam cả trên hai bình diện thế giới quan duy tâm và triết lý
đạo đức-chính trị-xã hội.
Nho giáo vào Việt Nam trước hết giữ vai trò của một học thuyết chính trịđạo đức giúp nhà vua trị nước, yên dân và xây dựng một trật tự xã hội phù
hợp với cương thường lễ nghĩa.
Một trong những nội dung quan trọng của Nho giáo là bàn về con
người và đào tạo con người. Vì là sản phẩm của xã hội phong kiến nên Nho
giáo vẫn còn có những hạn chế nhất định.Tuy nhiên, trong lĩnh vực đào tạo,
giáo dục con người, Nho giáo cũng có những đóng góp đáng kể. Trên tinh
thần tiếp thu có phê phán tư tưởng Nho giáo, Hồ Chí Minh đã để lại cho
chúng ta những quan điểm giáo dục có giá trị, là định hướng cho sự nghiệp
giáo dục ở nước ta ngày nay.

5


Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm giàu vốn tri thức,văn
hoá của dân tộc là một sự thực khách quan qua các triều đại của dân tộc
Việt Nam. Trong ý thức hệ phong kiến mà người Hán đưa vàonước ta từ
thời kỳ Bắc thuộc, Nhogiáo tồn tại lâu bền nhất và có ảnh hưởng sâu sắc
nhất.
Vấn đề có nhiều lý do, nhưng có lý do chính lànhu cầu phát triển
văn hoá và giáodục nước ta khi chế độ phong kiếntập quyền đã bắt đầu,
việc bổ sungquan lại bằng hai con đường “nhiệmtử” và “thủ sĩ” không đủ
mà cầnphải bổ sung một phương thức đào tạo và tuyển lựa quan lại
mới.Phương thức này chỉ có thể đạt đượcbằng con đường phát triển giáo
dụcvăn hoá và thực hiện chế độ thi cửđể tuyển lựa nhân tài.
Nho giáo đã có đầy đủ lý thuyết và quy chế vềgiáo dục, khoa cử tất
nhiên phải đảm đương nhiệm vụ lịch sử ấy.Tóm lại, Nho giáo đã đem
lạimột bước tiến khá căn bản tronglĩnh vực văn hoá tinh thần của xãhội,
trước hết nó làm cho nền giáodục phát triển hết sức mạnh mẽ.Nền giáo

dục ấy cùng với chế độ thicử đã đào tạo ra một đội ngũ tríthức đông đảo
cho dân tộc Việt Namnhư: Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn,Nguyễn Du …
Bên cạnh những ảnhhưởng tích cực Nho giáo cũng đemlại không ít
tác động tiêu cực, nó đãkhông giải đáp được vấn đề số phậnvà yêu cầu
giải phóng con người vìnó đã sớm bỏ con đường phát triểntư duy trừu
tượng, nó làm cho chủnghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáophát triển mạnh
trong lĩnh vực tưtưởng và trong giáo dục khoa học,cho đến nay nó vẫn là
một nhân tốkìm hãm sự phát triển xã hội nhất làtại các vùng nông thôn
Việt Nam.Không thể phủ nhận đượcrằng Nho giáo đã tham gia một
phầntạo nên diện mạo tinh thần dân tộcvào sự hình thành văn hoá dân
tộc,cho nên chúng ta cần thiết phải cósự hiểu biết về Nho giáo, về
nhữngảnh hưởng của nó đối với nền vănhoá dân tộc cũng như với đời
sốngtinh thần của con người Việt Nam.

6


Hồ Chí Minh
3.Nho giáo đến với Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình Nho học xứ Nghệ. Trong con
người Hồ Chí Minh có một vị chân Nho, thậm chí có người nói: một vị
chân Nho xứ Nghệ (Nguyễn Đình Chú).Người đã sử dụng sáng tạo một số
nhân tố hợp lý trong tư tưởng đạo đức Nho giáo, cũng như Người đã sử
dụng rất tài tình tinh hoa của Phật giáo và của tư tưởng Lão Trang; lòng
nhân ái của Giê- su; tinh hoa của tư tưởng đạo đức phương Tây và tư tưởng
Mác – Lênin kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống đạo đức tốt đẹp của
văn hóa dân tộc để xây dựng nên tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí
Minh.
Bác sinh năm 1890 mà tới năm 1915 ở Bắc Kỳ , năm 1918 ở Trung
Kỳ, mới chấm dứt việc thi cử chữ Hán vốn là dựa trên Nho học.

Sinh ra và trưởng thành trong một gia đình nhà Nho yêu nước (Năm 1923,
Hồ Chí Minh đã tự giới thiệu tại Liên Xô rằng “Tôi xuất thân từ một gia
đình nhà Nho Việt Nam trong đó các thanh niên đều theo học Đạo Khổng.
Năm 1935, tại Đại hội Quốc tế Cộng sản, Người lại ghi vào lý lịch của
mình “Thành phần gia đình nhà Nho”. Thực tế, trong gia đình Người, bố là
Nguyễn Sinh Sắc, anh trai là Nguyễn Tất Đạt, chị gái là Nguyễn Thị Thanh
đều là những nhà Nho yêu nước nổi tiếng của Việt Nam cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX), Hồ Chí Minh chịu những ảnh hưởng không nhỏ của Nho
giáo.

7


Nếu tìm những tác phẩm của Người viết về Nho giáo thì không có nhiều
lắm, nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Người có nhiều biểu hiện của sự vận
dụng uyên thâm Nho giáo vào Việt Nam theo hướng tích cực, cách mạng.
II.Hồ Chí Minh khai thác và tiếp thu Nho giáo:
1.Khai thác tư tưởng Nho giáo:
Sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học, Hồ Chí Minh có một
quá trình tiếp biến Nho giáo rất căn bản và có hệ thống: từ tiếp thu di sản
Nho học từ người cha, đến học tập các thầy đồ nổi tiếng một thời như
Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Nhân, v.v..; từ việc học tập
qua trao đổi với các nhà nho thế hệ cha chú như Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, đến quá trình tự học lâu dài, bền bỉ; từ tiếp thu di sản Nho học đến
tiếpbiến Nho học, tổng hoà giá trị của Nho học với tinh hoa lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng dân chủ phương Tây; từ sáng tạo tư tưởng
dựa trên di sản Nho học đến hiện thực hoá tư tưởng ấy trong thực tiễn cách
mạng; từ sự khai thác mang tính cá nhân, đến đúc rút các quan điểm mang
tính định hướng cho việc khai thác di sản tư tưởng Nho giáo.
Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trong bối cảnh bản

thân hệ thống tư tưởng Nho giáo bất lực trước việc cung cấp công cụ để
nhận thức và luận giải hiện thực xã hội Việt Nam vốn đã biến đổi sâu sắc
từ giữa thế kỷ XIX trước sự xâm lược của thực dân phương Tây, xâm nhập
của văn hóa phương Tây; các phong trào chính trị - xã hội chịu ảnh hưởng
của Nho giáo bất lực trước việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn lịch
sử của dân tộc đặt ra; hệ thống giáo dục và khoa cử Nho học bị giải tán.
Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trên nền tảng thế
giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng mácxít, trên cơ sở vốn văn
hoá phương Tây phong phú, và luôn gắn liền việc khai thác các di sản tư
tưởng - văn hoá, bao gồm Nho giáo, chủ nghĩa Mác, v.v.., với thực tiễn giải
phóng và phát triển đất nước, với việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn
đặt ra. Ngoài ra, cũng cần lưu ý, là Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng
8


Nho giáo với phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, với bản lĩnh
chính trị - văn hoá, và với vị thế của một người có quyền uy tư tưởng nhất
định khi trở thành một nhân vật có uy tín của Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ của
cách mạng Việt Nam.
Nho giáo mà Hồ Chí Minh khai thác chủ yếu thể hiện trong Tứ thư,
Ngũ kinh; Nho giáo gắn liền với các nhà nho thời kỳ lập thuyết (thời Tiên
Tần) như Khổng Tử, Tăng Tử, Mạnh Tử; Nho giáo tinh tuý nhưng không
kinh viện, mà gắn liền và dung nhập chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, dung
nhập hơi thở của thời cuộc ở bước chuyển biến có ý nghĩa bản lề của lịch
sử dân tộc.
a. Những di sản tư tưởng Nho giáo được Hồ Chí Minh quan tâm
Trước hết, cần xác định, Hồ Chí Minh nhận diện Nho giáo như thế
nào.
Năm 1923, khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Nga Ôxíp
Manđenxtam, Hồ Chí Minh nói: “Tôi sinh ra trong một gia đình nhà nho

An Nam... Thanh niên trong những gia đình ấy thường học Khổng giáo,
đồng chí chắc biết Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa
học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử. Và trên cơ sở đó người ta đưa
ra khái niệm về “thế giới đại đồng””(1).
Năm 1924, trong một tác phẩm viết chung, Hồ Chí Minh đã đề cập
đến “tinh thần triết học và giáo lý của Khổng Tử”, và gọi Khổng Tử là “vĩ
nhân”, gọi Mạnh Tử là “một lý luận gia cách mạng của thế hệ ông”(2).
Ngày 20-2-1927, chỉ năm ngày sau khi Chính phủ Trung Hoa Dân
quốc ban hành lệnh xoá bỏ những nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử kèm theo
những khoản dự chi cho những cuộc nghi lễ ấy và chuyển những đền thờ
Khổng Tử thành các trường học công, Hồ Chí Minh đã viết bài báo có tên
“Khổng Tử”, trong đó khẳng định: “Với việc xoá bỏ những lễ nghi tưởng
niệm Khổng Tử, Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và
trái với tinh thần dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn
9


thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và
về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin”(3).
Năm 1949, trong cuốn sách Hồ Chí Minh truyện, xuất bản bằng tiếng
Trung Quốc (Bát Nguyệt thư xã xuất bản, người dịch Trương Niệm Thức),
đã ghi một nhận xét của Hồ Chí Minh:
“Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp
với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những ưu
điểm chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu
hạnh phúc cho xã hội”. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ họp

lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như
những người bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”(4).
Một số dẫn chứng như trên cho thấy, Nho giáo được nhận diện trong
quan niệm của Hồ Chí Minh: Là Nho giáo thời Tiên Tần, hay là học thuyết
Khổng Mạnh; Là một hệ thống tư tưởng, chứ không phải là một tôn giáo;
Cốt lõi của Nho giáo là học thuyết về đạo đức, học thuyết về xử lý các mối
quan hệ đạo đức cơ bản của xã hội; Nho giáo ra đời trong những điều kiện
lịch sử cụ thể, chịu sự chi phối của bối cảnh ra đời, có nhiều ưu điểm, song
cũng có cả những hạn chế, và trong đó, nếu nhìn vào cốt lõi của nó (học
thuyết về tu dưỡng đạo đức cá nhân), thì ưu điểm là nổi bật, cần kế thừa và
phát huy. Những nhà tư tưởng sáng lập ra Nho giáo, ở thời đại của họ, đều
xứng đáng là những vĩ nhân, những nhà lý luận cách mạng; Nho giáo đã
từng bị các triều đại phong kiến lợi dụng.
Sự nhận diện Nho giáo như trên của Hồ Chí Minh thể hiện quan
điểm khoa học, khách quan, công bằng, quan điểm khoan dung văn hoá,
10


cũng như bản lĩnh của nhà tư tưởng trong ứng xử với các di sản tư tưởng
văn hoá truyền thống.
Từ cách nhận diện như vậy, Hồ Chí Minh đã chọn lọc, kế thừa, cải
biến di sản tư tưởng Nho giáo để làm giàu vốn tri thức văn hoá của bản
thân.

Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo trên ba cấp độ sau:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã kế thừa, sử dụng nhiều phạm trù, mệnh
đề, có giá trị và sức sống của Nho giáo, đồng thời đã bổ sung, phát triển
những nội dung mới, phù hợp với thời đại.
Có thể nêu ra một số phạm trù của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử

dụng như Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, Trung, Hiếu, v.v..Việc Hồ Chí
Minh cải tạo các phạm trù của Nho giáo thể hiện rõ nhất ở hai phạm trù
Trung và Hiếu. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với
vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới.Phải
trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào” (5). Rõ ràng, ở Hồ Chí
Minh, nếu chữ Trung mang một nội hàm hoàn toàn mới, từ Trung với vua
trở thành Trung với nước, thì chữ Hiếu lại được mở rộng trên cơ sở phổ
quát hoá đạo đức cá nhân, trong đó gốc của Hiếu với Dân phải là Hiếu với
cha mẹ.
Những mệnh đề tư tưởng của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng
nhiều lần như: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”; “Phú quý bất
năng dâm; Bần tiện bất năng di; Uy vũ bất năng khuất”, “Tiên thiên hạ chi
ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”, v.v..
Những mệnh đề trên được Hồ Chí Minh tiếp thu, và trong nhiều
trường hợp, được Hồ Chí Minh khẳng định chính là những phẩm chất của
những người cách mạng, những người cộng sản trong thời đại mới. Điều đó
11


cho thấy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, mặt giá trị, tính thời đại của
Nho giáo là rất lớn.
Thứ hai, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và thực hành một số nguyên tắc tư
duycủa Nho giáo.
Phương pháp tư duy biện chứng của Nho giáo (của Khổng Tử, Mạnh
Tử, và đặc biệt là Kinh Dịch) thể hiện rất đậm nét ở Hồ Chí Minh.
Phương pháp tư duy triết học - chính trị của Nho giáo với các
nguyên tắc: Coi trọng tính chủ thể của con người; coi trọng giáo dục, đặc
biệt là giáo dục đạo đức, coi đức là gốc; từ cải tạo; tự cải tạo con người đi
đến cải tạo xã hội, v.v..cũng được Hồ Chí Minh kế thừa, sự dụng một cách
nhuần nhuyễn trong tư duy, trong thực tiễn cách mạng. Có thể dẫn ra một

số luận điểm của Hồ Chí Minh để chứng minh cho nhận định trên: “Muôn
việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” (6); “Khổng Tử
nói: “Mình phải chính tâm tu thân” nghĩa là việc gì cũng phải làm kiểu
mẫu; có thế mới “trị quốc bình thiên hạ” được. Trị quốc bình thiên hạ đây
tức là ta kháng chiến đánh Pháp, kiến quốc xây dựng xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ hòa bình thế giới.Muốn cải tạo xã hội thì lòng mình phải cải tạo.Nếu
lòng mình không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lòng mình còn
tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được”(7)...
Thứ ba, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và thực hành triết lý sốngcủa các
bậc đại Nho với các nguyên tắc tu nhân, nhập thế, tự nhiệm, dĩ thân vi giáo,
v.v..Có thể dẫn ra một số thí dụ. Hồ Chí Minh nói: “Một tấm gương sống
còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” (8). Người nói như
vậy và luôn thực hành nguyên tắc này, chẳng hạn việc Hồ Chí Minh luôn
nghiêm khắc thực hiện nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”.
Như vậy, có thể thấy, Hồ Chí Minh đã khai thác di sản tư tưởng của
Nho giáo - Nho giáo đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh một cách sâu sắc, từ
những phạm trù, mệnh đề tưtưởng đến phương pháp tư duy; từ tư tưởng,
học thuyết đến triết lý sống; từ nhận thức đến thực hành.
12


b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về khai thác di sản tư tưởng của
Nho giáo
Thứ nhất, khai thác di sản tư tưởng Nho giáophảitrên cơ sở quán
triệt quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử.
Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, Hồ Chí Minh
quan niệm, bất cứ một hệ thống tư tưởng nào cũng ra đời trong những điều
kiện lịch sử cụ thể, chịu sự chi phối, quy định của những điều kiện ấy.
Chính vì thế, để lý giải, đánh giá nội dung, giá trị của bất cứ hệ thống tư
tưởng nào, cũng cần phải đặt nó vào trong những điều kiện ra đời của nó.

Mọi thiên kiến, áp đặt bằng con mắt phi lịch sử với các di sản quá khứ đều
là điều không thể chấp nhận được, đều có nguy cơ dẫn đến sai lầm, hoặc
tuyệt đối hoá hoặc phủ nhận sạch trơn giá trị của các di sản quá khứ. Nói về
học thuyết Mác, Hồ Chí Minh viết: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình
trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu
Âu.Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” (9), và vì thế, “Dù
sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác
bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể
có được”(10). Đối với Nho giáo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... cách đây 20 thế kỷ,
chưa có chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc chưa bị áp
bức như chúng ta ngày nay, cho nên bộ óc Khổng Tử không bao giờ bị
khuấy động vì các học thuyết cách mạng”(11), và “nếu Khổng Tử sống ở
thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm ấy thì ông
sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Cũng có khả năng là siêu nhân này
chịu thích ứng với hoàn cảnh và nhanh chóng trở thành người kế tục trung
thành của Lênin”(12). Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử,
Người cũng xem xét các di sản tư tưởng quá khứ trước những yêu cầu mới
của thời đại mới, để từ đó kế thừa một cách biện chứng các di sản này.
Thứ hai, khai thác di sản tư tưởng Nho giáophải trên quan điểm
với thái độ trân trọng, kế thừa, phát triểncó chọn lọc.
13


Hồ Chí Minh đã nêu ra một quan điểm mang tính chỉ dẫn rất toàn
diện: “Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới.
Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức
thì phải sửa đổi lại cho hợp lý… Cái gì cũmà tốt, thì phải phát triển thêm…
Cái gì mớimà hay, thì ta phải làm”(13).
Quan điểm của ngườivừa chống thái độ tuyệt đối hoá cái “cổ” coi
thường cái “kim”, vừa chống thái độ tuyệt đối hoá cái “kim” coi thường cái

“cổ”, vì thế có tính khoa học sâu sắc.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học
thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng,song những điều hay trong
đó thì ta nên học”.
Thứ ba, khai thác di sản tư tưởng Nho giáo với thái độ khoan
dung trong xem xét, đánh giá, ứng xử với các hệ thống tư tưởng khác
nhau.
Không tuyệt đối hoá, không “độc quyền tư tưởng”, thì mới có thể
chấp nhận những cái khác khác biệt để trân trọng và tiếp biến. Hồ Chí
Minh không chỉ thừa nhận chủ nghĩa Mác có ưu điểm, mà khẳng định học
thuyết Khổng Tử, tôn giáo Giêsu, đạo Phật, chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Trung Sơn, v.v.. đều có ưu điểm, thậm chí là những ưu điểm chung với ưu
điểm của chủ nghĩa Mác. Hồ Chí Minh chỉ rõ, không phải chỉ có chủ nghĩa
Mác, mà các học thuyết, hệ thống tư tưởng - văn hoá nói trên cũng hướng
đến mục tiêu “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội”.
Hồ Chí Minh là người ngay từ rất sớm, đã khẳng định tôn giáo chứa đựng
những hạt nhân văn hoá - đạo đức có giá trị, v.v..
Có thể thấy rõ, quan điểm khoan dung, bản lĩnh văn hoá kết hợp với
tinh thần khoa học của quan điểm duy vật biện chứng, của thái độ trân
trọng các di sản quá khứ đã giúp Hồ Chí Minh có khả năng khai thác di sản

14




tưởng

Nho


giáo

một

cách

rất

thành

công

rồi.

2.Tiếp thu và vận dụng những tinh hoa của Nho giáo:
* Về chữ Trung và Hiếu:
Trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn giữa
Vua và đất nước với dân tộc, thì đất nước dân tộc luôn là cái quyết định,
được đặt lên trên hết. Tư tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt
Nam tiếp thu trên cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có
khiến cho nó đã bị biến đổi, “Trung quân” gắn liền với “Ái quốc”.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, nguời con tiêu biểu của dân
tộc Việt Nam, đã kế thừa và phát huy những giá trị tinh tuý nhất của Nho
giáo trong cuộc đời cách mạng của mình, đưa dân tộc đi lên con đường
phát triển mới của thời đại. Chữ Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội
dung mới hoàn toàn: Không phải “Trung với Vua” mà là “Trung với nước”
và chữ Hiếu với nội dung được mở rộng đến vô cùng đó là “Hiếu với dân”,
chứ không còn hạn hẹp như khái niệm của Nho giáo xưa kia.
Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại bất viễn du” tức là: cha mẹ
còn con không được đi xa,và “ Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”.Tức là: Có

ba tội bất hiếu, tội không có con nối dõi là tội nặng nhất.
Chính vì đặt đất nước lên hết, mà một người dòng dõi Nho gia như
Hồ Chí Minh dám đi ngược lại giáo huấn của Nho gia.Vì tổ quốc vì dân
tộc, người tạm thời gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn hẹp của Nho gia, để
ra đi tìm đường cứu nước. Người không lập gia đình để hy sinh tất cả cho
đất nước, non sông. Như vậy, chữ hiếu đã được mở rộng vượt ra ngoài
khuôn khổ chật hẹp của Nho giáo, hoà với chữ Trung là một,và chữ Trung
cũng mang một nội dung hoàn toàn hiện đại, như lời dạy của Bác đối với
quân đội cách mạng.
15


Trung với Đảng, hiếu với dân
Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành
Khó khăn nào cũng vượt qua
Kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Trung và hiếu hai khái niệm hạn hẹp của Nho gia ngày xưa, nay đã
được mở rộng, gắn liền với khái niệm nhân dân, đất nước. Người chiến sĩ
cách mạng lỗi lạc, vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh của chúng ta vốn xuất
thân từ dòng dõi Nho gia nhưng đã vượt qua khỏi vòng cương toả khắc
nghiệt của Nho gia, hiến trọn đời mình vì nước vì dân, nên trở thành bất tử.
…Người không con mà có triệu con
Nhân dân ta gọi người là Bác
Cuộc đời Người là của nước non…

* Trọng dụng người tài:
Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi
trọng người hiền tài” .
… “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh

Nguyên khí yếu thì quốc gia suy”…
Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta,
ngay từ những năm sau kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ,
16


đãcó một tầm nhìn rộng lớn, đề ra và giải quyết nhiều vấn đề vượt trước
thời đại.Ngưới thấu hiểu vai trò của trí thức, đã trân trọng mời nhiều trí
thức việt kiều về xây dựng đất nước.
Ngay từ năm 1946 Người nói đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay sau
khi tuyên bố độc lập 4/10/1945 Người phát động phong trào “Bình dân học
vụ” nhằm chống nạn thất học.
Người khuyên bảo thầy trò ngành giáo dục “Dù khó khăn gian khổ
đến đâu, cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”…
Suốt cuộc đời mình lúc nào Người cũng hết mực chăm lo thế hệ
tương lai của đất nước.Trước lúc phải đi xa, Bác vẫn không quên dặn dò
chu đáo trong di chúc của Người:
…Bồi dưỡng cách mạng đời sau là việc làm rất quan trọng và cần
thiết. Đảng phải chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho họ để họ trở
thành…vừa hồng vừa chuyên…
Vì vậy việc coi trọng giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước chính
là một trong những mục tiêu quan trọng và cấp thiết mà Đảng và nhà nước
ta hết sức quan tâm.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta, ngay cả các địa phương, đã lập ra các
quỹ học bổng , quỹ khuyến học, các giải tài năng trẻ…để giúp đở học sinh,
sinh viên nghèo hiếu học, và đó cũng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng
người hiền tài trong xã hội ngày nay.
“ Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh…”
Đó không chỉ là quy luật muôn đời đúng với từng dân tộc,từng quốc
gia,mà còn luôn luôn mới và đúng trong phạm vi hẹp hơn là ở mỗi địa


17


phương, mỗi tổ chức,thậm chí đúng cả ở phạm vi gia đình là tế bào của xã
hội.
Một thực tế mà chúng ta đã biết Bình Dương xưa vốn là một tỉnh
giàu tìm năng về mọi mặt, nhưng do cơ chế cũ, nên nghèo nàn lạc hậu
chậm phát triển.Từ khi có chủ trương “Chiêu hiền đãi sĩ” “Trãi chiếu hoa
mời gọi đầu tư”đã trở thành một tỉnh công nghiệp phát triển giàu và mạnh.
*Chữ Nhân, Lễ ,Trí, Dũng:
Xin nhắc lại đôi nét về chữ Nhân trong triết học Khổng Tử: Tinh
thần chủ yếu của chử Nhân chính là lòng thương người, là cách sống đối
với mình, đối với người:
“Mình muốn lập thân thì cũng giúp cho người khác lập thân; Mình
muốn thành đạt thì cũng giúp cho người thành đạt, những gì mình không
muốn thì chớ đem đối xử với người” (kỷ sở bất dục,vật thị ư nhân)…
Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt
Nam rất tâm đắc và nó trở thành truyền thống tốt đẹp bao đời nay của dân
tộc ta.
Trong xã hội ngày nay nó vẫn được coi trọng và thể hiện qua cách
hiểu và cách sống: “Mình vì mọi người ,mọi người vì mình” Các phong
trào thực hiện nếp sống văn minh, văn hoá, phong trào đền ơn đáp nghĩa,
uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn hoá “Ôngbà, cha mẹ mẫu
mực con cháu thảo hiền”…Các nghĩa cử tương thân tương ái trong xã hội
như “ Lá lành đùm lá rách”… Đó chính là biểu hiện tốt đẹp của chữ Nhân
trong cả phạm vi rộng và hẹp của xã hội ngày nay.
Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người quân tử, người
cai trị phải có đầy đủ các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa,Trí, Tín,Dũng…
18



Chữ Nhân phải gắn liền với chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để
sửa mình để trị nước, muốn đạt được đức Nhân thì cần phải rất mực chú
trọng đến chữ Lễ.Theo Khổng Tử Lễ chính là những quy phạm, những
nguyên tắc đạo đức của nhà Chu: Vua cho ra vua, tôi cho tôi, cha cho ra
cha, con cho ra con…phải dùng lễ để khôi phục trật tự, phép tắc luân lý xã,
khiến mọi người phải trở về đạo và nhân, trở thành chính danh.. Lễ và
Nhân là hai yếu tố có quan hệ mật thiết không thể tách rời nhau; Nhân là
chất, là nội dung là linh hồn của lễ, lễ là hình thức biểu hiện của Nhân.
Người muốn đạt được đức Nhân, theo Khổng Tử, phải là người có
Trí và Dũng.
Nhờ có Trí con người mới sáng suốt,minh mẫn để hiểu biết đạo
lý,xét đoán được sự vịêc, phân được phải trái, thiện ác để trao dồi đạo đức
và hành động hợp lý với thiên lý.Nhưng muốn đạt được chữ Nhân,có trí
thôi chưa đủ mà cần phải có dũng,dũng không phải ỷ vào sức mạnh, chỉ
biết vì lợi ích cá nhân mà suy nghĩ và hành động bất chấp cả đạo lý.Người
Nhân có Dũng phải là: “ Người có thể tỏ rõ ý kiến mình một cách cao
minh,có thể hành động một cách thanh cao khi vận nước loạn lạc,khi người
đời gặp phải hoạn nạn…” Ngưới Nhân có Dũng mới làm chủ được
mình,mới quả cảm xả thân vì Nhân Nghĩa mới có thể “Lập thân” và “ Đạt
Nhân”;Khi gặp cơn thiếu thốn,cực khổ không nao núng làm mất nhân cách
của mình;khi đầy đủ, sung túc không ngã nghiêng xa rời đạo lý hơn người
Nhân có Dũng sẽ sẵn sàng “Vì Nhân mà sát thân ,chứ không giữ mạng
sống của mình mà hại Nhân”.
Cùng với Nhân, Trí , Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng là phương tiện
để giáo hóa con người góp phần ổn định và phát triển xã hội . Nhạc chính
trực.trang nghiêm, hoà nhã có tác dụng di dưỡng tính tình cảm hoá lòng

19



người, hướng tâm người ta tới cái chân, thiện, mỹ do sự ứng cảm trong tâm
tư với sự hài hoà của âm nhạc.
Khổng Tử cho rằng: “Hưng khởi là nhờ thi tạo lập là nhờ lễ, thành
đạt là nhờ nhạc…”
Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách khái quát: Người cai trị,
người quân tử phải là người có một vốn văn hoá toàn diện.
Ngày nay, những điều đó được thể hiện ở quan điểm toàn diện trong
giáo dục và đào tạo.Trong đạo đức của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy
đủ trong chữ Tài và Đức, Hồng và Chuyên.Hồ chủ tịch dạy.
... “Người có tài mà không có đức là người vô dụng.Người có đức
mà không có tài làm việc gì cũng khó”.
Để được cái tài và đức ấy, mỗi con người cần phải được rèn luyện
ngay từ khi còn nhỏ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chúng ta đã bắt gặp
câu khẩu hiệu: “Tiên học lễ hậu học văn” trong các trường học, cùng với
năm điều Bác dạy thiếu niên nhi đồng
Yêu Tổ quốc yêu đồng bào
Học tập tốt lao động tốt
Đoàn kết tốt kỷ luật tốt
Giữ gìn vệ sinh thật tốt
Khiêm tốn thật thà dũng cảm
Đó chính là nội dung giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ Việt Nam

20


Đối với người cán bộ, người lãnh đạo trước hết phải tu thân, để trở
thành con người toàn diện phải thực sự gương mẫu về mọi mặt. Hồ chủ
Tịch dạy phải cần kiệm liêm chính, phải chí công vô tư, xứng đáng là đầy

tớ trung thành của nhân dân.
*Tư tưởng Nhân chính, Bảo dân:
Mạnh Tử là người kế thừa chính thống học thuyết của Khổng Tử.
Trên cơ sở học thuyết về “tính thiện’’ và “Nhân trị” của Khổng Tử, Ông
đề ra tư tưởng “Nhân chính” trong phương pháp trị nước. Đặc biệt Ông có
quan niệm mới mẻ và hết sức sâu sắc về vấn đề dân quyền:
… “Dân di quý, xã tắc thứ chi quân vi khinh”
Vì theo Ông, có dân mới có nước, có nước mới có vua thậm chí dân
quan trọng hơn vua.Nếu không có sự ủng hộ của dân, thì chế độ sớm muộn
sẽ sụp đổ; Vua nếu không hợp lòng dân và ý trời, thì trước sau cũng sẽ bị
phế bỏ…
Mạnh Tử cũng chủ trương một chế độ “Bảo dân’’ người cai trị phải
lo cái lo của dân,vui cái vui của dân,tạo cho dân của cải ruộng đất, sản
nghiệp và cuộc sống bình yên no đủ.Việc vua Nghiêu,Vua Thuấn được
thiên hạ là do được lòng dân. Còn Vua Kiệt,Vua Trụ mất thiên hạ là do mất
lòng dân.
Học thuyết về chính trị, xã hội với tư tưởng nhân chính, bảo dân có ý
nghĩa tiến bộ phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lực lượng xã
hội.Chính vì vậy một số học giả coi Mạnh Tử là người có tư tưởng dân chủ.
Từ mấy trăm năm trước, Nguyễn Trãi cũng từng nói :
… “ Lật thuyền mới biết dân như nước”

21


Cách đây vài mươi năm, đồng chí Trường Chinh một trong những vị
lãnh đạo cao cấp của Đảng cũng đã chỉ ra rằng phải lấy dân làm gốc trong
sự nghiệp đổi mới…
* Thuyết chính danh:
Thuyết chính danh xưa của Nho gia, nếu xét theo những khía cạnh

tiến bộ và tích cực của nó vẫn hết sức cần thiết trong xã hội hiện nay
Theo Khổng Tử xã hội loạn lạc do Danh –Thực rối loạn,dẫn đến xã
hội xa rời đạo lý và nhân nghĩa.Ông chủ trương phải giáo hoá đạo đức và
thực hiện chủ nghĩa “ chính danh,định phận’’, vì mọi người, mỗi vật sinh ra
đều có địa vị, công dung nhất định, ứng với một tên gọi nhất định
… “Chính danh là làm việc cho ngay thẳng”
… “Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của
người ấy;
Trên dưới, vua tôi cha con, trật tự phân minh”
… “Danh không chính thì ngôn không thuận;
… Ngôn không thuận thì việc không thành”
Vì vậy từ cán bộ lãnh đạo cho đến thứ dân,người nào cũng phải trọn
trách nhiệm của người ấy,cho đúng với danh vị và chức phận của mình
Nếu mọi người trong xã hội chúng ta ngày nay đều xứng đáng,đều
tuân thủ đúng với danh vị và chức phận của mình thì xã hội tất sẽ không rối
loạn không có nạn tham nhũng,hối lộ, tham ô và không có những tệ nạn
tiêu cực, xấu xa hủ bại.

22


Biết bao thế hệ thầy và trò đã trưởng thành,đã đóng góp tài năng,trí
lực,và cả xương máu của mình vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc. Ngành giáo dục thực sự đã có công rất lớn trong việc
đào tạo ra những thế hệ xứng đáng với dân tộc chúng ta.
Khi chiến tranh chấm dứt đã được khá lâu ,chuyện trường và lớp vẫn
chưa được biến đổi nhiều. Đó là do hậu quả của chiến tranh,và còn rất
nhiều nguyên nhân quan trọng khác.Nhưng có điều đáng nói là ở chổ ;chữ
Tài và chữ Đức trong trường học và trong nhiều lãnh vực…gây nhiều mối
lo ngại cho các bậc phụ huynh và cho toàn xã hội. Việc học sinh bỏ học,vô

lễ,thậm chí phạm pháp…gần như diễn ra ở rất nhiều nơi…Chữ Lễ đã mất
đi giá trị đích thực của nó. Do những chuyện tiêu cực trong việc dạy và
học còn tồn tại khá nhiều, cho nên dẫn đến việc trò chưa đạt chất
lựơng.Thầy chưa đạt chuẩn hoá. Đã có một thời gian dài việc giáo dục và
rèn luyện đạo đức cho học sinh là vấn đề hàng đầu mà ngành giáo dục phải
quan tâm.
3.Hạn chế của Nho giáo:
• Nho giáo với tinh thần “Trọng nam khinh nữ”, trói buộc người phụ
nữ trong bếp núc gia đình, gạt bỏ phụ nữ khỏi công việc chung của xã hội
Cách mạng đã xóa bỏ tư tưởng lạc hậu đó, mở cửa cho người phụ nữ ra xã
hội cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và
quản lý đất nước.
• Nho giáo luôn hoài niệm về quá khứ, đời nay không bằng đời xưa,
người ít tuổi không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng thì ngược lại, luôn
luôn nhìn về phía trước, đặt niềm tin vào thanh niên và là tiền đồ của dân
tộc.

23


• Nho giáo và tính bảo thủ của nó ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, thể
hiện nghiêm trọng ở : Chủ nghĩa quan liêu trong giới cầm quyền, chủ nghĩa
bình quân trong nông dân, chủ nghĩa giáo điều trong giới trí thức. Việc
khắc phục những bệnh này, cần phải có thời gian và những biện pháp tích
cực.
•Trong vấn đề gia đình, Nho giáo có những kiến giải hợp lý, nhưng
cũng có không ít tiêu cực, gây tác hại không nhỏ trước đây và còn để lại
hậu quả cho đến ngày hôm nay. Trên thực tế, Nho giáo tuyệt đối hóa quyền
của nhà Vua trong xã hội và của người cha trong gia đình, cha không từ,
nhưng con không thể không hiếu. Xuất phát từ quan điểm huyết thống và

từ thái độ coi rẻ phụ nữ, Nho giáo đặt tình nghĩa anh em cao hơn tình nghĩa
vợ chồng, phụ nữ là người phải hứng chịu nhiều nhất những đau khổ, thiệt
thòi do chế độ hà khắc, bất công và bất bình đẳng trong xã hội, trong gia
đình gây nên. Theo đạo lý về “tiết hạnh”, người đàn ông có thể năm thê bảy
thiếp nhưng đàn bà thì không được lấy hai chồng, cũng ví như bậc trung
thần không thể thờ hai vua, kể cả những bà góa, nghèo đói không nơi
nương tựa nhưng cũng không được đi bước nữa.
Hồ Chí Minh đã khai thác nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù
hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có
những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết
quý báu của các đời trước để lại” .

24


KẾT LUẬN
1. Đánh giá: Ảnh hưởng của nho giáo đối với nước ta hiện nay
1.1 Những ảnh hưởng tích cực
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ
phong kiến. Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt
Nam đã tiếp thu nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời
kỳ Phật giáo giữ vai trò chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo
càng chiếm ưu thế và trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong
kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong
kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu
rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ
sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó
vẫn còn.
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử
nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định

chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ
bậc, theo khuôn phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo
có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày
nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có
pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp
thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính
dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được
nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong
các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức
cá nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có
chức, quyền). G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức
được một thực tế là những người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức
thì không thể cai trị được nhân dân. Cho nên đạo đức là một phương tiện để
25


×