Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

ngôn từ nhân vật trong số đỏ của vũ trọng phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.09 KB, 92 trang )

NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN

THÁI THỊ KIỀU LAN
MSSV:6116183

NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Chim Văn Bé

Cần Thơ, 2014

GVHD: Chim Văn Bé

1

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA


VŨ TRỌNG PHỤNG
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ VỀ LÝ THUYẾT HỘI
THOẠI VÀ LÝ THUYẾT HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ

A. Về lý thuyết hội thoại
I. Quan điểm của Nguyễn Đức Dân
1. Về khái niệm hội thoại
2. Về cấu trúc hội thoại
3. Về nguyên lý hội thoại
II. Quan điểm của Đỗ Hữu Châu
1. Về khái niệm hội thoại
2. Về vận động hội thoại
2.1. Sự trao lời
2.2. Sự trao đáp
2.3. Sự tương tác
3. Về quy tắc hội thoại
III. Quan điểm của Chim Văn Bé
1. Về hội thoại
1.1. Về khái niệm hội thoại
1.2. Về cấu trúc của hội thoại

GVHD: Chim Văn Bé


2

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

1.3. Về nguyên tắc cộng tác hội thoại
2. Về độc thoại nội tâm
3. Hệ quy chiếu trong việc đánh giá ngôn từ nhân vật
B. Về lý thuyết hành động ngôn từ
I. Quan điểm của Đỗ Hữu Châu
1. Các hành vi ngôn ngữ
1.1. Hành vi tạo lời
1.2. Hành vi mượn lời
1.3. Hành vi ở lời
2. Điều kiện sử dụng hành vi ở lời
3. Hành vi ở lời gián tiếp
II. Quan điểm của Chim Văn Bé
1. Hành động tạo lời
2. Hành động trong lời
3. Hành động qua lời
C. Một số nhận xét ban đầu về quan niệm của các tác giả
1. Về lý thuyết hội thoại
2. Về lý thuyết hành động ngôn từ
3. Về độc thoại nội tâm
CHƯƠNG II. NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG
PHỤNG

I. Sơ lượt về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng

1. Cuộc đời
2. Sự nghiệp sáng tác
II. Tiểu thuyết Số đỏ
III. Phân tích ngôn từ nhân vật trong tiểu thuyết Số đỏ
1. Ngôn từ đối thoại
1.1. Ngôn từ đối thoại của nhân vật Xuân Tóc Đỏ

GVHD: Chim Văn Bé

3

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

1.2. Ngôn từ đối thoại của một số nhân vật khác
2. Độc thoại nội tâm
2.1 . Ngôn từ độc thoại của nhân vật Xuân Tóc Đỏ
2.2 . Ngôn từ độc thoại của một số nhân vật khác
3. Nhận xét chung
PHẦN KẾT LUẬN

GVHD: Chim Văn Bé

4

SV: Thái Thị Kiều Lan



NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học giai đoạn năm 1930 - 1945 là một trong những giai đoạn phát triển
mạnh mẽ, có nhiều thành tựu đáng chú ý. Để đạt được thành tựu này đã có sự đóng
góp không nhỏ của các nhà văn, trong đó có Vũ Trọng Phụng. Nhằm hiểu rõ hơn về
phong cách, đặc điểm sáng tác của nhà văn cũng như đề tài, chủ đề mà tác giả muốn
hướng đến. Bên cạnh đó, chúng ta có thể biết được đặc điểm khái quát của văn học
ở giai đoạn này. Đồng thời, ta có thể phát hiện ra bản chất của con người và cuộc
sống của giai đoạn trước qua cách sử dụng ngôn từ của nhân vật và một số khía
cạnh khác.
Khi đọc hay nghiên cứu bất kỳ một tác phẩm văn học nào cũng vậy, để hiểu
được nội dung và ý nghĩa mà tác phẩm muốn gởi đến, một trong những điều quan
tâm trước tiên của người đọc là tìm hiểu về nhân vật xoay quanh đề tài và chủ đề
được nói đến. Thông qua ngôn ngữ của nhân vật, chúng ta có thể nắm bắt được tính
cách, cũng như đặc điểm của mỗi nhân vật trong tác phẩm. Từ đó thấy được nội
dung, ý nghĩa của tác phẩm và cả tư tưởng trong tác phẩm của tác giả.
Đồng thời, với đề tài này có thể giúp tôi rèn luyện được khả năng nắm bắt, phân
tích nhân vật và tác phẩm. Chính những lý do trên đã khiến tôi say mê, tìm tòi
nghiên cứu đề tài. Vì thế, tôi nghĩ đây cũng là một đề tài đáng được quan tâm khai
khác, tìm hiểu ở nhiều khía cạnh, để thấy được những cái hay, và những cống hiến
tích cực của tác giả. Cũng như không để bó xót những đóng góp mà nhà văn đã đem
đến cho cuộc đời, cho con người và xã hội.

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về lý thuyết hội thoại và lý thuyết hành động ngôn từ
Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn học là một vấn đề được nhiều nhà nghiên
cứu ở nước ngoài cũng như trong nước quan tâm đến. Tuy có nhiều nghiên cứu về
vấn đề này, nhưng hầu hết các bài nghiên cứu chỉ chạm tới một hay một số khía

cạnh nào đó, chứ chưa thật sự hoàn chỉnh.
Một số tác giả nước ngoài trong lĩnh vực ngôn ngữ có nghiên cứu hoặc vô tình
nhắc đến trong một số đề tài nghiên cứu khác như, về lý thuyết hội thoại có Sacks

GVHD: Chim Văn Bé

5

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
và Schegloff, J.Austin, H.P.Grice… hay ở lý thuyết hành động ngôn từ có J.Austin,
Searle…
Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả tiếp thu các công trình nghiên cứu ở nước
ngoài và có nghiên cứu thêm, như Nguyễn Đức Dân, Đỗ Hữu Châu, Chim Văn
Bé…
Trong Ngữ dụng học của Nguyễn Đức Dân, ông đã chạm đến hai vấn đề là hội
thoại và hành vi ngôn ngữ.
Đỗ Hữu Châu cũng vậy, trong Đại cương ngôn ngữ học cũng bàn đến lý thuyết
hội thoại và hành vi ngôn ngữ.
Ở nghiên cứu của hai tác giả này đã giải quyết được một số vấn đề của hội thoại
và hành vi ngôn ngữ. Mặc dù, cũng có rất nhiều chỗ bị trùng lập và thiếu sót. Tuy
nhiên, với hai công trình này, đã giúp chúng ta có thể hiều được một cách khái quát
về hội thoại cũng như về hành vi ngôn ngữ. Bên cạnh đó, chúng có thể làm cơ sở
cho các nghiên cứu sau được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Trong Ngôn ngữ văn chương Việt Nam của Chim Văn Bé, ông đã thật sự chạm
đến những vấn đề lớn của ngôn ngữ truyện, trong đó có ngôn từ kể chuyện và ngôn
từ nhân vật. Với phạm vi nghiên cứu của đề tài này tôi chỉ tìm hiểu về ngôn từ nhân
vật. Trong nghiên cứu của ông, ngôn từ nhân vật bao gồm ngôn từ hội thoại và ngôn

từ độc thoại. Trên cở sở của lý thuyết hội thoại và lý thuyết hành động ngôn từ ông
đã chỉ ra đặc điểm của hai loại ngôn từ này. Đồng thời chỉ ra những chức năng của
chúng.
Qua những công trình nghiên cứu trên phần nào cho chúng ta thấy được tầm
quan trọng của ngôn từ nhân vật trong một tác phẩm. Dựa trên lý thuyết và cơ sở
của những công trình nghiên cứu này giúp chúng ta có thể khảo sát nội dung của
mỗi tác phẩm tốt hơn.
2.2. Về ngôn ngữ nghệ thuật của Số đỏ
Vũ Trọng Phụng là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945. Ông đã có nhiều đóng góp tích cực cho văn xuôi theo
khuynh hướng hiện thực phê phán. Chính vì vậy mà tác phẩm của ông luôn được
nhiều người chú ý đến và tìm hiểu. Số đỏ là một trong những tác phẩm xuất sắc của

GVHD: Chim Văn Bé

6

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
ông, vì thế nó cũng không nằm ngoài sự quan tâm và nghiên cứu của các tác giả.
Tuy nhiên hầu hết những bài nghiên cứu này đa phần nghiên về xem xét mặt nội
dung của tác phẩm, ít khi quan tâm đến vấn đề ngôn từ được sử dụng trong tác
phẩm. Một vài bài nghiên cứu đã bàn về vấn ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết Số
đỏ như Những lớp sóng ngôn từ trong Số đỏ của Đỗ Đức Hiểu in trong Số đỏ tác
phẩm và dư luận đã chỉ ra đặc điểm ngôn từ sử dụng trong tác phẩm, đó là ngôn từ
thành thị. Theo ông: “Số đỏ theo tôi hiểu, là một hiện tượng ngôn từ hết sức độc
đáo, đánh dấu thời đại.” Ông cho rằng: “Tóm lại, là một hiện tượng ngôn từ. Số đỏ
là một hiện thực vật liệu, một hiện tượng ngôn từ. Số đỏ là một hiện thực vật thể,

một hiện thực ngôn ngữ học, một hiện thực sống động, với những ý hướng xung đột
nhau, đối thoại với nhau, một liên kết văn bản mang nhiều lớp nghĩa.” Đồng thời ,
ông đã chỉ ra những từ ngữ sử dụng quen thuộc của một số nhân vật để thấy được
đặc điểm xã hội trong bối cảnh lúc bấy giờ.
Tuy có nhiều nghiên cứu và nhận xét về Số đỏ, nhưng phần lớn các tác giả đều
chú ý mặt nội dung của tác phẩm, như: Tiểu thuyết Số đỏ và tài nghệ của Vũ Trọng
Phụng của Nguyễn Đăng Mạnh, Đánh giá lại Số đỏ của Phan Cự Đệ, hay một số
nghiên cứu về văn học giai đoạn 1900 – 1945 cũng nhắc bàn đến Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng… Chính vì vậy mà, việc tìm hiểu ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm
Số đỏ nên được nghiên cứu và tìm hiểu nhiều hơn.

3. Mục đích, yêu cầu
Ngôn từ nhân vật trong truyện của Vũ Trọng Phụng là một đề tài hay, bổ ích. Nó
không chỉ góp phần cung cấp thêm những kiến thức về tác giả cũng như tác phẩm,
mà còn làm tăng thêm khả năng phân tích tác phẩm. Để nắm vững tính cách nhân
vật, phân tích được những trạng thái tâm lý phát hiện ra được những cái độc đáo của
nhân vật, cái hay của tác phẩm và giải quyết được những vấn đề đặt ra trong tác
phẩm nói riêng, hiểu chính xác và cảm nhận sâu sắc, tinh tế hơn về tác phẩm nói
chung. Nhờ đó chúng ta có thể hiểu được cá tính, đặc điểm của con người ở thời đại
này. Đồng thời thấy được những công lao, cống hiến của tác giả đối với con người,
với xã hội và cả với nền văn học của nước nhà.

4. Phạm vi nghiên cứu

GVHD: Chim Văn Bé

7

SV: Thái Thị Kiều Lan



NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Nội dung nghiên cứu ở đề tài này chủ yếu xoay quanh ngôn ngữ của nhân vật
trong tác phẩm Số đỏ. Tập trung vào hai vấn đề chính là ngôn ngữ hội thoại và độc
thoại nội tâm của nhân vật. Từ đó hiểu được tính cách của nhân vật trong tác phẩm.
Thông qua đó, chúng ta sẽ có cảm nhận sâu sắc hơn vể con người ở thời đại này.
Đồng thời, tìm ra được nội dung và ý nghĩa của tác phẩm mà tác giả muốn phản
ánh, gởi đến.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để biết được tính cách, hiểu được nhân vật cũng như nắm bắt được nội dung của
tác phẩm nhanh chóng và dễ dàng khi tiếp xúc với bất kỳ một tác phẩm nào, đầu
tiên chúng tôi lần lượt tìm hiểu, khảo sát tác phẩm, sau đó triển khai làm sáng tỏ vấn
đề với những phương pháp sau:
Phương pháp so sánh: Đối chiếu các sự kiện ngôn ngữ hay ngôn từ để phát hiện
ra những điểm tương đồng và dị biệt, qua đó nhận thức sâu sắc hơn về đặc trưng,
bản chất của sự kiện ngôn ngữ trong tác phẩm.
Phương pháp phân tích: Từ những lượt lời, cuộc thoại và những câu, những
đoạn độc thoại nội tâm đã khảo sát, tiến hành chia tách sự kiện ngôn ngữ hay ngôn
từ mang tính chất toàn thể này ra các thành tố thuộc nhiều cấp độ, đồng thời xem
xét mối quan hệ nhiều mặt giữa các thành tố. Qua đó phát hiện ra chức năng, giá trị
của các thành tố trong sự kiện ngôn ngữ hay ngôn từ để tiến hành lý giải, làm sáng
tỏ nội dung của tác phẩm.
Phương pháp tổng hợp: Sau khi phân tích các đặc điểm, ý nghĩa của các câu, các
đoạn hội thoại, độc thoại chúng tôi tiến hành gắn kết, hợp nhất nội dung của các
đoạn thoại để tìm ra đặc trưng, bản chất hay đó chính là ý nghĩa của tác phẩm, nội
dung mà tác giả muốn gởi đến.

GVHD: Chim Văn Bé


8

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ VỀ LÝ THUYẾT
HỘI THOẠI VÀ LÝ THUYẾT HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ
A. VỀ LÝ THUYẾT HỘI THOẠI
Khi xem xét ngôn từ nhân vật, ngoài việc phân tích những đoạn độc thoại,
không thể nào không chú ý đến những cuộc thoại giữa các nhân vật. Vì thế, việc tìm
hiểu về lý thuyết hội thoại là điều cần thiết trước khi tiếp xúc với bất kì một tác
phẩm nào. Một số tác giả như Nguyễn Đức Dân, Đỗ Hữu Châu, Chim Văn Bé… đã
có những đóng góp quan trọng ở phương diện này. Chính vì vậy, trong luận văn này
chúng tôi sẽ lần lượt điểm qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trên.

I. Quan điểm của Nguyễn Đức Dân
1. Về khái niệm hội thoại
Trong Ngữ dụng học, khi đề cập đến hội thoại Nguyễn Đức Dân đã cho rằng:
“Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó vai
trò của hai bên thay đổi: Bên nghe trở thành bên nói và bên nói trở thành bên nghe.
Đó là hội thoại” [4, tr. 76]. Ông còn cho rằng mục đích cuối cùng của hội thoại là
tạo ra được tiếng nói chung giữa hai người đối thoại hội.
Theo Nguyễn Đức Dân, đặc điểm khái của một cuộc thoại bao gồm đặc điểm
nội tại và đặc điểm bên ngoài. Đặc điểm nội tại bao gồm: sự tương tác qua lại, sự
liên kết, tính mục đích. Đặc điểm bên ngoài: số lượng người tham dự, quan hệ giữa
những người tham dự, chu cảnh.


2. Về cấu trúc hội thoại
Cấu trúc hội thoại được Nguyễn Đức Dân trình bày trong phần Lý thuyết hội thoại
in trong Ngữ dụng học, bao gồm: Lượt lời, mở thoại, cặp thoại, lượt lời ưa dùng, lời
chêm xen, sự liên kết các phát ngôn, hành vi ngữ dụng và những nghi thức.
Trong đó, lượt lời được ông định nghĩa và giải thích rất rõ: “Đơn vị cơ bản của
hội thoại là lượt lời. Đó là một lần nói xong của một người trong khi những người
khác không nói, để rồi đến lượt một người tiếp theo nói. Sẽ không thành lượt lời nếu

GVHD: Chim Văn Bé

9

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
nhiều người cùng nói một lúc.” [4, tr. 92] Ông chỉ ra trường hợp ngoại lệ là khi một
đám đông đứng trước một cá nhân trong một hội thoại xung tụng, thề nguyền trong
các lễ nghi tôn giáo, đồng thanh hô, hò.
Theo ông, mỗi lượt lời được xây dựng trên cơ sở những lượt lời trước đó. Vậy là
có sự luân phiên lời, luân phiên nói năng trong hội thoại. Đó là một nguyên lí hội
thoại.
Nguyễn Đức Dân cũng đưa ra khái niệm mở thoại, theo ông: “Có những lời nói
được dùng trong một lúc nào đó để người khác cảm nhận được sẽ có một hoặc một
chuỗi những lời nói tiếp theo. Lời nói đó là mở thoại” [4, tr. 92].
Ông cho rằng, mở thoại chưa bước vào cuộc thoại, bởi nó chưa thực sự có nội
dung mệnh đề. Nói đúng hơn, những ý nghĩa câu chữ của lời mở thoại không vì
mục đích chủ yếu mà người nói muốn biểu hiện, mà nó chỉ là lời thăm dò, tạo
không khí thuận lợi khi bước vào cuộc thoại. Đó chỉ là một thủ tục hình thức nên nó
không ngang tầm quan trọng như những lượt lời tiếp theo. Vì lời mở thoại đóng vai

trò thứ yếu trong giao tiếp có khi người ta có thể bỏ qua, không đáp lại lời mở thoại
mà đi ngay vào chủ đề - vấn đề chính của cuộc thoại.
Nguyễn Đức Dân giải thích: Trong hội thoại, mỗi phát ngôn đều có quan hệ trực
tiếp đến những phát ngôn đi trước hoặc nó định hướng cho những phát ngôn tiếp
theo sau. Vậy đã gây ra hành vi ngôn ngữ. “Các hành vi ngôn ngữ không đứng biệt
lặp, hành vi này kéo theo hành vi kia, lượt lời này kéo theo lượt lời kia. Vì thế hình
thành khái niệm “cặp thoại” [4, tr. 96]. Đồng thời, các cặp thoại không phải được
nói ra một cách ngẫu nhiên, tùy tiện. Chúng được tổ chức, thực hiện theo một quy
cách chặt chẽ, tuân theo những quy tắc chi phối hội thoại, lượt lời thứ nhất có chức
năng định hướng cho lượt lời thứ hai, hai mệnh đề có quan hệ mật thiết với nhau.
Bên cạnh đó, ông còn nhắc đến sự im lặng, cho rằng nó cũng có những ý nghĩa nhất
định. Với lượt đầu là câu mệnh lệnh, sự im lặng sẽ biểu hiện thái độ không đồng ý
thực hiện.

3. Về nguyên lý hội thoại

GVHD: Chim Văn Bé

10

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Ở nguyên lý cộng tác hội thoại, Nguyễn Đức Dân đã theo quan niệm của
H.P.Grice cho rằng: Nguyên lý cộng tác gồm một nguyên lý khái quát bao trùm và
bốn tiểu nguyên lý hay bốn phương châm.
Nguyên lý cộng tác: Hãy làm cho phần đóng góp của mình ở giai đoạn mà cuộc
thoại được xem xét đúng như mục đích hay phương hướng mà cuộc thoại đòi hỏi và
mình đã chấp nhận tham gia.

Phương châm lượng:
Hãy làm cho phần đóng góp của mình có lượng tin đúng như nó được đòi hỏi cho
mục đích của cuộc thoại.
Đừng đóng góp lượng tin của mình nhiều hơn điều mà nó được đòi hỏi.
Phương châm chất:
Đừng nói điều mà mình tin là sai.
Đừng nói điều mà mình không có bằng chứng chính xác.
Phương châm quan hệ:
Hãy đóng góp những điều có liên quan.
Phương châm cách thức:
Hãy nói cho rõ ràng, đặc biệt là:
 Tránh tối nghĩa.
 Tránh mơ hồ.
 Ngắn gọn.
 Có mạch lạc.
Sự cố tình quy phạm các phương châm hội thoại. Đó là một chiến thuật giao
tiếp: Lúc đó, người ta đã dùng công cụ ngôn ngữ để thể hiện điều mình muốn nói,
tức hàm ý, hoặc để tác động và cũng có thể để gây mơ hồ [4, tr. 130].

II. Quan điểm của Đỗ Hữu Châu
1. Về khái niệm hội thoại
Trong Đại cương ngôn ngữ học, khi đề cập đến “Lý thuyết hội thoại” Đỗ Hữu
Châu đã đưa ra khái niệm: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến
của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác”
[3, tr. 201].

GVHD: Chim Văn Bé

11


SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Ông chỉ ra sự khác nhau của các cuộc thoại về: Đặc điểm thoại trường, số lượng
người tham gia, cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại và tính có
hình thức hay không có hình thức của các cuộc thoại.

2. Về vận động của hội thoại
Đỗ Hữu Châu cho rằng, trong bất cứ cuộc hội thoại nào cũng có ba vận động
chủ yếu:
2.1. Sự trao lời
Theo Đỗ Hữu Châu, chuỗi đơn vị ngôn ngữ được một nhân vật hội thoại nói ra,
kể từ lúc bắt đầu đến lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói chuỗi của mình
là một lượt lời. Ký hiệu Sp để chỉ người tham gia vào hội thoại, Sp1 là vai nói, Sp2
là vai nghe. Sp1, Sp2, Spn là các đối tác hội thoại.
Ông cho rằng, trao lời là vận động mà Sp1 nói lượt lời của mình ra và hướng
lượt lời của mình về phía Sp2 nhằm làm cho Sp2 nhận biết được rằng lượt lời được
nói ra đó dành cho Sp2. Trong một song thoại, vấn đề xác định Sp2 không đặt ra
bởi vì chỉ có một người nói và một người nghe. Nhưng đối với những cuộc đa thoại
thì vận động trao lời có khi hướng vào toàn thể người nghe trong cuộc hội thoại,
nhưng cũng có khi chỉ nhằm vào một (hoặc một số) người trong toàn bộ người
nghe. Trong trường hợp này, lượt lời của Sp1 phải có những dấu hiệu để báo cho
những người nghe đương trường biết ai là người đích thực của lượt lời đó.
2.2. Sự trao đáp
Theo Đỗ Hữu Châu, cũng như sự trao lời, sự hồi đáp có thể thực hiện bằng các
yếu tố phi lời và bằng lời, thường thường thì hai yếu tố này đồng hành với nhau.
Ông cho rằng, tất cả các hành vi ngôn ngữ đều đòi hỏi sự hồi đáp. Sự hồi đáp có
thể bằng các hành vi ngôn ngữ tương thích với hành vi dẫn nhập lập thành cặp như
hỏi/ trả lời, chào/ chào, cầu khiến/ nhận lời hoặc từ chối, cám ơn/ đáp lời, xin lỗi/

đáp lời mà sau này sẽ được gọi là cặp kế cận, mà cũng có thể được thực hiện bằng
những hành vi bất kì, nhưng không tương thích với hành vi dẫn nhập. Ngay cả
những hành vi tự thân không đòi hỏi sự hồi đáp như hành vi cảm thán hay khảo
nghiệm vẫn cần được hồi đáp [3, tr. 208].

GVHD: Chim Văn Bé

12

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Tất nhiên có những diễn ngôn mà người nghe không thể hồi đáp được như
những diễn ngôn viết, những diễn ngôn trong những cuộc hội thoại mà người nghe
không đương diện hoặc những cuộc hội thoại miệng trong đó người nghe không có
quyền hồi đáp nếu không được phép như lời tuyên án của quan tòa. Tuy nhiên đây
là nói sự hồi đáp trực tiếp, đương trường. Trong chiều sâu, những diễn ngôn trên
vẫn phải tính đến khả năng cũng như cách thức hồi đáp có thể của người tiếp nhận.
Nói khác đi khi nói ra những diễn ngôn này, người nói vẫn phải dự tính đến sự hồi
đáp của người tiếp nhận để nói ra sao cho không thể phản bác được nếu người tiếp
nhận muốn phản bác [3, tr. 209].
2.3. Sự tương tác
Đỗ Hữu Châu cho rằng, trong hội thoại, các nhân vật hội thoại ảnh hưởng lẫn
nhau, tác động qua lại với nhau làm biến đổi lẫn nhau. Trước cuộc hội thoại giữa
các nhân vật có sự khác biệt, đối lặp, thậm chí trái ngược về các mặt (hiểu biết, tâm
lý, tình cảm, ý muốn). Không có sự khác biệt này thì giao tiếp bằng thừa. Trong hội
thoại và qua hội thoại những khác biệt này giảm đi hoặc mở rộng ra, căng lên có khi
thành xung đột [3, tr. 209].
Ông cho rằng, trong hội thoại, nhân vật hội thoại cũng là nhân vật tương tác. Họ

tác động lẫn nhau về mọi phương diện, đối với ngữ dụng học quan trọng nhất là tác
động đến lời nói của nhau. Liên tương tác trong hội thoại trước hết là liên tương tác
giữa các lượt lời của Sp1 và Sp2… Như thế, lượt lời vừa là cái chịu tác động vừa là
phương diện mà Sp1, Sp2 sử dụng để gây ra tác động đối với lời nói và qua lời nói
mà tác động đến tâm lý, sinh lý, vật lý của nhau [3, tr. 209].

3. Về quy tắc hội thoại
Đỗ Hữu Châu đã tán thành và dẫn lại các quy tắc hội thoại của C.K. Orecchioni.
Theo ông, một cuộc thoại được điều hành bởi các quy tắc sau: Quy tắc điều hành
luân phiên lượt lời, quy tắc điều hành nội dung của hội thoại, quy tắc chi phối quan
hệ liên cá nhân – phép lịch sự.

III. Quan điểm của Chim Văn Bé
Trong Ngôn ngữ văn chương Việt Nam khi bàn đến ngôn từ nhân vật, Chim Văn
Bé đã cho rằng: Trong truyện, ngôn từ nhân vật được xem là ngôn ngữ trực tiếp.

GVHD: Chim Văn Bé

13

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Theo ông, ngôn từ nhân vật được thể hiện qua hình thức hội thoại và độc thoại nội
tâm.

1. Về hội thoại
1.1. Về khái niệm hội thoại
Theo Chim Văn Bé, “hội thoại là một quá trình tương tác trực tiếp bằng lời

giữa những người đang tham gia vào hoạt động giao tiếp, diễn ra trong một hội
trường (không gian, thời gian) cụ thể, xoay quanh đề tài và chủ đề nào đó”
[1, tr. 26]. Đồng thời ông còn cho rằng, sản phẩm hoàn chỉnh của một quá trình hội
thoại là ngôn bản hội thoại, còn đơn vị cơ sở của ngôn bản hội thoại là đoạn ngôn
hay đoạn thoại.
1.2. Về cấu trúc của hội thoại
Cấu trúc hội thoại được Chim Văn Bé xem xét ở hai phương diện tĩnh và động.
Ông cho rằng ở phương diện động, hội thoại diễn ra như một quá trình vận động. Ở
phương diện tĩnh, hội thoại được xem xét như là sản phẩm ngôn từ đã được tạo tác.
Trong Ngôn ngữ văn chương Việt Nam, ông đã xem xét cả hai phương diện của cấu
trúc hội thoại thể hiện qua đoạn thoại.
1.2.1. Mở thoại
Mở thoại của một cuộc hội thoại theo quan niệm của Chim Văn Bé là “hành
động nói ra lượt lời nhằm mục đích đưa đẩy, dẫn dắt vào cuộc thoại” [1, tr. 27].
Ngoài ra ông còn dẫn ra ví dụ cho cách mở thoại gián tiếp như là chào, hỏi thăm sức
khỏe và mở thoại trực tiếp bằng cách đề nghị đối tác trao đổi ý kiến về đề tài nào
đó. Ông chỉ ra lượt lời thực hiện chức năng mở thoại gọi là lời mở thoại. Lời mở
thoại có thể là toàn bộ hay một bộ phận nào đó trong lượt lời được nói ra.
1.2.2. Trao lời
Chim Văn Bé cho rằng, trao lời là “hành động nói ra và hướng lượt lời của mình
đến đối tác”[1, tr. 27]. Ông chỉ ra mỗi lượt lời là một phát ngôn, có thể tương
đương với một từ, một câu hay một chuỗi câu dài, và xác định sản phẩm của hành
động trao lời là lời trao.
1.2.3. Đáp lời

GVHD: Chim Văn Bé

14

SV: Thái Thị Kiều Lan



NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Đáp lời theo quan niệm của Chim Văn Bé là “hành động nói ra lượt lời của
mình nhằm hồi đáp lại hành động trao lời của đối tác. Sản phẩm của hành động
đáp lời là lời đáp” [1, tr. 127].
1.2.4. Xen lời
Xen lời là hành động ngắt lời, nói chen vào khi đối tác chưa kết thúc lượt lời.
Kết quả của hành động xen lời là lời xen [1, tr. 129].
1.2.5. Kết thoại
Khi xem xét về cấu trúc của cuộc thoại, Chim Văn Bé cho rằng kết thoại là hành
“động kết thúc cuộc thoại”[1, tr. 129]. Theo ông chúng ta có thể kết thúc cuộc thoại
bằng cách thông báo trực tiếp, hay bằng lời chào, lời hẹn. Lời kết thoại có thể xuất
hiện thành một cặp hô - ứng với nhau. Đó là trường hợp cả hai đối tác đều bất đồng
ý kết thúc cuộc trò chuyện. Tuy nhiên, trong truyện, do ý đồ nghệ thuật của nhà văn
chi phối, những đoạn thoại có lời mở thoại và lời kết thoại xuất hiện không nhiều,
thường gặp là các cặp trao – đáp. Những lời trao đó xuất hiện không ngẫu nhiên, mà
gắn liền với ý đồ nghệ thuật nào đó của nhà văn. Ông còn chỉ ra sản phẩm của hành
động kết thoại là lời kết thoại.
1.3. Về nguyên tắc cộng tác hội thoại
Theo ông, trong quá trình tham gia giao tiếp, để đạt mục đích, người nói phải
tuân thủ một số nguyên tắc. Đó là nguyên tắc điều hành sự luân phiên lượt lời,
nguyên tắc điều hành nội dung giao tiếp, nguyên tắc về phép lịch sự.
Chim Văn Bé đã dẫn ra nguyên tắc cộng tác hội thoại của Grice, để đảm bảo
nguyên tắc này, người nói phải tuân thủ một số tiểu nguyên tắc, được chia thành
bốn phạm trù, mỗi phạm trù có “siêu phương châm” phương châm và các tiểu
phương châm:
Phương châm về lượng:
Hãy làm cho phần đóng góp của bạn có lượng thông tin như được đòi hỏi đối
với mục đích của phần thoại đang diễn ra trong cuộc trao đáp.

Không làm cho phần đóng góp của bạn có lượng thông tin nhiều hơn lượng
thông tin được đòi hỏi.
Phương châm về chất:

GVHD: Chim Văn Bé

15

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Siêu phương châm: Cố gắng làm cho sự đóng góp của bạn là chân thực.
Phương châm quan hệ: Quan yếu.
Phương châm cách thức:
Siêu phương châm: dễ hiểu. Cụ thể:
 Tránh tối nghĩa.
 Tránh mơ hồ.
 Ngắn gọn.
 Có trật tự.

2. Về độc thoại nội tâm
Trong Ngôn ngữ văn chương Việt Nam, Chim Văn Bé cho rằng: “Độc thoại nội
tâm là lời nói thầm hay suy nghĩ thầm kín của nhân vật, gắn liền với tình huống cụ
thể” [1;tr.137]. Theo ông, độc thoại nội tâm trực tiếp phản ánh quá trình tâm lý diễn
ra bên trong nhân vật trước những tác động bên ngoài nào đó.
Ông giải thích: “Thật ra, độc thoại nội tâm cũng là một hình thức đối thoại: đối
thoại nội tâm. Đó là khi nhân vật phân thân, đối thoại với chính mình, để tìm ra lời
giải đáp cho một sự kiện nào đó có liên quan đến nhân vật” [1, tr. 138].


3. Hệ quy chiếu trong việc đánh giá ngôn từ nhân vật
Khác với những tác giả khác, Chim Văn Bé đã chỉ ra được tính chất và tầm quan
trọng của ngôn từ nhân vật trong truyện. Ông cho rằng: Trong truyện, nhân vật là
phương tiện khái quát nghệ thuật của nhà văn. Thông qua cuộc đời, số phận của
nhân vật, nhà văn nêu lên những vấn đề nào đó về con người, xã hội, lịch sử. Là lời
của nhân vật, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm có tầm quan trọng đặc biệt
trong việc khái quát nghệ thuật của nhà văn. Chính vì thế, cần phải xác lập một hệ
quy chiếu thích hợp đối với việc tiếp cận, xem xét, đánh giá ngôn từ nhân vật.
Theo quan điểm của Chim Văn Bé, hệ quy chiếu đó là ba chức năng nghệ thuật
chủ yếu của ngôn từ nhân vật:
Chức năng thể hiện đời sống tâm lý và quá trình vận động, chuyển biến tính
cách của nhân vật.
Chức năng thể hiện chủ đề tác phẩm.
Chức năng tạo kịch tính cho xung đột trong truyện.

GVHD: Chim Văn Bé

16

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

B. VỀ LÝ THUYẾT HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ
Như Chim Văn Bé đã nói: “Ngôn ngữ hội thoại của nhân vật bao giờ cũng phản
ánh hành động ngôn từ mà nhân vật thực hiện trong quá trình nói năng [1, tr. 133].
Thât vậy, khi chúng ta nói ra một điều gì đó là đã vô tình thực hiện hành động tạo
lời, kèm theo đó người nói có thể thực hiện hành động trong lời, cũng có thể là hành
động qua lời, muốn tác động đến người nghe. Hành động ngôn từ đã được nghiên

cứu và đúc kết thành lý thuyết hành động ngôn từ, và đã được một số nhà nghiên
cứu ở nước ta tiếp thu và trình bày như sau:

I. Quan điểm của Đỗ Hữu Châu
1. Các hành vi ngôn ngữ
Trong Đại cương ngôn ngữ học, Đỗ Hữu Châu đồng tình với quan niệm của
Austin, ông cũng cho rằng có ba loại hành động ngôn ngữ lớn khi chúng ta nói năng
là hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ờ lời.
1.1. Hành vi tạo lời
Theo Đỗ Hữu Châu, hành vi tạo lời là “hành vi sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ
như ngữ âm, từ, các yếu tố kết hợp từ thành câu… để tạo ra một phát ngôn về hình
thức và nội dung” [3, tr. 88].
1.2. Hành vi mượn lời
Ông cho rằng, hành vi mượn lời là “những hành vi “mượn” phương tiện ngôn
ngữ, nói cho đúng hơn là mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn
ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc ở chính người nói” [3, tr. 88].
1.3. Hành vi ở lời
Đỗ Hữu Châu giải thích, hành vi ở lời là “những hành vi người nói thực hiện
ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có
nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận”
[3, tr. 89].

2. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời
Theo Đỗ Hữu Châu, điều kiện sử dụng hành vi ở lời là những điều kiện mà một
hành vi ở lời phải đáp ứng để nó có thể diễn ra thích hợp với ngữ cảnh của sự phát

GVHD: Chim Văn Bé

17


SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
ngôn ra nó. Ông đã đồng tình và dẫn ra các điều kiện sử hành vi ở lời theo Austin và
Searle như sau:
Austin xem điều kiện sử dụng hành vi ở lời là những điều kiện may mắn. Nhưng
đối với John R. Searle thì ông cho rằng, mỗi hành vi ở lời đòi hỏi phải có một hệ
những điều kiện còn gọi là quy tắc để cho việc thực hiện nó đạt hiệu quả đúng với
đích của nó. Mỗi điều kiện là một điều kiện cần còn toàn bộ hệ điều kiện là điều
kiện đủ. Có tất cả bốn điều kiện, đó là điều kiện nội dung mệnh đề, điều kiện chuẩn
bị, điều kiện chân thành và điều kiện căn bản.

3. Hành vi ở lời gián tiếp
Theo Đỗ Hữu Châu, những điều trên đây là viết về các hành vi ngôn ngữ (hành
vi ở lời) chân thực, nghĩa là các hành vi ngôn ngữ được thực hiện đúng với mục
đích ở lời, đúng với điều kiện sử dụng của chúng [3, tr. 145].
Có thể nói hiệu lực ở lời gián tiếp là cái thêm vào cho hiệu lực ở lời trực tiếp.
Muốn nhận biết được hiệu lực ở lời gián tiếp thì người nghe trước hết phải nhận biết
hiệu lực ở lời của hành vi trực tiếp. Và bởi vì tất cả các hành vi ở lời hành vi nào
cũng được dùng gián tiếp cho nên muốn sử dụng và nhận biết được các hành vi ở
lời gián tiếp thì phải biết tất cả biểu thức ngữ vi và hiệu lực ở lời của tất cả các hành
vi ở lời. Nhận biết được hành vi ở lời gián tiếp là kết quả của hoạt động suy ý từ
hành vi trực tiếp nghe được [3, tr. 149].
Một số điều để sử dụng và nhận biết được các hành vi ở lời gián tiếp:
Hành vi ngôn ngữ gián tiếp lệ thuộc rất mạnh vào ngữ cảnh.
Hành vi ngôn ngữ có một hoặc một số biểu thức ngữ vi đặc trưng cho nó.
Một phát ngôn trực tiếp có thể thể hiện một số hành vi gián tiếp. Cùng “một
phát ngôn có thể tiềm tàng nhiều hành động ngoài lời” không có nghĩa là không có
dấu hiệu phân biệt hành vi ở lời trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp, không có nghĩa

là không có giới hạn nào cho các hành vi gián tiếp do một hành vi trực tiếp thực
hiện trong cùng một phát ngôn trực tiếp [3, tr. 151].
III. Quan điểm của Chim Văn Bé
Chim Văn Bé cho rằng, ngôn ngữ nhân vật bao giờ cũng phản ánh hành động
ngôn từ mà nhân vật thực hiện trong quá trình nói năng [1, tr. 133].

GVHD: Chim Văn Bé

18

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Ngoài ra ông còn dẫn ra cách phân loại hành động ngôn từ của J. L. Austin bao
gồm ba phương diện:

1. Hành động tạo lời
Hành động tạo lời là hành động sử dụng các phương tiện ngữ âm, từ vựng để tạo
ra câu/ phát ngôn với một nội dung ngữ nghĩa và chiếu vật ít nhiều xác định
[1, tr. 134].

2. Hành động trong lời
Hành động trao lời là hành động được người nói thực hiện bằng lời nói ra và khi
nói ra điều gì đó. Chẳng hạn như chúc mừng, cám ơn, mời, hứa, van xin, ra lệnh,
kết tội, đánh cược, phản bác, đề nghị, gợi ý… Hành động trong lời là hành động có
chủ định, mang tính quy ước và tính định chế, mặc dù những quy ước và định chế
về việc sử dụng hành động trong lời là bất thành văn, và được mọi người trong một
cộng đồng ngôn ngữ tuân thủ không tự giác [1, tr. 134].
Mỗi hành động trong lời có thể tạo ra những động tác nào đó đối với người nghe

và cả chính người nói. Khi ra lệnh cho ai thực hiện một công việc nào đó, thì người
ra lệnh có trách nhiệm về mệnh lệnh đã ra, và người nghe tức thì được gán cho
nghõa vụ phải thực hiện nội dung mệnh lệnh. Hứa điều gì đó với ai, thì người hứa
đã tự nhận trách nhiệm thực hiện lời hứa, và người nghe trở thành người được thừa
hưởng điều người nói đã hứa. Nói lời cám ơn ai đó, thì người nói đã tự nhận mình là
người chịu ơn, còn người nghe trở thành người ban ơn. Bị kết tội, người nghe trở
thành kẻ có tội, nếu anh ta chấp nhận lời kết tội hay có thể phản bác, bào chữa…
Như vậy, tác động mà hành động trong lời gây ra thể hiện ở chổ nó làm thay đổi tư
cách của người nghe hay người nói so với trước đó. Tác động mà hành động trong
lời tạo ra được trong thực tế theo ý định của người nói là hiệu lực trong lời, thuộc
ngôn ngữ [1, tr. 134].

3. Hành động qua lời
Hành động qua lời là hành động mà người nói thực hiện thông qua hành động
trong lời, nhằm gây ra những hiệu quả nào đó đối với xúc cảm, suy nghĩ và hành
động của người nghe, của chính người nói hay người khác một cách có chủ định,
có mục đích.

GVHD: Chim Văn Bé

19

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Hành động qua lời có chủ định, có mục đích như hành động trong lời, nhưng
không có quy ước và định chế của xã hội.
Mỗi hành động qua lời có khả năng – chứ không tất yếu – tạo ra hiệu quả nào đó
đối với xúc cảm, suy nghĩ hay hành động của người nghe, người nói hay người

khác. Hiệu quả mà hành động qua lời gây ra trong thực tế là hiệu lực qua lời. Điều
đó có nghĩa là không phải hành động qua lời nào cũng gây ra hiệu lực qua lời như ý
định chủ quan của người nói. Những phản ứng không đúng với ý định của người nói
không phải là hiệu lực qua lời, hay nói đúng hơn là phản hiệu lực [1, tr. 134].

C. MỘT SỐ NHẬN XÉT BAN ĐẦU VỀ QUAN NIỆM CỦA CÁC
TÁC GIẢ
1. Về lý thuyết hội thoại
Theo quan niệm của Nguyễn Đức Dân, ông cho rằng: “Hội thoại là hình thức
giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi
hoạt động khác”. Như vậy, với quan điểm này của Nguyễn Đức Dân đã cho chúng
ta thấy rằng ông xem hội thoại như là “sản phẩm” của quá trình giao tiếp.
Bên cạnh đó, ông còn cho rằng: mục đích cuối cùng của hội thoại là đi đến sự
thống nhất về ý kiến hay nội dung giao tiếp giữa các đối tác. “Người ta cốt thông
báo điều gì đó cho người nghe, miễn là tạo được tiếng nói chung giữa hai người đối
thoại.” Nhưng hội thoại lại là sự tương tác qua lại giữa các đối tượng giao tiếp, kết
quả cuối cùng có thể đi đến thỏa thuận, thống nhất về nội dung hay vấn đề nào đó,
trong một số trường hợp kết quả cuối cùng của cuộc thoại lại không như ý muốn, đó
là tranh cãi, bất hòa, mỗi bên giữ một lập trường, một quan điểm riêng.
Ngược lại Đỗ Hữu Châu lại cho rằng: “Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói,
bên kia nghe và phản hồi trở lại, lúc đó vai trò của hai bên thay đổi, bên nghe trở
thành bên nói và bên nói trở thành bên nghe”. Điều đó có nghĩa là ông đang nói
đến tính chất luân phiên của lượt lời. Từ đó có thể suy ra ở đây Đỗ Hữu Châu coi
hội thoại như là một “quá trình”.
Hoàn toàn khác với cách nhìn của Nguyễn Đức Dân và Đỗ Hữu Châu, Chim
Văn Bé đã xem xét hội thoại từ quá trình đi đến sản phẩm. Nhưng ở đây nó là một
quá trình tương tác trực tiếp bằng lời giữa những người tham gia vào hoạt động

GVHD: Chim Văn Bé


20

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
giao tiếp , diễn ra trong một thoại trường (không gian, thời gian) cụ thể, xoay
quanh đề tài, chủ đề nào đó.
Qua các định nghĩa của các tác giả về hội thoại, ta thấy định nghĩa của Chim
Văn Bé có phần hoàn chỉnh, đầy đủ và hợp lý hơn. Nó đáp ứng những điều kiện cần
thiết của hội thoại. Đồng thời phát biểu rõ ràng, không mơ hồ.
1.1. Về đặc điểm hội thoại
Khi xét về đặc điểm của một cuộc thoại, Nguyễn Đức Dân đặc biệt chú ý đến
hai đặc điểm nội tại và bên ngoài như đã trình bày. Trái lại, Đỗ Hữu Châu lại thấy
đặc điểm của một cuộc hội thoại lại bao gồm thoại trường (không gian, thời gian),
số lượng người tham gia, cương vị và tư cách của những người tham gia, tính hình
thức hay không hình thức của cuộc thoại.
Nhưng suy cho cùng, đặc điểm khái quát của một cuộc thoại bao gồm ba yếu tố
cơ bản: số lượng người tham gia, nội dung hay mục đích của cuộc thoại và thoại
trường. Như sự phân chia của Nguyễn Đức Dân trong đặc điểm nội tại thì cách phân
chia này không cần thiết cho lắm. Bởi, sự tương tác qua lại giữa các đối tác giao
tiếp là một điều tất yếu trong cuộc thoại do sự trao – đáp trong quá trình hội thoại
tạo nên, chính sự tương tác này sẽ tạo ra sự liên kết giữa các lượt lời vì nội dung của
lời đáp kế tiếp dựa trên nội dung của lời đáp phía trước. Về quan hệ giữa những
người tham dự, nó chỉ là yếu tố phụ. Nếu những đối tác đã có trước quan hệ cá nhân
thì cử chỉ hay những yếu tố ngôn ngữ giữa những đối tác có phần gần gũi, tự nhiên
hơn so với cuộc thoại mà giữa các đối tác là những người không quen biết. Nhìn
chung, sự tương tác qua lại giữa các đối tác hay sự liên kết giữa các lượt lời đó
không phải là đặc điểm của một cuộc thoại.
Cương vị và tư cách của những người tham gia cũng quan trọng. Chỉ một người

giữ cương vị nói còn người kia nghe, cuộc thoại sẽ trở nên đơn điệu, đôi lúc không
duy trì được lâu dài. Do đó vai nói và vai nghe phải luân phiên thay đổi thì cuộc
thoại mới có sự trao – đáp và diễn ra sự tương tác. Chính điều đó sẽ làm nên sự sinh
động và thành công của cuộc thoại. Tuy nhiên sự vắng mặt hay có mặt của vai nghe
trong cuộc thoại là một đặc thù riêng. Muốn làm nên một cuộc thoại ít nhất phải có
hai đối tượng giao tiếp, nếu chỉ có một người sẽ không tạo nên sự đối – đáp, tương

GVHD: Chim Văn Bé

21

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
tác qua lại giữa họ thì đó không phải là hội thoại. Những trường hợp vắng mặt vai
nghe trong cuộc thoại là dạng đặc biệt của hội thoại. Bởi nó chỉ xuất hiện trong
những trường hợp phải như thế. Chẳng hạn, phát thanh, truyền hình là hình thức hội
thoại mà người nghe vắng mặt.
Thật ra, khi nhắc đến thoại trường hay chu cảnh của cuộc thoại là chúng ta đã
gián tiếp nói đến tính hình thức hay không hình thức của cuộc thoại. Chẳng hạn, khi
một cuộc thoại được diễn ra trong một không gian trang trọng, rõ ràng cho thấy đó
là một cuộc thoại mang tính hình thức hay ngược lại một cuộc cuộc trao đổi, trò
chuyện diễn ra tại nhà hay một gốc phố, con đường nào đó bất chợt lại là một cuộc
hội thoại không hình thức, nó không được chuẩn bị chu đáo, trang trọng. Tính hình
thức hay không có hình thức của một cuộc thoại cũng có thể được thể hiện gián tiếp
thông qua thoại trường của cuộc thoại.
Tuy không chỉ ra đặc điểm của một cuộc thoại là như thế nào, nhưng qua khái
niệm hội thoại của Chim Văn Bé, ta có thể thấy được ba yếu tố chính trong một
cuộc thoại là người tham dự, thoại trường và nội dung của cuộc thoại. Sự xác định

hợp lý này đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta khi tiếp xúc với một tác phẩm
trước tiên cần phải nắm bắt những điều gì.
1.2. Về cấu trúc hội thoại
Trong cấu trúc hội thoại mà Nguyễn Đức Dân trình bày, ta thấy cách phân loại
này có phần chưa hợp lý. Theo ông, cấu trúc hội thoại gồm có: Lượt lời, mở thoại,
cặp thoại, cặp thoại – lượt lời ưa dùng, cặp thoại – lời chêm xen, sự liên kết các
phát ngôn, hành vi ngữ dụng, những nghi thức. Với cách phân loại này rõ ràng ta
thấy chúng không cùng một tiêu chí phân loại. Lượt lời, cặp thoại, cặp thoại – lượt
lời ưa dùng, cặp thoại – lời chêm xen là sản phẩm. Trong khi đó mở thoại và sự liên
kết các phát ngôn lại thuộc về quá trình. Còn hành vi ngữ dụng và nghi thức lại
thuộc về một khía cạnh khác. Nguyễn Đức Dân cho rằng, cấu trúc khái quát của
một cuộc thoại sẽ là: “Mở thoại – Thân thoại – Kết thoại” [3;tr.85]. Nhưng sau quá
trình trình bày các yếu tố này không hỗ trợ cho quan điểm trên. Nếu như có mở
thoại sẽ có thân thoại và kết thoại, những ở đây chỉ có mở thoại.

GVHD: Chim Văn Bé

22

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Ngược lại, đối với Đỗ Hữu Châu thì lại cho rằng, sự trao lời, sự đáp lời, sự
tương tác đó chính là vận động của hội thoại. Nếu nhìn từ gốc độ này, ta thấy Đỗ
Hữu Châu xem hội thoại như là một quá trình, có sự trao lời, sẽ có sự đáp lời và quá
trình này sẽ tạo ra sự tương tác. Vì thế, hai yếu tố này thuộc về quá trình của sự vận
động hội thoại. Tuy nhiên, sự tương tác lại là kết quả của sự trao lời và đáp lời. Do
đó nó không thuộc phương diện này. Như vậy, cách phân loại này của Đỗ Hữu
Châu có phần không tương thích. Mặc dù vậy, thông qua cách phân chia này có thể

giúp chúng ta hiểu thêm về hội thoại và đặc điểm của nó.
Theo Chim Văn Bé cấu trúc của hội thoại bao gồm: Mở thoại, Trao lời, Đáp lời
Xen lời, kết thoại. Trong đó, sản phẩm của mở thoại là lời mở thoại, trao lời là lời
trao, đáp lời là lời đáp, xen lời là lời xen, kết thoại là lời kết thoại. Ông đã đi từ quá
trình đến sản phẩm. Nó tạo thành quá trình quá trình vận động. Vì thế những yếu tố
đó phù hợp, triển khai đúng với lý thuyết mà ông đưa ra. Nếu nhìn vào bề ngoài của
cấu trúc này có vẽ không được hợp lý, bởi chỉ có mở thoại, kết thoại, mà không có
thân thoại. Nhưng xét ba thành phần trao lời, đáp lời, xen lời rõ ràng ta thấy rằng
chúng thuộc bộ phận nội dung của thân thoại mà tác giả muốn triển khai.
Phân loại là một điều không dễ dàng nó chỉ hợp lý trên một phương diện nào đó.
Khi ta xét chúng, hoặc nhìn ở tiêu chí khác thì có thể chúng không hợp lý. Vì thế,
chúng ta không thể đòi hỏi tất cả phải đúng. Nhìn chung mỗi cách phân loại đều
tương đối chứ không thể tuyệt đối được.
1.3. Về quy tắc hội thoại
Có thể nói hai yếu tố chính trong quy tắc hội thoại mà Nguyễn Đức Dân đưa ra
là nguyên lý hội thoại của H.P. Grice và nguyên lý lịch sự. Nguyên lý cộng tác hội
thoại đã đề cập đến bốn phương châm: Phương châm lượng, phương châm chất,
phương châm quan hệ, phương châm cách thức. Với những phương châm trên
dường như ta thấy chúng có phần chồng lấn lên nhau. Chẳng hạn, khi ta thực hiện
phương châm về lượng (“Hãy làm cho phần đóng góp của bạn có lượng thông tin
như được đòi hỏi đối với mục đích của phần thoại đang diễn ra trong cuộc trao
đáp.” “Không làm cho phần đóng góp của bạn có lượng thông tin nhiều hơn lượng
thông tin được đòi hỏi”). Trong khi đó, phương châm quan hệ đòi hỏi nội dung của

GVHD: Chim Văn Bé

23

SV: Thái Thị Kiều Lan



NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
cuộc thoại phải có trọng tâm, phải liên hệ mật thiết với đề tài, chủ đề của cuộc thoại.
Chính vì vậy, khi người nói vi phạm một trong những phương châm trên thì cũng có
thể vi phạm cả phương châm khác. Nhưng dù sau những phương châm này cũng đã
đóng góp tích cực cho việc xem xét ý nghĩa ngôn từ của nhân vật giao tiếp, cũng
như ảnh hưởng sâu sắc đến người nói trước khi quyết định nói ra một điều gì đó.
Trong nguyên lý lịch sự mà Nguyễn Đức Dân đề cập đến, ông chú trọng đến sự
khéo léo, tế nhị trong giao tiếp. Điều đó được ông thể hiện qua ý nghĩa của câu
châm ngôn: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Ngoài ra Nguyễn Đức Dân còn đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề thể diện trong giao
tiếp. Tránh xúc phạm đến thể diện của người khác, nếu có thể tránh được thì biết
làm giảm nhẹ mức độ của hành vi phương hại đến thể diện đó. Không tự đề cao
mình, biết khiêm tốn, biết tự kiềm chế. Dùng hệ thống đại từ, các từ xưng hô. Tránh
nói trống không. Dùng các từ tình thái để giảm mức độ. Dùng hành vi ngôn ngữ
gián tiếp thay cho hành vi tại lời. Dùng hành vi ngữ dụng thể hiện luật tâm lý “phủ
lớp ngọt lên viên thuốc đắng”. Dùng phương thức mở thoại bằng phương thức
nghịch nhân quả. Dùng phương thức nói bóng gió xa xôi… Lịch sự trong giao tiếp
cũng là một yếu tố quan trọng để dẫn đến sự thành công của một cuộc thoại. Thái
độ tôn trọng hay không tôn trọng đối tác, đối tượng giao tiếp cũng như chính bản
thân người nói sẽ được bộc lộ thông qua biểu hiện của lịch sự. Đồng thời nó còn
biểu hiện sự quan tâm của người nói đến người nghe. Người nói chú ý, xem trọng
cảm nhận, suy nghĩ của người nghe thì từ ngữ họ dùng sẽ được lựa chọn, chú trọng
hơn, tránh sự xúc phạm đến danh dự, thể diện của người khác, chọn những từ ngữ
giảm nhẹ mức phương hại đến thể diện…Đôi khi một lời khen cũng thể hiện sự
quan tâm. Bởi vì người nói có tìm hiểu, lắng nghe, quan tâm đến đối tác mới dẫn
đến sự đồng tình, khen ngợi, tán thưởng. Dù lời khen đó không thật, chỉ xua nịn thì
nõ cũng phải trãi qua quá trình tìm hiểu mới có được lời khen ngợi.
Đỗ Hữu Châu tán thành ba quy tắc hội thoại mà C.K. Orecchioni đã chia: Quy
tắc điều hành sự luân phiên lượt lời. Những quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại.

Những quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại.

GVHD: Chim Văn Bé

24

SV: Thái Thị Kiều Lan


NGÔN TỪ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Sáu nguyên tắc mà Đỗ Hữu Châu dẫn ra của Sacks trong quy tắc điều hành sự
luân phiên lượt lời có phần mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn ở nguyên tắc thứ hai “mỗi
lần chỉ có một người nói”, nhưng ở nguyên tắc thứ tư lại phát biểu “vị trí ở đó nhiều
người cùng nói một lúc là thường gặp”. Điều này cho thấy hai nguyên tắc này
dường như có vẽ mâu thuẫn nhau. Trường hợp nhiều người cùng nói một lúc thuộc
về trường hợp ngoại lệ, nó là một dạng khác, không phải là một cuộc thoại theo một
logic thông thường. Chẳng hạn, khi cãi nhau người này sẽ bất chấp người kia có
nghe hay không vẫn cứ nói, mạnh ai nấy nói. Hoặc ở nguyên tắc thứ ba và thứ năm
cũng vậy. Nguyên tắc thứ có nội dung là “lượt lời mỗi người thường thay đổi về độ
dài do đó cần có những biện pháp để nhận biết khi nào thì một lượt lời chấm dứt.”
Ngược lại, nguyên tắc thứ năm lại là “thông thường lượt lời của đối tác này chuyển
tiếp cho đối tác kia diễn ra không bị ngắt quảng quá dài, cũng không bị dẫm đạp
lên nhau.” Giữa hai nguyên tắc hơi mơ hồ và không có ranh giới rõ ràng. Nếu như
lượt lời của đối tác này chuyển cho đối tác kia không bị ngắt quảng, cũng không bị
dẫm đạp lên nhau, cho thấy sự chuyển giao giữa các lượt lời của các đối tác đã có
dấu hiệu nhận biết, chuyển tiếp cho người kia. Thông thường người giữ vai nói
trước khi kết thúc lượt lời của mình, chuyển lại lượt lời cho người kia thì nội dung
của lượt lời đó thường mở ra yêu cầu, đề nghị về nội dung gì đó để người nghe có
thể đáp lại. Hoặc dù khi lượt lời này có nội dung kết thúc vấn đề đó đi chăng nữa thì
dựa vào nội dung của nó người nghe cũng có thể biết được mà mở ra một vấn đề

mới cho cuộc thoại. Có lẽ hai nguyên tắc này không cần thiết cho lắm. Ngoài ra ở
nguyên tắc thứ sáu đã nói đến “trật tự (nói trước, nói sau), quy tắc này dường như
đã bị chồng lấn lên quy tắc cộng tác hội thoại ở phương châm cách thức (hãy bói có
trật tự).
Theo Đỗ Hữu Châu, quy tắc điều hành nội dung hội thoại không chỉ bao gồm
nguyên tắc cộng tác hội thoại mà còn có cả nguyên tắc quan yếu. Ngay tên gọi của
nguyên tắc cũng phản ánh được tính chất đó. “Quan yếu” trong trường hợp này yêu
cầu người nói nói những nội dung phải đáp ứng, phải xứng đáng với sự chú ý của
người nghe. Thật ra, khi người nói thực hiện phương châm quan hệ là đã thực hiện
quy tắc quan yếu. Như đã biết nội dung của phương châm quan hệ là “đóng góp

GVHD: Chim Văn Bé

25

SV: Thái Thị Kiều Lan


×