Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

đặc điểm tiểu thuyết vòng tròn bội bạc của nhà văn chu lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN
----------

ĐIỆP CHÚC LINH
MSSV: 6116185

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT
VÒNG TRÒN BỘI BẠC CỦA NHÀ VĂN CHU
LAI

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ văn

Cán bộ hướng dẫn:

BÙI THANH THẢO

Cần Thơ, năm 2014


Luận văn tốt nghiệp

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Chiến tranh là cơn sốt bất thường của lịch sử”, cơn sốt đó sẽ khiến cho con
người đau đớn và để lại những vết thương khó lành. Nhất là đối với những con
người đã từng trải qua những năm tháng gian nan ấy. Văn học viết về chiến tranh đã
phát triển mạnh mẽ để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng dân tộc. Nhưng khi cuộc


chiến đã đi qua thì con người lại trở về với cuộc sống thường nhật, văn học lại gom
được nhiều hơn những chất liệu từ hiện thực cuộc sống. Khi đất nước bước vào thời
kỳ xây dựng và phát triển, những dấu hiệu đổi mới được khởi động từ đầu những
năm 80 và chuyển động mạnh mẽ từ Đại hội VI của Đảng. Cùng với đà tiến bộ của
xã hội mới, văn học cũng tận dụng cơ hội của bản thân vận động phát triển trên con
đường đó. Văn học giai đoạn này đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, cùng
với sự phát triển theo quỹ đạo thường thấy phục vụ cho nhu cầu cuộc sống con
người, mặc khác văn học cũng tự xoay chuyển trên bàn cân của mình để một phần
đáp ứng theo nhu cầu của chính bản thân nó. Sau những năm tháng văn học vươn
mình lên để có những trang viết hào hùng về cuộc đấu tranh không ngừng nghĩ của
dân tộc và những sáng tác đi sâu vào ca ngợi những người anh hùng, những tấm
gương của những con người cách mạng để phục vụ cho công cuộc kháng chiến,
phục vụ cho nhu cầu của con người thì ngay lúc này khi đất nước đã độc lập và
bước vào xây dựng xã hội mới thì thiết nghĩ văn học cũng phải cần và rất cần một
sự đổi mới, không những trong chính bản thân mà còn cả trong những quan niệm
nghệ thuật. Các nhà văn đã đi qua chiến tranh họ đã phần nào góp nhặt được vô
vàng những chất liệu phong phú về những gian lao của lịch sử thì hôm nay khi bước
vào giai đoạn đổi mới họ càng phải hăng say và có nhiều hơn những chất liệu từ
cuộc sống xung quanh. Có như vậy thì nền văn học mới có thể khởi sắc và vươn lên
mạnh mẽ hơn. Và tuân theo hơi thở của thời đại cũng như theo nhu cầu ngày càng
mạnh mẽ của bạn đọc thì văn học đã thật sự có những cách tân, những đổi mới trên
nhiều phương diện. Một cái tên mà người viết muốn đề cập đến trong luận văn này
là người lính - nhà văn Chu Lai.

Trang 1


Luận văn tốt nghiệp

Có thể thấy những sáng tác của Chu Lai như một “tập khảo luận” về những

vấn đề cuộc sống và con người Việt Nam trong và sau chiến tranh. Trong sự nghiệp
sáng tác của mình, Chu Lai đã thử sức của mình với bằng nhiều thể loại như truyện
ngắn, ký sự, kịch bản sân khấu và kịch bản phim. Nhưng theo đánh giá của đa số
các nhà nghiên cứu thì tiểu thuyết mới chính là sở trường của ông và tên tuổi của
ông cũng được khẳng định với thể loại này qua những tác phẩm đã mang lại những
giải thưởng thật sự xứng đáng với ông. Ông đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về
văn học nghệ thuật năm 2006. Đó là một trong những thành tựu mà mang đến cho
ông có một vị trí nhất định trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Bằng vốn sống
phong phú, lòng nhiệt huyết, sự nhạy cảm, đam mê sáng tạo, đặc biệt là viết để neo
đậu tâm hồn, Chu Lai đã không ngừng cho ra nhiều tác phẩm có giá trị sâu sắc về
chiến tranh và con người cũng như xã hội sau chiến tranh. Không ngừng trăn trở
trong từng trang viết, chính con người gai gốc và sâu sắc đó đã mang đến cho người
đọc nhiều cung bậc cảm xúc cũng như sự trải nghiệm như chính họ đang thực sự
sống và hành động trong mỗi tác phẩm của ông. Và cũng như sự đánh giá về sở
trường tiểu thuyết của Chu Lai ở trên, ông đã cho ra đời nhiều các tác phẩm đặc sắc
và đã đánh dấu sự có mặt của mình trên văn đàn văn học hiện đại Việt Nam cùng
với một số tên tuổi như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu… từ đó ông
đã góp một gam màu mới làm đẹp thêm khu vườn văn học Việt Nam trong tiến
trình đổi mới nền văn học theo hướng hiện đại.
Từ những tác phẩm viết về chiến tranh như Nắng đồng bằng (tiểu thuyết,
1977), Người im lặng (truyện ngắn, 1976), Sông xa (tiểu thuyết, 1982),… ông đã
chứng tỏ được năng lực viết của mình với đề tài về chiến tranh và những con người
gắn liền với cuộc chiến. Cũng đã từng là một người lính đặc công hoạt động vùng
sông Sài Gòn nên từng câu chuyện, từng cảm xúc đó cũng có thể nói là của chính
ông, sự trải nghiệm và cảm nhận thật nhất từ chính tác giả.
Với đề tài sau chiến tranh, ngòi bút của Chu Lai thể hiện mạnh mẽ hơn qua
các tiểu thuyết như Vòng tròn bội bạc (1990), Phố (1993), Ăn mày dĩ vãng (1992),
Ba lần và một lần (1999),… Những con người bước ra từ cuộc chiến tranh ác liệt
với biết bao là suy tư, trăn trở và nhiều bỡ ngỡ trong cuộc sống mới, họ là những
người lính gan gốc qua ngoại hình, bộc trực qua hành động, lời nói, nhưng trong

Trang 2


Luận văn tốt nghiệp

tâm hồn đó là đầy những ước mơ, khát vọng trên con đường tìm về với vẻ đẹp trong
cuộc sống mới.Hành trình tìm về những giá trị cuộc sống của người lính sau chiến
tranh có phần khó khăn hơn. Cuộc đấu tranh còn gay gắt, quyết liệt hơn trên mặt
trận thiện - ác. Người lính phải thật sự có ý chí vững bền mới có thể chống trả lại
hết những âm mưu, thế lực đen tối của đồng tiền và quyền lực. Tiểu thuyết Vòng
tròn bội bạc là một trong những tác phẩm mà người viết thật sự chú ý khi tìm hiểu
qua các tác phẩm của Chu Lai viết về đề tài này. Vì nhân vật trong sáng tác này đã
thể hiện khá rõ nét chủ đề mà Chu Lai muốn gởi gấm đến người đọc về những suy
ngẫm, những va vấp mà mỗi người, đặc biệt là những người lính sau chiến tranh
gặp phải. Tác phẩm cũng mang một phần hơi thở và tâm trạng của ông trong xã hội
đương thời.
Từ việc muốn khai thác, tìm hiểu sâu hơn về nhà văn Chu Lai, về cuộc đời
cũng như quan điểm sáng tác và các tác phẩm của ông, đồng thời người viết muốn
nghiên cứu sâu hơn tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc vì vậy người viết đã chọn đề tài
là “Đặc điểm tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc của nhà văn Chu Lai”. Bên cạnh đó
cũng mong muốn sẽ có những phát hiện mới hơn trong con đường thành công của
nhà văn này.

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tác giả
Đã có không ít nhà văn đã cầm súng trước khi cầm bút và trong đó có Chu Lai
ông cũng được nhận định là một cây bút trẻ, một thế hệ tiếp nối mới khá triển vọng
sau những bậc đàn anh như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh
Tuấn,... Những tài năng này họ có vốn sống phong phú trong chiến đấu, họ không bị
ràng buộc bởi những lề lối cũ mà họ thích ứng và phát triển theo một con đường

mới, hướng đi mới. Họ sẵn sàng đón nhận những làn gió mới từ quá trình thay đổi
đất nước, họ có cách nhìn và cách nghĩ hiện thực chiến tranh tiến bộ hơn. Trong
Hiện đại hóa và đổi mới văn học Việt Nam thế kỷ XX Phong Lê có nhắc đến Chu
Lai trong thế hệ này “Tìm được cách đối thoại, cách tâm sự, cách hỏi đáp, cách giải
bày với những người đồng thời - đó là lối tránh những con đường cũ, và trẻ hơn, kể
từ Nguyễn Trí Huân, Chu Lai, Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy, Lê Minh

Trang 3


Luận văn tốt nghiệp

Khuê, Bảo Ninh, Võ Thị Hảo…Đây là một sự tiếp tục, không phải như một nối dài
của lịch sử, mà là một chuyển đổi của lịch sử.”[13, tr. 227].
Trong quá trình tiếp thu sự thay đổi đa dạng của nề văn học thì tiểu thuyết đã
và đang là trung tâm của sự chú ý, không những thế nó còn góp phần không nhỏ
nhằm xây dựng nên tên tuổi của các cây bút trẻ có tài năng phát triển trong đó có
Chu Lai. Điều đó đã thể hiện trong bài viết của PTS. Bích Thu Những nổ lực sáng
tạo của tiểu thuyết Việt Nam từ sau đổi mới trong đó có đoạn “Sắc thái đặc biệt của
xã hội Việt Nam chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường với tất cả những
biến động phong phú và phức tạp của nó đã tìm thấy ở tiểu thuyết một sự tương hợp.
Tiểu thuyết đã và đang thu hút sự sáng tạo của các thế hệ nhà văn, là loại hình thể
hiện nội lực và bóng dáng của nhiều cây bút văn xuôi. Từ các nhà văn xuất hiện
trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: Hữu Mai, Hồ Phương, Xuân Thiều,
Ma Văn Kháng, Xuân Cang, Bùi Bình Thi, Vi Hồng, Hoàng Văn Bổn, Hồng Phi,
Triệu Huấn, Ngô Văn Phú, Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Phan Hách,
Lê Văn Thảo, Trung Trung Đỉnh, Hoàng Minh Tường, Chu Lai, Lê Lựu, Khuất
Quang Thụy, Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng đến những cây bút xuất hiện sau
năm 1975: Bảo Ninh, Triệu Xuân, Khôi Vũ, Tạ Duy Anh, Trầm Hương, Nguyễn
Bình Phương, Nguyễn Việt Hà…”[5, tr. 570].

Trong bài viết Tiểu thuyết sau hành trình một thế kỷ Phong Lê cũng đã nhắc
đến Chu Lai như một thế hệ tiếp nối những nhà tiểu thuyết đi trước có đoạn: “Như
vậy tuy là lịch sử đã chính thức sang trang từ 1975, nhưng cũng phải sang thập
niên 80, mới có thể nói đến những chuẩn bị đầu tiên cho một giai đoạn văn học mới,
giai đoạn tiền trạm, với những người mở đường là Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng,
Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Lê Lựu,…; và nối
tiếp là Chu Lai, Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh… với Gặp gỡ cuối năm, Cha và
con và…, Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú,
Những khoảnh khắc còn lại, Đứng trước biển, Cù lao Tràm, Miền cháy, Lửa từ
những ngôi nhà, Mãnh đất tình yêu, Cỏ lao, Đất trắng, Thời xa vắng, Ăn mày dĩ
vãng, Mãnh đất lắm người nhiều ma, Thân phận tình yêu…”[13, tr. 227] và Phong
Lê cũng khẳng định “Và mùa thứ ba trong thập niên 80, đi qua thời điểm Đổi mới, 1986 với một thế hệ viết, theo sự tiếp nối của tuổi đời, kể từ Nguyễn Minh Châu, Ma
Trang 4


Luận văn tốt nghiệp

Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khắc Trường, Chu Lai, Bảo
Ninh…Nhìn vào thế hệ viết, thì có vẻ như càng theo thời gian, càng về sau, tuổi đời
càng già đi, không phải dăm sáu năm mà là hàng chục năm”[13, tr. 227].
Đến bài viết Đi tìm những gương mặt tiêu biểu của văn học Đổi mới một lần
nữa Chu Lai được góp mặt trong những con người tiêu biểu này, điều này một lần
nữa khẳng định thêm vị trí của Chu Lai trong nền văn học Đổi mới: “Chuyển sang
thời kỳ Đổi mới, một thế hệ trẻ như thế là chưa thể xuất hiện ngay, mà phải được
chuẩn bị , trong sự tiếp nối của hơn một thế hệ chuyển tiếp, kể từ Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu,…; qua Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn
Mạnh Tuấn, Nhật Tuấn, Chu Lai, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Trí
Huân, Tung Trung Đỉnh, Dạ Ngân, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài,…”[13, tr. 293].
Trong bài viết Văn học tự đổi mới để phục vụ sự nghiệp đổi mới của đất nước
và lành mạnh hóa xã hội cũng có những trang viết về Chu Lai: “Sau hơn ba mươi

năm văn học phát triển dưới tác động của chiến tranh, bắt đầu từ những năm 80,
trên đất nước thống nhất, đã xuất hiện những chuyển đổi trong phương thức chiếm
lĩnh hiện thực, trong các quan niệm mới về nghệ thuật có phần mới mẻ, khác lạ về
con người, trong ý thức mới đối với tư cách chủ thể của nhà văn, qua sáng tác của
một đội ngũ viết đông đảo gấp bội so với bất kỳ giai đoạn nào trước đây, trong đó
nổi lên thơ của Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Dư Thị Hoàn, Lê Thị
Mây, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Y Phương, Bùi Chí Vinh, Dương
Thuấn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Thị Ngọc Liên, Thảo
Phương,…; văn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Đoàn Lê, Nguyễn
Quang Thân, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn
Khắc Trường, Dương Hướng, Hòa Vang, Dạ Ngân, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Vàng
Anh,…”.[14, tr. 344]
Trong Hội thảo tháng 4, năm 1995, “50 năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám” một số nhà phê bình cũng nhắc đến Chu Lai trong các bài viết
của mình như Đinh Xuân Dũng với bài viết “ Văn học Việt Nam về chiến tranh, hai
giai đoạn của sự phát triển”. Bài viết đã nhận định về sự đóng góp của các nhà văn
trong vấn đề phản ánh hiện thực sau chiến tranh có đoạn: “Tôi nghĩ rằng, những
nhà văn như: Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều, Hữu Mai, Chu Lai, Nguyễn Trí
Trang 5


Luận văn tốt nghiệp

Huân,…là những người có đóng góp thực sự đặc sắc cho khuynh hướng trên” [6, tr.
160]. Cũng trong Hội thảo này Xuân Thiều với bài viết “Mấy suy nghĩ về mảng văn
học chiến tranh cách mạng” bài viết cũng có đoạn đề cập đến nhà văn Chu Lai và
những nhà văn xuất hiện trong thời kỳ chống Mĩ: “… và lớp nhà văn trẻ hơn, xuất
hiện trong thời chống Mĩ như Hữu Thịnh, Triệu Bôn, Lê Lựu, Trần Mạnh Hảo,
Phạm Tiến Duật, Văn Lê, Cao Tiến Lê, Chu Lai, Khuất Quang Huy, Nguyễn Trí
Huân, …từng cầm súng đánh giặc, từng hành quân, vượt Trường Sơn, từng nằm

hầm bí mật trong lòng địch, từng nếm trải cảnh ăn tai nai, môn thực, từng băng bó
đồng đội, chôn cất bạn bè, những nhà văn mặc áo lính - có người đến nay đã 50
tuổi quân - với cái bề dày lăn lộn ấy đã là một chứng chỉ tin cậy. Họ đã từng trải để
có tầm nhìn chính xác về các cuộc chiến tranh, đủ kinh nghiệm và khả năng trong
tư duy sáng tạo nghệ thuật” [6, tr. 149]. Trong bài viết của Tôn Phương Lan “Về
hướng tiếp cận mới đối với hiện thực trong văn xuôi sau 1975” trong số các tác giả
và tác phẩm được khảo sát về về việc phản ánh hiện thực sau chiến tranh có nhắc
đến Chu Lai: “Hướng tiếp hiện thực theo hướng sự thật là một hướng mới và thực
tế đã đem lại cho nền văn học giai đoạn vừa qua những khởi sắc. Nhiều cây bút,
bằng bản lĩnh và tài năng của mình trên hướng đó đã gặt hái những thành quả mới
như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn
Trí Huân, Trần Huy Quang, Chu Lai.”[6, tr. 425- 426]. Và trong Từ điển tác gia
văn học Việt Nam thế kỷ XX xuất bản năm 2003 cũng đã có những dòng về Chu Lai:
“Đối với ông (Chu Lai), để trở thành nhà văn thực thụ ngoài tài năng, cảm xúc, vốn
sống quan trọng đến nhường nào và Chu Lai là nhà văn không bao giờ thỏa mãn
với trang viết của mình” [29, tr. 89-90].
Một số bài viết về ông cũng như các bài phỏng vấn với Chu Lai có khá nhiều
trên các trang mạng như:
Ngày 12/12/2003, trang Vietbao.net có bài: “Nhà văn Chu Lai và những ám
ảnh của nghiệp viết”. Nội dung bài báo là cuộc phỏng vấn nhà văn Chu Lai về
những vấn đề như: quan niệm sáng tác, năng khiếu văn chương, đề tài và nhân vật
trong các tiểu thuyết của ông … [28].

Trang 6


Luận văn tốt nghiệp

Đến ngày 24/5/2004 trên trang giaitri.vnexpress cũng có bài: “Chu Lai: tôi là
anh thợ cày trên cánh đồng chữ” bài này bàn về năng lực sáng tác và công việc

sáng tác tiểu thuyết của các nhà văn Chu Lai.[25].
Ngày 24/4/2007 trên tuoitre.vn cũng có bài phỏng vấn: “Nhà văn Chu Lai
chuyển sang… “Chơi” văn” xoay quanh vấn đề chuyển hướng viết văn của Chu Lai
có đoạn: “Tôi đang chuyển sang một cảm hứng sáng tác khác: “Chơi” văn chứ
không phải là viết văn. Hơn 30 năm cầm bút, viết văn quằn quại, đau khổ để khẳng
định mình. Đến giờ, chưa biết đã khẳng định được gì hay chưa, tôi chuyển sang
“chơi” văn. Đó là sự khởi đầu cho giai đoạn ba của cuộc đời: Giai đoạn thư
giãn.”[8].
Và ngày 19/5/2007 trên cand.com.vn Bình Nguyên Trang có bài “ Nhà văn
Chu Lai và những “đồng nghiệp” trong gia đình” bài viết nói về nhà viết kịch Học
Phi (bố nhà văn Chu Lai) và Hồng Phi (anh trai). Qua đó cho bạn đọc thấy rằng tố
chất văn chương của Chu Lai đã thấm nhuần từ rất sớm. Và dòng máu văn chương
đã thấm nhuẫn trong ông. [32].
Có rất nhiều bài phỏng vấn về nhà văn Chu Lai những người viết chỉ đưa ra
những bài phỏng vấn ngắn gọn nhằm làm rõ vấn đề về nhà văn Chu Lai với các
phương tiện truyền thông. Ngày 23/8/2009 trên hoanghuuquyet.vnweblogs.com có
bài phỏng vấn “Xin tạ lỗi những người đàn bà tôi đã trót làm tổn thương” cuộc trò
chuyện xoay cuộc đời của ông và những người phụ nữ xung quanh ông...[20].
Đến ngày 4/5/2011 có bài phỏng vấn: “Nhà văn Chu Lai: Cái gì đã qua thì
cho qua” nhân dịp kỷ niệm 36 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
(30-4). Phỏng vấn nhà văn Chu Lai một tác giả có nhiều tác phẩm viết về chiến
tranh và người lính trong chiến trận và về vấn đề giải hòa dân tộc.[34].
Là một người đã từng đi qua cuộc chiến tranh ác liệt và cùng trải qua những
năm tháng của xã hội đổi mới nên Chu Lai không những chỉ góp nhặt từ cuộc sống
chất liệu tàn khốc mà ông còn may mắn gom cho mình không khí và tâm thế yên
bình của nền kinh tế cơ chế thị trường. Đứng trong hàng ngũ tiếp nối của các bậc
tiền nhân đi trước, ông viết về chiến tranh như những gì nó vốn có và mang tâm thế
của mình vào để làm tăng thêm sự chân thực của từng tác phẩm. Từ đó Chu Lai đã
xây dựng cho mình một vị trí nhất định trong lòng người đọc cũng như những nhà
Trang 7



Luận văn tốt nghiệp

phê bình văn học Việt Nam khi nói về ông. Nhắc đến Chu Lai có lẽ không chỉ là
những trong viết mà chúng ta còn nhận thấy nét tính cách hóm hỉnh, hài hước của
ông trong các buổi trò chuyện, phỏng vấn. Chúng ta luôn nhìn thấy một Chu Lai dí
dỏm trong các câu nói đùa nhưng lại sâu sắc vô cùng khi nhắc đến chiến tranh và
con người. Có lẽ vì thế mà những buổi nói chuyện của ông thường diễn ra rất thú vị
và thu hút, đặc biệt là đối với các bạn sinh viên. Có thể thấy chủ đề phỏng vấn ông
thường có những tiêu đề. Họ yêu mến ông không chỉ là vẻ ngoài lãng tử mà còn cả
nét cá tính trong tâm hồn. Trong quá trình phản ánh hiện thực chiến tranh và sau
chiến tranh Chu Lai đã thể hiện mình xứng đáng là một thế hệ đầy tiềm năng và sức
sáng tạo để đủ sức phát triển nền văn học nước nhà không chỉ riêng về tiểu thuyết
mà còn nhiều những thể loại văn học khác.

2.2. Tác phẩm
Tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc là một sáng tác về đề tài sau chiến tranh của
nhà văn Chu Lai. Tuy đề tài này không xa lại với văn học những cái độc đáo ở đây
là cách viết, cách xây dựng nhân vật, cách cảm nhận cũng như tâm tư của tác giả
khi viết lên tác phẩm này. Đây là một tiểu thuyết không có nhiều những nghiên cứu,
phân tích và tìm hiểu, vì vậy người viết đã tập hợp được một số nhận xét và nhận
định của các nhà phê bình văn học về tác phẩm này như sau:
Theo Bùi Việt Thắng thì: “Tiểu thuyết của Chu Lai gợi lên những vấn đề đáng
quan tâm trên đề tài chiến tranh với ý nghĩa như một đề tài lịch sử”. và người này
cũng đã nói về tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc của Chu Lai trong bài viết “Một cách
tái hiện chiến tranh” cũng nhận định: “Viết về chiến tranh còn có ý nghĩa là viết về
hậu quả của nó, Vòng tròn bội bạc của Chu Lai xoáy vào những vết thương của
chiến tranh trong lòng người và cách thức của con người chữa trị những vết thương
đó.”[23].

Trong bài viết của Tôn Phương Lan “Về hướng tiếp cận mới đối với hiện thực
trong văn xuôi sau 1975” trong số các tác giả và tác phẩm được khảo sát về về việc
phản ánh hiện thực sau chiến tranh có nhắc đến Chu Lai và tiểu thuyết Vòng tròn
bội bạc: “Nước mắt đỏ, Chim én bay, Vòng tròn bội bạc, Người mẹ tội lỗi, Cỏ
lau,…là những sáng tác có xu hướng khái quát đi từ những số phận, những vấn đề

Trang 8


Luận văn tốt nghiệp

cụ thể. Trường nhìn này tạo nên một thứ ngôn ngữ mới. Màu sắc trang viết có thể
ảm đạm hơn, số phận nhân vật có thể long đong, cơ cực hơn song tư tưởng của các
tác phẩm này như một thứ nước đã được chưng cất nên thanh sạch và vì thế nhân
bản hơn. Nhà văn đã không dửng dưng với nỗi đau của con người và nhân vật cũng
không dửng dưng trước nỗi đau của đồng loại”. Cũng trong bài viết này nhà Tôn
Phương Lan cũng đã nhận định: “Hướng tiếp hiện thực theo hướng sự thật là một
hướng mới và thực tế đã đem lại cho nền văn học giai đoạn vừa qua những khởi sắc.
Nhiều cây bút, bằng bản lĩnh và tài năng của mình trên hướng đó đã gặt hái những
thành quả mới như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc
Trường, Nguyễn Trí Huân, Trần Huy Quang, Chu Lai.”[6, tr. 425- 426]. Từ điển
tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường xuất bản năm 2003 Mai
Hương cũng không quên dành những dòng nói về tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc của
Chu Lai: “Từ cuốn tiểu thuyết đầu tay Nắng đồng bằng đến tiểu thuyết Sông xa và
nhiều tập truyện ngắn sau đó, Chu Lai tiếp tục khám phá những bí ẩn chiến tranh
và người lính. Tất cả đều được viết với cảm hứng ngợi ca và bút pháp dung dị, chân
thật. Tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc đánh giấu một giai đoạn mới bút pháp của Chu
Lai từ cách tiếp cận, lí giải hiện thực đến nghệ thuật biểu hiện của tiểu thuyết.”[16,
tr. 54-55].
Một con người có lối nói trò chuyện dí dỏm và ngoại hình lãng tử như Chu Lai

hình như thu hút nhiều sự chú ý của báo giới. Ông thường có mặt trong các buổi trò
chuyện với sinh viên ở các trường Đại học hoặc các bài phỏng vấn trong các tạp chí
văn nghệ, các bài viết trên các trang mạng xã hội… Trong buổi trò chuyện với chủ
đề “Nhà văn Chu Lai tâm hồn vẫn là chốn khuất nẻo…” cũng có đề cập đến tiểu
thuyết Vòng tròn bội bạc, xin trích lại một đoạn: “Ngày đầu giải phóng, với vốn
sống ngập tràn, với tuổi trẻ tôi viết nhanh đến chính mình cũng ngạc nhiên, những
truyện ngắn đầu tay đều được đăng trên báo “Văn nghệ” như”: Kỷ niệm vùng ven,
Anh Hai Đởm, Lửa mắt…Sau này tôi chuyển kỷ niệm vùng ven thành phim. Rồi
tiếng gọi của Hà Nội mùa đông heo hút, mưa phùn đã kéo tôi về và đi theo con
đường văn chương chuyên nghiệp. Nắng đồng bằng là tiểu thuyết đầu đời, được tôi
viết trong hai tháng ở Đà Lạt trước khi đi học ở Trường viết văn Nguyễn Du. Tiếp
đó, loạt truyện ngắn như: Đôi ngã thời gian cũng được tôi viết nhanh. Sau đó là
Trang 9


Luận văn tốt nghiệp

Vòng tròn bội bạc nói về người lính trở về, được chuyển thành phim Thời gian còn
lại.” [31].
Vì đây vẫn là một tác phẩm có khá ít những nhận định, nghiên cứu cũng như
đánh giá nên trong quá trình nghiên cứu người viết đã tìm hiểu không được nhiều
tài liệu về tác phẩm này. Nhưng dù sau đây vẫn là một tiểu thuyết khá nổi bật của
Chu Lai về đề tài người lính sau chiến tranh.

3. Mục đích nghiên cứu
Vì những lí do từ lịch sử vấn đề này còn khá mới mẻ nên nghiên cứu và đi
sâu phân tích vấn đề này người viết muốn:
Thứ nhất, người viết muốn tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời, quan điểm sáng tác
và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Chu Lai. Bên cạnh đó tìm hiểu khái quát những
đặc điểm nổi bật của thể loại tiểu thuyết.

Thứ hai, đi sâu phân tích và cảm nhận nội dung, ý nghĩa và đặc điểm nghệ
thuật của tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc và từ đó hiểu được nhiều khía cạnh của xã
hội Việt Nam trong quá trình đổi mới, qua đó cảm nhận sâu sắc về những suy tư
trăn trở và số phận của người lính bước ra từ sau chiến tranh.

4. Phạm vi nghiên cứu
Sau hơn ba mươi năm sáng tác, nhà văn Chu Lai đã cho ra đời rất nhiều
những tác phẩm hay, mang đậm dấu ấn phong cách của mình. Mỗi sáng tác ông đều
gởi những “giọt cảm xúc” khác nhau, mỗi loại một ít để làm phong phú thêm “cơn
mưa cảm xúc” của chính mình. Và Vòng tròn bội bạc cũng là một trong những giọt
nước tinh túy nhất hòa trong cơn mưa đó làm cho nó tươi mát và đầy sức sống hơn.
Với đề tài “Đặc điểm tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc của Chu Lai” người viết
sẽ thực hiện việc khảo sát và tìm hiểu về tiểu sử, cuộc đời nhà văn Chu Lai; những
đặc điểm chủ yếu của thể loại tiểu thuyết; nhất là tìm hiểu về nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm Vòng tròn bội bạc cũng một số tài liệu có liên quan và các thông tin
trên các trang mạng, các bài phê bình, đánh giá của các nhà lí luận văn học về chủ
đề này.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trang 10


Luận văn tốt nghiệp

Với đề tài là: “Đặc điểm của tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc của nhà văn Chu
Lai” thì đầu tiên người viết sẽ đọc tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc và một số tiểu
thuyết có những vấn đề liên quan cũng như những tài liệu liên quan đến vấn đề này
sau đó sé sử dụng một số phương pháp để làm sáng tỏ đề tài:
Phương pháp tiểu sử: người viết sử dụng phương pháp này để tìm hiểu về cuộc

đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả cũng như những vấn đề của tác phẩm.
Phương pháp lịch sử: bởi vì khi nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết, vì rằng sự
đổi mới luôn diễn ra những cách tân thường dựa trên cơ sở kế thừa những cái đã có
sẵn, người viết cần nhìn nhận vấn đề từ lịch sử hình hình thành và phát triển từ
những đặc điểm, quan niệm về tiểu thuyết các nhà lí luận đi trước.
Phương pháp phân tích: sử dụng phương pháp này người viết từ những tài liệu
đã tìm được sẽ tiến hành phân tích các các tư liệu đó, nhằm tạo cho quá trình tổng
hợp một cách dễ dàng.
Phương pháp tổng hợp: Dựa vào những tài liệu, những bài nghiên cứu đã tập
hợp được và kiến thức của bản thân người viết vận dụng và chọn lọc để tổng hợp rút
ra những kết luận khái quát về vấn đề.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu người viết sẽ có thể vận dụng thêm một
số phương pháp như giải thích và so sánh để làm rõ vấn đề bàn luận.

Trang 11


Luận văn tốt nghiệp

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vài nét về thể loại tiểu thuyết
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là thể loại văn học mà chất liệu chủ yếu là tự gom nhặt từ cuộc
sống những nguồn nguyên liệu dồi dào nhất để làm nên nét riêng của mình. Nó đã
không ngần ngại để khả năng của mình để bao trùm lên hiện thực cuộc sống, phản
ánh cuộc sống xã hội, chính trị, con người, lịch sử…nó cũng góp phần xây lên
những cung điện uy nga trong tâm hồn của mỗi con người khi đọc và cảm nhận
được nó.
Nói về sự thành của tiểu thuyết thì đó là một vấn đề rộng lớn vì tiểu thuyết là

một thể loại phát triển rất rộng rãi từ Đông sang Tây. Có rất nhiều những bài nghiên
cứu về vấn đề này vì tiểu thuyết có thể nhận thấy là một thể loại khá thu hút và hấp
dẫn đối với các nhà nghiên cứu “Tiểu thuyết và lối tiểu thuyết là hợp với tính tình tư
tưởng của phần nhiều người ta.”[30, tr. 30].
Theo giáo trình Lí luận văn học do Phương Lựu là chủ biên cũng có nói rất
nhiều về sự hình thành của thể loại tiểu thuyết. Ở châu Âu, tiểu thuyết xuất hiện vào
thời kì xã hội cổ đại tan rã và văn học cổ đại suy tàn. Con người bây giờ đã biết đặt
những nhu cầu cá nhân lên trên nhưng họ vẫn phát triển trong một cộng đồng, tiểu
thuyết của châu Âu thời kì này bắt nguồn từ những sử thi cổ đại, thần thoại như
Iliade và Odyssee, bài ca Rolland, Beswulf…vì lẽ đó mà các sách lịch sử văn học
châu Âu đều nói rằng “thế kỷ thứ XIX là thế - kỷ tiểu - thuyết” và với những sử thi
này chủ yếu con người muốn kể lại những câu chuyện hào hùng của những người
anh hùng dám phiêu lưu mạo hiểm, tuy chỉ có khuôn mẫu là những con người mạnh
mẽ thích phiêu lưu mạo hiểm nhưng đã phần nào nói lên mong muốn của con người
là tin tưởng vào những người anh hùng mạnh mẽ và dám chấp nhận nguy hiểm khó
khăn. Họ đặt một niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh của thần linh và những con người
mạnh mẽ này. Thuật ngữ tiểu thuyết cũng có sự khác nhau trong cách gọi tên của
các quốc gia và vùng lãnh thổ. Ví dụ, ở Châu Âu người ta gọi tiểu thuyết là “novel”,
Trang 12


Luận văn tốt nghiệp

trong khi người Pháp gọi là “roman” còn người Mỹ là “fiction”. Và giai đoạn phát
triển mới của tiểu thuyết châu Âu lại bắt đầu từ thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XIV XVI) và đến thế kỷ XIX đã xuất hiện những bậc thầy như: Xtăng-đan, Ban-dắc,
Gô-gôn, L.Tôn-xtôi, Đốt-xtôi-ép-xki… thì thể loại này đã đặt tới đỉnh cao trọn vẹn.
Cũng theo giáo trình này thì ở Trung Quốc tên gọi “tiểu thuyết” đã xuất hiện
từ rất sớm trong các thư tịch. “Trong thiên Ngoại vật ở sách Trang sử đã nói đến
tiểu thuyết như là những đạo lí vụn vặt trong sinh hoạt. Còn trong thiên Nghệ văn
chí của Ban Cố thời Đông Hán (đầu thế kỉ I) thì xem tiểu thuyết là những chuyện

đơm đặt của hạng quan bé, những chuyện nghe được từ đầu đường xó chợ.” Có lẽ
quan niệm này có một phần đúng những đánh giá thì có phần chưa xác đáng, nhưng
dù sao hạt nhân ở đây vẫn là nói về nguồn gốc của tiểu thuyết bắt nguồn từ những
sự việc trong sinh hoạt hàng ngày, đời thường những nó vẫn mang một chút gì đó
cao hơn những câu chuyện đầu đường xó chợ. Nói tiểu thuyết là chuyện “nghe được
ở đầu đường xó chợ”, tất nhiên là không đáng tin cậy, nhưng dù sao cũng là chuyện
nghe được, không phải bịa đặt ra. Nó vẫn mang cho con người ta sự suy ngẫm sâu
sắc và sự thu hút nhất định “Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để
tả tình - tự người ta, phong - tục xã - hội, hay là những sự lạ tích kỳ, đủ làm cho
người đọc có hứng - thú.”[30, tr. 31]. Tiểu thuyết ở Trung Quốc cũng là một thể
lọai xuất hiện khá sớm từ thời cổ đại và trung đại, xuất hiện như các truyện ngắn
truyền kỳ hấp dẫn như: Truyện Thủy hử, Tây du ký, Hồng lâu mộng… nhưng do
chưa có được vai trò chủ đạo nên nó vẫn chưa được công nhận nên tiểu thuyết chưa
có vị trí trong hệ thống văn học Trung Quốc thời bấy giờ. Nói như vậy để chúng ta
có thể thấy được tiểu thuyết là một thể loại văn học có nguồn gốc xuất hiện khá lâu
đời. Nó dung dị và chân thực, không màu mè hay thi vị quá hiện thực cuộc sống.
Phán ánh những gì đúng và khái quát nhất từ xã hội loài người.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền văn học các nước châu Âu và Trung
Quốc thì thể loại tiểu thuyết cũng không quên mang theo những màu sắc rực rỡ của
mình góp vào vườn hoa của nền văn học Việt Nam, để đến ngày nay có thể thấy
được nền văn học Việt Nam đã rất ưu ái cho thể loại này và chăm bón cho nó ngày
càng phát triển mạnh mẽ hơn nữa từ những mầm xanh. Tuy rằng thuật ngữ này chỉ
xuất hiện ở văn học Việt Nam vào đầu thế kỷ XX nhưng điều đó không có nghĩa là
Trang 13


Luận văn tốt nghiệp

tiểu thuyết Việt Nam phát triển chậm hơn, ngược lại tiểu thuyết Việt Nam phát triển
khá mạnh mẽ đặc biệt là tiểu thuyết hiện đại. Hiên tại, từ địa vị là một thể loại nằm

ngoài hệ thống, tiểu thuyết không những trở thành một thể loại đóng vai trò khá
quan trọng trong nền văn học Việt Nam mà còn là một thể loại chủ đạo của nền văn
học hiện đại thế giới. Và vì nó lấy kinh nghiệm cá nhân và ý thức đa chân lí làm nền
tảng. Tiểu thuyết Việt Nam những mầm móng đầu tiên đã được gieo vào thế kỷ
XIV - XVI nhưng đó chỉ là những hạt giống còn non như: Lĩnh nam chích quái,
Thánh Tông di cảo, Tuyền kỳ mạn lục…. Và mãi đến thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện
của Nam triều công nghiệp diễn chí, của Hoàng Lê nhất thống chí, nước ta mới có
tác phẩm có quy mô tiểu thuyết (nhiều hồi, hàng trăm nhân vật, bao quát một
khoảng thời gian dài hàng trăm năm). Tuy nhiên xét về nhiều mặt, Nam triều công
nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí vẫn thuộc phạm trù tiểu thuyết cổ điển
phương Đông. Phải sang đầu thế kỷ XX, nhất là với dòng văn học lãng mạn và hiện
thực phê phán, ở Việt Nam mới có tiểu thuyết hiện đại.”[7, tr. 329].
Từ lịch sử hình thành kéo dài qua nhiều thế kỷ và cũng có những cuộc phiêu
lưu, trải nghiệm qua nhiều nền văn học để khẳng định được chỗ đứng và những
thành tựu của mình thì tiểu thuyết đã đạt được những chặng đường mong muốn. Từ
cái nhìn lịch sử chúng ta có cái nhìn tổng thể hơn về khái niệm của thể loại này.
Đây là một vấn đề có khá nhiều luồn ý kiến quan tâm và đưa ra kết luận. Nhưng
nhìn chung thì những nhận định đó đều có những điểm chung nhằm góp phần xây
dựng lên khái niệm tiểu thuyết một cách hoàn chỉnh về mặt thể loại của mình.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn
Khắc Phi cũng đã đưa ra khái niệm về tiểu thuyết như sau: “Tiểu thuyết (tiếng Pháp:
roman, tiếng Anh: novel, fiction). Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện
thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh
số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả
các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng”. [7, tr. 328].
Người phương Tây thì định nghĩa tiểu thuyết là một truyện tưởng tượng hư
cấu. M. Bakhtin nói tiểu thuyết là thể loại chủ đạo của văn học hiện đại. Còn Jan
Wat trong sách Sự trỗi dậy của tiểu thuyết (1957) đã viết: “Tiểu thuyết (novel) trỗi
dậy từ thời hiện đại, mà do phương hướng lí tính tổng thể của thời hiện đại là
Trang 14



Luận văn tốt nghiệp

chống lại các khái niệm chung, hoặc ít nhất là chống lại việc thực hiện ý đồ giáo
huấn và lấy đó làm tiêu chí phân biệt với các truyền thống cổ điển và trung đại”.[8,
tr. 4,7].Trong Lí luận văn học - Hà Minh Đức (chủ biên) thì có nhận định về tiểu
thuyết như sau: “ Tiểu thuyết là một thể loại tự sự cỡ lớn, tiểu thuyết có khả năng
riêng trong việc tái hiện với một quy mô lớn những bức tranh hiện thực đời sống,
trong đó chứa đựng nhiều vấn đề sâu sắc của đời sống xã hội, của số phận con
người, của lịch sử, của đạo đức, của phong tục…”[4, tr. 48]. Hay trong cuốn sách
150 Thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân ông cũng đua ra khái niệm tiểu thuyết
như sau: “Tác phẩm tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận một cá
nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần thuật ở đây được khai
triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt “cơ cấu”
của nhân cách”. Belinski gọi tiểu thuyết là “sử thi của đời tư”, do chỗ nó “miêu tả
những tình cảm, dục vọng và những biến cố thuộc đời sống riêng tư và đời sống nội
tâm của con người”.”[1, tr. 313]. Trong Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên
ông cũng đã đưa ra ý kiến riêng của mình về thể loại này: “Tiểu thuyết là hình thức
tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời kỳ cận và hiện đại. Với những giới hạn
rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều
cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức, xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện
sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng.”[15, tr. 387]. Những ý kiến
đều xoay quanh nói đến chức năng cũng như tính ưu việt của tiểu thuyết. Phạm
Quỳnh cũng có một cách lí giải khái niệm tiểu thuyết của riêng mình, có thể tóm
gọn lại theo ông tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự
người ta, phong tục xã hội, hay là những sự lạ tích kỳ, đủ làm cho người đọc có
hứng thú. Và tóm lại tiểu thuyết là một chuyện bịa đặt mà có thú vị và thu hút người
nghe. Tuy nhiên ý kiến này có phần chưa bao quát hết vì tiểu thuyết phản ánh hiện
thực một cách khách quan hơn, chứ không chỉ là những lời bịa đặt.

Nói tóm lại, khái niệm tiểu thuyết là một vấn đề khiến nhiều người quan tâm
và có nhiều luồn ý kiến, nhận định riêng. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn mang những nét
chung về tiểu thuyết. Nó là một thể loại tự sự cỡ lớn và nó có khả năng tái hiện bức
tranh hiện thực cuộc sống một cách toàn diện về con người, về cuộc sống xã hội,

Trang 15


Luận văn tốt nghiệp

chính trị đạo đức…và nó làm cho con người hứng thú khi tiếp cận với nó. Đồng
thời nó góp vào cho nền văn học những thành tựu và những bước tiến mới nổi bật.

1.1.2. Đặc điểm của tiểu thuyết
Tiểu thuyết là thể loại có dung lượng lớn - và có khả năng phản ánh hiện thực
rộng lớn. Với đặc trưng quan trọng này tiểu thuyết phần nào cho thấy được vị trí vai
trò của nó trong nền văn học hiện đại. Xét về mặt khái niệm đây là đặc trưng có thể
nói là rõ nhất, vì tiểu tuyết là thể loại tự sự cỡ lớn và nó có khả năng tái hiện hiện
thực cuộc sống một cách khái quát sâu rộng về xã hội, con người, đạo đức, phong
tục,…và cùng với nhiều thứ khác nữa. Tiểu thuyết thường là nhiều hồi, nhiều
chương với những nội dung liên tiếp không thể tách rời chúng ta phải theo dõi
xuyên suốt từ đầu đến cuối thì mới có thể nắm hết được nội dung dang diễn ra. Khi
phản ánh hiện thực với chiều sâu và rộng thì sẽ giúp cho người viết thể hiện được
khả năng viết của mình, đồng thời cũng giúp cho người viết đi sâu vào khám phá
những hiện thực cuộc sống bộn bề và thể hiện rõ được ý đồ nghệ thuật của mình
cho người đọc có thể hiểu được và cũng giúp cho người đọc phần nào hình dung ra
được những gì mà tác giả muốn hướng đến, đồng thời sẽ hình dung được bối cảnh
xã hội và con người thông qua những trang tiểu thuyết. Với đặc trưng này có thể
nhận thấy tiểu thuyết giống như một quyển “từ điển” hay đúng hơn là một quyển
“bách khoa toàn thư” về cuộc sống tóm tắt cuộc sống xã hội hiện thực, con người

chỉ bằng những ngôn từ thi vị. Qua các bộ tiểu thuyết lớn và nổi tiếng như: Tấn trò
đời của Ban-dắc, Chiến tranh và hòa bình của L. Tôn-xtôi, Tội ác và hình phạt của
Đốt-xtôi-ép-xki….những quyển tiểu thuyết kinh điển này đã phần nào cho thấy rõ
đặc trưng phản ánh hiện thực rộng lớn và chiều sâu cuộc sống của thể loại tiểu
thuyết.
Đặc điểm thứ hai làm cho tiểu thuyết khác với truyện thơ, trường thơ, thơ
trường thiên anh hùng ca và cũng có thể dễ dàng nhận thấy ở tiểu thuyết đó là chất
văn xuôi của tiểu thuyết. Đặc trưng này tức là một sự tái hiện cuộc sống với những
chi tiết giống như thật, không thi vị hóa, lí tưởng hóa, lãng mạn hóa, mà nó hiện
thực hóa. Những khía cạnh đời sống xã hội từ sự vật, con người, thiên nhiên được
hiện thực như những gì nó vốn, muôn hình muôn vẻ, muôn màu sắc không thi vị

Trang 16


Luận văn tốt nghiệp

hóa lên. Như đã nói tiểu thuyết khác với các anh hùng ca ở chỗ nó không mang
những cái cao cả phi thường vượt ngoài tầm với của con người vào bản thân mình,
nó không lãng mạn, không lí tưởng cuộc sống như thơ ca trữ tình mà nó hiện hữu
trong bản thân của nó là những hiện thực nhiều màu sắc, nhiều cung bậc phong phú,
hiện thực hiện lên với sự đa sắc thái và phức tạp, đa dạng như những gì vốn có. Nó
chọn cho mình một lựa chọn riêng không thiêng về chất thơ cũng không thi vị hóa
mà nó góp nhặt cho bản thân những cái bi, cái hài, cái tầm thường và cao cả, cái lớn
cái nhỏ, nó mở ra cả một bầu trời hiện thực cho nhà văn thỏa sức sáng tạo không
giới hạn về nội dung phản ánh trong tác phẩm của mình. Trong tiểu thuyết Số Đỏ
của Vũ Trọng Phụng, ông đã vạch trần bộ mặt lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng
lưu” thành thị trước cách mạng tháng Tám. Đó là xã hội của những con người theo
lối tân thời mà quên đi bản chất của mình, một tấn bi kịch và trò cười cho xã hội.
Nhất là đoạn trích Hạnh phúc một tang gia, “Hạnh phúc” là một cảm xúc vui tươi

của con người những đó lại xảy trong một đám tang. Bộ mặt xã hội và con người
được phô bày ra với những gì vốn có và đó cũng là ý đồ châm biếm của nhà văn.
Các tác phẩm muốn đi vào lòng người thì buộc nhà văn phải nhìn nhân vật của
mình một cách sâu sắc, thấu hiểu và quan tâm đên đời sống của nhân vât của mình.
Nét đặc điểm thứ ba mà người viết muốn nói đến đó là Tiểu thuyết nhìn con người
từ góc độ đời tư. Đời tư của nhân vật có ảnh hưởng khá sâu sắc đối với tác phẩm,
tác giả phải hiểu và quan tâm sâu sắc về cuộc đời, về xã hội và những tác động đến
nhân vật của mình thì tác phẩm mới thành công. Mỗi người sẽ có những môi trường
xã hội khác nhau, những cảm xúc, những bi kịch khác nhau, tính cách và số phận
cũng khác nhau. Tác giả cần quan sát và thấu hiểu thì mới có thể gởi gấm những
tâm tư, tình cảm của mình vào với nhân vật, có khi chính nhân vật cũng là hiện thân
của tác giả thể hiện chính con người tác giả. Và như thế thì người đọc sẽ dễ dàng
cảm nhận sâu sắc hơn những gì mà nhà văn muốn nói. Chính vì nhìn từ góc đời tư
của con người mà các tác giả sẽ có đủ cơ sở để khai thác những khía cạnh khác của
đời sống xã hội. Đời tư là những gì nằm trong con người nhân vật và cả trong
những cái được phô diễn ra bên ngoài. Nhờ vậy mà nhà văn dễ dàng nắm bắt và
phản ánh đời sống hiện thực một cách toàn vẹn và khách quan nhất. Con người sẽ
tác động vào xã hội và họ cũng chính là nạn cho những gì mà xã hội phủ xuống.
Trang 17


Luận văn tốt nghiệp

Trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc là câu chuyện kể về
cuộc đấu tranh hào hùng giữ đất giữ làng của của dân làng Kông Hoa, một dân làng
người Ba Na ở Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhân vật chính là
anh hùng Núp với những câu chuyện có thật của mình. Và những con người Tây
Nguyên này đã viết nên lịch sử những trang chói lọi của mình trong cuộc kháng
chiến bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhân vật trong tiểu thuyết là những con người nếm trải. Nhân vật trong tiểu

thuyết là một nhân tố không thể thiếu trong tác phẩm văn học và tiểu thuyết cũng
không nằm ngoài điều đó. Nhưng khác ở đây là nhân vật trong tiểu thuyết thường là
những nhân vật có những trải nghiệm sâu sắc trong cuộc sống để mang lại những
bài học đáng suy ngẫm của chính bản thân mình. Nói khác hơn chính từ những điều
học được từ những trải nghiệm trong cuộc sống đã tạo ra cho nhân vật những suy
nghĩ tích cực hơn. Họ sẽ tự lớn lên trong những sự trải nghiệm sâu sắc đó. Các tác
giả thường đem họ đến với những trái ngang, nghịch cảnh, những trò đời lố lăng…
để rồi chính từ nơi đó họ sẽ tự đứng lên, tự nhận thức rằng mình phải làm những gì?,
họ sẽ có thể thay đổi từ tâm tư, tình cảm và biết cách thay đổi cuộc sống của chính
mình theo hướng tích cực hơn. Chính cuộc sống đã nuôi dưỡng và chính nó cũng đã
dạy họ lớn khôn hơn qua từng ngày. Nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du cũng là
một nhân vật nếm trải, Kiều đã phải trải qua biết bao nhiêu là sóng gió của cuộc đời.
Cô đã gặp biết bao nhiêu kẻ sở khanh những con người gian ác, bội bạc và cô cũng
đã từng nhận được tình yêu từ những người quân tử và để rồi cô nhận ra hạnh phúc
vẫn ở bên cô khi cô trở về sau bao nhiêu năm trời lưu lạc. Cô đã nếm trải tất cả
những vị ngọt, đắng, chua cay của cuộc đời để giữ lại cho mình những sự trong sạch
trong tâm hồn người con gái “hồng nhan bạc mệnh”. Nguyễn Du đã ném nhân vật
của mình vào những trò đời dơ bẩn nhưng ông không bỏ rơi nhân vật của mình mà
luôn dõi theo và xót thương qua từng trang viết và cũng chính ông đã mang cô trở
về với hạnh phúc của chính mình, cái hạnh phúc dù muộn màng những đáng có.
Điểm khá đặc biệt của tiểu thuyết so với truyện ngắn, truyện vừa…là tiểu
thuyết có chứa những yếu tố “thừa”, những yếu tố nằm ngoài cốt truyện. Khi chúng
ta theo dõi các thể loại như truyện ngắn, truyện vừa thì hầu như một điều dể nhận
thấy là mọi yếu tố của tác phẩm đều được tổ chức rất chặt chẽ với sự vận động của
Trang 18


Luận văn tốt nghiệp

cốt truyện và tính cách, hầu như không có gì “thừa”, tất cả nằm trọn trong các quan

hệ nhân quả. Còn tiểu thuyết thì khác trong bản thân nó còn chứa đựng những yếu
tố ngoài cốt truyện, ngoài những logic thường thấy của một câu chuyện bình thường,
“thừa” nhưng nó lại góp phần làm cho tiểu thuyết nổi bật và khác lạ với mọi thể
loại văn học, tạo nên một nét riêng không thể pha trộn. “Nó chứa bao nhiêu là cái
“thừa” so với truyện vừa và truyện ngắn trung đại, mà nó là cái chính yếu của
nhân vật về thế giới, về đời người, sự phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm, sự
trình bày tường tận các tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa người và
người, về đồ vật và môi trường, và nói chung về toàn bộ tồn tại của con người…”
[15, tr. 392]. Yếu tố thừa thường xoay quanh những gì liên quan đến cuộc sống
xung quanh nhân vật, những suy tư trăn trở về con người, nghề nghiệp, những biến
động tâm lí của nhân vật, những suy tư bên lề cuộc sống trong diễn biến tâm lí nhân
vật,… Tuy nói là yếu tố “thừa” nhưng nó lại cho người đọc thêm những hiểu biết
về nhân vật một cái khái quát và trọn vẹn hơn. Một trong những tác phẩm mang
những yếu tố “thừa” đó có thể nhắc đến đó là nhân vật Thứ một trí thức nghèo
trong Đời thừa, anh là một người có học thức có chí hướng nhưng lại sinh bất
phùng thời nên trở nên bất mãn chán nản cuộc sống, những suy tư của anh thường
là về: nghề nghiệp, đồng nghiệp, về ước mơ, về cái đói, về bản thân, về cái yếu đuối
của con người,…tác phẩm hầu như không có cốt truyện nhưng những yếu tố “thừa”
đó lại làm nên một Thứ rất chân thật và khái quát lên nỗi đau xót của tác giả đối với
những con người có chí hướng nhưng phải chôn chân ở một nơi không thể phát
triển và mỏi mòn với bi kịch của chính mình.
Tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội dung trần thuật.
Bởi vì nó miêu tả lại hiện thực một cách khách quan như những gì đang diễn ra, ở
hiện tại đương thời của người trần thuật. Cũng dựa vào đặc điểm này mà tiểu thuyết
cho phép người trần thuật dễ dàng tiếp xúc với nhân vật của mình hơn, gần gũi hơn
và xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội dung trần thuật. Và chính điều
đó là cho tiểu thuyết là một thể loại dân chủ, nó cho phép người trần thuật có thái độ
gần gũi với nhân vật của mình, và có thể dùng kinh nghiệm của bản thân phủ vào
nhân vật. “Ngôn ngữ trong tiểu thuyết là một hiện tượng đa ngữ” [2, tr. 82]. Người
viết có thể hấp thu mọi lời nói khác nhau của đời sống, san bằng những lời nói trong

Trang 19


Luận văn tốt nghiệp

và ngoài văn học, tạo nên sự hòa hợp giữa các giọng điệu, nhìn sự vật với hiện thực
đa chiều. “Thậm chí người ta cho rằng: về nguyên tắc, tiểu thuyết không có một
hình thức thể loại hoàn kết, bởi vì nó là “sử thi của thời đại chúng ta”, tức là sử thi
của cái hiện tại, bởi vì điều quan trọng đối với nó là sự xúc tiếp tối đa với cái thực
tại dang dở “chưa xong xuôi”, cái thực tại đang thành, cái thực tại luôn luôn bị
đánh giá lại, tư duy lại.”[29, tr. 51]. Sự thật cuộc sống trong tiểu thuyết là một cái
gì chưa xong xuôi và ngay lời trần thuật cùng lời nhân vật cũng là những cái gì đó
chưa xong xuôi. Không giống như truyện ngắn tác giả chỉ nhìn nhận và quan sát và
kể lại bằng ngòi bút của mình, tiểu thuyết hòa mình vào nhân vật và thậm chí còn có
thể suồng sã với chính nhân vật của mình, làm như thế càng chứng tỏ cho người tiếp
nhận thấy nhân vật này có thật hơn và đời thường hơn như những gì vốn có. Tác giả
và nhân vật hầu như không còn khoảng cách xa lại giữa người kể lại câu chuyện của
nhân vật mà chúng ta cảm nhận được đó là chính cuộc đời tác giả, chính đó là
những gì tác giả đã trải qua và bằng kinh nghiệm của chính mình để đưa vào nhân
vật, đem nhân vật của mình để mọi người có thể dễ dàng đánh giá và nhận xét. Vì
vậy mà tiểu thuyết hiện đại thường có những kết thúc bỏ ngõ. Để nhân vật của mình
tự do lựa chọn con đường của chính họ. Và cũng để cho người đọc có điều kiện
chiêm nghiệm với chính mình.
Đặc điểm nổi bật cuối cùng của thể loại này mà người viết đề cập đó là “Tiểu
thuyết là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật
của các thể loại văn học khác”. Tiểu thuyết cũng giống như những thể loại văn học
khác luôn vận động và phát triển mạnh mẽ theo những bước tiến của thời đại. Nó
luôn chứng tỏ mình và không ngừng thay đổi để phù hợp với thời đại mới. Và bản
thân nó cũng tự chuyển động mạnh mẽ khi có khả năng tổng hợp này. Về mặt nào
đó, các thể loại khác trong thời hiện đại cũng đang hình thành vận động những ở

tiểu thuyết các khả năng tổng hợp và vận động lại mạnh mẽ hơn. Theo M.Bakhtin
nhà nghiên cứu Xô viết thì tiểu thuyết là “thể loại duy nhất đang hình thành và
chưa xong xuôi”[7, tr. 331]. Tiểu thuyết có dung lượng lớn nên nó sẽ có khả năng
chứa những nghệ thuật của văn học, đọc những trang tiểu thuyết ta cảm nhận được
cái nhìn tinh tế và sâu lắng của tác giả qua từng lời văn như chúng ta đang lạc vào
vườn thơ mượt mà trữ tình sâu lắng như những tiểu thuyết diễm tình của Khái Hưng,
Trang 20


Luận văn tốt nghiệp

hay cái làm nên những sự thu hút với người đọc ở những nút thắt mà tác giả tạo nên
từ những xung đột trong cốt truyện của tiểu thuyết như những xung đột kịch, những
mảng hiện thực đời sống nóng hổi của kí cũng được tiểu thuyết mang theo và biến
nó thành những mảng hiện thực chân thật nhất mang đến cho người đọc tiểu thuyết,
không những thế những công trình nghệ thuật hội họa, âm nhạc, điêu khắc….cũng
được tiểu thuyết pha vào làm cho nó trở thành một “nhà kho” chứa tất cả những
“món hàng” nghệ thuật đó. Chính vì những điều đó mà đã làm cho tiểu thuyết trở
thành thể loại có khả năng tổng hợp. Có thể nhắc đến những tên tuổi đã khẳng định
được bản chất này của tiểu thuyết như: L.Tôn-xtôi (Chiến tranh và hòa bình), tiểu
thuyết thế sự - trữ tình của Go-rơ-ki (Thời thơ ấu), tiểu thuyết sử thi của Sô-lô-khốp
(Sông đông êm đềm),…ngoài ra còn có tiểu thuyết tư liệu, tiểu thuyết chính luận.
Từ những vấn đề trên cho thấy những đặc điểm nổi bật đó đã làm cho tiểu
thuyết xứng đáng có một vị trí quan trọng trong nền văn học hiện đại. Và từ những
bước tiến của thời đại thì tiểu thuyết phải luôn vận động và cách tân để giữ vững
được vị trí đứng của mình.

1.2. Vài nét về Chu Lai và tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc
1.2.1. Vài nét về tác giả
1.2.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

Chu Lai tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã
Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (1980).
Là con trai của nhà viết kịch Học Phi, vì vậy Chu Lai được sự ưu ái là thừa
hưởng dòng máu văn học thấm nhuần từ thời thơ ấu từ cha và những người bạn của
cha mình, học hết phổ thông ông vào trường đại học. Hết năm thứ nhất, đất nước
bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như những người thanh niên
yêu nước khác ông đã xếp bút nghiên xin nhập ngũ và được điều về đoàn kịch nói
Tổng cục chính trị. Cuộc sống chiến đấu luôn sôi sục trong con người ông không
thỏa chí làm một diễn viên của mình ông xin trực tiếp cầm súng chiến đấu. Và một
Chu Lai với vốn liếng là một anh sinh viên năm nhất đã trở thành một chiến sĩ đặc
công hoạt động ở vùng sâu Sài Gòn trong hoàn cảnh gian nan, ác liệt với kẻ thù.

Trang 21


Luận văn tốt nghiệp

Với ý chí và lòng quyết tâm của mình, từ chiến sĩ rồi lên đại đội trưởng ông không
ngừng hoạt động và chiến đấu cho đến ngày đất nước thống nhất.
Sau 1975, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Cuối 1976 ông về trại
sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học Trường viết văn Nguyễn Du
khóa 1. Tốt nghiệp, ông về Tạp chí Văn nghệ Quân đội làm biên tập và sáng tác.
Ngoài viết văn xuôi ông còn thử nghiêm ngòi bút của mình bằng nhiều thể loại như
viết kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim.
Ông là một cây bút bước ra từ chiến trường, một nhà văn cầm súng trước khi
cầm bút nên những tác phẩm của ông thấm nhuần suy tư về chiến tranh và những
người lính trước và sau thời bình. Và ông cũng là một tác giả đã thử ngòi bút của
mình ở khá nhiều thể loại. Những tác phẩm tiêu biểu của ông như: Nắng đồng bằng
(tiểu thuyết 1977), Người im lặng (truyện ngắn,1976), Đôi ngã thời gian (truyện

ngắn, 1979), Sông xa (tiểu thuyết, 1982), Gió không thổi từ biển (tiểu thuyết, 1985),
Vòng tròn bội bạc (tiểu thuyết, 1990), Ăn mày dĩ vãng (tiểu thuyết, 1992), Phố (tiểu
thuyết, 1993), Bãi bờ hoang lạnh (tiểu thuyết, 1990), Ba lần và một lần (tiểu thuyết,
1999), Cuộc đời dài lắm (tiểu thuyết, 2001), Phố nhà binh (truyện ngắn, 1992),
Nhà lao cây dừa (ký sự, 1992), Vùng đất xa xăm (truyện, 1981), Út teng (truyện
thiếu nhi, 1983).
Ngoài ra ông còn các kịch bản sân khấu kịch bản phim: Hà Nội đêm trở gió,
Người Hà Nội, Người mẹ tự cháy, Ăn mày dĩ vãng.
Nhìn chung, về tiểu sử của Chu Lai chúng ta phần nào hiểu được lí do mà Chu
Lai lại có những trang viết hay về đề tài chiến tranh vấu chiến tranh. Một cậu bé
được tiếp xúc với văn chương từ thuở nhỏ qua những người cha chú đi trước, ông
có phần được ưu ái trong tâm hồn văn chương hơn. Là một cậu sinh viên đầy nhiệt
huyết không chịu đi theo con đường học tập nhàn hạ mà ông muốn góp công sức
của mình vào cuộc chiến đấu giành độc lập cho dân tộc, một anh sinh viên thư sinh
lại muốn trở thành một người lính đặc công trực tiếp giáp mặt quân thù. Điều đó
chứng tỏ rằng ông không chỉ có vốn học hỏi từ các bậc cha chú mà ông viết bằng
tâm hồn trải nghiệm cuộc sống của bản thân. Và không muốn hạn chế khả năng
sáng tạo của mình ông còn thử sức qua nhiều thể loại sáng tác làm phong phú thêm
tâm hồn mình.
Trang 22


Luận văn tốt nghiệp

Những cống hiến hết mình của ông cho nghệ thuật đã được công nhận xứng
đáng. Ông đã được nhận Giải thưởng Hội đồng Văn học chiến tranh Cách mạng và
lực lượng vũ trang (Hội nhà văn) với tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng (1993), Giải
thưởng Văn học Bộ quốc phòng 1994, Giải thưởng tiểu thuyết NXB Hà Nội với tiểu
thuyết Phố 1993, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật 2006.


1.2.1.2. Quan niệm sáng tác
Với Chu Lai, văn chương là duyên nợ, là cuộc sống, là tình yêu. “Tôi có mười
năm cầm súng, kiệt sức và mệt mỏi tưởng đã là tột cùng đau khổ. Nhưng hòa bình
còn sống, bắt tay vào viết mới thấy cái lao động cầm bút cũng gian nan, vật vã
chẳng kém gì nếu như không nói có lúc ngàn lần mệt mỏi hơn…Tôi từng nghĩ, viết
về chiến tranh có thể đẩy ngòi bút đến tận cùng bi thảm nhưng không thể bỏ quên
đằng sau là cái nền bi tráng; cũng vậy, viết về đời thường, đừng ngại, hãy đẩy số
phận con người đến tận cùng ngang trái, thậm chí bất công, nhưng nên nhớ phía
sau còn có cái nền dịu ngọt của cõi sống, của con người…”[17, tr. 360], ông đã viết
về mình như thế đủ thấy văn chương có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến con người này
như thế nào. Đến với văn chương là cái duyên, phải là con người có cảm nhận tinh
tế về nghệ thuật thì văn chương của họ mới có thể đi vào lòng người mà không cần
quá trau chuốt, nhẹ nhàng nhưng sâu lắng. Văn chương là cuộc sống trong ông bởi
vì văn chương giúp ông tái hiện lại cuộc sống mà mình đã đi qua, những chặng
đường dài đau thương của lịch sử.
Nợ đối với ông có lẽ là ông nợ những đồng đội của mình và nợ đối với văn
chương, ông đã sinh ra trong giai đoạn bất thường của lịch sử và mang trong mình
dòng máu nghệ thuật nên ông phải cống hiến cho nghệ thuật. Có thể những điều đó
ông không thể kể ra hết những nó sẽ được những con chữ đáng yêu kia mang đến
cho mọi người qua những tác phẩm của ông. Nhưng viết về chiến tranh với ông nó
không chỉ dữ dội và khốc liệt mà còn ẩn đằng sau đó là những cung bậc lãng mạn
của tình yêu: “Mai mà chiến tranh không chỉ có hoảng loạn, đau đớn khổ ải. Nó
bao giờ cũng có hai gam: dữ dội đến tận cùng nhưng cũng lãng mạn đến tận cùng.
Tất cả những cuốn sách của tôi đều chứa đựng cả hai gam này và tất cả dựa trên
nền tảng tình yêu. Nói thật, nếu viết về chiến tranh mà chỉ là những trận đánh kinh

Trang 23


Luận văn tốt nghiệp


hoàng và chết chóc thì sẽ không ai đọc cả. Vì vậy, phải có nguyên lý sáng tạo như
sau: Viết về tài nào cũng được những nếu không có một nền tình yêu chắc chắn thì
cuốn sách ấy đổ. Dĩ nhiên tình yêu trong chiến tranh có đặc thù riêng. Trong chiến
tranh tình yêu mạnh hơn bình thường gấp nghìn lần, bởi đó là tình yêu một lần cho
mãi mãi, yêu để chết, thậm chí chưa yêu đã chết.”[26].
Với Chu Lai thì văn chương đã thấm nhuần trong ông từ thuở chín mười nên
dòng máu chảy trong ông có chất nghệ thuật và ông luôn tâm niệm nhà văn phải
tâm huyết phải có tâm hồn sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt phải có trách nhiệm với
ngòi bút của mình: “Cuộc đời trận mạc chỉ cho tôi cái cớ, tức là cảm xúc với vốn
sống chứ thực ra tôi nhập hồn văn chương từ thuở nhỏ, khi còn là một cậu bé lớp 5
đêm đêm ngồi nghe các cụ Thế Lữ, Đào Mộng Long,...đàm đạo về kịch, về văn với
cha tôi. Mà cũng không phải là khoái ngồi nghe, chỉ vì căn phòng có hai chục thước
vuông chứa cả gia đình 6 - 7 người, các cụ ngồi thì mình phải ngồi nghe theo vì có
chỗ mà ngủ. Tiếp đến là những buổi trốn học ra bờ sông thả tâm hồn vào hoang
mạc. Bé tí mà đã man mác buồn. Thế rồi lên đường ra trận. Cả một quãng đời ghê
gớm, đậm đặc nhất ùa vào. Không chết, còn sống, không biết làm gì thì viết.
Nghiệm ra cái nghiệp văn chương nó nhập vào mình có khi ngay từ trong bụng
mẹ.”[28]. Nhà văn phải tạo cho mình những điểm nhấn, một màu sắc không thể pha
lẫn: “Sở dĩ văn của tôi được nhiều người đọc là vì cái gì cũng được đẩy đến tận
cùng của mọi sự buồn vui. Tôi không thích chơi những gam màu nhợt nhạt. Vì sao ư?
Vì một tuổi thơ nhọc nhằn, đói khổ, một thời trai trẻ đi qua chiến tranh, cộng thêm
tính cực đoan nên văn khốc liệt thế thôi. Nhưng chính sự khốc liệt đó tạo ra một thứ
mùi rất Chu Lai đấy!” [26]. Trải qua những năm tháng đau thương nhất của chiến
tranh, là một người đã từng cầm súng, từng nếm trải những nỗi đau trận mạc, từng
đau đớn, từng sợ hãi, từng chôn cất chính đồng đội của mình làm cho văn ông thêm
mạnh mẽ và ông luôn nghĩ mình phải có trách nhiệm viết về chiến tranh về những
người đồng đội của mình, về những con người đã không tiếc máu xương, tuổi trẻ để
đấu tranh giành lại bình yên và hạnh phúc cho hôm nay. Với Chu Lai “tác phẩm là
sự cộng hưởng thăng hoa của tình yêu nghề, của lương tâm trách nhiệm với ngòi

bút và khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ.”[26].

Trang 24


×