Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

bài đọc luật hôn nhân gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.64 KB, 53 trang )

1

Những điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 (có hiệu lực từ
ngày 01/1/2015
Lời nói đầu của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 có đoạn:
“Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan
trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt...”
Vai trò của gia đình đối với xã hội là vô cùng quan trọng nên các chế định pháp luật điều
chỉnh vấn đề không những phải đáp ứng được định hướng pháp luật mà còn phải phù hợp
với thực tiễn xã hội. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qua gần 15 năm áp dụng được
coi là hành lang pháp lý quan trọng trong việc kế thừa và phát huy chế độ hôn nhân và gia
đình tốt đẹp của dân tộc ta. Tuy nhiên với sự phát triển không ngừng cả về đời sống vật
chất cũng như tinh thần của người dân mà Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã bộc lộ
nhiều bất cập, hạn chế…gây khó khăn cho người dân cũng như cơ quan giải quyết các
vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình.
Chính vì vậy, việc thay đổi luật đã là một điều tất yếu để phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Luật hôn nhân và gia đình 2014 (có hiệu lực 1/1/2015) đã được Quốc hội thông qua với
đa số phiếu tán thành được cho là sẽ mang lại nhiều điều tích cực và đổi mới trong vấn đề
hôn nhân và gia đình này.
1. Thêm nhiều thuật ngữ được giải thích
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HNGĐ 2014) đã có nhiều thuật ngữ được quy
định hơn. Những thuật ngữ mới đáng chú ý theo Điều 3 Luật HNGĐ 2014 là:
“4. Tập quán về hôn nhân và gia đình là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền,
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được lặp đi, lặp lại trong một
thời gian dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền hoặc cộng đồng.
7. Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ
chồng.
10. Cản trở kết hôn, ly hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách
của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn
theo quy định của Luật này hoặc buộc người khác phải duy trì quan hệ hôn nhân trái với ý


muốn của họ.
12. Yêu sách của cải trong kết hôn là việc đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng và coi đó
là điều kiện để kết hôn nhằm cản trở việc kết hôn tự nguyện của nam, nữ.
15. Ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính
sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích
chấm dứt hôn nhân.
21. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo
hoặc thụ tinh trong ống nghiệm.


2

22. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì
mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai
và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ
và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của
người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
23. Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người
khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích
khác”.
2. Nâng độ tuổi kết hôn
Theo Luật HNGĐ 2000 và các văn bản hướng dẫn thì độ tuổi kết hôn là: nam bước sang
tuổi 20 (19 tuổi + 1 ngày), nữ bước sang tuổi 18 (17 tuổi + 1 ngày). Tuy nhiên, theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Luật HNGĐ 2014 thì: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ
đủ 18 tuổi trở lên”.
Sở dĩ có việc thay đổi này là vì nếu quy định tuổi kết hôn của nữ là vừa bước qua tuổi 18
thì quy định này là không thống nhất với Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Đó là,
theo Bộ luật Dân sự người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý…
Còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ

năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn là
không hợp lý, thiếu đồng bộ và làm hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập các
giao dịch như quyền yêu cầu ly hôn thì phải có người đại diện.
3. Chuyển từ cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính sang “không thừa nhận
hôn nhân giữa những người cùng giới tính”
Khoản 2 Điều 8 Luật HNGD 2014 quy định: “2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân
giữa những người cùng giới tính”.
Việc kết hôn giữa những người cùng giới tính là một vấn đề nhạy cảm, có nhiều ý kiến
trái chiều. Tuy nhiên cuối cùng, pháp luật vẫn chưa thừa nhận quan hệ hôn nhân cùng giới
tính do còn nhiều vấn đề liên quan đến văn hóa, phong tục…Tuy nhiên, việc quy định
“không thừa nhận hôn nhân cùng giới tính” cũng là một bước tiến mới trong nhận thức
của mọi người đối với một vấn đề nhạy cảm này.
4. Quy định về việc giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như
vợ, chồng mà không đăng ký kết hôn
Điều 14 Luật HNGĐ 2014 quy định:
“1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như
vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và
chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải
quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.


3

2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản
1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì
quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn”.
Điều 15 quy định:
“Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải
quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con”.
Điều 16 quy định:

“1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong
trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các
quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và
con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi
như lao động có thu nhập”.
Có một điều đáng chú ý là Luật HNGĐ 2014 coi công việc nội trợ và các công việc khác
có liên quan để duy trì đời sống được coi là lao động có thu nhập. Quy định này khá mới
và nó được coi sẽ là một chế định hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi phụ nữ và con.
5. Tài sản của vợ, chồng khi kết hôn
Luật HNGĐ 2000 quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế
công khai minh bạch về tài sản chung, tài sản riêng. Luật hiện hành chủ yếu đề cập đến
vấn đề đất đai, còn các tài sản khác như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa
được đề cập tới, gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Nay, Luật HNGĐ 2014 quy định cụ thể: việc thỏa thuận phải được lập bằng văn bản có
công chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn. Thỏa thuận này vẫn có thể được thay đổi
sau khi kết hôn. Quy định này sẽ làm giảm thiểu sự tranh chấp tài sản sau ly hôn của các
cặp vợ chồng trong tình hình hiện nay.
Một số quy định tiêu biểu:
Điều 31 quy định:
“Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của
vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng
của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên
quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng”.
Điều 32 quy định:
“1. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản
ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao
dịch liên quan đến tài sản đó.



4

2. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà
theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền
xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật dân sự có
quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình”.
Điều 34 quy định:
“1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định
phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng
nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận
khác.
2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài
sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực
hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải
quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này”.
Điều 35 quy định:
“1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.
2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong
những trường hợp sau đây:
a) Bất động sản;
b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;
c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình”.
Điều 36 quy định:
“Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh
doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó.
Thỏa thuận này phải lập thành văn bản”.

6. Ly hôn
6.1. Mở rộng thêm đối tượng có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

Điều 51 quy định:
“1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên
vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ
gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc
đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.


5

6.2. Nguyên tắc chia tài sản
Điều 59 quy định:
“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản
do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc
của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và
tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản
khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp
dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63
và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản
chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để
các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện

vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần
mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản
riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ,
chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng
góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư
pháp hướng dẫn Điều này”.
6.3. Hôn nhân chấm dứt do vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
Luật HNGĐ 2014 đã có những quy định cụ thể về giải quyết vấn đề về tài sản cũng như
nhân thân khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết.
Điều 66 quy định:


6

“1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản
lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản
lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường
hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa
án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
3. Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc
chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân
chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
4. Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2

và 3 Điều này, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác”.
Điều 67 quy định:
“1. Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của
người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời
điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại
khoản 2 Điều 56 của Luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong
trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được
xác lập sau có hiệu lực pháp luật.
2. Quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được
giải quyết như sau:
a) Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ
thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài sản
do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ
là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là
tài sản riêng của người đó;
b) Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết
định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải
quyết như chia tài sản khi ly hôn”.
6.4. Người trực tiếp nuôi con thì con từ đủ 7 tuổi trở lên phải xem xét nguyện vọng của
con
Luật HNGĐ 2000 quy định nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên thì xem xét nguyện vọng của con
tuy nhiên Luật HNGĐ 2014 đã giảm độ tuổi của con để xem xét nguyện vọng về người
nuôi dưỡng sau khi ly hôn là 7 tuổi.
7. Cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Luật HNGĐ 2014 có quy định rất mới đó là cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Việc mang thai hộ phải tuân theo điều kiện nhất định.
Điều 95 quy định:


7


“1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của
các bên và được lập thành văn bản.
2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và
sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng đang không có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang
thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản
của người chồng;
đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
4. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này”.

8. Mở rộng đối tượng có quyền yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng
Luật HNGĐ 2014 đã mở rộng các đối tượng được quyền yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng
hơn.
Điều 119 quy định:
“1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có
quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải
thực hiện nghĩa vụ đó:

a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.


8

3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều
này yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực
hiện nghĩa vụ đó”.
. Nghĩa vụ đối với con khi ly hôn
Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly
hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho
một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở
lên (Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là từ đủ 9 tuổi trở lên), thì phải xem xét nguyện
vọng của con.
Quy định “về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên
không có thoả thuận khác” được sửa thành “con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực
tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Ngoài ra, Luật mới cũng có một số điểm mới như: Bổ sung nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cô,
dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; quy định về con do người vợ mang thai trong thời kỳ
hôn nhân cũng được luật hóa. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm
chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ mang thai trong thời kỳ hôn nhân. Nếu
cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được tòa án xác định...
Với những điểm đổi mới như trên, hy vọng rằng, khi đi vào cuộc sống, Luật Hôn nhân và
gia đình sửa đổi năm 2014 sẽ giải quyết được những quan hệ phức tạp trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình, góp phần xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, bền vững và hạnh phúc.

VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG VIỆC MANG THAI HỘ
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam (sửa đổi) năm 2014 đã được thông qua tại Kỳ họp
lần thứ 7, Quốc hội Khoá 13 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2015.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 đã có nhiều quy định mới, trong đó có
quy định Nhà nước cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Đây là một vấn đề pháp
lý hoàn toàn mới tại Việt Nam. Ngoài những ý kiến ủng hộ, thì cũng có không ít ý kiến
bày tỏ sự băn khoăn, thậm chí phản đối.
Để cùng nhìn nhận những mặt tích cực, hạn chế của vấn đề này, sau đây là tổng quan các
quy định pháp luật về hoạt động mang thai hộ tại một số quốc gia trên thế giới. Hội thảo
Tư pháp Quốc tế Hague (HCCH) được tổ chức tại Hà Lan vào năm 2012 rút ra kết luận:
Các thiết chế trên thế giới quy định về mang thai hộ đang được chia ra làm bốn nhóm. Cụ
thể: Nhóm nước chưa có quy định, nhóm nước phản đối, nhóm nước cho phép vì mục
đích nhân đạo và nhóm các nước chấp thuận thương mại hóa.


9

Tiến thoái lưỡng nan trong việc hoàn thiện pháp luật :
Tại một số quốc gia có nền y tế và pháp luật tiến bộ như Thụy Điển, Tây Ban Nha, Pháp
hay Đức, việc mang thai hộ là bất hợp pháp. Năm 1991, tòa án tối cao Pháp tuyên bố: “Cơ
thể con người là không phải để cho mượn, cho mướn hay để bán đi”. Quyết định này cấm
tuyệt đối mọi hình thức mang thai hộ dẫu là tự nguyện hay được thương mại hóa. Mọi
trường hợp bị phát hiện sẽ phải hầu tòa, thậm chí bị buộc tội hình sự.
Các quốc gia đã hợp pháp hóa việc mang thai hộ lại được chia ra làm hai nhóm nước:
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại. Đối với các
quốc gia thuộc nhóm vì mục đích nhân đạo, chẳng hạn như Anh hay Hy Lạp, các thỏa
thuận mang thai hộ chủ yếu được tiến hành trên cơ sở tự nguyện.
Một số quốc gia còn quy định việc thương mại hóa mang thai hộ là vi phạm pháp luật. Tại
Anh, trừ phi được tòa án yêu cầu, người nhờ mang thai hộ không được phép chi trả bất kỳ
khoản tiền nào đối với người mang thai vượt quá “các chi phí hợp lý” trong quá trình thai

kỳ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có cách giải thích cụ thể nào về “các khoản chi phí hợp
lý” này có tính xác thực như thế nào. Theo luật pháp Anh, mọi khoản chi trả của người
mẹ phục vụ cho quá trình mang thai đều được xem là “chi phí hợp lý”.
Hiện đã có một số quốc gia cho phép công dân nước mình mang thai hộ vì mục đích
thương mại. Những quốc gia nổi bật trong danh sách này có thể kể đến Ấn Độ, Ukraine
hay Thái Lan. Luật pháp các nước này thường không bắt buộc cặp vợ chồng nhờ mang
thai hộ phải là công dân của nước đó. Thậm chí một số nước chỉ đơn giản hợp pháp hóa
mang thai hộ vì mục đích chứ không xây dựng hoặc chưa hoàn thiện các văn bản luật để
kiểm soát và hướng dẫn hoạt động này. Đối với nhóm nước này, thị trường chợ đen và
nạn lạm dụng cơ thể phụ nữ để sinh lời vẫn là một mối lo ngại lớn.
Tại Ấn Độ, việc mang thai hộ đã được xác nhận là hợp pháp từ năm 2002. Chỉ mới có Hội
đồng Nghiên cứu y tế Ấn Độ là đơn vị đưa ra các hướng dẫn về kỹ thuật thụ tinh nhân tạo
và cách giải quyết các trường hợp mang thai hộ tại các trung tâm y tế. Mãi đến năm 2008,
Bộ Phát triển Phụ nữ và Trẻ em của Ấn Độ mới bắt đầu cân nhắc xây dựng bộ luật quản
lý hoạt động mang thai hộ. Tuy nhiên, bộ luật này bị trì hoãn mãi đến nay vẫn chưa xây
dựng xong, những lỗ hổng pháp lý này sẽ làm hại nhiều nhất đến những phụ nữ vùng thôn
quê vì họ thiếu kiến thức. Những vụ kiện tại Ấn Độ xoay quanh vấn đề mang thai hộ có
thể phải mất đến 10-12 năm để giải quyết. Thế nhưng quyền lợi chính đáng của các bên
thỏa thuận dường như vẫn là một dấu chấm hỏi quá lớn đối với chính quyền, khi cơ quan
chức năng không có bất kỳ một bộ luật hoàn thiện nào trong tay.
Nhiều vụ án mang thai hộ vẫn khó giải quyết
Nhiều quốc gia trên thế giới vẫn chưa giải quyết triệt để vấn đề nhân thân của đứa trẻ sinh
ra từ quá trình mang thai hộ. Các khúc mắc thường nằm ở thủ tục để người phụ nữ sinh ra
đứa trẻ từ bỏ quyền làm mẹ của mình. Trong một số trường hợp thỏa thuận mang thai hộ,


10

các thủ tục “chuyển giao” quyền nuôi dạy thậm chí phức tạp đến mức cặp vợ chồng
không được xác nhận danh phận cha mẹ của mình đối với đứa trẻ trên giấy tờ khai sinh.

Họ buộc phải nhận đứa trẻ làm con nuôi thay vì là con ruột của mình.

Mang thai hộ: Con sinh ra là con của ai?
Mang thai hộ hay đẻ thuê là những cụm từ không còn xa lạ trong thời gian gần đây. Pháp
luật Việt Nam cũng đã có những quy định nhằm ngăn chặn việc mang thai hộ. Trong bối
cảnh lấy ý kiến đóng góp sửa đổi Luật hôn nhân và gia đình, việc xây dựng một bộ khung
pháp lý để giải quyết những hệ lụy liên quan đến vấn đề mang thai hộ thực sự đang làm
đau đầu các nhà làm luật.
Cấm hay không cấm mang thai hộ
Với tình trạng vô sinh ngày càng nhiều, vợ chồng hiếm muộn hay đơn giản là không
muốn trực tiếp sinh con để giữ vóc dáng thì nhu cầu mang thai hộ, nhu cầu thuê đẻ thực
sự là có thật. Pháp luật về hôn nhân và gia đình đã có quy định cấm việc mang thai hộ
thậm chí có chế tài xử phạt nặng vấn đề này, thế nhưng những “giao dịch” ngầm vẫn tồn
tại và việc đẻ thuê mang thai hộ vẫn xảy ra.
Đa số các ý kiến cho rằng mang thai hộ là vi phạm về đạo đức, thuần phong mỹ tục, vi
phạm pháp luật. Bởi lẽ, với phong tục tập quán của người Việt từ lâu đời: Con ruột phải
do người mẹ mang nặng đẻ đau sinh ra. Tình mẫu tử là rất thiêng liêng. Mặc dù là mang
thai hộ nhưng cũng trải qua chín tháng, mười ngày, do đó sợi dây tình cảm giữa đứa trẻ
với người mẹ không thể tự nhiên dứt bỏ. Việc sinh ra và phải “trả con” cho người khác,
tình “mẫu tử” bị chia cắt là không phù hợp và trái đạo lý.
Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chưa có một quy định nào về vấn đề mang
thai hộ tuy nhiên Nghị định số 12/2003/NĐ-CP về sinh con theo phương pháp khoa học
đã nghiêm cấm hành vi mang thai hộ này.
Cần có một quy định mở về mang thai thai hộ cho một số trường hợp đặc biệt.
Ở một khía cạnh khác, có người lại cho rằng cần cho phép mang thai hộ nhưng nghiêm
cấm “giúp trực tiếp”. Để bảo vệ quan điểm này, người ta lý giải rằng với những trường
hợp người vợ không thể mang thai nhưng hai vợ chồng đều có khả năng có con, mà thông
qua con đường thụ tinh ống nghiệm, vợ chồng họ lấy trứng và tinh trùng để nuôi phôi thai



11

rồi cấy phôi để chị, em gái hoặc người thân tình nguyện mang thai hộ nhau, thì cần được
nhìn nhận một cách toàn diện và nhân văn.
Bởi trong quan hệ mang thai hộ này không tồn tại yếu tố "tiêu cực" nào, người chồng
không có quan hệ tình dục trực tiếp với người mang thai hộ, và đứa trẻ được hình thành từ
trứng của người vợ, tinh trùng của người chồng nên dù không phải do người vợ mang thai
thì vẫn là "máu mủ" của họ.
Do đó vấn đề cấm hay không cấm mang thai hộ cần được Bạn soạn thảo sửa đổi Luật hôn
nhân và gia đình mang ra bàn thảo tiếp. Nên chẳng cần có một quy định mở để đảm bảo
cho một số trường hợp đặc biệt,
Hệ quả pháp lý mang thai hộ: Con sinh ra là con của ai?
Trong quá trình soạn thảo sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000 nhiều ý kiến đề cập đến khó khăn, bất cập trong việc giải quyết các vụ liên quan về
mang thai hộ. Bởi lẽ hiện tại chưa có quy định cụ thể hậu quả pháp lý như xác định cha,
mẹ đứa trẻ được sinh, các quyền nhân thân và tài sản của đứa trẻ với những người có liên
quan (người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ).
Nhiều người đặt câu hỏi: Đứa trẻ sinh ra từ việc mang thai hộ là con của “người đẻ” hay
con của người mẹ “nhờ đẻ”? Thực tế người mẹ mang thai hộ và sinh ra đứa trẻ về mặt
sinh học thì không phải là mẹ của đứa trẻ ấy, nhưng về mặt quan hệ dân sự lại là quan hệ
mẹ ruột - con ruột, trong khi về mặt pháp luật lại không được thừa nhận.
Việc xác định đứa trẻ là con của người này hay con của người kia không đơn thuần là xác
định mối quan hệ cha mẹ con mà còn liên quan đến vấn đề nhân thân, về quyền thừa kế
và các quyền dân sự khác.
Thiết nghĩ, Luật hôn nhân sửa đổi bổ sung Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cần quy
định cụ thể về mang thai hộ, hậu quả pháp lý của việc mang thai hộ nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích của trẻ em sinh ra từ quan hệ này.
Đưa mang thai hộ vào… luật?
Nhu cầu mang thai hộ là có thực và đang trở nên rất phổ biến nhưng do pháp luật chưa
cho phép nên nhiều người đã chấp nhận thực hiện dịch vụ “chui” để có một đứa con. Điều

này có thể dẫn đến những tranh chấp pháp lý xảy ra. Nhiều ý kiến đã đề xuất đưa hành vi
mang thai hộ vào trong Luật Hôn nhân gia đình.


12

Luật không cho nên phải làm chui
Dù hiện nay luật pháp không cho phép mang thai hộ, nhưng trên thực tế dịch vụ này vẫn
âm thầm diễn ra. Điều đáng nói là từ ý nghĩa nhân đạo đúng với nghĩa của của mang thai
hộ là giúp đỡ những người hiếm muộn không thể mang thai có con, việc làm này đã trở
thành một “dịch vụ ngầm” mà nhiều người vẫn gọi là “đẻ thuê” hay “cho thuê tử cung”.
Người nhờ mang thai và người mang thai hộ chỉ có thỏa thuận miệng về điều kiện và thù
lao, sau đó tiến hành thông qua một dịch vụ y tế “chui”, người mang thai hộ phải tuyệt đối
giữ bí mật và bị cách ly với đứa trẻ ngay sau khi sinh ra. Vì nhiều gia đình hiếm muộn sẵn
sàng trả số tiền lớn lên đến hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ đồng cho một ca sinh hộ như
thế nên không ít người đã hành nghề… đẻ thuê với nhiều lần mang thai cho người khác.
Trên các diễn đàn mạng, không ít người hiếm muộn có nhu cầu cũng dò hỏi thông tin về
dịch vụ này. Cũng có nhiều người công khai đăng thông tin “đẻ thuê”, kiểu như: Mình 23
tuổi, hiện đang ở TP.HCM. Mình nhận mang thai hộ cho gia đình hiếm muộn, một phần
giúp các gia đình, môt phần vì điều kiện kinh tế gia đình mình. Mình cao 1m66 nặng
55kg, trình độ đại học, đã có 1 bé trai… Mẹ nào có nhu cầu liên hệ…
Trên thực tế, nhu cầu nhờ mang thai hộ là có thật. Theo BS Hồ Mạnh Tường, Tổng Thư
ký Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh, có hai nhóm người không thể mang thai, nếu muốn
có con chỉ còn cách duy nhất là nhờ mang thai hộ. Một là những phụ nữ có tử cung không
bình thường (tử cung bị dị dạng hay bị các bệnh lý như u xơ hay bệnh về nội mạc, phụ nữ
bị cắt bỏ tử cung do tai biến sản khoa trước đó…). Hai là những người có tử cung bình
thường nhưng sức khỏe không cho phép để mang thai, ở nước ta gặp nhiều nhất là bệnh
tim.
Thực ra trước đây ngành y đã từng áp dụng thành công biện pháp mang thai hộ cho những
trường hợp bị biến chứng trong chương trình kế hoạch hóa gia đình (nạo phá thai nhiều

lần hoặc bị cắt tử cung). Mang thai hộ được hiểu là dùng biện pháp kỹ thuật lấy trứng của
vợ và tinh trùng của chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của một
phụ nữ khác để nhờ người này mang thai hộ. Tuy nhiên, việc làm này sau đó phải chấm
dứt vì Nghị định 12/2003/NĐ-CP về sinh con theo phương pháp khoa học ra đời với quy
định nghiêm cấm hành vi mang thai hộ. Từ đây, tất cả những người có nhu cầu đều phải
làm “chui”, một số khác dù sức khỏe không cho phép vẫn mang thai, và hậu quả là chết
cả mẹ lẫn con.


13

Những tình huống tranh chấp có thể xảy ra
Vì là “chui”, không được pháp luật điều chỉnh và bảo vệ nên việc mang thai hộ có thể dẫn
đến những tình huống tranh chấp khó có thể lường trước được. Chẳng hạn như người
mang thai hộ sau thời gian mang thai ít nhiều cũng có tình cảm máu mủ với đứa trẻ bị
sinh ra. Vì vậy, cũng có thể xảy ra tình trang “phá hợp đồng”, không giao con cho đối tác
hoặc bỏ trốn… Lúc này thì người nhờ mang thai hộ đứng trước hoàn cảnh trớ trêu, không
thể kiện đối tác vì rõ ràng trên luật pháp, đứa trẻ sinh ra là con của người mang thai hộ;
cũng không thể bỏ đứa con đó vì trên thực tế nó là máu mủ của mình… Hoặc cũng có
trường hợp, đối tượng mang thai hộ khi đã trở thành chuyên nghiệp có thể nghĩ ra nhiều
chiêu vòi vĩnh, hành hạ khổ chủ như đòi thêm tiền, ra nhiều điều kiện tréo nghoe. Hoặc
quá đáng hơn, sau khi nhận tiền rồi tìm cách “chuồn”, người đẻ thuê sẽ phá thai và tiếp
tục hành trình lừa đảo của mình… Tất nhiên trong trường hợp này, khổ chủ là người nhờ
mang thai cũng chẳng biết kêu ai vì họ không được pháp luật bảo vệ.
Ngược lại, người mang thai hộ cũng có nguy cơ gặp không ít rủi ro khi thực hiện dịch vụ
“chui”. Thực tế những người mang thai hộ thường là những người có hoàn cảnh khó
khăn, ở các vùng nông thôn, sự tiếp cận và hiểu biết pháp luật thấp. Các thỏa thuận nhiều
khi lại không có hợp đồng, khi trao con cho người khác lại bị “bùng” tiền không được
thanh toán. Lúc đó ai sẽ là người bảo vệ họ. Hoặc cũng có trường hợp trong quá trình
mang thai gia đình người nhờ mang thai hộ có trục trặc trong hôn nhân hoặc vi phạm

pháp luật như ly dị hoặc bị chết, bị bắt đi tù không nhận đứa con nữa. Hoặc khi đứa bé
sinh ra gặp rắc rối về sức khỏe như sinh non, ốm yếu, dị tật… người nhờ mang thai không
muốn nhận, trốn tránh. Khi đó người mang thai hộ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, có thể dẫn
đến những hành động sai trái khác như phá thai, bỏ con, cho con, bán con… Việc mang
thai hộ, nhất là mang thai hộ nhiều lần cũng có thể dẫn đến nhiều nguy cơ cho người
mang thai hộ như tai biến sản khoa gây vô sinh, hoặc thậm chí mất mạng.
Ngoài ra, các vấn đề pháp lý khác như xác định cha, mẹ đứa trẻ được sinh ra, các quyền
nhân thân và tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan như người mang thai hộ,
người nhờ mang thai hộ… cũng không được pháp luật đề cập tới. Vì vậy, nếu thuận cả hai
bên thì không sao, nhưng nếu xảy ra những tranh chấp phát sinh thì đứa trẻ sinh ra có thể
gặp nhiều thiệt thòi.
Có nên luật hóa?
Vấn đề mang thai hộ đã được đưa ra bàn thảo nhiều lần và bao giờ cũng có 2 luồng ý kiến
trái chiều. Trước đó, vấn đề này đã được đưa vào nội dung của tiến trình lấy ý kiến sửa
đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Theo đó, hầu hết mọi người đều nhận
thấy việc mang thai hộ vừa là một giải pháp nhân đạo đối với những trường hợp hiếm


14

muộn, vừa giải quyết được những tranh chấp đang diễn ra trong thực tế khi mang thai hộ
đang diễn ra rất phổ biến nhưng lại thiếu sự điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên, vì nhiều
lý do nên hiện nay mang thai hộ chưa được Luật pháp công nhận. Trong lần sửa đổi Luật
Hôn nhân và Gia đình lần này, Bộ Tư pháp một lần nữa lại lấy ý kiến về việc chấp nhận
hay tiếp tục cấm mang thai hộ, và lần này nhiều ý kiến vẫn cho rằng cần thiết phải luật
hóa. TS Nguyễn Văn Cừ, Phó Chủ nhiệm Khoa Luật dân sự (ĐH Luật Hà Nội) nêu ý
kiến: Mặc dù pháp luật không công nhận nhưng thực tế việc này vẫn diễn ra. Vì vậy vấn
đề mang thai hộ cần đưa vào luật để kiểm soát, nếu không sẽ có những hậu quả khó lường
sau này.
Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến lo ngại việc cho phép mang thai hộ sẽ kéo theo hiện

tượng nhiều phụ nữ vì những lý do khác nhau không muốn mang thai, mà áp dụng biện
pháp này, từ đó sẽ dẫn đến tình trạng thương mại hóa, dịch vụ mang thai hộ sẽ nở rộ
không kiểm soát được. TS Nguyễn Văn Cừ cho rằng, vấn đề này Luật cần quy định chặt
chẽ về hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan để việc mang thai hộ mang
đúng ý nghĩa là việc làm nhằm mục đích nhân đạo, tạo điều kiện cho những cặp vợ chồng
không có khả năng sinh con được quyền làm cha, mẹ. Chẳng hạn như việc nhận con và
trả con giữa người nhờ mang thai hộ và người được nhờ mang thai hộ như thế nào, xác
nhận ai là mẹ đẻ đứa bé, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên…
Một số ý kiến đề xuất mang thai hộ chỉ nên cho phép trong phạm vi gia đình, tức người
được nhờ mang thai hộ là chị hoặc em của người nhờ mang thai hộ để tránh những tranh
chấp phức tạp về sau. Ngược lại cũng có ý kiến cho rằng nếu chỉ cho trong phạm vi gia
đình thì sẽ có rất nhiều người thiệt thòi, như những người không có chị em nào để nhờ
mang thai hộ hoặc nếu có mà chị em đó không muốn mang thai hộ… Vì vậy, để tránh
trường hợp đẻ thuê thì Luật cần quy định các trường hợp người phụ nữ không thể có khả
năng mang thai phải nhờ người mang thai hộ phải được xác định bởi một hội đồng khoa
học y tế.
Ngoài ra, một vướng mắc nữa mà nếu đưa vào luật phải quy định chặt chẽ, đó là việc
phân định ai sẽ là mẹ đứa trẻ. Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì người sinh ra đứa
trẻ mới là mẹ đẻ. Trong khi đó, trường hợp con sinh ra bởi người mang thai hộ thì khái
niệm huyết thống được hiểu theo nhiều hướng khác nhau. Thứ nhất có thể theo hướng của
pháp luật hiện hành, tức là người mang thai hộ là mẹ đẻ của đứa trẻ. Thứ hai quan hệ
huyết thống được hiểu là giữa đứa con sinh ra và người phụ nữ có trứng thụ tinh (người
nhờ mang thai hộ). Tất nhiên, vì ý nghĩa nhân đạo của việc làm này, cách hiểu theo ý
nghĩa thứ 2 là có lý hơn. Và vì vậy, giữa bên nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ
cũng cần thiết phải có văn bản thỏa thuận có sự chứng nhận của cơ quan chức năng, để
thống nhất việc đứa trẻ sau này là con của cặp vợ chồng hiếm muộn (người nhờ mang
thai). Cụ thể, phải xác định rõ đứa trẻ được sinh ra trong trường hợp này là con đẻ của
người có huyết thống với trẻ qua giám định ADN…



15

Có thể thấy mang thai hộ vẫn là một vấn đề khá nhạy cảm. Nhưng dù sao nó cũng là một
thỏa thuận dân sự hình thành trên cơ sở tự nguyện, tự do ý chí và bình đẳng, vì vậy pháp
luật cần sớm công nhận và bảo vệ sự thỏa thuận này để tránh những biến tướng vi phạm
pháp luật và tránh những tranh chấp xảy ra khi không có luật điều chỉnh.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT: CHUNG SỐNG TRƯỚC NGÀY 3 THÁNG 1 NĂM
1987 LÀ HÔN NHÂN THỰC TẾ?
Posted on 13/08/2010 by Civillawinfor
TÙNG CHI
Theo Tòa Dân sự TAND Tối cao, hiện nhiều thẩm phán đang có cách hiểu khác nhau khi
vận dụng Điều 3 Nghị quyết 35 năm 2000 của Quốc hội.
Có người nói nam nữ cứ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3-1-1987 là hôn
nhân thực tế, có người lại bảo phải đủ điều kiện kết hôn mới được công nhận…
Một ví dụ tiêu biểu đã được đưa ra: Ông A chung sống với bà B nhiều năm, đã có con
chung và tài sản chung. Đến năm 1970, ông A lấy thêm vợ lẽ là bà C (có tổ chức cưới
hỏi), sau đó sống với bà C. Năm 2002, ông A xin ly hôn bà C. Vậy quan hệ giữa ông và
bà C có phải là hôn nhân thực tế hay không?
Chỉ cần chung sống như vợ chồng?
Những thẩm phán theo cách hiểu thứ nhất cho rằng trong trường hợp này, quan hệ giữa
ông A và bà C vẫn được công nhận là hôn nhân thực tế dù vừa vi phạm về hình thức
(không đăng ký kết hôn) vừa vi phạm về nội dung (ông A đã có vợ hợp pháp là bà B).
Các thẩm phán lý giải: Theo Điều 3 Nghị quyết 35, hai bên nam nữ chung sống với nhau
như vợ chồng trước ngày 3-1-1987 (ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu
lực) nhưng không đăng ký kết hôn thì được tòa công nhận là vợ chồng khi ly hôn. Như
vậy, điều khoản trên không hề quy định nam nữ sống với nhau như vợ chồng phải có đủ
điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình.
Vì luật không quy định nên các thẩm phán cho rằng chỉ cần điều kiện duy nhất là hai bên
chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3-1-1987 thì công nhận họ là vợ chồng mà

không cần điều kiện gì khác. Luật pháp không bắt buộc mà chỉ khuyến khích họ đi đăng
ký kết hôn nên giả sử họ không đăng ký thì thực chất họ vẫn có mối quan hệ vợ chồng.
Hay phải đủ các điều kiện kết hôn?
Ngược lại, nhiều thẩm phán khác không đồng tình với cách hiểu trên. Theo họ, ông A và
bà C sẽ không được công nhận là vợ chồng dù hai bên có tổ chức cưới hỏi đàng hoàng, có
sống chung từ năm 1970 bởi ông A đang có vợ là bà B.


16

Theo các thẩm phán, Điều 3 Nghị quyết 35 chỉ châm chước cho các trường hợp sống
chung với nhau như vợ chồng trước ngày 3-1-1987 mà vi phạm điều kiện về hình thức là
chưa đăng ký kết hôn; còn về nội dung phải thì tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn theo
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1960 (Trừ những trường hợp cán bộ miền Nam tập kết ra
Bắc trước giải phóng lấy tiếp vợ hai, đã có thông tư hướng dẫn riêng).
Tòa Dân sự TAND Tối cao đồng ý với quan điểm này vì Điều 35 Nghị quyết 35 không
yêu cầu có đủ điều kiện kết hôn cũng không có nghĩa là không cần tuân thủ điều kiện khi
kết hôn. Theo Tòa Dân sự, thẩm phán hiểu khái niệm không quy định điều kiện kết hôn
đồng nghĩa với khái niệm không cần đủ điều kiện kết hôn là máy móc và không chính
xác. Đánh đồng hai khái niệm trên sẽ dẫn đến chuyện áp dụng pháp luật thiếu thống nhất.
Mặt khác, Tòa Dân sự cho rằng nếu áp dụng theo quan điểm thứ nhất thì rất khó xử lý
những trường hợp đặc biệt như những người cùng dòng máu về trực hệ như cha, con, anh
em; cha mẹ nuôi với con nuôi. Tương tự là giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với
con nuôi; cha chồng với con dâu; mẹ vợ với con rể; cha dượng với con riêng của vợ; mẹ
kế với con riêng của chồng; những người có họ trong phạm vi ba đời… Bởi thực tế có
trường hợp thuộc một trong các trường hợp trên sống với nhau như vợ chồng, có tổ chức
lễ cưới, thực sự chăm sóc, yêu thương, giúp đỡ nhau nhưng làm sao có thể công nhận họ
là vợ chồng được!
Theo một lãnh đạo Tòa Dân sự, luật hôn nhân và gia đình các năm 1960, 1986 và 2000
đều quy định hôn nhân muốn được coi là hợp pháp trước hết phải thỏa mãn các điều kiện

kết hôn, không vi phạm điều cấm của pháp luật. Do đó, Điều 3 Nghị quyết 35 của Quốc
hội cũng không thể thoát ly ngoài các quy định đó.
Không chỉ dựa vào câu chữ
Theo Tòa Dân sự TAND Tối cao, khi tìm hiểu, giải thích pháp luật, để đảm bảo tính
chính xác và không mâu thuẫn với quy định khác thì không chỉ căn cứ vào câu chữ cụ thể
mà còn phải tổng hợp các quy định về các vấn đề đó. Có như vậy mới đảm bảo tính ổn
định và thống nhất trong việc giải thích và áp dụng pháp luật, không rơi vào chuyện áp
dụng máy móc, trái thực tế, trái đạo đức.
Không thể vi phạm điều kiện về nội dung
Tôi cho rằng trong trường hợp hai người sống với nhau nhưng vi phạm điều kiện kết hôn
về nội dung như đang có vợ (chồng) hoặc vi phạm đạo đức thì không nên công nhận hôn
nhân thực tế cho họ. Nếu có tranh chấp thì tòa chỉ nên giải quyết về vấn đề tài sản hoặc
con chung cho họ.
Nếu chấp nhận một cách dễ dãi theo kiểu luật không quy định điều kiện theo quan điểm
thứ nhất thì sẽ có người được công nhận nhiều hôn nhân một lúc, gây nhiều khó khăn, rắc
rối khi giải quyết hậu quả phát sinh.
Thẩm phán HOÀNG VĂN HẢI, Phó Chánh án TAND tỉnh Tây Ninh
Phải hiểu đúng tinh thần nghị quyết


17

Theo tôi, phải hiểu theo cách thứ hai mới đúng tinh thần Nghị quyết 35 bởi ngoài các điều
kiện về mốc thời gian nêu trên thì phải có đủ điều kiện kết hôn mới có thể coi là hôn nhân
thực tế. Điều kiện kết hôn ở đây có thể hiểu là yếu tố đương nhiên cho một cuộc hôn nhân
có ý nghĩa.
Tôi nghĩ chẳng ai máy móc mà công nhận vợ chồng cho những người thiếu năng lực hành
vi hoặc có quan hệ họ hàng gần gũi, có dòng máu trực hệ với nhau cả.
Luật sư NGUYỄN MINH TÂM, Đoàn Luật sư TP.HCM
TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH: HẾT SỐNG CHUNG = LY HÔN THỰC

TẾ?
Posted on 06/04/2009 by Civillawinfor
HOÀNG LAM
Chồng tự ý bỏ vợ đi “tòm tem” với bà khác, tòa công nhận đã ly hôn trên thực tế? Chuyện
tức mình này đã xảy ra với bà N. Vừa chớm qua tuổi 18, bà và ông H. được gia đình hai
bên tổ chức lễ cưới nhưng cả hai không đăng ký kết hôn. Theo luật định, đây là hôn nhân
thực tế vì hai bên đã chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1974, tức trước ngày 3-11987.
Không sống chung, mất chồng như chơi!
Cuộc sống vợ chồng ban đầu cũng hòa thuận, hạnh phúc. Năm 1982, khi bà N. mang thai
con thứ năm thì quan hệ của họ trở nên căng thẳng. Biết chồng mình đang để ý đến người
khác nên bà N. ra sức ngăn cản. Khổ nỗi ông H. đã không lắng nghe mà lại còn đánh vợ.
Tủi thân, bà bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống và tần tảo nuôi con, lòng vẫn mong có lúc
chồng sẽ quay về với mình.
Nhưng ông H. vẫn quyết đâm đơn ra tòa đòi ly hôn vợ. Tại tòa, ông công khai thừa nhận
mình và vợ bé đã có với nhau bốn mặt con. Hội đồng xét xử sơ thẩm hôm ấy bày tỏ thái
độ bất mãn thay cho bà N. Họ cho rằng ông H. thiếu trách nhiệm làm chồng, làm cha và
quyết định bác yêu cầu ly hôn của ông. Cấp sơ thẩm còn tuyên hủy việc kết hôn trái pháp
luật giữa ông H. với người vợ hai. Sau đó, tuy chống án không thành nhưng ông H. vẫn
tiếp tục chung sống với vợ hai.
Năm 1994, ông H. xích mích với bạn nhậu nên bị đánh chết. Chín năm sau, cha ruột của
ông kiện đòi con dâu thứ hai trả đất do con trai chết để lại. Ông bảo ngày xưa mình giao
đất cho con trai theo kiểu cho sử dụng tạm chứ không cho luôn. Phúc thẩm vụ án hồi
tháng 3-2004, TAND tỉnh Bình Dương xác định đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của
ông H., giờ ông H. chết thì phát sinh thừa kế. Nếu muốn thì cha ông H. cần khởi kiện yêu
cầu chia thừa kế.
Lạ lùng ở chỗ TAND tỉnh lại kết luận ông H. và bà N. đã ly hôn trên thực tế. Tòa này cho
rằng tuy cả hai cấp tòa không cho ông H. ly hôn với bà N. nhưng quan hệ vợ chồng giữa
họ đã không còn tồn tại. Họ không sống chung suốt từ năm 1982 đến khi ông H. bị đánh



18

chết. Hơn nữa, khi ông H. bị đánh chết, bà chẳng thể hiện sự quan tâm, cũng không tố
giác kẻ gây án. Trong khi đó, người vợ sau đã chung sống với ông H. từ trước năm 1987
nên đủ tư cách là vợ thực tế của ông H. (!?).
Nhận định oái oăm của TAND tỉnh khiến bà N. ngẩn người vì bị tước mất quyền làm vợ,
mất luôn quyền thừa hưởng di sản của chồng. Đến khi bà được người khác chỉ vẽ cách
nộp đơn xin giám đốc thẩm thì thời hạn kháng nghị đã không còn.
Chưa ly hôn thì vẫn là vợ chồng
Năm 1977, ông B. chung sống không đăng ký kết hôn với bà T. và có hai con chung. Năm
1987, ông bỏ quê lên thị xã chung sống với bà K. nhưng chừng 10 năm sau mới đăng ký
kết hôn với bà này. Ít năm sau, ông B. lại quan hệ với phụ nữ khác. Nói không được, bà
K. bèn nộp đơn yêu cầu TAND thị xã cho ly hôn với ông B.
Sơ thẩm vụ án hồi tháng 5-2008, TAND thị xã xác định hôn nhân giữa ông B. với người
vợ đầu là hôn nhân thực tế. Tòa tuyên hủy quan hệ hôn nhân giữa ông với bà K. mặc dù
họ có đăng ký kết hôn. Theo dõi vụ việc, dư luận râm ran nhận xét vì sao bà K. có đăng
ký kết hôn với ông B. đàng hoàng, đã sống chung 21 năm, có hai mặt con mà vẫn bị đẩy
ra đường tay trắng.
Tuy nhiên, cách xử lý nêu trên của TAND thị xã được TAND tỉnh cho là hợp lý và được
giữ y tại phiên xử phúc thẩm. Bởi lẽ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cấm kết hôn
trong trường hợp đang có vợ hoặc có chồng. Vào thời điểm đăng ký kết hôn với bà K.,
ông B. đang bị ràng buộc bởi cuộc hôn nhân hợp pháp với bà T. Tuy bị hủy kết hôn trái
pháp luật, quyền lợi về tài sản của bà K. vẫn được xem xét, giải quyết tùy thuộc khả năng
chứng minh tài sản nào là “của anh, của em, của chúng ta”.
Pháp luật về hôn nhân và gia đình qua các thời kỳ đều quy định việc ly hôn phải được tòa
án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn hoặc ra bản án ly hôn. Trước giờ, pháp luật
chỉ thừa nhận hôn nhân thực tế chứ không thừa nhận ly hôn thực tế. Bởi vậy, nếu bên vợ
hoặc bên chồng chưa chết, cũng chưa ra tòa ly hôn thì không ai có quyền tùy tiện “khai
tử” cuộc hôn nhân hợp pháp của họ.
MỘT ÔNG LẤY HAI BÀ: AI LÀ VỢ HỢP PHÁP?

Posted on 25/04/2008 by Civillawinfor
Một vụ án ly hôn hy hữu vừa được TAND quận 10, TP HCM, đưa ra xét xử. Người chồng
chung sống không đăng ký với 2 bà vợ, nay muốn ra tòa ly hôn với bà vợ đầu tiên và chia
tài sản. Nhưng tòa không chấp nhận mà lại tuyên hủy cuộc hôn nhân trái pháp luật của
ông với bà vợ thứ hai.
Vấn đề pháp lý nảy sinh trong vụ án này là ai được công nhận làm vợ hợp pháp của
nguyên đơn – ông L. Thời điểm ông ăn ở với hai người phụ nữ diễn ra trước 1/6/1976 –
ngày thống nhất pháp luật giữa hai miền Nam – Bắc, trong đó có luật Hôn nhân và gia
đình năm 1959 quy định chế độ hôn nhân một vợ một chồng.


19

Theo hồ sơ xác minh của tòa án, năm 1958, ông L. và bà S. sống chung tại một căn hộ do
chính quyền cũ cấp cho ông. Sau nhiều năm chung sống và sinh hạ được 7 người con, hai
người phát sinh mâu thuẫn. Ông L. thường bỏ nhà đi nơi khác.
Năm 1972, ông L. chính thức sống như vợ chồng với bà T., và có với nhau 3 mặt con.
Gần đây, ông quay về căn nhà cũ sống cùng bà S. Dù được bà chăm sóc chu đáo, nhưng
ông L. cho rằng con cái thiếu tôn trọng cha nên gia đình thường xảy ra mâu thuẫn. Ông đề
nghị được ly hôn và chia tài sản là ngôi nhà trên.
Phó chánh tòa dân sự TP HCM Nguyễn Văn Triệu: “Chỉ có một người hợp pháp.
Theo tôi, điều kiện để được công nhận là hôn nhân thực thế là hai người phải sống chung
như vợ chồng trước ngày 3/1/1987, có con chung, được họ hàng và láng giềng thừa nhận.
Nếu ai có đủ điều kiện này thì được xem xét, công nhận. Nếu có nhiều người cùng đủ
điều kiện thì ưu tiên công nhận cho người đến trước. Nếu họ không đủ thì mới xét đến
trường hợp sau. Một khi đã công nhận người nào đó thì phải bác người kia”.
Theo TAND quận 10, quan hệ hôn nhân giữa ông L. và bà S. là hôn nhân thực tế, thể hiện
qua việc hai người đã sống chung từ năm 1958, và có 7 người con. Tòa nhận định, gia
đình có xảy ra mâu thuẫn, nhưng chưa đến mức trầm trọng. Các con và vợ vẫn chăm sóc
ông chu đáo. Mục đích xin ly hôn chỉ để chia tài sản, do vậy không thể vì lý do này mà

nói ông không còn tình cảm với gia đình. Đặc biệt, khi chưa chấm dứt quan hệ vợ chồng
với bà S., ông lại sống chung với bà T. Đây là việc làm trái pháp luật, không thể duy trì và
chấp nhận được. Nếu không hủy bỏ thì khác nào tiếp tay cho một quan hệ xấu…
Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia pháp luật, căn cứ những điều kiện được công nhận là
hôn nhân thực tế thì bà S. và T. đều như nhau. Quan hệ giữa họ với ông L. cùng được xác
lập trước ngày 3/1/1987 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) và có con
chung…
Có ý kiến phải xem xét đến mối quan hệ thực của “cuộc tình tay ba” này. Có thể với một
bà, ông L. chỉ chung sống mà không có tình cảm. Còn trường hợp kia, ông lại yêu thương.
Khi đó, không thể nói rằng bà nào đến trước thì được công nhận. Việc chung sống là tự
nguyện không đăng ký kết hôn, với mỗi người ông L. đều sống một thời gian dài, có
nhiều tình cảm khăng khít, có con và tài sản chung… Do vậy không thể nói rằng bà này
được, bà kia không.
Họ cho rằng không thể đem luật hiện nay để áp dụng cho những gia đình đã hình thành
trước khi có luật. Luật hôn nhân và gia đình ở miền Nam trước đây tuy có quy định chế
độ hôn nhân một vợ một chồng, nhưng thực tế vẫn chấp nhận cho người đàn ông lấy vợ
lẽ. Tại thông tư 69 hướng dẫn thực hiện Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 ở miền Bắc,
giải thích với các trường hợp gia đình một chồng nhiều vợ hình thành trước khi luật có
hiệu lực chỉ hủy hôn nhân hoặc cho ly hôn khi người vợ có yêu cầu. Theo quan niệm này,
cả hai người phụ nữ trên đều là vợ hợp pháp.
SOURCE: Pháp Luật TP HCM


20

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI: XÁC LẬP NUÔI CON
NUÔI CÓ NHIỂU RẮC RỐI
Posted on 11/12/2010 by Civillawinfor
NGUYỄN THANH XUÂN
Pháp luật về đăng ký nuôi con nuôi có những quy định cụ thể về việc xác lập quan hệ cha

mẹ và con; giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người
được nhận làm con nuôi được chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Luật hiện
hành cũng không cấm người độc thân không được quyền nhận con nuôi. Tuy nhiên, khi
xác lập quan hệ nuôi con nuôi trong thời điểm độc thân và sau đó lại kết hôn, thì người
còn lại có được quyền trở thành cha, mẹ nuôi hay không, điều này pháp luật còn bỏ ngỏ.
Tháng 3.2009, ông Lâm Thành đến UBND xã T.D, huyện L.V, tỉnh Đồng Tháp yêu cầu
đăng ký làm cha nuôi cháu bé chưa tròn một tuổi. Tại thời điểm đăng ký và xác lập quan
hệ nuôi con nuôi thì ông Thành trong tình trạng độc thân, do đó khi đăng ký khai sinh cho
con nuôi, bản chính giấy khai sinh chỉ có tên cha, không ghi tên mẹ. Sự việc tưởng chừng
đơn giản, nhưng đến tháng 5.2010 ông Thành đăng ký kết hôn với bà Trần Thị Ngọc Hoa.
Khi có giấy chứng nhận kết hôn, ông Thành đến UBND xã yêu cầu ghi tên người vợ mới
cưới của mình vào giấy khai sinh của con nuôi để người con nuôi có cha, mẹ trong hồ sơ,
sau này không ảnh hưởng đến tình cảm cha mẹ và thuận lợi trong cuộc sống. UBND xã
đã tra cứu các quy định pháp luật, nhưng vẫn không rõ trường hợp trên có được giải quyết
hay không, vì pháp luật hiện hành không quy định về trường hợp này.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định rõ điều kiện của người được nhận làm con
nuôi, theo đó một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là
vợ chồng. Tuy nhiên, trong điều luật này chỉ công nhận việc nuôi con nuôi khi tại thời
điểm nhận nuôi con nuôi cả hai người là cha, mẹ nuôi phải là vợ chồng. Luật cũng như
các văn bản hướng dẫn không quy định một người độc thân xác lập quan hệ nuôi con
nuôi, sau đó kết hôn thì vợ/chồng của họ được quyền xác lập quan hệ nuôi con nuôi tiếp
theo, để trở thành cha/mẹ nuôi. Điều này đã gây rắc rối cho chính quyền sở tại, khi người
dân có yêu cầu giải quyết, như trường hợp của ông Thành.
Mặt khác trên thực tế, khi nhận nuôi con nuôi ông Thành trong tình trạng độc thân, điều
này hoàn toàn phù hợp với quy định và pháp luật không cấm. Nhưng sau đó, người vợ
hợp pháp của ông Thành lại tiếp tục đăng ký nuôi con nuôi đối với đứa con nuôi của
chồng mình thì liệu có mâu thuẫn với quy định chung về nuôi con nuôi hay không? (vì
đứa con nuôi chỉ có thể làm con nuôi của một người, hoặc của cả hai người là vợ chồng).
Có ý kiến cho rằng, trong vụ việc này ông Thành đã được UBND xã cấp giấy chứng nhận
kết hôn, do đó ông có yêu cầu ghi bổ sung họ và tên vợ vào giấy khai sinh của người con

nuôi thì bà Hoa thì phải đến UBND xã – nơi cấp giấy khai sinh người con nuôi của ông
Thành làm thủ tục hồ sơ xin nhận nuôi con nuôi của ông Thành làm con nuôi của mình.
Sau khi có quyết định nuôi con nuôi, UBND xã sẽ bổ sung họ và tên bà Hoa vào giấy khai
sinh của người con nuôi, từ đó bà Hoa sẽ là mẹ nuôi của con ông Thành. Điều này theo
quy định của pháp luật chưa phù hợp, vì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định


21

một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng. Việc
bà Hoa tiếp tục yêu cầu được nhận con nuôi của ông Thành lần thứ hai là không đúng,
dẫn đến việc hai người nhận nuôi một đứa con nuôi.
Rắc rối từ trường hợp trên cho thấy, quy định pháp luật hiện hành chưa rõ, dẫn đến rắc rối
cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc đăng ký nuôi con nuôi và gây khó cho công
dân. Điều này cũng phát sinh nhiều cách hiểu và áp dụng luật khác nhau, dẫn đến giải
quyết không thống nhất. Có thể, UBND xã áp dụng quy định: người con nuôi chỉ có thể
làm con nuôi của một người, hoặc của cả hai người là vợ chồng tại bất kỳ thời điểm nào
nên khi ông Thành xác lập quan hệ hôn nhân thì vợ của ông Thành cũng có quyền làm mẹ
nuôi. Cũng có thể hiểu, quy định một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc
của cả hai người là vợ chồng tại thời điểm nhận nuôi con nuôi, do đó khi vợ ông Thành
muốn làm mẹ nuôi thì không thể giải quyết.
Tránh tình trạng áp dụng luật không thống nhất, nên có hướng dẫn cụ thể để giải quyết
vướng mắc, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân.
CẦN HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH VỀ CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI VÀ
HỦY VIỆC NUÔI CON NUÔI
Posted on 05/01/2010 by Civillawinfor
THS. NGUYỄN PHƯƠNG LAN – Khoa Luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội
1. Chấm dứt việc nuôi con nuôi:
Việc nuôi con nuôi là nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi
và người được nhận làm con nuôi. Với mục đích như vậy, quan hệ này thường rất chặt

chẽ và bền vững, không thể dễ dàng phá vỡ được. Tuy nhiên vì không gắn bó trên cơ sở
huyết thống, nên quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chỉ tồn tại về mặt pháp lý.(1)Nếu
trong quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ, tình cảm cha mẹ và con hình thành một cách tự
nhiên, thì trong quan hệ nhận nuôi con nuôi, tình cảm giữa hai bên đòi hỏi phải có một
quá trình thử thách, trải nghiệm và xây dựng. Điều đó hoàn toàn không dễ dàng, mà nó
đòi hỏi sự cố gắng của cả hai phía. Vì vậy, trong những trường hợp nhất định, việc nuôi
con nuôi có thể chấm dứt. Xuất phát từ thực tiễn nuôi con nuôi, pháp luật nước ta đã quy
định về việc chấm dứt nuôi con nuôi trong Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ
năm 2000. Nhưng thế nào là chấm dứt việc nuôi con nuôi thì chưa được quy định, mà
theo chúng tôi thì đây là khái niệm có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để phân biệt với huỷ
việc nuôi con nuôi. Luật HN&GĐ năm 2000 mới chỉ quy định về căn cứ, quyền yêu cầu
và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi tại các Điều 76, 77, 78. Tuy nhiên,
theo chúng tôi, các quy định của pháp luật về vấn đề này còn có một số điểm bất cập,
không phù hợp với thực tiễn, mục đích cũng như bản chất của việc nuôi con nuôi. Có thể
thấy điều đó qua một số nội dung sau:
1.1. Khái niệm chấm dứt việc nuôi con nuôi:


22

Chấm dứt việc nuôi con nuôi chỉ đặt ra trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định, xuất
phát từ yêu cầu của các bên chủ thể và phải được Toà án quyết định. Việc nhận nuôi con
nuôi phải có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì mới có giá trị pháp lý,
do đó việc chấm dứt nuôi con nuôi cũng phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định, vì việc nhận nuôi con nuôi hay chấm dứt nuôi con nuôi có ảnh hưởng sâu sắc
đến quyền, lợi ích của cả hai phía: người nhận nuôi và người con nuôi, đồng thời còn ảnh
hưởng tới lợi ích chung của xã hội. Chấm dứt việc nuôi con nuôi được áp dụng trong
trường hợp việc nuôi con nuôi đã được thực hiện, đã có hiệu lực thực tế, tức là quan hệ
cha mẹ và con giữa người nuôi và con nuôi đã được thiết lập. Chấm dứt nuôi con nuôi tức
là chấm dứt quan hệ cha mẹ và con đó giữa hai bên.

Từ những đặc điểm cơ bản đó có thể đưa ra khái niệm chấm dứt việc nuôi con nuôi như
sau: Chấm dứt việc nuôi con nuôi là việc chấm dứt quan hệ pháp luật cha mẹ và con giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi do Toà án quyết định khi có những căn cứ mà pháp luật quy định
theo yêu cầu của những người có quyền yêu cầu.
1.2. Căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi:
*Căn cứ thứ nhất: Theo quy định tại Điều 76 Luật HN&GĐ năm 2000, một trong những
căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi là: “Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên tự nguyện
chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi” ( khoản 1 Điều 76). Quy định này không phù hợp với
mục đích và bản chất của việc nuôi con nuôi. Khi nhận nuôi con nuôi, cả hai bên đều
nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con. Quan hệ cha mẹ và con là bền vững, chặt chẽ,
không thể chấm dứt một cách dễ dàng, đơn giản. Hơn nữa, tình cảm gắn bó thực sự giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi cũng không thể “tự nguyện chấm dứt” là chấm dứt được. Nếu
không vì những lý do khác gây ảnh hưởng sâu sắc, làm sứt mẻ, thương tổn về tình cảm
giữa hai bên cha mẹ nuôi và con nuôi, làm cho quan hệ nuôi con nuôi khó có thể tiếp tục,
thì việc chấm dứt nuôi con nuôi đương nhiên không xảy ra. Do đó nếu không có lý do
nghiêm trọng gì thì cha mẹ nuôi và con nuôi cũng không bao giờ tự nguyện thoả thuận
chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. Quan hệ nuôi con nuôi được thiết lập trên cơ sở tình
cảm giữa hai bên và tình cảm đó luôn được củng cố, vun đắp qua năm tháng mà hai bên
cùng chung sống, nên không thể dễ dàng xoá bỏ hay mất đi được. Vì lẽ đó, quy định này
có phần không phù hợp với thực tiễn.
Trước đây, pháp luật phong kiến cho phép con nuôi được trở về nhà cha mẹ đẻ của mình
khi “con trai trưởng, con trai thứ nhà người con nuôi đều chết mất cả, không có ai nối dõi
cho hai thân sinh ra mình, thì người con nuôi ấy được trình bày tình đó với cha mẹ nuôi,
chọn người khác làm con trưởng rồi bản thân người con nuôi mới được về chịu tang báo
hiếu cho cha mẹ sinh ra mình…Nếu không có mạng lệnh của cha mẹ nuôi mà tự tiện bỏ
nhà ấy về nhà mình thì sẽ bị khép vào tội bất hiếu”(2) hoặc khi “cha mẹ nuôi kia có con,
mà cha mẹ đẻ không có con nữa, nay muốn trở về, cho phép”(3). Tuy nhiên việc cho phép
con nuôi trở về nhà cha mẹ đẻ của mình không phải là chấm dứt việc nuôi con nuôi. Bởi
vì “trong trường hợp này, người con nuôi nói trên vẫn lui xuống làm con thứ của cha mẹ
nuôi để đền báo cái công nuôi nấng từ trước”(4). Pháp luật phong kiến rất coi trọng chữ

hiếu. Đạo hiếu đòi hỏi con cái (con đẻ cũng như con nuôi) phải hết sức thành kính phụng


23

dưỡng, kính trọng và vâng lời cha mẹ, ông bà, nhất là những người có công nuôi dưỡng
mình. Do đó, việc chấm dứt nuôi con nuôi theo pháp luật phong kiến hầu như không đặt
ra. Con nuôi cũng như con đẻ có thể bị cha mẹ từ khi con có những hành vi vi phạm pháp
luật, có hành vi du đãng, lăng mạ ông bà, cha mẹ thân thuộc…(5)
Trong thực tiễn xét xử có thể xảy ra tình huống cha mẹ đẻ trong hoàn cảnh quá khó khăn
đã đồng ý cho con mình làm con nuôi người khác, việc nhận nuôi con nuôi đã được đăng
ký theo thủ tục luật định. Sau này, cha mẹ đẻ có kinh tế khá giả nên muốn nhận lại con.
Cả hai bên, cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi đều tự nguyện và có yêu cầu chấm dứt quan hệ
nuôi con nuôi. Đó là trường hợp của bố mẹ cháu Đoàn Văn T và mẹ nuôi là Đoàn Thị
Trang D tại quận 5 Thành phố Hồ Chí Minh. (6)Vậy trong trường hợp này có căn cứ để
chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi không? Căn cứ theo quy định tại Điều 76 Luật HN&GĐ
năm 2000 thì không có căn cứ để chấm dứt việc nuôi con nuôi trong trường hợp này, vì
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi hoàn toàn không có mâu thuẫn, không có các dấu hiệu được
quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 76. Nhưng không thể áp dụng quy định tại khoản 1
Điều 76 vì trong trường hợp trên không phải là người con nuôi tự nguyện chấm dứt mà là
cha mẹ đẻ của người con nuôi yêu cầu chấm dứt. Vì vậy, đầu năm 2004, khi có đơn yêu
cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi, Toà án quận 5 Thành phố Hồ Chí Minh đã từ chối thụ
lý với lý do không có tranh chấp. Đến nay, theo quy định tại khoản 5 Điều 28 Bộ luật tố
tụng dân sự (BLTTDS) thì đây là một loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án,
tuy nhiên về luật nội dung thì không có căn cứ để giải quyết, như đã phân tích ở trên. Đây
là thực tiễn cần sớm có quy định cụ thể tương ứng để Toà án có căn cứ giải quyết khi các
đương sự có yêu cầu.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, cần bỏ quy định tại khoản 1 Điều 76 Luật
HN&GĐ năm 2000 vì nó không phù hợp với thực tiễn, với mục đích và bản chất của việc
nuôi con nuôi, làm giảm ý nghĩa của việc nuôi con nuôi.

*Căn cứ thứ hai, “Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của cha, mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha, mẹ nuôi hoặc có hành vi
phá tán tài sản của cha, mẹ nuôi” (khoản 2 Điều 76 Luật HN&GĐ năm 2000). Căn cứ này
có thể coi đó là lỗi của người con nuôi đối với cha, mẹ nuôi. Cần lưu ý rằng, con nuôi
phải có những hành vi này đối với chính cha, mẹ nuôi thì mới là căn cứ chấm dứt việc
nuôi con nuôi; còn nếu con nuôi có những hành vi này đối với người khác thì không phải
là căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi.(7)
*Căn cứ thứ ba, “Cha mẹ nuôi đã có các hành vi quy định tại khoản 3 Điều 67 hoặc khoản
5 Điều 69 của Luật này” (khoản 3 Điều 76 Luật HN&GĐ năm 2000).
Khoản 3 Điều 67 quy định: “Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao
động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác”.
Khoản 5 Điều 69 quy định: “Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha,
mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các
tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi
hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ
dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm


24

đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con
làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội”.
Qua các quy định trên cho thấy, khi cha mẹ nuôi có một trong những hành vi trên thì được
coi là có căn cứ cho việc yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. Mặc dù các quy định trên
không nêu rõ những hành vi này của cha mẹ nuôi là đối với con nuôi hay đối với bất cứ
người nào khác, nhưng cần phải hiểu rằng đó là những hành vi của cha mẹ nuôi đối với
con nuôi trong quá trình thực hiện việc nuôi con nuôi, thì mới trở thành căn cứ chấm dứt
việc nuôi con nuôi. Đây là những hành vi có lỗi của cha, mẹ nuôi, xâm phạm một cách
nghiêm trọng đến lợi ích của người con nuôi. Vì vậy khi cha, mẹ nuôi có một trong những
hành vi trên thì con nuôi hoặc người giám hộ của con nuôi có thể yêu cầu chấm dứt việc

nuôi con nuôi. Điều 76 viện dẫn đến khoản 5 Điều 69 Luật HN&GĐ năm 2000. Tuy
nhiên quy định tại khoản 5 Điều 69 lại chưa rõ ràng, chưa có sự phân biệt giữa hành vi và
tội phạm, quy định lẫn lộn giữa nhóm hành vi và nhóm tội phạm làm cho điều luật lủng
củng, khó hiểu. Điều gây ra sự khó hiểu và lủng củng trong đoạn này là ở chỗ sử dụng từ
không nhất quán, xắp xếp lộn xộn giữa hành vi và tội phạm, có chỗ thì sử dụng từ “tội”
như “các tội xâm phạm tình dục trẻ em”, nhưng toàn bộ các hành vi được liệt kê ở đoạn
giữa thì lại không sử dụng từ này, nên làm cho người đọc không hiểu những hành vi đó đã
bị xác định là tội phạm hay chưa, như hành vi dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa
thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em và ý cuối cùng của khoản
này lại không dùng từ “tội” mà dùng từ “hành vi” , đó là” có hành vi xúi giục, ép buộc
con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội”…Với cách diễn đạt như vậy tại
khoản 5 Điều 69 làm cho điều luật khó hiểu, khó áp dụng.
Do đó, theo chúng tôi, cách quy định tại khoản 3 Điều 76 là chưa rõ ràng, có thể đưa tới
nhiều cách áp dụng pháp luật, cách hiểu khác nhau. Do đó cần quy định cụ thể, trực tiếp,
theo hướng: Được coi là căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi khi cha, mẹ nuôi đã có một
trong các hành vi sau: lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình
dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm
những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội; ngược đãi hoặc hành hạ con nuôi; hoặc cha,
mẹ nuôi đã bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con nuôi …
1.3. Về hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi:
Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi quy định tại Điều 78 Luật HN&GĐ
năm 2000 cụ thể hơn so với quy định tại Điều 39 Luật HN&GĐ năm 1986, tuy nhiên mối
quan hệ giữa cha mẹ đẻ với người con đã làm con nuôi như thế nào thì pháp luật chưa có
quy định rõ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 78 Luật HN&GĐ năm 2000 thì “khi chấm dứt việc nuôi
con nuôi theo quyết định của Toà án, các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi
cũng chấm dứt; nếu con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất
năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
thì Toà án ra quyết định giao người đó cho cha mẹ đẻ hoặc cá nhân, tổ chức trông nom,



25

nuôi dưỡng”. Quy định này có thể hiểu là khi việc nuôi con nuôi chấm dứt sẽ phát sinh
hậu quả pháp lý theo hai hướng:
– Một là, chấm dứt mọi quan hệ về nhân thân và về tài sản giữa cha mẹ nuôi và con nuôi
kể từ thời điểm quyết định của Toà án về chấm dứt việc nuôi con nuôi có hiệu lực pháp
luật.
– Hai là, khôi phục lại quan hệ cha mẹ và con giữa cha mẹ đẻ và người đã làm con nuôi.
Tuy nhiên vấn đề này chưa được pháp luật quy định rõ ràng nên còn có quan điểm khác
nhau. Nhưng theo chúng tôi, điều rõ ràng là hậu quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi có
mối liên hệ chặt chẽ và tuỳ thuộc vào hậu quả pháp lý của việc nhận nuôi con nuôi.
Vấn đề là ở chỗ, theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ thừa nhận một hình thức
nuôi con nuôi duy nhất là nuôi con nuôi đơn giản – việc nuôi con nuôi không làm chấm
dứt các mối liên hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ với người con đã cho làm con nuôi. Điều đó
cũng có thể được hiểu là các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ với con được cho làm con
nuôi không hề bị thay đổi, vẫn giữ nguyên, mặc dù có sự kiện nhận nuôi con nuôi. Do vậy
trong thực tế có những trường hợp việc nuôi con nuôi được xác lập về mặt pháp lý (có
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền) nhưng giữa cha mẹ nuôi và con nuôi không
hề tồn tại quan hệ cha mẹ và con, thậm chí ngay cả việc chăm sóc, nuôi dưỡng con nuôi;
con nuôi vẫn sống trong gia đình cha mẹ đẻ của mình như không có việc nhận nuôi con
nuôi. Theo quy định tại Điều 74 Luật HN&GĐ năm 2000 thì “giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của Luật này, kể từ thời
điểm đăng ký việc nuôi con nuôi”, nhưng các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con
đã cho làm con nuôi như thế nào thì pháp luật không có quy định, trừ quyền thừa kế và
một số quyền nhân thân gắn liền với con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công
với cách mạng thì có quy định rõ là vẫn được giữ nguyên. Còn các quyền và nghĩa vụ
khác của cha mẹ đẻ đối với con cho làm con nuôi không có quy định cụ thể, nên có thể có
nhiều cách hiểu khác nhau. Như vậy khi xảy ra tranh chấp về quyền cha mẹ giữa cha mẹ

đẻ và cha mẹ nuôi trong quá trình thực hiện việc nuôi con nuôi sẽ không có căn cứ để giải
quyết, do đó khó bảo vệ được quyền lợi chính đáng của cả hai bên cha mẹ đẻ và cha mẹ
nuôi. Vì vậy, theo chúng tôi cần có quy định cụ thể theo hướng khi việc nuôi con nuôi
được xác lập thì những quyền nào của cha mẹ đẻ đối với người con đó sẽ chấm dứt,
quyền nào vẫn tồn tại, và khi chấm dứt việc nuôi con nuôi thì những quyền nào bị chấm
dứt trước đây giữa cha mẹ đẻ và con sẽ được khôi phục lại. Theo quan điểm của chúng
tôi, khi xác lập quan hệ nuôi con nuôi trước pháp luật thì trách nhiệm cha mẹ của cha mẹ
đẻ đã được chuyển giao một cách hợp pháp sang cho cha mẹ nuôi. Vì vậy giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi có tất cả các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con. Do đó các quyền gắn
liền với trách nhiệm của cha mẹ đối với con phải được chuyển sang cho cha mẹ nuôi, như
quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, quyềm mang họ tên của cha mẹ nuôi,
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con nuôi gây ra… Khi có quyết định của Toà án về chấm
dứt việc nuôi con nuôi thì những quyền và nghĩa vụ nào đã được chuyển giao cho cha mẹ
nuôi sẽ được khôi phục đối với cha mẹ đẻ. Tuy nhiên những điều đó cần được pháp luật
quy định cụ thể, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết vụ việc.


×