Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 91 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
-----o0o-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 36 (2010 – 2014)

ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH VÀNG MIẾNG

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

TS. Cao Nhất Linh
Bộ môn: Luật Thương mại

Nguyễn Thị Kiều Trinh
MSSV: 5106204
Lớp: Luật Thương mại 2

Cần Thơ, Tháng 11/2013


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VÀNG, VÀNG MIẾNG VÀ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH VÀNG, VÀNG MIẾNG............................................................................. 5
1.1. Tổng quan về vàng, vàng miếng...................................................................... 5


1.1.1. Khái niệm vàng, vàng miếng ........................................................................ 5
1.1.2. Vai trò của vàng nói chung đối với nền kinh tế ............................................. 8
1.1.3. Vai trò của vàng miếng đối với nền kinh tế Việt Nam ................................. 11
1.1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của vàng ..................................... 13
1.2. Tổng quan về hoạt động kinh doanh vàng, vàng miếng .................................. 15
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của thị trường vàng, vàng miếng ............................. 15
1.2.2. Các giao dịch trong kinh doanh vàng, vàng miếng ...................................... 15
1.2.3. Các hình thức kinh doanh vàng, vàng miếng ở Việt Nam ............................ 16
1.2.4. Hoạt động kinh doanh vàng, vàng miếng ở Việt Nam.................................. 17
1.2.5. Sự cần thiết của việc phải áp dụng pháp luật để quản lý hoạt động kinh doanh
vàng miếng......................................................................................................... 22
1.2.6. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về kinh doanh vàng miếng . 24
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
VÀNG MIẾNG....................................................................................................... 30
2.1. Quy định pháp luật về hoạt động xuất, nhập khẩu vàng miếng........................ 30
2.2. Quy định pháp luật về hoạt động sản xuất và gia công vàng miếng ................. 34
2.3. Quy định pháp luật về hoạt động huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ
chức tín dụng......................................................................................................... 39
2.4. Quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài
của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp kinh doanh vàng ..................................... 45
2.5. Quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh vàng của sàn giao dịch vàng ...... 49


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

2.6. Quy định pháp luật về hoạt động mua, bán vàng miếng giữa tổ chức tín dụng,
doanh nghiệp kinh doanh vàng với Ngân hàng Nhà nước ........................................ 54
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG KINH DOANH VÀNG MIẾNG TẠI VIỆT NAM
VÀ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT ................................................................................... 62
3.1. Nguyên tắc chung trong quản lý hoạt động kinh doanh vàng và kinh nghiệm một

số nước ................................................................................................................. 62
3.2. Thực trạng kinh doanh vàng miếng tại Việt Nam ........................................... 68
3.3. Những bất cập trong quản lý thị trường vàng miếng hiện nay tại Việt Nam ..... 72
3.4. Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về quản lý hoạt động kinh
doanh vàng miếng tại Việt Nam ............................................................................. 74
3.4.1. Kiến nghị về thay đổi tư duy quản lý hoạt động kinh doanh vàng miếng ...... 74
3.4.2. Khái niệm “vàng miếng” cần được bổ sung và làm rõ ................................. 74
3.4.3. Hoạt động “kinh doanh vàng qua tài khoản” và “chứng chỉ vàng” nên được
nghiên cứu và khái quát rõ hơn trong luật ............................................................ 75
3.4.4. Thay đổi cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng miếng .......... 76
3.4.5. Thay đổi cơ chế quản lý hoạt động sản xuất, gia công vàng miếng ............... 77
3.4.6. Cho phép hoạt động trở lại việc huy động và cho vay vốn bằng vàng; kinh
doanh vàng trên tài khoản ................................................................................... 78
3.4.7. Thành lập Sở giao dịch vàng quốc gia tại Việt Nam .................................... 79
3.4.8. Nên xem xét kỹ việc cho phép bổ sung mặt hàng vàng vào danh mục hàng hóa
đặc biệt .............................................................................................................. 81
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 84

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

2

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Vàng là một hàng hóa đặc biệt: vừa mang tính chất của một hàng hóa thông
thường, vừa mang tính chất tiền tệ của một hàng hóa đặc biệt mà nhất là vàng miếng.
Bởi, vàng miếng là một loại vàng chiếm thị phần lớn trên thị trường và cũng là một hình
thức tồn tại điển hình nhất cho tính chất tiền tệ của vàng. Việc quản lý hoạt động kinh
doanh vàng, vàng miếng trên thị trường Việt Nam thời gian trước đây là khá thông
thoáng, Ngân hàng Nhà nước chủ yếu quản lý việc xuất, nhập khẩu và sản xuất vàng
miếng, còn các hoạt động khác như huy động và cho vay vốn bằng vàng, kinh doanh
vàng trên tài khoản ở nước ngoài của tổ chức tín dụng và hoạt động kinh doanh vàng
của các doanh nghiệp là được phép.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, do biến động của các hệ thống tài chính lớn trên
thế giới, tình trạng lạm phát và đầu cơ trong nước, tâm lý bất an của người dân,… mà
giá vàng trên thị trường đã có các mức tăng với biên độ lớn và liên tục lập nhiều kỷ lục
về giá. Kéo theo đó là sự ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân thanh toán quốc cho hoạt động
nhập khẩu vàng và tỷ giá của VNĐ, cụ thể là tỷ giá VNĐ/USD. Từ đó có thể nhận thấy,
việc quản lý hoạt động kinh doanh vàng mà nhất là vàng miếng luôn là một nhu cầu cấp
thiết hơn bao giờ hết.
Cho nên, để giải quyết tình hình bất ổn nêu trên Nhà nước đã tiến hành nhiều
động thái quyết liệt như đóng cửa các sàn giao dịch vàng, chấm dứt hoạt động huy động
và cho vay vốn bằng vàng, kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài của các tổ chức
tín dụng, thay đổi mức thuế xuất, nhập khẩu vàng,… Kết quả là đã khiến cho thị trường
vàng tạm lắng lại. Tuy nhiên, về mặt khách quan, hiệu quả của việc quản lý Nhà nước
đối với lĩnh vực kinh doanh vàng vẫn chưa cao, nhiều khía cạnh vẫn nằm ngoài sự kiểm
soát. Do đó, các giải pháp, kiến nghị cho việc quản lý hoạt động kinh doanh vàng, đặc
biệt là vàng miếng vẫn cần được tiếp tục được nghiên cứu và đề xuất.
Chính vì những lý do nêu ở trên, người viết đã quyết định chọn đề tài “ Một số
vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng” để làm luận văn tốt nghiệp của
mình.
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

3


SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vào “vàng miếng” và cơ chế pháp lý của việc
quản lý hoạt động kinh doanh vàng miếng ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu đề tài luận văn nhằm hướng tới 3 mục đích như sau:
- Một là, tìm hiểu và đưa ra cái nhìn khái quát, tổng hợp về vàng, vàng
miếng. Chỉ ra được vai trò và sự tác động của vàng mà nhất là vàng miếng đối với thị
trường vàng trong nước nói riêng và nền kinh tế quốc gia nói chung.
- Hai là, tìm hiểu, hệ thống và phân tích thực trạng pháp luật về quản lý hoạt
động kinh doanh vàng miếng tại Việt Nam hiện nay.
- Ba là, từ những nghiên cứu, so sánh đưa ra được một số giải pháp mang
tính chất pháp lý nhằm tăng cường hiệu quả cho công tác quản lý hoạt động kinh doanh
vàng miếng trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích khoa học
luật, tổng hợp, so sánh,… trên cơ sở những văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực
kinh doanh vàng, vàng miếng. Sau đó, tiến hành xử lý thông tin và đưa ra kết luận, kiến
nghị.
5. Bố cục của luận văn
Kết cấu của luật văn được chia làm ba phần chính tương ứng với ba chương:
Chương 1: Tổng quan về vàng, vàng miếng và hoạt động kinh doanh vàng, vàng miếng.
Chương 2: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng.
Chương 3: Thực trạng kinh doanh vàng miếng tại Việt Nam và kiến nghị đề xuất.


GVHD: TS. Cao Nhất Linh

4

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VÀNG, VÀNG MIẾNG VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
VÀNG, VÀNG MIẾNG
Tại Việt Nam, đã từ rất lâu, người dân coi vàng như là một phương tiện thanh
toán trong các giao dịch tài sản có giá trị lớn và là một loại hàng hóa đầu tư, tích trữ hữu
hiệu nhất trong bối cảnh nền kinh tế bất ổn, lạm phát gia tăng và khi lãi suất ngân hàng
không còn hấp dẫn,… Cho nên, trong thời gian gần đây, các hoạt động đầu tư, kinh
doanh vào vàng, vàng miếng cũng không còn mấy xa lạ đối với các nhà đầu tư Việt
Nam. Bởi lẽ, nhu cầu đầu tư kinh doanh vào vàng nhằm đa dạng hóa loại tài sản nắm
giữ và bảo vệ tài sản khỏi rủi ro là nhu cầu chính đáng của người dân. Tuy nhiên, việc
đầu tư vào vàng luôn là một hoạt động tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro, đòi hỏi các nhà đầu
tư cần phải thận trọng trong cách nhìn nhận và đảm bảo rằng mình có đủ kiến thức liên
quan đến lĩnh vực đầu tư trước khi đi đến quyết định đầu tư vào vàng. Vì, vàng, mà nhất
là vàng miếng luôn mang trong mình tính chất “tiền tệ tự thân” và nhạy cảm với sự biến
động của nền kinh tế cũng như các chính sách quản lý của Nhà nước.
1.1.

Tổng quan về vàng, vàng miếng

1.1.1. Khái niệm vàng, vàng miếng
Vàng (ký hiệu hóa học là Au, mã tiền tệ ISO 4217 là XAU) là kim loại quý

được con người xem trọng từ hàng nghìn năm trước. Vàng có tính năng dẫn điện, dẫn
nhiệt nhưng lại không xỉn màu; có khả năng chóng ăn mòn cực cao. Vàng là kim loại
mềm, dễ uốn, dễ dát mỏng, màu vàng và chiếu sáng, vàng không phản ứng với hầu hết
các hóa chất, có dạng quặng hoặc hạt trong đá, trong các mỏ trầm tích.
Vàng vật chất được phân loại theo độ tinh khiết hay còn gọi là độ nguyên chất
hoặc hàm lượng vàng. Hàm lượng vàng thường được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%)
hoặc bằng “carats” (K). Vàng có độ tinh khiết 99,99% tương đương với 24K. Vàng có
đơn vị đo lường thông dụng là ounces troy (gọi tắt là oz).1 Còn ở các nước phương
Đông vàng thường được đo lường theo đơn vị lượng, chỉ,…
1

Nguyễn Thành Long (Chủ biên), Đánh thức nguồn lực vàng trong dân, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.19.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

5

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

Vàng vật chất thường được đúc dưới dạng khối, thanh, miếng với kích thước
khác nhau tùy theo mục đích sử dụng. Tại Điều 3, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của
Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng thì vàng được chia thành: vàng trang
sức, mỹ nghệ, vàng miếng và vàng nguyên liệu. Theo đó, “vàng miếng” là vàng không
theo tiêu chuẩn quốc tế và “ được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất

lượng và kí mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam cho phép sản xuất hoặc vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất

trong từng thời kỳ”. Còn nếu chưa có sự gia công hoặc không có đóng chữ, số chỉ khối
lượng, chất lượng và ký mã hiệu của nhà sản xuất thì chỉ được xem là vàng nguyên liệu,
tức là vàng dưới dạng: khối, thỏi, hạt, miếng và các loại vàng khác. Hoặc là vàng trang
sức, mỹ nghệ. Các loại vàng trang sức, mỹ nghệ, vàng miếng và vàng nguyên liệu kể
trên đều không phải là vàng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Vàng tiêu chuẩn quốc tế đã từng được Nghị định số 63/1998/NĐ-CP về quản
lý ngoại hối giải thích là “vàng khối, vàng thỏi, vàng miếng, vàng lá có dấu kiểm định

chất lượng và trọng lượng, có mác hiệu của nhà sản xuất vàng trong nước được quốc tế
công nhận”. Và cụ thể hơn, tại Mục số 8, Chương III, Phần thứ nhất của Thông tư số
01/1999/TT-NHNN7 ngày 16 tháng 4 năm 1999 hướng dẫn thi hành Nghị định số
63/1998/NĐ-CP ngày 17 tháng 8 năm 1998 về quản lý ngoại hối có giải thích: “Vàng

tiêu chuẩn quốc tế là loại vàng đạt chất lượng từ 99,5% và trọng lượng từ 1kg trở lên, có
nhãn hiệu của nhà sản xuất vàng được Hiệp hội vàng, Sở giao dịch vàng quốc tế công
nhận”.
Trên thị trường Việt Nam, vàng miếng thường được sản xuất với kích thước
nhỏ (phổ biến với đơn vị: lượng, chỉ), không theo tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, trong
thời gian gần đầy công ty vàng bạc, đá quý với thương hiệu SJC đã sản xuất thỏi vàng
có khối lượng 1kg với độ tinh khiết từ 99,5% trở lên, tức là đã đáp ứng với một số tiêu
chuẩn vàng của thị trường quốc tế, có thể được chấp nhận ở thị trường một số nước lân
cận. Điều đó cho thấy, một bộ phận của thị trường vàng Việt Nam vẫn đang sử dụng
vàng đạt tiêu chuẩn quốc tế trong các giao dịch trên thị trường, mặc dù chưa được công
nhận với tư cách là vàng tiêu chuẩn quốc tế.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

6

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh



Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

Mặt khác, tại Điểm d, Khoản 2, Điều 6, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
năm 2010 còn nhìn nhận vàng với vai trò là một nguồn ngoại hối của quốc gia:“Vàng

thuộc Dữ trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư trú; vàng
dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ
Việt Nam” được xem là ngoại hối. Tuy nhiên, việc quy định như trên không đồng nghĩa
với việc xem vàng là một loại “tiền” tại Việt Nam mà chỉ có thể là một công cụ thanh
toán quốc tế. Bởi, Điều 17, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 đã khẳng
định “tiền Việt Nam chỉ được phát hành duy nhất bởi Ngân hàng Nhà nước”. Quy định
trên hướng đến cách hiểu, vàng nói chung và vàng miếng nói riêng đang lưu thông
ngoài thị trường chỉ được xem là hàng hóa thông thường, trừ những trường hợp đặc biệt
mà luật có quy định khác.
Sau nhiều nghiên cứu, Baur và McDermott (2009) còn cho rằng, vàng vừa là
tài sản vật chất có giá trị vừa là tài sản trú ẩn ngắn hạn lẫn phòng ngừa rủi ro cho phần
lớn các thị trường chứng khoán Châu Âu và Mỹ. Vàng có thể tạo lực ổn định cho hệ
thống tài chính bằng cách làm giảm bớt những khoản thua lỗ khi thị trường chứng
khoán đối diện với những biến động tiêu cực và là một kênh trú ẩn an toàn cho chứng
khoán, nhưng trong một thời gian hạn chế cụ thể là trong 15 ngày giao dịch của thị
trường.2 Từ đó có thể thấy, bên cạnh tính chất của một hàng hóa thông thường, vàng
còn có tính chất của một hàng hóa tài chính.
Như vậy, dưới góc độ kinh tế hay thị trường, thì tùy theo tiêu chuẩn chất
lượng và khối lượng cũng như điều kiện thị trường cụ thể. Vàng miếng của Việt Nam có
thể được xem là công cụ thanh toán quốc tế, là một hàng hóa tài chính hoặc chỉ là hàng
hóa thông thường không mang tính chất tiền tệ.
Dưới góc độ pháp lý, vàng miếng có thể được xem là ngoại hối hoặc chỉ là
hàng hóa thông thường tùy theo hình thức sở hữu và nơi lưu trú.


2

Slideshare, Vai trò của vàng trong nền kinh tế hiện nay , [ngày truy cập 12-8-2013].

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

7

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

1.1.2. Vai trò của vàng nói chung đối với nền kinh tế
- Vai trò hàng hóa của vàng: Vàng trước tiên được dùng làm đồ trang sức,
mỹ nghệ do vàng có màu sắc rực rỡ, dễ gia công và không bị ăn mòn. Đồ trang sức
bằng vàng từ lâu đã rất được ưu chuộng nhờ tính thẩm mỹ và độ bền của màu vàng, là
biểu tượng của sự giàu có và quyền lực. Ngày nay, do tiến bộ của khoa học kỹ thuật nên
khả năng chế tác vàng của con người ngày càng được nâng cao, các sản phẩm mỹ nghệ
làm ra từ vàng ngày một phong phú, tinh xảo hơn thu hút được sự quan tâm của người
tiêu dùng. Do đó, nhu cầu sử dụng vàng vẫn không ngừng tăng cao ở các quốc gia.
Nếu khi mới ra đời vàng chỉ được dùng để đúc tiền, làm vương miện tượng
trưng cho quyền uy; làm đồ trang sức thể hiện sự phú quý, giàu sang và làm vật báu để
cất giữ. Thì từ khi khoa học kỹ thuật phát triển con người ngày càng khám phá ra những
thuộc tính hữu ích và công dụng quý giá của vàng mà rất ít kim loại nào khác có được.
Do vàng nguyên chất quá mềm không thể dùng cho việc thông thường nên
chúng thường được làm cứng bằng cách tạo hợp kim với bạc, đồng và các kim loại
khác. Vàng và hợp kim của nó thường được dùng nhiều nhất trong ngành trang sức, tiền
kim loại và là một tiêu chuẩn trao đổi tiền tệ ở nhiều nước. Vì tính dẫn điện tuyệt vời,

tính kháng ăn mòn và các kết hợp lý tính và hóa tính mong muốn khác, vàng nổi bật vào
cuối thế kỷ 20 như một kim loại công nghiệp thiết yếu:
+ Trong y tế: các hợp kim vàng được sử dụng trong việc phục hồi nha
khoa, đặc biệt là răng. Tính dễ uốn của các hợp kim vàng tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tạo bề mặt kết nối răng; Vàng keo được sử dụng trong nghiên cứu y khoa, sinh học,
khoa học vật liệu.
+ Trong công nghiệp: hàn vàng được dùng để gắn kết các thành phần vàng
trang sức bằng chất hàn cứng nhiệt độ cao hay đồng thau; Vàng được chế tạo thành sợi
chì và được dùng trong thêu thùa; Vàng cũng được dùng để chuyển đổi màu của các
điểm trắng và đen trên giấy ảnh thành màu xanh và xám trong công nghệ ảnh.
+ Trong chế tạo điện thoại và máy vi tính: vàng có tính dẫn điện rất cao và
có mặt trong hầu hết các thiết bị điện tử, kể cả điện thoại di động, nó giúp điện thoại
tránh bị ăn mòn; Vàng còn được tìm thấy trong máy tính xách tay, máy tính để bàn.
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

8

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

Kim loại quý giá này được gắn vào bộ nhớ và bộ mạch chủ của bộ xử lý trung tâm, cho
phép các bộ phận trong máy tính có thể nhận diện và tương tác với nhau.
+ Trong kiến trúc: tòa tháp vàng Sripuram ở Ấn Độ là một trong số những
công trình được làm bằng vàng lớn nhất thế giới. Khu tâm linh này được tạo bởi 1,5 tấn
vàng, giúp tòa nhà có thể tồn tại lâu bền theo thời gian.
+ Trong công nghệ vũ trụ: nhiều phương tiện chuyên chở trong không gian
được lắp đặt tấm phim polyester phủ vàng để phản xạ bức xạ hồng ngoại và giúp cân
bằng nhiệt độ trung tâm. Theo nguyên lý bức xạ, nếu không có vàng, các bộ phận có

màu tối hơn của phi thuyền không gian sẽ hấp thụ một lượng nhiệt đáng kể. Ngoài ra,
cơ thể của các phi hành gia cũng được bảo vệ bằng vàng. Mũ bảo hiểm của phi hành gia
có gắn một tấm lưỡi trai được phủ một lớp vàng mỏng để lọc những tia mặt trời có hại.3
- Vai trò tiền tệ của vàng: Vàng từng giữ vai trò quan trọng đối với hệ thống
tiền tệ quốc tế thông qua chế độ bản vị vàng (Gold standard), là chế độ mà đơn vị tiền tệ
được xác định theo hàm lượng vàng nhất định. Với một số đặc điểm cơ bản sau: Tiền
vàng được đúc tự do theo những chuẩn mực được Nhà nước quy định; Tiền giấy có khả
năng chuyển hóa sang vàng; Vàng được tự do luân chuyển trong nội địa cũng như giữa
các quốc gia.
Chế độ bản vị vàng cổ điển tồn tại từ năm 1821-1914 và được tái lập vào
những năm 1925-1931 thông qua đồng Bảng Anh. Vàng tiếp tục giữ vai trò quan trọng
nhất định trong hệ thống tiền tệ quốc tế theo thỏa ước Bretton Woods thiết lập vào năm
1946, thông qua chế độ bản vị hối đoái vàng hay còn gọi là chế độ bản vị USD. Đến
năm 1971 thì hệ thống tiền tệ Bretton Woods sụp đổ. Từ đó vàng mất dần vai trò trong
hệ thống tiền tệ.
Tuy nhiên, khi các nước trên thế giới bắt đầu sử dụng tiền giấy thì lạm phát
luôn là một khả năng tiềm ẩn. Alan Greenspan, giám đốc Quỹ dự trữ liên bang Mỹ
trước đây, khi đề cập đến lạm phát tiền tệ đã chỉ ra rằng: “ Trong tình huống không có

bản vị vàng, sẽ không có bất cứ biện pháp nào để bảo hộ sự tích lũy của dân chúng khỏi
Phong Lâm, zingnews, Những ứng dụng độc đáo của vàng trong cuộc sống, [ngày truy cập 12-8-2013].
3

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

9

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh



Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

sự thống soái của lạm phát, và điều này cũng có nghĩa là tài sản của dân chúng sẽ không
có được nơi cất giữ an toàn. Nói một cách đơn giản, bội chi của ngân sách là âm mưu
tướt đoạt tài sản và vàng đã chặn đứng quá trình nguy hiểm này, đóng vai trò bảo hộ tài
sản của dân chúng”.4
Vì vậy, vàng còn được xem là “vịnh tránh bão” hữu hiệu khi áp lực lạm phát
xảy ra. Bởi lẽ, khi nền kinh tế phát triển ổn định việc tích lũy vàng không tốn nhiều chi
phí cho các khâu bảo quản, bảo hiểm,… Nhưng khi nền kinh tế có “biến”, áp lực lạm
phát tăng, đồng nghĩa với giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng nhanh, đồng tiền mất giá, nhu
cầu tích lũy vàng sẽ càng cao nhằm bảo toàn giá trị tài sản.
Ngoài ra, vàng còn trở thành phương tiện thanh toán, được dùng để làm chuẩn
đo giá trị của các tài sản khác đặc biệt là tài sản có giá trị lớn như nhà cửa, đất đai khi
mà các phương tiện thanh toán khác tỏ ra không đáng tin cậy.
Cuối cùng, trong trường hợp các thước đo giá trị khác biến động quá lớn thì
vàng lại đóng vai trò là thước đo giá trị - vai trò tiền tệ thế giới do vàng được chấp nhận
thanh toán ở nhiều quốc gia.
- Vai trò dự trữ ngoại hối quốc gia: Dự trữ ngoại hối quốc gia là một nguồn
tài sản đảm bảo cho một quốc gia có khả năng chống đỡ với các cú sốc kinh tế từ bên
ngoài, giúp duy trì bình ổn giá cũng như mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia, đồng thời
ảnh hưởng đến tính linh hoạt trong việc vận hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Theo công bố của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) tính đến tháng 3/2013,
tổng dữ trữ vàng thế là 31.671,4 tấn trong đó Mỹ là nước có dự trữ vàng lớn nhất, với
lượng dự trữ vàng chính thức là 8.133,5 tấn và tỉ lệ dự trữ ngoại hối bằng vàng là
75,6%.5 Các quốc gia, ngân hàng và quỹ đầu tư trên toàn thế giới cũng tăng cường giữ
vàng trong danh mục đầu tư của mình để tránh nguy cơ giảm giá trị tài sản do lạm phát
và phá giá tiền tệ trong điều kiện kinh tế biến động bất thường như hiện nay.
Sở Ngoại vụ thành phố Đà Nẵng, Vai trò của vàng và các mối quan hệ kinh tế tiền tệ ở Việt Nam,
/>[ngày truy cập 18-8-2013].
5

Phong Lâm, zingnews, 10 nước dự trữ vàng nhiều nhất thế giới, [ngày truy cập 14-8-2013].
4

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

10

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

1.1.3. Vai trò của vàng miếng đối với nền kinh tế Việt Nam
Thứ nhất, vàng miếng ở Việt Nam là vàng có chức năng tiền tệ mặc dù không
được thừa nhận là một loại tiền tệ trong nền kinh tế của Việt Nam. Song, khi ta xem xét
một số khía cạnh về mặt kinh tế thì vàng miếng ở Việt Nam lại có đầy đủ các chức năng
của tiền tệ:
+ Chức năng đo lường giá trị: khác với tiền pháp định, vàng (vàng miếng) có
giá trị tự thân chứ không phải do Nhà nước quy định. Giá vàng có thể thay đổi tùy theo
lượng cung – cầu vàng trên thị trường hay tình hình kinh tế của từng giai đoạn,…
Nhưng vàng cũng như tiền tệ có thể là tiêu chuẩn để đo lường và biểu hiện giá trị của
các loại hàng hóa khác. Nếu như một hàng hóa nào đó có giá trị được định giá theo đơn
vị nghìn đồng, trăm đồng, triệu đồng,… Thì đối với một hàng hóa có giá trị lớn hay rất
lớn vẫn có thể được định giá theo chỉ, lượng,… phù hợp với giá trị của hàng hóa.
+ Chức năng trung gian trao đổi hay phương tiện lưu thông: tức là chức năng
trung gian trong công thức H (hàng) – T (tiền) – H (hàng). Vàng miếng trên thị trường
Việt Nam hiện nay có nhiều chủng loại khác nhau: phân, chỉ, lượng,… nên đối với các
hàng hóa có giá trị tương đối lớn hoặc lớn vàng miếng vẫn có thể đảm nhận chức năng
là vật ngang giá chung, tức là trung gian trao đổi.
+ Chức năng thanh toán: trên thực tế hiện nay vàng miếng vẫn được sử dụng

để thanh toán các khoản nợ, việc thanh toán có thể thực hiện bằng vàng hoặc quy đổi
sang VNĐ theo giá vàng mà các bên đã thỏa thuận.
+ Chức năng tích trữ giá trị: đây là chức năng nổi trội nhất của vàng. Bởi nhu
cầu tích trữ vàng ở Việt Nam là rất lớn và đã được hình thành từ lâu đời. Đối tượng
được ưa chuộng nhất lại là vàng miếng, vì so với vàng trang sức mỹ nghệ vàng miếng
không mất nhiều phí cho khâu gia công chế tác, dễ mua bán vận chuyển hay cất giữ, bảo
quản.

Thứ hai, Việt Nam là nước nhập khẩu vàng lớn, chiếm 95% lượng tiêu thụ, do
nguồn vàng từ khai thác trong nước chỉ đáp ứng được 5% nhu cầu vàng trong nước.6
Thitruongvang.net, Nhập khẩu vàng của Việt Nam chiếm 95% lượng tiêu thụ, [ngày truy cập 19-8-2013].
6

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

11

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

Nên sau khi nhập khẩu vàng vào lãnh thổ thì giá vàng lại phải chuyển đổi từ ngoại tệ
của nước xuất khẩu sang đơn vị tiền tệ quốc gia và được niêm yết giá mới theo giá vàng
miếng của thương hiệu vàng có thị phần lớn và uy tín cao như SJC. Như vậy, có thể
thấy giá vàng trong nước được phản ánh chủ yếu thông qua giá vàng miếng. Mặt khác,
thị trường vàng miếng còn có mối quan hệ rất mật thiết với thị trường tiền tệ thế giới,
đặc biệt là USD. Giá vàng trong nước và tỷ giá USD thường biến động theo chiều
hướng ngược nhau, một khi USD mất giá thì giá vàng trong nước thường được đẩy lên
cao, khi đó nhu cầu vàng thường tăng, nguồn cung trong nước không đáp ứng kịp thời

buộc Nhà nước phải tiến hành nhập khẩu vàng để bình ổn thị trường.

Thứ ba, vàng và nhất là vàng miếng đang là kênh đầu tư được chú ý nhất hiện
nay tại Việt Nam và trên thế giới. Bởi vàng là một trong những yếu tố quan trọng tác
động và gắn kết thị trường tài chính với nhau. Vì, giá bất động sản tại Việt Nam thường
được định giá theo vàng mà cụ thể hơn là vàng miếng và việc định giá này cũng đã có
lịch sử từ rất lâu. Lúc đó, do VNĐ mất giá quá lớn, giao dịch bằng USD chưa phổ biến,
người dân phải dùng vàng làm thước đo giá trị và phương tiện thanh toán. Vì vậy, khi
giá vàng biến đổi thì việc định giá bất động sản lại biến đổi theo và kém ổn định. Bên
cạnh việc chi phối giá của bất động sản thì sự biến động của giá vàng còn có những tác
động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán, là một “đối thủ”7 của thị trường chứng
khoán vì khi dòng vốn bị hút nhiều vào thị trường vàng, thị trường chứng khoán cũng vì
thế mà bị chia sẽ nguồn lực, chính vì vậy, nguồn vốn huy động vào hoạt động sản xuất
kinh doanh cũng bị hạn chế.

Thứ tư, mối quan hệ của thị trường vàng miếng và sự lạm phát của nền kinh
tế. Nguyên nhân lạm phát thường được lý giải là do sự thừa tiền trong quy luật lưu
thông tiền tệ. Khi đó, quốc gia bị lạm phát sẽ tiến hành các biện pháp “thắt chặt” tiền tệ
để rút bớt lượng tiền lưu thông trên thị trường, sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh để
tăng lượng hàng hóa cho nền kinh tế. Và một điều dễ nhận thấy là khi có lạm phát, khi
đồng tiền mất giá nhu cầu tích trữ vàng để bảo toàn giá trị tài sản lại tăng, đồng nghĩa
với lượng tiền pháp định sẽ được đưa ra thị trường trong các giao dịch mua vàng và sau
Giavang.net, Thị trường chứng khoán tiếp tục là đối thủ của vàng, [truy cập ngày 18-8-2013].
7

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

12

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh



Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

đó nguồn vốn lại được đưa vào tích trữ (vàng) chứ không phải dùng để sản xuất. Chính
vì vậy, nếu muốn chính sách quản lý tiền tệ có hiệu quả thì việc kiểm soát và quản lý
vàng miếng là một trong những chính sách không thể thiếu.

1.1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của vàng
Năm 3600 trước công nguyên, khối vàng đầu tiên được nung chảy. Những
người thợ vàng ở Hy Lạp là những người đầu tiên nung quặng vàng để lấy được vàng từ
bên trong, họ dùng những ống thổi lửa làm bằng đất sét chống lửa để duy trì nhiệt độ
cho lò nung.
Năm 2600 trước công nguyên, những người thợ vàng tại Mesopotamia cổ đại
(nước Iraq ngày nay) đã tạo ra một trong những đồ trang sức bằng vàng đầu tiên của con
người. Đó là một chiếc vòng cổ làm từ đá carnelian màu xanh da trời có gắn những
miếng vàng hình chiếc lá.
Năm 950 trước công nguyên, khi nữ hoàng Sheba của Yemen đem tặng vua
Solomon của Israel 2.500 kilogram vàng, thì tổng số vàng mà vị vua này sở hữu đã lên
tới 5.700 kg. Vì vậy, ông đã cho sử dụng một phần tài sản của mình để xây nên một lâu
đài dát vàng.
Năm 600 trước công nguyên, vàng lần đầu được sử dụng trong nha khoa.
Năm 564 trước công nguyên, Vua Croesus đã cho phát triển công nghệ tinh
luyện vàng để đúc ra đồng tiền vàng tiêu chuẩn đầu tiên trên thế giới. Với trọng lượng
như nhau cho tất cả các đồng tiền, Croesids đã trở thành đơn vị tiền tệ được chấp nhận
và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Năm 300 trước công nguyên, lần đầu tiên dùng hạt nano vàng. Người La Mã
đã sử dụng vàng để tạo ra màu sắc đặc biệt cho chiếc cốc Lycurgus nổi tiếng. Họ đã đun
chảy bột vàng trong thủy tinh và làm nó khuếch tán ra xung quanh. Sự khúc xạ ánh sáng
đã làm cho chiếc cốc này có màu đỏ rực rỡ.

Năm 1300, hệ thống tiêu chuẩn đầu tiên trên thế giới nhằm nghiên cứu và
đảm bảo chất lượng các kim lại quý đã được thành lập tại Goldsmith's Hall ở London.
Đây cũng là nơi đặt trụ sở của Phòng phân tích kim loại quý London ngày nay.
GVHD: TS. Cao Nhất Linh

13

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

Trong khoảng thời gian từ năm 1370 – 1420, rất nhiều mỏ vàng lớn quanh
khu vực châu Âu trở nên gần như cạn kiệt. Việc đào đãi và sản xuất vàng tại vùng này
giảm mạnh đến mức gây ra cả một thời kì mà người ta gọi là “Cơn khát vàng lịch sử”.
Năm 1422, Sở đúc tiền Venice đã lập kỷ lục khi cho sản xuất 1,2 triệu đồng
tiền vàng từ 4,26 tấn vàng lấy tại châu Phi và Trung Á. Những đồng xu nhỏ này nhanh
chóng trở nên phổ biến vì dễ đúc và giá trị lớn.
Năm 1717, Anh bắt đầu đề ra chế độ bản vị vàng. Khi Chính phủ định giá 1
ounce vàng là 77 shilling và 10,5 xu năm 1717.
Năm 1803, việc mạ vàng lần đầu tiên trên thế giới. Giáo sư Luigi Brugnatelli
ở Đại học Pavia đã mạ vàng làm cải thiện tính dẫn điện và cũng từ đó nó đóng vai trò
rất quan trọng đối với nhiều công nghệ hiện đại ngày nay.
Năm 1848 và năm 1885 đã ghi nhận hai cơn “sốt” vàng tại California và Nam
Phi. Khi phát hiện ra “dấu vết” của vàng tại hai địa điểm trên, mọi người trên khắp thế
giới đã đổ xô đến đây tìm vàng.
Năm 1870-1900, tất cả các quốc gia lớn trên thế giới (trừ Trung Quốc) đã
chuyển sang chế độ bản vị vàng mới và định giá cho vàng theo các đơn vị tiền tệ. Chế
độ hai bản vị bị bãi bỏ.
Năm 1939, thị trường vàng ở London đã phải đóng cửa khi Chiến tranh thế

giới lần thứ 2 bùng nổ. Sau đó, cả thế giới đã quay về hệ thống tỉ giá hối đoái cố định,
lần này là cố định các đơn vị tiền tệ theo đồng USD và giá vàng cũng được tính theo
USD.
Năm 1961, con chíp máy tính đầu tiên dùng vàng làm dây dẫn.
Năm 1961, vàng được dùng trong công nghệ vũ trụ.
Năm 1971, Hệ thống Bretton Woods đã chấm dứt khi tổng thống Mỹ Nixon
đóng cửa “Gold Window”, đình chỉ việc quy đổi USD ra vàng. Và sau đó, cả thế giới đã
theo chế độ tỉ giá thả nổi như hiện nay.8
8

Hà Thu, VnExpress, Lịch sử vàng thế giới, [ngày
truy cập 16-8-2013].

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

14

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

1.2.

Tổng quan về hoạt động kinh doanh vàng, vàng miếng

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của thị trường vàng, vàng miếng
Thị trường vàng là nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh, mua bán vàng.
Hoạt động kinh doanh vàng, bao gồm: Hoạt động sản xuất, gia công vàng
trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động

kinh doanh mua, bán vàng miếng; hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng và các hoạt
động kinh doanh vàng khác, bao gồm cả hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản và
hoạt động phái sinh về vàng.9
Căn cứ vào các khái niệm trên, có thể nhận thấy thị trường vàng, vàng miếng
mang một số đặc điểm sau:
- Thị trường vàng không nhất thiết phải tập trung ở một vị trí địa lý xác định
mà là bất cứ đâu diễn ra hoạt động mua bán vàng;
- Thị trường vàng là thị trường toàn cầu, “không ngủ”. Do sự chênh lệch về
múi giờ giữa các khu vực nên thị trường vàng diễn ra suốt ngày đêm. Các nhóm thành
viên thị trường duy trì quan hệ liên tục với nhau thông qua các phương tiện điện tử: điện
thoại, mạng vi tính, telex và fax. Vì thông tin được truyền đi rất nhanh và hiệu quả nên
tuy các thành viên tham gia thị trường ở rất xa nhau, nhưng vẫn như đang hoạt động
dưới một mái nhà chung;
- Thị trường nhạy cảm với chính sách tiền tệ của các quốc gia, các sự kiện
chính trị, kinh tế, xã hội, tâm lý.

1.2.2. Các giao dịch trong kinh doanh vàng, vàng miếng
Giao dịch giao ngay (Spot): Giao dịch mua bán mà theo đó mức giá được thỏa
thuận theo ngày giao dịch và việc giao hàng được thực hiện ngay hoặc trong vòng 2
ngày làm việc kể từ ngày xác lập hợp đồng.
Giao dịch kỳ hạn (Forward): Giao dịch được thực hiện theo các điều kiện tại
thời điểm ký kết hợp đồng nhưng sẽ được thực hiện trong tương lai, ít nhất là 3 ngày kể
9

Khoản 1, Điều 1, Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính Phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

15


SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

từ ngày xác lập giao dịch. Giá vàng được xác định là giá vàng kỳ hạn, tức là giá giao
ngay cộng với mức chênh lệch lãi suất của đồng tiền định giá và một số chí phí khác
như lưu kho, bảo hiểm.
Giao dịch quyền chọn (Option): Giao dịch có kì hạn, người mua có quyền
chọn thực hiện hay không thực hiện hợp đồng đã ký kết. Có các quyền chọn như: quyền
chọn mua (call option), quyền chọn bán (put option), quyền chọn vào ngày đáo hạn của
hợp đồng (European option style), quyền chọn vào thời điểm bất kì trong thời hạn của
hợp đồng (American option style),…
Giao dịch tương lai (Future): Giao dịch này là sự phát triển của giao dịch kỳ
hạn nhưng chỉ được thực hiện thông qua sở giao dịch. Hai bên mua bán buộc phải ký
quỹ tại công ty thanh toán bù trừ, tài khoản ký quỹ sẽ được điều chỉnh vào cuối ngày.

1.2.3. Các hình thức kinh doanh vàng, vàng miếng ở Việt Nam
Căn cứ vào thực tế giao nhận vàng, việc kinh doanh vàng có thể chia thành
kinh doanh vàng vật chất và kinh doanh vàng tài khoản
- Kinh doanh vàng vật chất: Các hoạt động mua bán diễn ra và gắn liền với
việc chuyển giao vàng trên thực tiễn.
- Kinh doanh vàng trên tài khoản (kinh doanh vàng trạng thái): là hoạt động
kinh doanh vàng qua tài khoản, dưới hình thức giao dịch ký quỹ và giá trị ròng được
định giá lại liên tục theo biến động của giá vàng.10 Đặc điểm của hình thức kinh doanh
này là việc thay đổi quyền sở hữu vàng và được thể hiện dưới dạng số âm hoặc số
dương trên tài khoản. Hình thức kinh doanh này giúp thị trường vàng linh động hơn và
giảm nhẹ áp lực lên thị trường vàng vật chất.
Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh vàng hiện nay trên thị trường thế giới còn
xuất hiện hình thức đầu tư mới thông qua các quỹ đầu tư vàng (ETF – Exchange-traded

fund hay GETF – Gold exchange-traded fund). Các quỹ GETF này được hình thành từ
việc huy động vàng vật chất của các nhà đầu tư hoặc thành viên lập quỹ, sáng lập viên
của quỹ (được đảm bảo bởi 100% vàng vật chất) và nhận lại chứng chỉ quỹ do GETF
10

Khoản 4, Điều 3, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ Quy định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

16

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

phát hành tương tự như chứng khoán (chứng khoán hóa vàng vật chất).11 Các chứng chỉ
quỹ GEFT này cũng được phép giao dịch như cổ phiếu trên thị trường ngoại hối. Những
nhà đầu tư, sáng lập viên của quỹ sở hữu các chứng chỉ này nhằm tìm cách hưởng lợi
nhuận từ biến động của giá vàng. Cụ thể, họ sẽ được hưởng lợi hoặc chịu thiệt từ sự
tăng hay giảm của giá vàng mà không cần phải trực tiếp nắm giữ vàng.
Quỹ tín thác đầu tư vàng lớn nhất hiện nay là SPDR Gold Trust ở New York.
Lượng vàng nắm giữ bởi SPDR Gold Trust tính đến ngày 10/1/2013 là 1.337,73 tấn
vàng, tương đương hơn 43 triệu ounce vàng, trị giá 72,02 tỷ USD. Lượng nắm giữ của
quỹ lên kỷ lục 1.353,34 tấn vào ngày 7/12/2012.12
Hiện nay, các quỹ tín thác vàng đang nắm giữ khoảng 2.630 tấn vàng, tương
đương với sản lượng vàng khai thác của thế giới trong vòng 1 năm. Với lượng nắm giữ
lớn như vậy, các quỹ GETF nói chung và SPDR Gold Trust nói riêng có tầm ảnh hưởng
quan trọng đến thị trường vàng thế giới. Trong những trường hợp nhạy cảm, khi đồng
USD và thị trường dầu mỏ có những biến động khó lường thì những động thái mua bán

của các quỹ ETF rất được chú ý.

1.2.4. Hoạt động kinh doanh vàng, vàng miếng ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có trữ lượng vàng khá lớn khoảng 1.072,1 tấn vàng
miếng và vàng trang sức, mỹ nghệ tính đến quý III năm 2010.13 Bên cạnh trữ lượng
vàng khá lớn thì nhu cầu sử dụng vàng của Việt Nam cũng không ngừng tăng. Theo báo
cáo nhu cầu tiêu thụ vàng của Hội đồng Vàng thế giới, trong quí II năm 2013, Việt Nam
đã tiêu thụ khoảng 20 tấn vàng miếng và hơn 3 tấn vàng trang sức. So với quí II/2013,
lượng vàng tiêu thụ đã tăng 40%.14 Quan trọng hơn, cho dù thị trường vàng có nhiều
biến động, giá vàng miếng có xu hướng đi lên nhưng lượng vàng được thị trường mua
vào vẫn ở mức cao. Theo ghi nhận ở các công ty kinh doanh vàng lớn và cả các doanh
nghiệp nhỏ thì doanh số bán ra luôn cao hơn mua vào với mức độ chênh lệch có khác
11

Tài chính, Nên phát triển quỹ ETF vàng?, [ngày
truy cập 19-8-2013].
12
Gafin, Tìm hiểu về SPDR Gold Trust – quỹ ETF vàng lớn nhất thế giới, [ngày truy cập 19-8-2013].
13
Lê Xuân Nghĩa, Vàng và quản lý thị trường vàng, Tạp chí Phát triển kinh tế, số tháng 2, 2011, tr.9.
14
Vietnamnet, Việt Nam tiêu thụ 20 tấn vàng trong quý 2, [ngày truy cập 20-8-3013].

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

17

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh



Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

nhau. Tính từ đầu năm 2011 đến cuối tháng 2 năm 2011, lượng vàng bán ra luôn cao
hơn lượng vàng mua vào khoảng 3 – 4 lần, có ngày cao điểm bán ra nhiều hơn mua vào
đến 7 – 8 lần.15 Từ đó có thể nhận thấy tâm lý ưa chuộng vàng miếng của người dân
Việt vẫn tiếp tục được duy trì và Việt Nam “hứa hẹn” là một thị trường vàng đầy tiềm
năng.
Tuy nhiên, qua từng giai đoạn hoạt động kinh doanh vàng miếng tại thị
trường Việt Nam cũng có nhiều biến chuyển quan trọng khác nhau:
- Giai đoạn trước năm 1975, đất nước đang trong thời kì chiến tranh, cả kinh
tế và đời sống của người dân đều gặp khó khăn, chính vì vậy, vàng cũng ít được quan
tâm, chỉ được xem là hàng hóa thông thường dưới dạng nữ trang.
- Giai đoạn từ năm 1975 – 1988, đất nước giành lại độc lập, tập trung khắc
phục hậu quả chiến tranh. Nền kinh tế bị bao vây cấm vận, hoạt động theo kiểu tập
trung bao cấp, lạm phát cao, đồng tiền mất giá. Vì vậy, vàng miếng trở thành đối tượng
đáng chú ý trước sự mất giá của đồng tiền trong nước.
- Giai đoạn từ năm 1989 – 1999, hoạt động kinh doanh vàng bạc, đá quý
được mở rộng để phục vụ nhu cầu xã hội. Ngày 24/5/1989 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
đã ban hành Quyết định số 139 về việc cho phép các đơn vị quốc doanh, tập thể, hộ
kinh tế cá thể kinh doanh vàng bạc đá quý. Và để hiểu rõ hơn chính sách mới, Ngân
hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 75 ngày 05/6/1989 hướng dẫn việc Ngân hàng
Nhà nước sẽ là cơ quan cấp giấy phép và quản lý hoạt động kinh doanh của các đơn vị
kinh doanh vàng.
- Không chỉ dừng lại ở đó, ngày 24/9/1993 Nhà nước tiếp tục ban hành Nghị
định số 63 và Thông tư số 07 ngày 29/10/1993 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động
kinh doanh vàng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ quản lý hoạt động gia công, chế tác,
mua bán và xuất nhập khẩu vàng; Mọi tổ chức, cá nhân đều được sở hữu vàng hợp
pháp; Các cá nhân, tổ chức muốn được kinh doanh vàng phải thành lập doanh nghiệp
hoặc đăng ký kinh doanh để được Nhà nước cấp phép; Cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp
15


Bích Thủy, SJC, Người dân vẫn thích mua vàng làm của, [ngày truy cập 20-8-2013].

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

18

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

có vốn đầu tư nước ngoài cũng có quyền cất giữ, vận chuyển hoặc gửi vàng tại các
ngân hàng.
- Giai đoạn từ cuối năm 1999 – 2006, thị trường vàng miếng có những bước
phát triển mới, nhiều hình thức kinh doanh vàng miếng mới xuất hiện nhất là những
tháng đầu năm 2006: Cho phép các tổ chức tín dụng huy động và cho vay vốn bằng
vàng; Kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài và sự “nở rộ” tự phát của các sàn giao
dịch.
- Giai đoạn từ cuối năm 2006 – nay, thị trường vàng của Việt Nam diễn biến
vô cùng phức tạp. Ngoài những nguyên nhân thông thường tác động đến cung – cầu
vàng như: tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước, tỉ lệ lạm phát cao, chênh lệch lãi suất
VNĐ so với lãi suất USD, biến động tỉ giá USD/VNĐ, biến động giá vàng thế giới, biến
động của thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán. Thì thị trường vàng Việt
Nam còn còn gặp không ít “sóng gió” trước sự thay đổi “chóng mặt” của các chính sách
quản lý:
Năm 2007 – 2008, là 2 năm đánh dấu sự nở rộ của các “sàn” giao dịch vàng,
song đây là hình thức kinh doanh tự phát, chưa được quy định cụ thể trong luật, độ rủi
ro cao, kinh doanh không mang đến giá trị tăng, hút vốn. Cho nên, vào ngày 30/12/2009
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành văn bản số 369/TB-VPCP yêu cầu không được tổ

chức và thực hiện việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi hình
thức.16 Chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày 30/12/2009, mọi hoạt động liên quan đến kinh
doanh sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước phải chấm dứt
hoạt động (trước ngày 30/3/2010).
Quyết định tạm ngừng nhập khẩu vàng (6/2008): Quyết định này được đưa ra
khi mức nhập khẩu vàng thỏi đã khiến Việt Nam trở thành thị trường vàng nén lớn nhất
thế giới, vượt cả Ấn Độ và Trung Quốc, làm mức thậm hụt thương mại của Việt Nam
lún sâu hơn nữa. Mức thâm hụt của nước ta trong 6 tháng đầu năm đã đạt gần 17 tỉ
USD, tăng cao so với mức 5,2 tỉ USD cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, mức thâm hụt
M ai Hương, Chấm dứt hoạt động sàn giao dịch vàng trên toàn quốc, Báo điện tử Chính Phủ, 2009,
[ngày truy cập 14-82013].
16

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

19

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

thương mại cả năm 2007 của nước ta cũng chỉ là 12,4 tỉ USD.17 Trước những biến động
không mong muốn đó ngày 11/11/2009 Ngân hàng Nhà nước chính thức thông báo cho
phép nhập khẩu vàng với số lượng phù hợp “đủ để can thiệp thị trường”, bình ổn giá
vàng và bảo vệ lợi ích của người dân.
Ngày 18/01/2006, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 03/2006/QĐNHNN về việc cho phép các ngân hàng kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài hoạt
động nếu đáp ứng được các điều kiện: Có hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả và quy
định về quản lý rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh vàng; Có ít nhất một năm kinh nghiệm
trong hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu vàng; Không vi phạm quy định về quản lý

hoạt động kinh doanh vàng. Hoạt động được gần 4 năm thì việc kinh doanh vàng tài
khoản ở nước ngoài lại bị chấm dứt vào tháng tháng 7/2010. Nhưng chấm dứt chưa
được bao lâu thì ngày 06/10/2011, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số
32/2011/TT-NHNN nhằm đưa ra gói giải pháp đặc trị thị trường vàng. Theo đó, có 5
ngân hàng được kinh doanh vàng qua tài khoản, đồng thời cơ quan quản lý ấn định giá
bán vàng bình ổn không chênh lệch quá 400.000 đồng/lượng so với thế giới.18 Nhưng,
hoạt động kinh doanh vàng tài khoản ở nước ngoài lại bị chấm dứt vào tháng 4/2012.
Ngày 29/10/2010, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 22/2010/TTNHNN về việc cho phép các tổ chức tín dụng được huy động vàng và cho vay vốn bằng
vàng. Tuy nhiên, hoạt động được một thời gian thì ngày 05/12/2012, Ngân hàng Nhà
nước lại có văn bản số 8005 yêu cầu tổ chức tín dụng còn số dư huy động, cho vay bằng
vàng phải chấm dứt hoàn toàn hoạt động huy động vốn bằng vàng. Công văn còn nêu
rõ, theo quy định tại Thông tư số 12/2012/TT-NHNN ngày 27/4/2012 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Thông tư số 11/2011/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
thì từ ngày 25/11/2012, tất cả các tổ chức tín dụng phải chấm dứt việc huy động bằng
vàng dưới mọi hình thức, kể cả gia hạn các khoản huy động vàng đến hạn.19
17

Vinanet, Việt Nam ngừng nhập khẩu vàng, [ngày truy cập 14-8-2013].
18
Khánh Huyền, Tiền phong online, Lại cho kinh doanh vàng qua tài khoản, [ngày truy cập 14-8-2013].
19
T.Hương, Hà Nội mới online, Tổ chức tín dụng phải chấm dứt hoàn toàn huy động vàng, [ngày truy cập 14-8-2013].

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

20

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh



Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

Đáng chú ý hơn cả phải nói đến Nghị định 24/2012/NĐ-CP về việc quản lý
hoạt động kinh doanh vàng, theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ là chủ thể độc quyền sản
xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản
xuất vàng miếng. Và, Ngân hàng Nhà nước còn quyết định chọn SJC là thương hiệu
vàng quốc gia, SJC cũng là đơn vị duy nhất được phép dập, gia công vàng miếng. Mục
đích của chính sách này là để chống đầu cơ vàng miếng và “vàng hóa” nền kinh tế. Tuy
nhiên, việc chọn vàng miếng SJC là thương hiệu vàng quốc gia đã gây biến động không
nhỏ. Nếu trước kia, giá vàng miếng của các thương hiệu đều ngang nhau thì bỗng nhiên
SJC lại “một mình một chợ” giá cao chót vót. Những ngày cuối cùng của năm 2012, giá
vàng SJC trong nước và giá vàng thế giới chênh nhau khoảng 4,5 triệu đồng/lượng,
trong khi các thương hiệu vàng khác chỉ chênh nhau với mức từ 1 – 2 triệu
đồng/lượng.20
Bên cạnh đó, Nghị định 24/2012/NĐ-CP cũng mang đến không ít khó khăn
cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng kinh doanh vàng, bởi không
phải doanh nghiệp, tổ chức tín dụng nào đăng ký kinh doanh vàng cũng đủ điều kiện
được phép kinh doanh vàng miếng. Các đối tượng trên muốn tiếp tục được kinh doanh
vàng miếng buộc phải đáp ứng các điều kiện về vốn, chi nhánh, giấy phép,…
Song, năm 2012 có thể nói là năm quyết tâm lập lại thị trường vàng của Ngân
hàng Nhà nước với những động thái mạnh mẽ thông qua các chính sách quản lý và bước
đầu phát huy được hiệu quả: thị trường vàng đã không còn cảnh người dân chen lấn
nhau mua – bán vàng, tình hình buôn lậu vàng được hạn chế,…
Như vậy, có thể thấy các quy định về quản lý thị trường vàng trong thời gian
qua đã liên tục có những thay đổi theo các chiều hướng trái ngược nhau chỉ trong một
thời gian ngắn. Điều này chứng tỏ đó chỉ là các chính sách mang tính chất “chữa cháy”
tạm thời, không mang tính hệ thống và ổn định, bền vững.

20


TC&ĐT, Kì vọng với vàng?, Tài chính & Đầu tư , số 1+2, 2013, tr.42.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

21

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

1.2.5. Sự cần thiết của việc phải áp dụng pháp luật để quản lý hoạt động kinh
doanh vàng miếng
Vàng, vàng miếng không phải là một hàng hóa thông thường để có thể tự do
lưu thông trên thị trường và chỉ cần thực hiện các nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước là có
thể kiểm soát được. Bởi lẽ, vàng miếng luôn mang trong mình tính chất tiền tệ tự thân,
chỉ đợi khi tiền pháp định yếu đi nó sẽ quay trở lại với vai trò tiền tệ của mình như khi ở
chế độ bản vị vàng. Nền kinh tế đất nước sẽ tồn tại cùng lúc hai loại “tiền”: “tiền vàng”
và “tiền pháp định” sẽ cạnh tranh gay gắt với nhau. Khi đó, tin chắc rằng lợi thế sẽ
thuộc về “tiền vàng” vì giá trị quý hiếm sẵn có. Nhưng đối với “tiền pháp định” thì lại là
thách thức không nhỏ, do sức mua VNĐ vốn đã chịu ảnh hưởng bởi sự biến thiên của
nền kinh tế thì nay sẽ càng yếu hơn khi buộc phải tham gia cạnh tranh với “tiền vàng”.
Nguy cơ lạm phát gia tăng cũng là một kết quả không tránh khỏi, vì một nền kinh tế sẽ
khó mà ổn định, vững mạnh khi có đến hai loại “tiền” có bản chất khác nhau cùng lưu
hành.
Mặt khác, dù vai trò tiền tệ của vàng đã không còn được thừa nhận như ở
những thế kỷ trước nhưng vàng vẫn đã và đang được sử dụng là phương tiện trao đổi,
thanh toán và chi trả. Đặc biệt, vàng vẫn đang được nhiều nước trên thế giới xem như
một trong những thành phần quan trọng của Dự trữ ngoại hối quốc gia. Tại Việt Nam,
vàng thường là một phương tiện không thể thiếu được trong các hoạt động kinh doanh

bất động sản. Người ta mua – bán đất đai, nhà cửa không bằng tiền dấu hiệu – tiền giấy;
mà phải bằng vàng – bằng tiền thật. Nếu người ta vay mượn nhau bằng vàng thì không
cần phải sử dụng đến lãi suất vì thông thường việc vay mượn này được thực hiện theo
nguyên tắc là vay bao nhiêu vàng thì trả bấy nhiêu vàng (người vay không phải trả thêm
một khoản nào cả). Từ đó có thể nhận thấy, vàng có khả năng tự bảo tồn được giá trị
của mình. Bên cạnh đó, vàng còn là một phương tiện cất trữ hữu hiệu thay cho VNĐ,
bằng chứng là thời gian gần đây tỷ lệ tiền tiết kiệm được gửi ở các ngân hàng luôn bị
giảm sút.21

21

Châu Đình Phương, Liệu có việc tự do hóa kinh doanh vàng ở Việt Nam?, Tạp chí Ngân hàng, số 1, 2010, tr.30.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

22

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng

Cho nên, một khi vàng miếng thật sự trở thành “tiền vàng” thì các hoạt động
kinh doanh vàng hiện nay chẳng khác gì hoạt động kinh doanh tiền tệ và các doanh
nghiệp kinh doanh vàng lại hiển nhiên trở thành các “ngân hàng vàng”. Điều đáng quan
tâm là nếu như ngân hàng của tiền pháp định hoạt động với quy chế hết sức chặt chẽ
trong hành lang pháp lý khá đầy đủ thì các “ngân hàng vàng” này lại chưa có một hành
lang pháp lý rõ ràng nào. Từ đó, không tránh được những rối loạn đối với nền kinh tế
nếu như các “ngân hàng vàng” này thật sự tồn tại. Khi nguồn vàng khan hiếm và buộc
phải nhập khẩu thêm vàng thì chủ thể kinh doanh vàng phải tìm phương thức để huy

động lượng ngoại tệ phục vụ nhu cầu nhập khẩu vàng, đó có thể là từ việc vay ngoại tệ
của ngân hàng hoặc nhập lậu. Khi đó, nguồn ngoại tệ tại hệ thống các ngân hàng sụt
giảm, tính thanh khoản của các ngân hàng không được đảm bảo và cũng có thể tạo ra
những cơn “sốt” ngoại tệ.
Khi lạm phát tăng, “tiền vàng” được đề cao và đưa vào lưu thông tự do thì
cũng có nghĩa Ngân hàng Nhà nước mất đi khả năng kiểm soát tiền trong lưu thông và
không thực hiện được chức năng của mình. Nhà nước cũng không thể điều tiết và kiểm
soát trật tự nền kinh tế, khi đó hậu quả thật không thể lường trước được. Trong khi hiện
nay, nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa thực sự vững chắc, vẫn là một nền kinh tế thị
trường chưa phát triển hoàn toàn. Do đó, nếu thị trường vàng nói chung cũng như thị
trường vàng miếng nói riêng không có sự điều tiết của Nhà nước thì sẽ dễ dàng bị thao
túng bởi các nhà đầu cơ và giá vàng trong nước cũng sẽ không phản ánh đúng cung –
cầu của thị trường vàng.
Như vậy, việc tự do hoàn toàn các hoạt động kinh doanh vàng là không có lợi
cho nền kinh tế. Tuy nhiên, việc cấm đoán hay quá gò ép thị trường vàng miếng vào
một khuôn khổ nào đó bằng các mệnh lệnh hành chính cũng không đạt được hiệu quả
quản lý như mong đợi. Nếu thị trường vàng quá “nghèo nàn” trong khi nhu cầu về loại
hàng hóa đặc biệt này vẫn duy trì ở mức cao và tâm lý ưa chuộng vàng miếng của người
dân vẫn chưa mai một thì việc xuất hiện các “thị trường ngầm vàng” là một trong những
hậu quả tất yếu. Một khi thị trường phát triển theo hướng không chính thức thì số vàng
tích trữ trong dân sẽ càng tăng, giá vàng càng biến động thất thường, thị trường càng

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

23

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


Đề tài: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh vàng miếng


khó quản lý và chất lượng vàng không được kiểm soát sẽ gây thiệt hại không nhỏ đến
nền kinh tế.
Tóm lại, vàng, đặc biệt là vàng miếng cần được nhìn nhận và quản lý dưới
góc độ một hàng hóa đặc biệt, mang tính chất tiền tệ. Các hoạt động kinh doanh vàng,
vàng miếng cần được quản lý bởi Nhà nước và tiến hành trong một hành lang pháp lý
phù hợp. Cần phải được thực hiện bởi các quy định pháp lý rõ ràng, có hệ thống. Bên
cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành để thực hiện công
tác quản lý đối với thị trường vàng, vàng miếng cần phải tôn trọng quyền tài sản và tự
do kinh doanh của công dân theo Hiến pháp, đồng thời cũng đảm bảo các lợi ích kinh tế
vĩ mô mà Nhà nước đã đề ra.

1.2.6. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về kinh doanh vàng miếng
Căn cứ các quy định tại Khoản 1, Điều 3, Nghị định số 174/1999/NĐ-CP về
quản lý hoạt động kinh doanh vàng và tại Khoản 17, Điều 4, Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam năm 2010, chủ thể có vai trò quản lý hoạt động kinh doanh vàng nói chung và
vàng miếng nói riêng là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngoài ra, các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương có trách nhiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng trong phạm
vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình.22
Phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 174/1999/NĐ-CP chỉ là hoạt động kinh
doanh vàng không phải vàng tiêu chuẩn quốc tế. Việc kinh doanh vàng theo tiêu chuẩn
trước đây được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày
17/8/1998 về Quản lý ngoại hối. Tuy nhiên, Nghị định 63/1998/NĐ-CP cũng đã được
thay thế bởi Pháp lệnh ngoại hối năm 2005. Trong Pháp lệnh này, việc kinh doanh vàng
theo tiêu chuẩn quốc tế cũng như khái niệm vàng theo tiêu chuẩn quốc tế đã không còn
được đề cập.
Nhưng, với mục đích tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, thuận lợi cho việc quản lý
hoạt động kinh doanh vàng miếng thì tại Điều 2, Nghị định số 174/1999/NĐ-CP về
Quản lý hoạt động kinh doanh vàng, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số

22

Khoản 2, Điều 3, Nghị định số 174/1999 /NĐ-CP ngày 09/12/1999 của Chính phủ Quy định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

GVHD: TS. Cao Nhất Linh

24

SVTH: Nguyễn Thị Kiều Trinh


×