Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện hòa bình thuộc tỉnh bạc liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.49 KB, 81 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 2010 – 2014

Đề tài:

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH – THỰC
TIỄN TẠI HUYỆN HÒA BÌNH THUỘC
TỈNH BẠC LIÊU

Giảng viên hướng dẫn:
Ths. Diệp Thành Nguyên
Bộ môn: Luật Hành chính

Sinh viên thực hiện:
Võ Chúc Phương
Mssv: 5106084
Lớp: Luật Hành chính – K36

Cần Thơ, Tháng 11/2013


LỜI CẢM ƠN

Người viết xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Cha Mẹ và gia đình
đã luôn hỗ trợ, động viên và tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể phấn đấu và theo
đuổi ước mơ của mình.
Xin gửi lời cám ơn đến các Anh, Chị đang công tác tại Phòng Tư pháp


huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu đã luôn giúp đỡ và tận tình hướng dẫn trong thời
gian tôi thực tập cũng như đã cung cấp các số liệu cần thiết phục vụ cho đề tài.
Đồng thời, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến Thư viện Khoa Luật, Trường Đại
học Cần Thơ đã cung cấp cho tôi nhiều tài liệu, sách báo phục vụ cho việc
nghiên cứu.
Cuối lời, người viết xin gửi lời cám ơn và lời tri ân sâu sắc nhất đến quý
Thầy, Cô Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ đã dạy dỗ, giúp đỡ, tạo điều kiện
cho tôi rất nhiều trong thời gian học tập tại Trường, đặc biệt là thầy Diệp Thành
Nguyên – Người Thầy đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm và kiến
thức, Thầy luôn động viên tôi phấn đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của
mình. Xin chân thành cám ơn Thầy!

Cần Thơ, ngày……tháng……năm 2013

Võ Chúc Phương


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN

..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................

..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
Cần Thơ, ngày ……. tháng …… năm 2013


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU..............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ
TỊCH
1.1 Khái niệm hộ tịch ...................................................................................................4
1.2 Phân biệt “Quản lý hộ tịch” và “Quản lý hộ khẩu” .............................................6
1.3 Vị trí, vai trò của quản lý hộ tịch ..........................................................................8
1.4 Đối tượng, phạm vi, nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch .................................9
1.5 Quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật về quản lý hộ tịch .......................... 11
1.5.1 Quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch ........................................................ 11
1.5.2 Quan hệ pháp luật về quản lý hộ tịch ........................................................... 12

1.6 Quá trình phát triển hoạt động quản lý hộ tịch ở nước ta .................................13
1.6.1 Khái quát chế độ quản lý đinh thời kỳ phong kiến .......................................13
1.6.2 Chế độ quản lý hộ tịch thời kỳ pháp thuộc và chế độ cộng hòa ở miền nam
Việt Nam trước năm 1975 ........................................................................................... 17
1.6.3 Chế độ quản lý hộ tịch của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .................................................................................. 18

CHƯƠNG 2: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1 Hệ thống cơ quan quản lý và đăng ký hộ tịch .................................................... 22
2.1.1 Cơ quan quản lý hộ tịch ............................................................................... 22
2.1.1.1 Bộ Tư pháp ............................................................................................ 25
2.1.1.2 Bộ Ngoại giao và cơ quan Đại diện Ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam
ở nước ngoài................................................................................................................ 26
2.1.1.3 Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp .............................................. 26
2.1.1.4 Ủy ban nhân dân cấp huyện và Phòng Tư pháp .....................................27
2.1.1.5 Ủy ban nhân dân cấp xã và Công chức Tư pháp - hộ tịch ...................... 28
2.1.1.6 Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ............................................... 29
2.1.2 Cơ quan đăng ký hộ tịch, người có thẩm quyền đăng ký hộ tịch ................. 29
2.1.2.1 Thẩm quyền đăng ký các loại việc hộ tịch của Ủy ban nhân dân
cấp xã .......................................................................................................................... 30
2.1.2.2 Thẩm quyền giải quyết đăng ký hộ tịch của Ủy ban nhân dân
cấp huyện .................................................................................................................... 30
2.1.2.3 Thẩm quyền đăng ký việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài của Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh ................................................................................................................. 31
2.1.2.4 Sở Tư pháp thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ....................... 31


2.1.2.5 Cơ quan Đại diện ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam ở
nước ngoài ................................................................................................................... 31

2.1.2.6 Công chức Tư pháp – hộ tịch.................................................................31
2.2 Phương thức quản lý hộ tịch ............................................................................... 32
2.2.1 Thủ tục đăng ký hộ tịch ................................................................................ 32
2.2.2 Sổ bộ hộ tịch và chế độ quản lý “sổ kép”...................................................... 33
2.2.3 Giấy tờ hộ tịch............................................................................................... 34
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH
Ở HUYỆN HÒA BÌNH THUỘC TỈNH BẠC LIÊU
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
3.1 Thực tiễn quản lý nhà nước về hộ tịch ở huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu37
3.1.1 Tổng quan về huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu ............................................. 37
3.1.2 Thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Hòa Bình
thuộc tỉnh Bạc Liêu ...................................................................................................37
3.1.3 Đánh giá việc thực hiện quản lý Nhà nước về hộ tịch trên địa bàn cấp
xã ................................................................................................................................ 41
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về hộ tịch ở huyện Hòa Bình
thuộc tỉnh Bạc Liêu ....................................................................................................48
3.2.1 Mục tiêu, yêu cầu đối với quản lý nhà nước về hộ tịch ................................ 48
3.2.2 Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước nhà nước về hộ tịch ở
huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu ......................................................................... 50
3.2.2.1 Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với hộ tịch ..................... 50
3.2.2.2 Nâng cao năng lực bộ máy đăng ký, quản lý hộ tịch .............................. 52
3.2.2.3 Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch trên địa
bàn các xã thuộc huyện Hòa Bình ................................................................................ 52
3.2.2.4 Xây dựng đội ngũ công chức quản lý hộ tịch trên địa bàn cấp xã theo
hướng chuyên nghiệp ...................................................................................................53
3.2.2.5 Cải cách các thủ tục hành chính trong việc thực hiện đăng ký
hộ tịch.......................................................................................................................... 55
3.2.2.6 Tăng cường phối hợp các cơ quan, tổ chức trong quản lý
hộ tịch.......................................................................................................................... 56
3.2.2.7 Đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quản lý

nhà nước về hộ tịch......................................................................................................57
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC PHỤ LỤC


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý dân cư là một trong những lĩnh vực trọng yếu của nền hành chính mà
mọi quốc gia, dù ở bất kỳ chế độ chính trị với trình độ phát triển nào cũng đều quan
tâm. Một Chính phủ muốn hoạt động hiệu quả không thể không nắm chắc và cập nhật
thường xuyên các thông tin, dữ liệu về dân cư có được từ hoạt động quản lý hộ tịch.
Hộ tịch là một trong những vấn đề trung tâm của hoạt động quản lý nhà nước về dân
cư. Những sự kiện hộ tịch là những vấn đề nóng, gắn liền với đời sống hằng ngày của
người dân. Từ thời phong kiến cho đến nay, quản lý hộ tịch luôn được coi trọng như
một công cụ của nhà nước để bảo vệ quyền nhân thân của người dân và hoạch định các
chính sách kinh tế - xã hội cho sự phát triển của đất nước. Quản lý hộ tịch là những dữ
liệu cần có trong mọi bài toán hoạch định chính sách phát triển kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng; mặt khác, nó là hoạt động thể hiện tập trung, sinh động mối quan hệ giữa
Nhà nước và công dân.
Để quản lý dân cư, mỗi quốc gia có những phương thức quản lý khác nhau
nhưng đều hướng đến mục đích quản lý một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác các dữ
liệu về đặc điểm nhân thân cơ bản của từng công dân.
Ở nước ta, thông qua nhiều văn bản pháp lý khác nhau, Nhà nước đã thực hiện
việc quản lý hộ tịch trong từng giai đoạn với những phương pháp và cách thức khác
nhau. Từ Nghị định 04/CP ban hành ngày 16/01/1961 đến Nghị định số 83/1998/NĐCP của Chính phủ ban hành ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch (sau đây gọi là Nghị
định 83/1998/NĐ-CP), đều đã thể hiện rõ quan điểm, mục đích và những quy định cụ
thể của Nhà nước ta về đăng ký và quản lý hộ tịch. Tuy nhiên, do hạn chế trong quá

trình nhận thức ở từng thời điểm, Nhà nước mà trực tiếp là Chính phủ chưa bao quát
hết và dự liệu được tất cả mọi vấn đề nảy sinh trong thực tiễn quản lý hộ tịch cũng như
xu hướng vận động của các vấn đề hộ tịch. Nhiều sự kiện hộ tịch phức tạp phát sinh ở
cơ sở không thể hoặc không được giải quyết do pháp luật chưa quy định. Những quy
định của pháp luật cũng chưa bám sát thực tiễn hoàn toàn, còn bộc lộ nhiều “kẽ hở”,
quy định đơn giản, sơ sài, không thống nhất, gây phiền hà cho người dân cũng như khó
khăn cho chính những cán bộ, công chức thừa hành khi áp dụng pháp luật.
Khắc phục những hạn chế trên, với tinh thần hướng mạnh về cơ sở, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/12/2005 về đăng
ký và quản lý hộ tịch (sau đây gọi là Nghị định 158/2005/NĐ-CP). Nghị định
158/2005/NĐ-CP đã tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong tiến trình cải cách nền hành
chính quốc gia, thể hiện sự đổi mới trong tư duy quản lý của Nhà nước về quản lý dân
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

1

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

cư. Nhà nước đã đưa ra nhiều quy định mới tạo thuận lợi cho người dân khi thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình, phân cấp mạnh mẽ hơn cho cơ sở, đơn giản hoá, công
khai hoá thủ tục, rút ngắn thời hạn giải quyết, quy định văn hoá công vụ của công chức
khi giải quyết thủ tục cho dân. Mặc dù vậy, trong quá trình vận dụng và triển khai thực
hiện, Nghị định còn bộc lộ nhiều hạn chế cố hữu, gây ra nhiều khó khăn cho cả cán bộ,
công chức và người dân. Nghị định 158/2005/NĐ-CP vẫn chưa khắc phục được sự rắc
rối về thủ tục; dù đã quy định khá chi tiết nhưng Nghị định vẫn còn thiếu những quy
định cụ thể, rõ ràng về từng sự kiện hộ tịch. Nhiều thuật ngữ pháp lý sử dụng không
chính xác và cách hành văn thiếu mạch lạc; một số quy định thực sự gây khó khăn cho

người thực hiện, không phù hợp với thực tế.
Nhìn vào thực trạng quản lý hộ tịch ở Việt Nam và đặt trong sự so sánh với các
quốc gia trong khu vực, chúng ta không thể không lo ngại trước những bất cập của
thực tiễn quản lý hộ tịch cả về nhận thức và hành động, cả về hành lang pháp lý và
năng lực, trình độ quản lý. Mặc dù hoạt động quản lý hộ tịch đã có quá trình phát
triển hơn nửa thế kỷ và đã có sự vận động tích cực trong những năm gần đây nhưng
việc quản lý “đầy đủ, chính xác, kịp thời” các thông tin hộ tịch vẫn là mục tiêu đầy
khó khăn đặt ra đối với các cơ quan quản lý Nhà nước.
Với thực trạng đó và những đòi hỏi của tình hình mới thì việc đổi mới nâng cao
hiệu quả quản lý Nhà nước về hộ tịch đã và đang đặt ra như một nhu cầu bức xúc đối
với sự phát triển của nền hành chính Việt Nam.
Chính vì vậy, người viết đã chọn đề tài “Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực
tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
* Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu về quản lý hộ tịch nói chung cũng như thực tế của huyện Hòa Bình
nói riêng nhằm làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận, thực tiễn của quản lý hộ tịch, chỉ ra
những nguyên nhân của các hạn chế, trên cơ sở đó, đưa ra những khuyến nghị góp
phần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
huyện Hòa Bình.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ các khái niệm liên quan đến quản lý hộ tịch cũng như phân tích vị trí,
vai trò, đối tượng, phạm vi của quản lý hộ tịch.
Tóm tắt quá trình phát triển của hoạt động quản lý hộ tịch qua các thời kỳ.
Trình bày các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý hộ tịch.

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

2


SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

Phân tích thực trạng quản lý hộ tịch ở huyện Hòa Bình. Qua đó, đề ra một số
giải pháp hoàn thiện trong việc quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của hoạt động
quản lý nhà nước về hộ tịch ở huyện Hòa Bình thông qua các văn bản quy phạm pháp
luật. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hộ tịch
trên địa bàn huyện. Vì nguyên nhân khách quan, nên người viết không đề cập chi tiết
đến nội dung đăng ký và quản lý hộ tịch. Mà chỉ nghiên cứu các vấn đề chung liên
quan đến lĩnh vực quản lý hộ tịch.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết đã sử dụng phương thức thống kê,
tổng hợp, phân tích, so sánh kết hợp và thực tiễn để giải quyết các vấn đề đặt ra.
Ngoài ra, người viết còn tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà nghiên
cứu có kinh nghiệm liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục và phụ lục, nội dung
của luận văn thể hiện ở ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận quản lý nhà nước về hộ tịch
Trong chương này chủ yếu đề cập đến các vấn đề lý luận hình thành chế độ
quản lý hộ tịch, các khái niệm liên quan đến quản lý hộ tịch. Đồng thời cũng nêu rõ vị
trí, vai trò, đối tượng, phạm vi và nội dung quản lý hộ tịch.
Chương 2: Quản lý nhà nước về hộ tịch theo quy định của pháp luật hiện
hành
Ở chương này, chủ yếu nói về quyền hạn và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý

hộ tịch ở Việt Nam. Bao gồm: Bộ Tư pháp; Bộ Ngoại giao và Cơ quan đại diện Ngoại
giao, Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp,
Ủy ban nhân dân cấp huyện và Phòng Tư pháp; Ủy ban nhân dân cấp xã và Ban Tư
pháp; Công chức Tư pháp – hộ tịch. Bên cạnh đó, người viết cũng trình bày các
phương thức quản lý trong lĩnh vực hộ tịch.
Chương 3: Thực tiễn quản lý nhà nước về hộ tịch ở huyện Hòa Bình thuộc
tỉnh Bạc Liêu
Nội dung chương nói về thực trạng quản lý hộ tịch ở huyện Hòa Bình. Qua đó,
đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
huyện.

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

3

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ TỊCH
1.1 Khái niệm hộ tịch
“Hộ tịch” là một từ ngoại lai được du nhập vào ngôn ngữ tiếng Việt nhưng rất
khó xác định thời điểm xuất hiện. Theo “Đại Nam Quấc âm tự vị”, cuốn từ điển của
tác giả Huỳnh Tịnh Paulus Của được biên soạn từ năm 1895 với phương pháp “tham
dụng chữ Nho và lấy 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ” thì trong bộ chữ “Hộ” chưa
có từ “hộ tịch”.1
Xét từ góc độ ngôn ngữ học, “hộ tịch” là một từ ghép gốc Hán chính phụ, được
ghép bởi hai thành tố có nghĩa độc lập, trong đó “tịch” là thành tố chính. Xét về mặt từ

loại thì đây là một danh từ thuộc nhóm danh từ chỉ khái niệm trừu tượng.2 Nếu tìm
hiểu riêng từng thành tố thì có thể thấy, các từ điển hiện nay khá thống nhất trong cách
hiểu từng từ đơn này. Theo đó từ “Hộ” khi sử dụng là danh từ có nhiều nghĩa khác
nhau, nhưng trong đó có một nghĩa trực tiếp là “dân cư” hoặc “nhà ở” hiểu rộng ra là
“đơn vị để quản lý dân số, gồm những người cùng ăn ở với nhau”. Tương tự từ “tịch”
có nghĩa là “sổ sách” hoặc là “sổ đăng ký quan hệ lệ thuộc”. Tuy nhiên việc tổ hợp hai
từ đơn này thành danh từ “Hộ tịch” lại là một trường hợp rất đặc biệt về mặc ngôn ngữ
và được sử dụng với thuộc tính kết hợp hạn chế (hạn chế về việc sử dụng và khả năng
tổ hợp của từ ngữ).3 Chính do tính chất đặc biệt ấy nên khảo cứu qua các từ điển tiếng
Việt thì thấy có nhiều cách giải nghĩa từ “hộ tịch” khác nhau. Dưới đây là một số cách
giải nghĩa:
“Hộ tịch: Quyển sổ của Chính phủ biên chép số người, chức nghiệp và tịch
quán của từng người”;4
“Hộ tịch: Quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp, của mọi người
trong một địa phương”;5
“Hộ tịch: Sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng
người”;6
“Hộ tịch: Sổ biên nhận số một địa phương hoặc cả toàn quốc, trong có ghi rõ
tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng người”;7
“Hộ tịch: Sổ ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã phường”.8
1

Huỳnh Tịnh Paulus Của: Đại Nam Quấc âm tự vị, Sài Gòn, 1895, quyển I, tr.425.
Nguyễn Tài Cẩn: Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, tr.211.
3
Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên): Từ điển tiếng Việt, in lần thứ năm, Nxb. Đà Nẵng, 1998, tr.9.
4
Đào Duy Anh: Giản yếu Hán - Việt từ điển, quyển thượng, Nxb. Khoa học xã hội, 1992, tr.384.
5
Nguyễn Lân (chủ biên): Từ điển từ và ngữ Hán - Việt, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr.321.

6
Nguyễn Văn Khôn: Hán-Việt từ điển, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn, 1960, tr.404.
7
Hoàng Thúc Trâm: Hán-Việt tân từ điển, Tân sanh ấn quán, Sài Gòn, 1974, tr.296.
2

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

4

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

Tuy nhiên bên cạnh những cách giải nghĩa trên, một số từ điển lại giải thích từ
“hộ tịch” lại có cách giải thích ở những khía cạnh hoàn toàn khác. Ví dụ như:
“Hộ tịch: Sổ của cơ quan dân chính đăng ký cư dân trong địa phương mình
theo từng hộ”;9
“Hộ tịch: Quyền cư trú, được chính quyền công nhận của một người tại nơi
mình ở thường xuyên, của những người thường trú cùng một hộ, do chính quyền cấp
cho từng hộ để xuất trình khi cần”;10
“Hộ tịch: Các sự kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý của pháp
luật”.11
Như vậy, nghĩa của từ “hộ tịch” xét từ góc độ ngôn ngữ còn tồn tại nhiều cách
hiểu khác nhau, thậm chí có cuốn từ điển giải nghĩa còn thể hiện sự nhầm lẫn cơ bản
giữa hai khái niệm “Hộ tịch” và “Hộ khẩu”. Điều này cho thấy sự nhầm lẫn giữa hai
khái niệm này trong nhận thức xã hội trên thực tế vẫn còn khá phổ biến.
Theo các nhà luật học, do còn có nhiều sự tranh luận về khái niệm này nên họ
chỉ sử dụng với tư cách là một thuật ngữ chuyên môn và được định nghĩa trong các

văn bản. Và việc sử dụng nó trong đời sống xã hội vẫn chưa phổ biến.
Theo pháp luật hiện hành, “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng
nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết đi” được quy định tại Điều 1 Nghị
định 158/2005/NĐ-CP. Ngoài khái niệm trên, Nghị định 158/2005/NĐ-CP còn nêu ra
khái niệm “đăng ký hộ tịch” theo đó: “Đăng ký hộ tịch là hành vi của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền: xác nhận các sự kiện sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ;
nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ đệm, cải chính họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng,
năm sinh; xác định lại dân tộc; đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn; đăng ký lại việc
sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi”.
Trước Nghị định 158/2005/NĐ-CP ra đời, Bộ luật Dân sự năm 1995 cũng đã có
quy phạm định nghĩa về đăng kí hộ tịch tại Điều 54 như sau: “Đăng ký hộ tịch là việc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh, kết hôn, tử, ly hôn, giám hộ,
nuôi con nuôi, thay đổi họ, tên, quốc tịch, xác định dân tộc, cải chính hộ tịch và các sự
kiện khác theo quy định của pháp luật về hộ tịch”.
Như vậy, chúng ta phải kết hợp giữa hai định nghĩa về hộ tịch và đăng ký hộ
tịch mới có thể hiểu một cách đầy đủ về khái niệm “hộ tịch”. So với Nghị định
83/1998/NĐ-CP thì Nghị định 158/2005/NĐ-CP có bổ sung thêm vấn đề “Xác định lại
8

Bửu Kế: Từ điển Hán-Việt từ nguyên, Nxb. Thuận Hóa, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr.814.
Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên): Từ điển tiếng Việt, in lần thứ năm, Nxb. Đà Nẵng, 1998, tr.442.
10
Nguyễn Văn Đạm: Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999,
tr.385.
11
Nguyễn Như Ý (chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, 1998, tr.835.
9

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên


5

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

giới tính”. Đây là một vấn đề đáng quan tâm vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho công dân
trong việc tham gia vào các mối quan hệ gia đình và xã hội.
1.2 Phân biệt “Quản lý hộ tịch” và “Quản lý hộ khẩu”
Việc làm rõ các dấu hiệu phân biệt giữa quản lý hộ tịch và quản lý hộ khẩu là
rất cần thiết có ý nghĩa thiết thực. Thực tế cho thấy, hiện nay sự nhầm lẫn giữa hai
khái niệm này cũng như sự nhầm lẫn về hoạt động quản lý hộ tịch và hoạt động quản
lý hộ khẩu trong nhận thức xã hội còn khá phổ biến.
Ví dụ: Trong đời sống hằng ngày, khi phải giải quyết các việc về hộ tịch , người
dân thường hay gọi cán bộ tư pháp có nhiệm vụ giải quyết là “Công an hộ tịch”.
Theo quy định tại Điều 18 Luật Cư trú năm 2006 có quy định: “Đăng ký
thường trú là việc công dân đăng ký nơi thường trú của mình với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký thường trú, cấp sổ hộ khẩu cho
họ”.
Khoản 1 Điều 24 Luật Cư trú năm 2006 tiếp tục quy định như sau: “Sổ hộ khẩu
được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký thường trú và có giá trị xác định
nơi thường trú của công dân”. Như vậy, hoạt động quản lý hộ tịch và quản lý hộ khẩu
đều nằm trong phạm trù quản lý dân cư. Tuy nhiên, hai khái niệm này được phân biệt
ở những điểm cơ bản sau:
- Về đối tượng quản lý:
+ Đối tượng của quản lý hộ khẩu chỉ là đặc điểm về nơi cư trú của cá nhân.
+ Đối tượng quản lý hộ tịch thì bao gồm tổng thể rất nhiều đặc điểm nhân
thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết: ngày, tháng, năm sinh, dân tộc, quốc tịch,
nơi sinh, quê quán, quan hệ gia đình, quan hệ hôn nhân. Xét về tính chất, có thể thấy

quản lý hộ tịch quan tâm đến các đặc điểm nhân thân có tính bền vững của cá nhân,
những đặc điểm này chỉ có thể thay đổi trong những trường hợp đặc biệt, theo một thủ
tục pháp lý chặt chẽ. Trong khi đó, đặc điểm về nơi cư trú của cá nhân - đối tượng
quản lý hộ khẩu - là đặc điểm nhân thân có tính “động” dễ bị thay đổi.
- Về phương diện bảo vệ quyền nhân thân thì quản lý hộ khẩu chỉ là biện pháp
bảo vệ quyền tự do cư trú hợp pháp của cá nhân, còn quản lý hộ tịch là phương tiện để
mỗi cá nhân thực hiện tổng thể rất nhiều quyền nhân thân cơ bản của mình.
- Đơn vị “hộ” được dùng làm đơn vị quản lý dân cư của cả quản lý hộ tịch và
quản lý hộ khẩu, nhưng trong quản lý hộ tịch mối quan hệ giữa các thành viên trong hộ
chỉ có thể là mối quan hệ gia đình hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống
hoặc nuôi dưỡng; còn trong quản lý hộ khẩu, không nhất thiết các thành viên trong
một đơn vị hộ khẩu phải có quan hệ gia đình với nhau mà chỉ cần ở chung một nhà
cũng có thể cùng đăng ký theo một đơn vị hộ khẩu.
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

6

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

Hoặc một đơn vị hộ khẩu tập thể quân nhân hoặc hộ khẩu tập thể Công an nhân
dân bao gồm những người cùng công tác trong một đơn vị.
Ví dụ: Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 quy định về “nơi cư trú của công dân”
như sau:
“1. Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh
sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú.
Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức,

cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại
một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.
Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm
trú.
2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định tại
khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống.”
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam thì quản lý hộ tịch là hoạt động chuyên
môn của Ngành Tư pháp, còn quản lý hộ khẩu là hoạt động chuyên môn của Ngành
Công an. Điểm phân biệt này chỉ đúng với pháp luật thực định của Việt Nam hiện nay,
còn trước năm 1987, Ngành Nội vụ (Công an hiện nay) thống nhất quản lý cả hai
nhiệm vụ. Mô hình này hiện nay vẫn được duy trì trong hoạt động quản lý dân cư của
một số nước trong khu vực như Trung Quốc. Mặc dù có sự phân biệt khá rõ ràng như
trên, nhưng trong thực tế đời sống của mỗi cá nhân các vấn đề về hộ tịch và hộ khẩu
có mối quan hệ hết sức mật thiết với nhau, có thể xem xét một số ví dụ cụ thể sau đây:
Ví dụ 1: Một đứa trẻ chỉ có thể được đăng kí tên vào sổ hộ khẩu gia đình sau
khi đã được cha mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh;
Ví dụ 2: Sau khi đã kết hôn, người vợ muốn chuyển hộ khẩu về nơi cư trú của
chồng thì một trong những giấy tờ cần có để làm căn cứ cho việc thực hiện chuyển hộ
khẩu là Giấy chứng nhận kết hôn;
Ví dụ 3: Để xóa tên một người đã chết trong sổ hộ khẩu gia đình, cơ quan quản
lý hộ khẩu phải căn cứ vào giấy chứng tử của người đó;
Ngược lại trong thủ tục đăng ký hộ tịch (khai sinh, khai tử, kết hôn, nuôi con
nuôi) các giấy tờ về hộ khẩu (Sổ hộ khẩu hoặc Giấy xác nhận tạm trú có thời hạn) luôn
là loại giấy tờ quan trọng cần có trong hồ sơ đăng ký hộ tịch. Vai trò quan trọng của
giấy tờ hộ khẩu trong hoạt động đăng ký hộ tịch thể hiện ở chỗ nó là căn cứ để xác
định cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch theo quy định của pháp luật.

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên


7

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

1.3 Vị trí, vai trò của quản lý hộ tịch
Trong một xã hội ngày càng phát triển như hiện nay thì khái niệm quyền con
người được coi như một giá trị chung của nhận loại, hầu hết các quốc gia đều nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc quản lý hộ tịch. Nếu như hoạt động quản lý
dân cư được xem là nội dung quan trọng hàng đầu trong tổng thể hoạt động quản lý xã
hội thì quản lý hộ tịch, với các lợi ích và giá trị tiềm tàng của nó, được coi là mắt khâu
nằm ở vị trí trung tâm của hoạt động quản lý dân cư.
Về mặt lý luận, hoạt động quản lý hộ tịch là lĩnh vực thể hiện sâu sắc chức năng
xã hội của Nhà nước qua ba phương diện cơ bản như sau:
Thứ nhất, quản lý hộ tịch là cơ sở để Nhà nước hoạch định các chính sách phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và tổ chức thực hiện có hiệu quả
các chính sách đó. Một hệ thống quản lý dữ liệu đầy đủ, chính xác, được cập nhật kịp
thời, thường xuyên sẽ là nguồn tài sản thông tin hết sức quý giá luôn sẵn sàng hỗ trợ
đắc lực cho việc hoạch định các chính sách xã hội một cách chính xác, có tính khả thi,
tiết kiệm chi phí xã hội.
Ví dụ: Trên địa bàn một đơn vị cấp xã, khi cần triển khai các chính sách cộng
đồng liên quan đến dân cư: bảo vệ sức khỏe nhân dân, chăm sóc y tế đối với bà mẹ và
trẻ em, phổ cập giáo dục, hôn nhân gia đình chính quyền thường căn cứ vào sổ hộ tịch
đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn để xác định đối tượng và triển khai các biện pháp
phù hợp với đặc điểm dân cư trong xã.
Ngoài ra, đối với quốc gia có kết cấu dân cư đa dạng về thành phần dân tộc như
Việt Nam, quản lý hộ tịch còn góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện chính sách
dân tộc và chính sách phát triển kinh tế, xã hội của các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng

xa. Những thông tin định lượng rất cần thiết đối với việc xây dựng chiến lược con
người, bảo vệ và phát triển cộng đồng dân tộc ít người, tổ chức thực hiện tốt chính
sách định canh định cư, hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế, xã hội có hiệu quả.
Thứ hai, hoạt động quản lý và đăng ký hộ tịch thể hiện tập trung nhất, sinh
động nhất sự tôn trọng của Nhà nước đối với việc thực hiện một số quyền nhân thân cơ
bản cử công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và Bộ luật Dân sự, ví dụ như quyền
đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên, quyền xác định dân tộc, quyền đối với quốc tịch,
quyền kết hôn, quyền được nuôi con nuôi và được nhận làm con nuôi. Ở phương diện
này, đăng ký hộ tịch chính là phương tiện để người dân thực hiện, hưởng thụ quyền
nhân thân đó. Các dữ liệu về căn cước của mỗi cá nhân thể hiện trên chứng thư hộ tịch
là sự khẳng định có giá trị pháp lý về đặc điểm nhân thân của mỗi người, mà qua đó
các cơ quan tổ chức, cá nhân khác có thể đánh giá người đó có khả năng điều kiện để
tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định hay không.
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

8

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

Hành vi đăng ký khai sinh của cơ quan đăng ký hộ tịch đánh dấu điểm khởi đầu
của hoạt động quản lý nhà nước đối với từng người dân, đồng thời cũng là điểm khởi
đầu cho mọi mối quan hệ giữa công dân và Nhà nước. Từ góc độ lý luận về Nhà nước
và pháp luật ở phương diện này có thể khẳng định, quản lý hộ tịch là một lĩnh vực hoạt
động thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của Nhà nước.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy việc nhà nước quản lý đăng ký hộ tịch chính là
sự bảo hộ đối với việc thực hiện các quyền con người. Điều này chỉ có trong các xã
hội mà nền dân chủ được mở rộng và phát huy, khi mà các giá trị quyền con người

được Nhà nước tôn trọng và có trách nhiệm bảo hộ. Nhìn vào lịch sử có thể thấy, các
triều đại phong kiến Việt Nam không tổ chức quản lý hộ tịch vì mối quan hệ giữa
vương quyền (vua) với các “thần dân” của mình về cơ bản là mối quan hệ một chiều,
người dân chỉ có nghĩa vụ đối với triều đình. Do đó, đối với nhà nước phong kiến việc
tổ chức quản lý hộ tịch không được quan tâm.
Thứ ba, quản lý hộ tịch có vai trò to lớn đối với việc bảo đảm trật tự xã hội. Hệ
thống sổ bộ hộ tịch có thể truy nguyên nguồn gốc của cá nhân một cách dễ dàng. Các
chứng thư hộ tịch do người có thẩm quyền lập theo thủ tục chặt chẽ có giá trị là sự
khẳng định của nhà nước về vị thế của một cá nhân trong gia đình và xã hội.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp khi cần đánh giá năng lực chủ thể của một cá
nhân các cơ quan tiến hành tố tụng luôn cần đến giấy khai sinh của người đó. Giấy
khai sinh chứa đựng các dữ liệu gốc của cá nhân như ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh,
dân tộc, quốc tịch, họ tên cha mẹ. Do đó khi được sử dụng với tư cách là chứng cứ, các
thông tin thể hiện trên giấy khai sinh có thể giúp cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá
nhiều vấn đề trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính.
Bởi ý nghĩa quan trọng như vậy nên trong sự phát triển của mỗi quốc gia, vấn
đề xây dựng hệ thống quản lý hộ tịch và khai thác hiệu quả của nó phục vụ cho công
tác quản lý nhà nước luôn được quan tâm.
1.4 Đối tượng, phạm vi, nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch
Là một hoạt động quản lý con người, hoạt động quản lý hộ tịch hướng đến đối
tượng quản lý là các đặc điểm nhân thân làm nên căn cước của mỗi cá nhân. Tuy nhiên
các yếu tố thuộc về căn cước của mỗi người rất phong phú và là đối tượng của nhiều
hoạt động quản lý khác nhau. Do vậy để phân biệt đối tượng của quản lý hộ tịch với
đối tượng quản lý của một số hoạt động quản lý thuộc phạm trù quản lý căn cước của
con người như quản lý hộ khẩu, quản lý lý lịch tư pháp, quản lý chứng minh nhân dân
cần xem xét, xác định phạm vi của quản lý hộ tịch.
Căn cước của mỗi cá nhân được hình thành từ rất nhiều đặc điểm nhân thân gắn
liền cá nhân đó như: họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, dân tộc, tôn giáo, quốc
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên


9

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

tịch, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú, các mối quan hệ gia đình, tiền án, tiền sự. Tất
cả những dấu hiệu đặc trưng đó bảo đảm cho việc phân biệt chính xác một cá nhân này
với một cá nhân khác. Nghiên cứu về vấn đề này, căn cứ vào mức độ ổn định của các
dấu hiệu nhân thân để phân loại chúng thành các nhóm sau:
- Nhóm dấu hiệu nhân thân không bao giờ thay đổi gồm có: ngày, tháng, năm
sinh; quan hệ gia đình (cha - mẹ - con, anh - chị - em); ngày, tháng, năm chết.
- Nhóm dấu hiệu nhân thân có thể thay đổi nhưng chỉ hạn chế trong một số
trường hợp nhất định và việc thay đổi phải được tiến hành theo thủ tục rất chặt chẽ
gồm có: họ tên, dân tộc, quốc tịch.
- Nhóm dấu hiệu dễ thay đổi gồm có: nghề nghiệp, nơi cư trú, tiền án.
Tất cả các đặc điểm nhân thân của cá nhân nói trên đều là đối tượng quản lý của
hoạt động quản lý nhà nước về căn cước của cá nhân. Trong đó hoạt động quản lý hộ
tịch giới hạn phạm vi quản lý trong các nhóm đặc điểm nhân thân có các thuộc tính
sau:
- Tính ổn định cao;
- Tính công khai;
- Có khả năng phổ biến thông tin.
Nhìn từ góc độ quản lý thì phạm vi quản lý hộ tịch không chỉ giới hạn trong đối
tượng công dân Việt Nam mà còn bao gồm cả người nước ngoài, người không quốc
tịch. Phạm vi quản lý đó được thực hiện thông qua các nội dung quản lý đã được nêu
trong Điều 1 Nghị định 158/2005/NĐ-CP, bao gồm:
- Quản lý các sự kiện sinh; tử; kết hôn; nuôi con nuôi; nhận cha, mẹ, con, giám
hộ;

- Quản lý việc thay đổi hộ tịch; cải chính hộ tịch; bổ sung điều chỉnh hộ tịch;
xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc;
- Quản lý sự thay đổi các đặc điểm nhân thân do các sự kiện ly hôn; xác định
cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; chấm dứt nuôi con nuôi.
So sánh nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch của Nhà nước ta hiện nay (tính từ
năm 1998, khi Chính Phủ ban hành Nghị định 83/1998/NĐ-CP đến nay) với thời kỳ
trước đây (thời kỳ thực hiện điều lệ hộ tịch năm 1961) có thể thấy nội dung quản lý hộ
tịch ngày càng được mở rộng hơn (theo điều lệ hộ tịch 1961 thì nội dung quản lý hộ
tịch rất đơn giản, chỉ giới hạn trong các loại việc cơ bản như sinh, tử, kết hôn ghi chú
các thay đổi về hộ tịch). Đây là một bước tiến quan trọng cho thấy hoạt động quản lý
con người ngày càng được quan tâm một cách toàn diện. Tuy nhiên, sự mở rộng phạm
vi và nội dung quản lý cũng đặt ra rất nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi hoạt động quản lý
hộ tịch phải được nâng lên một trình độ cao hơn.
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

10

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

1.5 Quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật về quản lý hộ tịch
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật và các tài liệu sách báo pháp lý, thuật
ngữ “pháp luật về hộ tịch” được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên việc sử dụng thuật
ngữ này trong các nghiên cứu chỉ mang tính ước định và tùy từng trường hợp, nội hàm
của nó được xác định theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp có sự khác nhau cơ bản. Theo
những cách hiểu khác nhau đó việc xác định các quy phạm pháp luật và các quan hệ
pháp luật về hộ tịch cũng có sự khác nhau.
Hiểu theo nghĩa rộng thì pháp luật về hộ tịch bao gồm toàn bộ hệ thống quy

phạm các vấn đề về hộ tịch, theo đó nguồn chủ đạo của pháp luật về hộ tịch bao gồm
Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được sửa đổi bổ
sung năm 2010, Luật Nuôi con nuôi năm 2010, các văn bản về đăng ký và quản lý hộ
tịch. Cũng trong cách hiểu này các quan hệ pháp luật về hộ tịch được phân thành hai
nhóm cơ bản, đó là nhóm quan hệ mang tính chất dân sự và nhóm quan hệ về quản lý.
Hai nhóm quy phạm này có mối quan hệ hết sức mật thiết, trong đó nhóm quy phạm
về hộ tịch do Luật Dân sự điều chỉnh luôn đóng vai trò là tiền đề để xây dựng các quy
phạm hành chính về hộ tịch.
Hiểu theo nghĩa hẹp thì pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quy phạm hành
chính về quản lý hộ tịch. Điều đó cũng có nghĩa là đối tượng điều chỉnh của pháp luật
về hộ tịch chỉ bao gồm các quan hệ mang tính chất chấp hành – điều hành phát sinh
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch.
Mặc dù hai quan niệm trên có sự khác nhau cơ bản nhưng cần thấy rằng chúng
không mâu thuẫn và loại trừ nhau.
1.5.1 Quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch
Quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch là một dạng cụ thể của quy phạm hành
chính, quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch được hiểu là những quy tắc xử sự chung
do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ
tịch. Các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch có thể được phân thành hai nhóm sau:
- Nhóm quy phạm về địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của các chủ thể trong
quan hệ quản lý hộ tịch và quan hệ giữa các chủ thể với nhau trong quan hệ quản lý hộ
tịch;
- Nhóm quy phạm về thủ tục hành chính (thủ tục đăng ký hộ tịch hoặc giải
quyết khiếu nại tố cáo về hộ tịch).
Hiện nay, số lượng các quy phạm pháp luật về hộ tịch khá lớn, điều chỉnh khá
toàn diện, đầy đủ các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên các quy phạm
về quản lý hộ tịch nằm rải rác trong nhiều văn bản khác nhau. Ngoài Nghị định
158/2005/NĐ-CP được coi là nguồn chủ đạo của pháp luật về quản lý hộ tịch, các quy
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên


11

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

phạm về quản lý hộ tịch còn được tìm thấy trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Sự tản mạn của các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch như trên đã ảnh hưởng đến
hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về hộ tịch. Xét từ khía cạnh giá trị pháp lý có thể
thấy, hiện nay các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch có thứ bậc không cao trong
thang giá trị quy phạm. Các quy phạm có giá trị cao nhất mới dừng lại ở mức độ quy
phạm trong Nghị định; một bộ phận không nhỏ quy phạm do Bộ Tư pháp ban hành
trong các Thông tư mang tính chất hướng dẫn nghiệp vụ. Bởi vậy tính ổn định của
pháp luật về quản lý hộ tịch còn chưa cao, có thể bị sửa đổi, bổ sung trong một thời
gian ngắn. Thực tiễn này được lý giải bởi hai lý do của hoạt động xây dựng pháp luật
về hộ tịch, đó là:
Thứ nhất, trong suốt một thời gian hơn 30 năm (từ khi ban hành Điều lệ đăng
ký hộ tịch năm 1961 đến trước khi Chính Phủ ban hành Nghị định số 184/CP ngày
30/11/1994) hoạt động xây dựng pháp luật về hộ tịch gần như trong tình trạng đóng
băng, không có sự vận động nào đáng kể. Chỉ từ khi bị tác động trực tiếp bởi sự ra đời
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và tiếp đó là Bộ Luật Dân sự năm 2005 thì
hoạt động xây dựng pháp luật về hộ tịch mới được thúc đẩy vận động tích cực để phù
hợp, thích ứng với những yêu cầu mới mà hai văn bản luật quan trọng nói trên đặt ra.
Thứ hai, về mặt chủ quan do tính chất tác động xã hội của các quy phạm pháp
luật về quản lý hộ tịch rất rộng lớn và liên quan đến các phạm trù nhạy cảm như quyền
con người, quyền công dân nên hoạt động điều chỉnh lĩnh vực này được tiến hành rất
cẩn trọng, dè dặt. Chỉ có thể xây dựng các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch có
giá trị cao khi điều kiện cần và đủ cho nó là nền tảng pháp luật dân sự, pháp luật hôn
nhân và gia đình đã được thiết lập và vận hành một cách ổn định.

1.5.2 Quan hệ pháp luật về quản lý hộ tịch
Quan hệ pháp luật về quản lý hộ tịch là những quan hệ phát sinh trong hoạt
động chấp hành - điều hành được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật về hộ tịch.
Chủ thể của quan hệ pháp luật về quản lý hộ tịch gồm hai nhóm:
- Các cá nhân và cơ quan nhà nước có chức năng quản lý về hộ tịch;
- Các cá nhân có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch.
Các quan hệ pháp luật hình thành trong lĩnh vực quản lý hộ tịch rất đa dạng,
diễn ra theo nhiều chiều giữa các chủ thể khác nhau như: quan hệ giữa cơ quan có
thẩm quyền quản lý chung với cơ quan quản lý chuyên ngành, giữa cơ quan quản lý
cấp trên với cơ quan quản lý cấp dưới, quan hệ giữa các cơ quan cùng cấp, quan hệ
giữa cơ quan quản lý hộ tịch với công dân. Trong đó nhóm quan hệ phát sinh trong
hoạt động đăng ký hộ tịch là nhóm quan hệ phổ biến và thể hiện nhiều yếu tố đặc thù.

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

12

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

Các quan hệ pháp luật về đăng ký hộ tịch là các quan hệ thủ tục phát sinh giữa
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với các cá nhân công dân, người
nước ngoài hoặc người không quốc tịch có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch. Các
quan hệ này được thiết lập trên cơ sở sáng kiến, đề nghị chủ động của cá nhân và nó
thường gắn liền với việc thực hiện một quyền dân sự hoặc xác lập một quan hệ hôn
nhân và gia đình.
Ví dụ: Việc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện thủ tục xác định lại dân tộc cho
một người là quan hệ hành chính nhằm thực hiện quyền dân sự của cá nhân đó; hoặc

việc Uỷ ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn là một quan hệ hành chính, gắn liền với
việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai cá nhân. Một số quan hệ đăng ký hộ tịch như
đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử được thiết lập không phải từ đề nghị của chính cá
nhân được khai sinh, kết hôn, khai tử mà từ những người có quyền và nghĩa vụ theo
quy định của pháp luật.
Quan hệ đăng ký hộ tịch không chỉ diễn ra giữa cơ quan có thẩm quyền đăng ký
hộ tịch với một cá nhân mà có thể diễn ra giữa cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch
với cùng lúc nhiều cá nhân có chung mục đích xác lập quan hệ hành chính đó.
Ví dụ: Trường hợp cơ quan đăng ký hộ tịch thực hiện việc đăng ký kết hôn,
đăng ký nuôi con nuôi.
1.6 Quá trình phát triển hoạt động quản lý hộ tịch ở nước ta
Quản lý nhà nước về hộ tịch là lĩnh vực thể hiện chức năng xã hội của Nhà
nước, là cơ sở để Nhà nước hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh quốc phòng; là một trong những phương thức để Nhà nước bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời góp phần bảo đảm trật tự an toàn
xã hội. Không những thế chế độ quản lý hộ tịch còn thể hiện nét đặc thù về truyền
thống, tập quán trong đời sống xã hội của dân tộc.
Dựa trên các thông tin lịch sử và một số tài liệu pháp lý khác, có thể thấy rằng
chế độ quản lý hộ tịch ở nước ta phát triển qua các giai đoạn như sau:
- Thời kỳ phong kiến;
- Thời kỳ Pháp thuộc ở miền Nam Việt Nam và chế độ cộng hòa miền Nam
Việt Nam trước năm 1975;
- Thời kỳ Việt Nam dân chủ cộng hòa và cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.6.1 Khái quát chế độ quản lý đinh thời kỳ phong kiến
Qua các tài liệu về quản lý hộ tịch ta có thể thấy quản lý hộ tịch trong thời kỳ
phong kiến vẫn còn rất đơn giản. Cụ thể, ở thời Nhà Lý chủ yếu là củng cố sức mạnh
về quân sự và thu thuế. Do đó, triều đình chỉ quản lý những dân đinh từ 18 tuổi trở lên
là nam. Sang Nhà Trần thì việc quản lý hộ tịch có sự phức tạp hơn là quản lý phân
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên


13

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

theo đơn vị xã hội, theo độ tuổi sức khỏe, theo tính chất cư trú. Song đến cuối Nhà
Trần thì việc thực hiện hoạt động này không được tốt như trước.
Đến thời Nhà Hồ, vào năm 1400, để có “trăm vạn quân chống giặc phương
Bắc”,12 Hồ Quý Ly đã tổ chức làm gộp hộ tịch trong cả nước, nhưng không theo phép
cũ mà mở rộng việc biên chép tất cả những người từ 2 tuổi trở lên, đồng thời, cho yết
thị khắp nơi buộc dân ngụ cư hoặc dân xiêu tán ở các nơi phải trở về nguyên quán,
người nào ở lậu thì bị phạt. Kết quả là số quân thêm ra được rất nhiều.
Qua đến thời Nhà Lê, sau khi chiến thắng giặc Minh, Lê Lợi hết sức quan tâm
đến việc chấn chỉnh hệ thống hành chính cơ sở. Mùa đông năm Thuận Thiên thứ nhất
(11-1428), Lê Thái Tổ xuống chỉ truyền cho các phủ, huyện, trấn, lộ làm sổ hộ tịch,
hạn đến tháng hai năm sau phải nộp đầy đủ. Cùng với việc kiểm soát đinh số, Lê Thái
Tổ còn tổ chức lại hệ thống hành chính cơ sở thành 3 loại theo số đinh gồm tiểu xã có
từ 10 đến 49 đinh, trung xã có từ 50 đến 99 đinh, đại xã có từ 100 đinh trở lên. Dưới
triều đại của mình, cứ ba năm một lần Lê Thái Tổ lại xuống chiếu gộp làm sổ hộ tịch.
Đến đời Lê Thánh Tông thì đặt lệ sáu năm gộp làm sổ hộ tịch một lần. Tuy nhiên, đến
năm Hồng Đức thứ nhất (1470) thì Lê Thánh Tông định lệ lại ba năm một lần làm hộ
tịch, gọi là tiểu điển, sáu năm một lần làm hộ tịch gọi là đại điển. Nằm trong chủ
trương cải cách bộ máy quản lý hành chính nên dưới triều Lê Thánh Tông, việc quản
lý đinh có những bước phát triển vượt bậc cả về yếu tố kỹ thuật và việc tổ chức thực
hiện.
Đánh giá về việc quản lý hộ tịch dưới đời Hồng Đức, sử gia Phan Huy Chú đã
nhận xét: “Phép làm hộ tịch ở buổi Lê sơ, từ đời Hồng Đức định lệ rõ ràng mới thật là
tươm tất. Ba năm một lần duyệt lại, kiểm xét không sót, cho nên dân đinh bấy giờ

không thể ẩn lậu được, mà công việc binh chính tài chính cứ chiếu sổ là biết được,
không mắc cái tệ quá nặng quá nhẹ, là vì đã biết rõ được số hộ khẩu rồi. Quy chế đã
thành nền nếp, trải các đời đều theo như thế, người trên cứ thế mà làm, không phiền
nhiễu gì, người dưới cũng yên tâm, không ngờ việc gì, số người tăng thêm hay hao đi,
không thể lọt ra ngoài sự soi xét, chẳng phải là phép hay ru”13.
Đến đời vua Lê Cung Hoàng, thời kỳ huy hoàng, thái bình của Nhà Lê chấm
dứt, Nhà Mạc chiếm ngôi đưa đến lịch sử gần sáu chục năm chiến tranh Nam triều –
Bắc triều (1527 - 1599), tiếp theo đó là thời kỳ ly loạn, giữa hai tập đoàn phong kiến
Trịnh - Nguyễn phân tranh (1600 - 1788). Lịch sử không ghi lại nhiều vấn đề quản lý
dân cư trong thời kỳ này, nhưng theo Phan Huy Chú thì trong thời kỳ Nam triều – Bắc
triều, nhà Mạc (Bắc triều) tiếp tục duy trì chế độ kiểm soát hộ tịch đã có từ thời Hồng
12
13

Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.2, tr.220.
Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.2, tr.222.

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

14

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

Đức. Vào thời kỳ Tây Sơn, sau khi đại phá quân Thanh, vua Tây Sơn Quang Trung
Nguyễn Huệ đã nung nấu mục đích mở rộng bờ cõi về phương Bắc. Để thực hiện mục
đích đó, việc xây dựng, củng cố tiềm lực quân sự để có một đạo quân hùng hậu14 là
nhiệm vụ trọng yếu được nhà vua quan tâm ngay sau khi lên ngôi hoàng đế. Để ngăn

ngừa tình trạng ẩn lậu dân đinh xảy ra rất phổ biến trước đó, triều đình đã thực hiện
việc chấn chỉnh tổ chức hành chính địa phương bằng việc đặt thêm một cấp trung gian
giữa xã và huyện, gọi là Tổng. Người đứng đầu Tổng là Tổng trưởng phải chịu trách
nhiệm liên đới với các xã trưởng trong quản hạt của Tổng mình về việc kê khai sổ
đinh.
Trong chế độ quân chủ chuyên chế cực đoan của Nhà Nguyễn, triều đình phong
kiến dùng mọi phương cách để tận dụng tối đa sức lực người dân phục vụ cho lợi ích
của giai cấp cầm quyền. Vấn đề kiểm soát dân đinh được thực hiện hết sức gắt gao
không chỉ nhằm mục đích thu thuế, bắt lính như các triều đại trước mà còn nhằm sử
dụng sức lực của dân đinh vào việc phu dịch, xây dựng lăng tẩm, đền đài, bảo vệ kho
tàng, tài vật của hoàng tộc. Sổ đinh được làm thành ba bản: giáp, ất, bính, ghi rõ họ,
tên, tuổi của tất cả các đinh khẩu từ 18 đến 59 tuổi. Thể thức làm sổ do Bộ Hộ thống
nhất quy định, các chức sắc kỳ mục, xã trưởng có nhiệm vụ ghi sổ đinh phải trực tiếp
ghi sổ, không được mượn người khác viết giúp.
Có thể nói, việc Nhà nước phong kiến Việt Nam không tổ chức quản lý hộ tịch
là do thời kỳ này vẫn còn tồn tại chế độ tự trị rộng rãi của làng xã. Ta có thể hiểu khái
quát chế độ này như sau, trong mỗi làng xã đều có bộ máy hành chính riêng, nó được
coi là “Tiểu Triều đình”, có tài sản riêng và có quyền tự do trong việc quản lý, sử
dụng tài sản đó mà không bị ràng buộc, kiểm soát của cấp trên, có lực lượng giữ gìn an
ninh riêng. Mỗi làng xã đều có pháp đình riêng để giải quyết, xét xử các tranh chấp
nhỏ xảy ra giữa dân cư trong xã. Về phương diện tế tự, tín ngưỡng, mỗi làng xã đều có
đền thờ thần hoàng và đặc biệt lệ làng được xem là có giá trị nhất dùng để điều chỉnh
đời sống xã hội trong xã. Lệ làng có sức mạnh to lớn trong việc chi phối và điều chỉnh
hành vi của người dân, thường có câu “Phép vua thua lệ làng” cũng xuất phát từ đây.
Chính vì thế mà pháp luật trong thời này không có giá trị cao, mối liên hệ giữa triều
đình và làng xã chỉ thu hẹp trong nghĩa vụ nộp thuế và mộ lính. Ngoài phạm vi này,
quyền lực của vua không thể can thiệp trực tiếp đến hoạt động điều hành, quản trị đời
sống xã hội của làng xã. Đó là lý do khiến công tác quản lý hộ tịch không được không
được chú trọng. Tuy nhiên, hình thức quản lý này vẫn có nét tương đồng như quy định
hộ tịch hiện nay nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình đó là gia phả. Ta có thể

khái quát như sau:
14

Vũ Văn Mẫu, Lê Đình Chân: Danh từ và tài liệu dân luật và hiến luật, Tủ sách Đại học Sài Gòn, 1968, tr.154.

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

15

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

Một là, gia đình được tổ chức theo mô hình đại gia đình, bao gồm nhiều thế hệ
từ các bậc tôn như cụ, ông, bà, chú, bác, đến hạng ty thuộc con, cháu, chắt. Cách tổ
chức này có sự liên hệ rất chặt chẽ với nền tảng của chế độ phong kiến.
Hai là, đứng đầu và điều hành gia đình theo một nguyên tắc rất nghiêm ngặt đó
là gia trưởng. Việc tuân thủ theo người đứng đầu gia tộc không chỉ là vấn đề đạo đức
mà còn được bảo vệ bởi luật phong kiến.
Gia phả là một khái niệm chung để chỉ một quyển ghi chép đầy đủ, thứ tự, liên
tục từ đời này sang đời khác và những điều cần thiết liên quan đến cá nhân trong gia
tộc qua các đời. Thông tin cá nhân trong gia phả có thể coi là một bản lý lịch rút gọn
với đầy đủ các đặc điểm nhân thân và sự nghiệp của cá nhân đó, bao gồm: tên; thứ
hạng trong gia đình; thân thế sự nghiệp, công danh; năm sinh năm mất, ngày giỗ, nơi
để phần mộ; nguyên quán, nơi cư trú khi còn sống; tên vợ (chồng), con cái; đặc điểm
về cách ăn ở, đối nhân xử thế. Bên cạnh đó, việc ghi chép gia phả còn được thực hiện
một cách nghiêm ngặt, chỉ có có gia trưởng mới được phép ghi gia phả; các thông tin
trong gia phả phải chính xác, rõ ràng, trong đó đặc biệt là việc phân thứ bậc là điểm
quan trọng nhất; giấy viết cũng phải là loại giấy sắc truyền thống; chữ viết phải viết

theo lối đằng tả, ngang bằng, đều đặn, văn sách chép phả phải chặt chẽ, khúc triết,
minh bạch; việc lưu gia phả được thực hiện rất cẩn trọng, thường được đóng thành một
chiếc sơn son thiếp vàng và đặt cẩn thận, trang trọng ở nơi thờ phụng.
Qua đây cho thấy, gia phả và hoạt động quản lý hộ tịch có rất nhiều điểm tương
đồng, thậm chí còn cẩn thận và đầy đủ hơn quản lý hộ tịch hiện nay. Mặc dù, gia phả
không có tính chất công khai nhưng ở những khía cạnh nhất định có thể thấy pháp luật
phong kiến có sự thừa nhận giá trị của gia phả trong việc chứng minh các quan hệ thân
tộc của con người.
Nghiên cứu và xâu chuỗi ba yếu tố: chế độ quản lý đinh của nhà nước phong
kiến, các quy định của lệ làng và việc lập gia phả của người dân có thể khẳng định
trong thời kỳ phong kiến không hình thành chế độ quản lý hộ tịch với tính chất là một
hoạt động hành chính của nhà nước. Tuy nhiên, nếu như hoạt động quản lý đinh xuất
phát từ nhu cầu kiểm soát người dân thực hiện nghĩa vụ với nhà nước thì đối với người
dân việc lập phả ghi lại các sự kiện sinh, tử, giá thú cũng như các đặc điểm nhân thân
khác của mỗi cá nhân lại là nhu cầu hết sức quan trọng và thiết thân từ chính đời sống
cộng đồng làng xã. Từ nhu cầu ấy, việc lập gia phả cũng như các quy định của lệ làng
để quản lý việc sinh, tử, giá thú của người dân đã mang lại lợi ích to lớn vượt ra khỏi
khuôn khổ vốn có của chúng, đó là sự hỗ trợ cho hoạt động quản lý dân cư của nhà
nước. Chính mối quan hệ hỗ trợ liên hoàn giữa gia phả - lệ làng - phép nước trong hoạt
động quản lý dân cư đã cho thấy bản chất mối quan hệ mật thiết giữa pháp luật với
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

16

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

phong tục, tập quán, giữa pháp luật với đạo đức của pháp luật Việt Nam thời kỳ phong

kiến.
1.6.2 Chế độ quản lý hộ tịch thời kỳ pháp thuộc và ở miền nam Việt Nam trước
năm 1975
Sau sự kiện buộc triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước ngày 25.8.1883, thực dân
Pháp thiết lập chế độ thuộc địa ở miền Nam Việt Nam và chế độ bảo hộ ở miền Bắc và
miền Trung. Để thi hành chính sách thuộc địa và nhằm biến nước ta thành một phần
lãnh thổ hải ngoại của nước Pháp, một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của
Chính phủ bảo hộ là kiểm soát chặt chẽ dân cư. Cùng với việc thay thế toàn bộ hệ
thống pháp luật của triều Nguyễn, thực dân Pháp đã áp dụng ở Nam Kỳ chế độ quản lý
hộ tịch theo nước Pháp. Chỉ hơn một tháng sau khi hiệp ước nhượng địa được ký kết,
chính quyền thuộc địa đã ban hành Sắc lệnh ngày 03.10.1883 quy định về việc lập sổ
hộ tịch cho người Việt Nam. Sắc lệnh này được coi là nền tảng thiết lập chế độ quản lý
hộ tịch ở Việt Nam - thực chất là sự du nhập mô hình quản lý hộ tịch của dân luật
Pháp. Bởi vậy, Sắc lệnh ngày 03.10.1883 còn được gọi tên là Bộ Dân luật giản yếu.
Sắc lệnh này được duy trì trong một thời gian dài, chỉ được sửa đổi hai lần bởi Sắc
lệnh ngày 10.02.1893 và Sắc lệnh ngày 23.7.1931.
Ở miền Bắc và miền Trung, sau khi thực dân Pháp thiết lập chế độ bảo hộ đối
với triều đình phong kiến bù nhìn - tay sai thì việc quản lý hộ tịch cũng được triển
khai. Tại miền Bắc, việc quản lý hộ tịch được thực hiện theo quy định từ Điều 18 đến
Điều 48 Bộ Dân luật Bắc Kỳ ngày 30.3.1931. Tại miền Trung, việc quản lý hộ tịch
được thực hiện theo quy định từ Điều 18 đến Điều 50 Bộ Hoàng Việt Trung Hộ Luật
do triều đình Nhà Nguyễn ban hành ngày 13.7.1936.
Đặc điểm nổi bậc của quản lý hộ tịch thời kỳ thuộc Pháp là do ảnh hưởng sâu
sắc bởi hệ thống pháp luật Pháp nên các vấn đề về hộ tịch luôn được coi là một chế
định cơ bản của dân luật. Chế độ quản lý hộ tịch được thiết lập ở miền Nam sớm hơn ở
miền Bắc và miền Trung hàng chục năm và được thực hiện hết sức chặt chẽ nhằm
phục vụ cho mục đích củng cố chính quyền thuộc địa. Nội dung quản lý chỉ bao gồm
ba loại hộ tịch cơ bản: sinh, tử, giá thú. Phương thức quản lý bằng sổ bộ hộ tịch và
chứng thư hộ tịch được thực hiện rất nghiêm ngặt, nhằm bảo đảm mục đích ưu tiên
hàng đầu là tính chính xác của các thông tin về hộ tịch. Hiệu quả quản lý hộ tịch được

bảo đảm bằng việc quy định trách nhiệm pháp lý của Hộ lại hết sức nặng nề.15
Quản lý hộ tịch được chính quyền thuộc địa sử dụng như một công cụ quan
trọng để “kiểm soát an ninh xã hội”. Đây là mục đích hàng đầu của hoạt động quản lý
hộ tịch ở miền Nam Việt Nam thời kỳ thuộc Pháp. Chính bởi mục đích này, sau khi
15

Phạm Trọng Cường: Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch, NXB Tư pháp,2007, tr.56 - tr.57

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

17

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

Pháp rút khỏi miền Nam, đế quốc Mỹ thế chân dựng lên thể chế bù nhìn thì chế độ
quản lý hộ tịch cũ vẫn được Chính phủ ngụy quyền Sài Gòn duy trì và sử dụng. Dưới
chế độ thực dân mới, chính quyền ngụy ban hành số lượng rất lớn văn bản pháp luật
quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến hộ tịch. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ
riêng trong hai năm 1964 - 1965, Tổng trưởng Tư pháp của Chính phủ ngụy quyền Sài
Gòn đã ban hành 16 thông tư hướng dẫn các vấn đề về hộ tịch.
Ví dụ: Thông tư số 486-B/BNV/HC/12 ngày 02.01.1964 về việc lập khai sanh
cho các trẻ em nông thôn chưa khai sanh hợp lệ; Thông tư số 1822/BTP/HOV ngày
19.02.1965 về việc ghi chú án văn ly thân, ly dị do Tòa Lãnh sự Pháp thỉnh cầu;
Thông tư số 11.079-BTP/HOV ngày 07.10.1965 của Bộ Tư pháp chế độ ngụy quyền
Sài Gòn về việc cấp chứng chỉ sổ bộ bị thất lạc hay tiêu hủy.16
1.6.3 Chế độ quản lý hộ tịch của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ lâm thời của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã rất quan tâm
đến việc xây dựng nền hành chính. Trong hoàn cảnh sự nghiệp cách mạng đang phải
đối phó với trăm mối lo thù trong, giặc ngoài, chưa thể tập trung xây dựng bộ máy nhà
nước và hệ thống pháp luật thống nhất, Chính phủ lâm thời đã rất linh hoạt trong việc
áp dụng giải pháp tình thế để quản lý đất nước. Ngày 10.10.1945, sau khi thảo luận
thống nhất trong Hội đồng Chính phủ tại phiên họp ngày 04.10.1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh - với tư cách Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký ban
hành Sắc lệnh cho phép tạm thời duy trì hiệu lực các luật lệ của chế độ cũ theo nguyên
tắc các luật lệ này chỉ có giá trị thi hành nếu “không trái với nền độc lập của nước Việt
Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”.17 Theo đó, thể lệ đăng kí hộ tịch đã được quy
định trong Bộ Dân luật giản yếu (áp dụng ở Nam Kỳ), Hoàng Việt hộ luật (áp dụng ở
Trung Kỳ), Dân luật Bắc Kỳ (áp dụng ở miền Bắc) vẫn tiếp tục được thi hành trong
suốt thời gian hơn 10 năm sau đó.
Sự điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch của Nhà nước ta được đánh dấu
bằng bản Điều lệ đăng ký hộ tịch đầu tiên được ban hành kèm theo Nghị định số
764/TTg ngày 08.5.1956 của Thủ tướng Chính phủ. Bản Điều lệ này gồm 34 điều quy
định các vấn đề cơ bản về việc đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, đăng ký khai tử,
việc sửa chữa và ghi chú các thay đổi về hộ tịch, việc công nhận và đăng ký hộ tịch đối
với ngoại kiều và Việt kiều về cư trú ở trong nước. Các quy định của bản Điều lệ đăng
ký hộ tịch này đã thay thế toàn bộ các thể lệ đăng ký hộ tịch của chế độ cũ vẫn được áp
16

Phạm Mạnh Doanh: Đây… Tòa án, Hộ tịch cẩm nang, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn, (sách không ghi năm xuất
bản).
17
Điều 12 Sắc lệnh ngày 10.10.1945 của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa.

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên


18

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

dụng trước đó. Việc quản lý nhà nước về hộ tịch trong thời kỳ này do Bộ Nội vụ và Ủy
ban hành chính18 các cấp thực hiện.
Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1956 thi hành được năm năm thì bị bãi bỏ và
thay thế bằng bản Điều lệ mới ban hành ngày 16/01/1961 kèm theo Nghị định số
04/CP của Hội đồng Chính phủ. Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch này được áp dụng thi
hành từ ngày 01.4.1961 và hiệu lực của nó duy trì trong suốt gần 40 năm sau, cho đến
khi bị bãi bỏ bởi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về
đăng ký hộ tịch.
Khi tổ chức thi hành quản lý, đăng ký hộ tịch theo Nghị định số 04/CP, Bộ Nội
19

vụ (nay là Bộ Công an) vẫn là cơ quan được Hội đồng Chính phủ giao nhiệm vụ
thống nhất chỉ đạo, tổ chức quản lý hộ tịch đối với Ủy ban hành chính các cấp. Như
vậy, trong thời kỳ này, Bộ Nội vụ là cơ quan thống nhất quản lý cả công tác hộ tịch và
hộ khẩu.
Từ năm 1987, nhiệm vụ quản lý nhà nước về hộ tịch được chuyển giao từ Bộ
Nội vụ sang Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân các cấp trên cơ sở Nghị định số
219/HĐBT ngày 20/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng. Từ thời điểm này, Bộ Tư pháp
được giao nhiệm vụ chỉ đạo, tổ chức quản lý hộ tịch thống nhất trên cả nước, còn
ngành Nội vụ (nay là ngành Công an) tiếp tục duy trì chức năng quản lý hộ khẩu.
Ngày 30/11/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 184/CP quy định thủ tục
đăng ký kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài. Nghị định này được ban hành nhằm hướng dẫn thi

hành Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài,
nhưng thực chất đối tượng điều chỉnh của Nghị định chính là việc đăng ký hộ tịch có
yếu tố nước ngoài.
Ngày 10/10/1998, Chính phủ ban hành Nghị định 83/1998/NĐ-CP về đăng ký
hộ tịch. Nghị định này đã chấm dứt thời kỳ gần 40 năm tồn tại của Điều lệ đăng ký hộ
tịch được ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961.
Có thể nói, sự ra đời của Nghị định 83/1998/NĐ-CP là một dấu mốc quan trọng
trong sự phát triển của công tác quản lý hộ tịch ở nước ta. Trên cơ sở văn bản pháp
luật có vai trò là “nguồn chủ đạo” của pháp luật về quản lý hộ tịch này, công tác quản
lý nhà nước về hộ tịch đã thực sự chuyển biến một cách rõ rệt, và thể hiện nhiều sắc
thái đổi mới tích cực. Tiếp sau đó, ngày 10/7/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định
mới thay thế Nghị định số 184/CP là Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về
18

Theo Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp 1992 gọi là Ủy ban nhân dân các cấp.
Trong quá trình lịch sử nước ta từ năm 1945 đến nay tên gọi, chức năng, nhiệm vụ của Bộ Nội vụ có những
thay đổi nhất định.
19

GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

19

SVTH: Võ Chúc Phương


Đề tài: Quản lý nhà nước về hộ tịch – thực tiễn tại huyện Hòa Bình thuộc tỉnh Bạc Liêu

quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Mặc dù có tên gọi là Nghị định

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nhưng thực
chất Nghị định số 68/2002/NĐ-CP chứa đựng phần lớn các quy phạm pháp luật làm
căn cứ để giải quyết các việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài, bao gồm:
- Việc đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi, đăng ký nhận cha, mẹ, con giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài thường trú tại
Việt Nam với nhau;
- Công nhận việc kết hôn, ly hôn, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi giữa công
dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được tiến hành tại cơ quan
có thẩm quyền của nước ngoài.
Điều đáng nói là hai văn bản chủ đạo về công tác hộ tịch nêu trên, với phạm vi
điều chỉnh và tác động xã hội rộng lớn của mình đã tạo nên những chuyển biến quan
trọng trong nền nếp và hiệu quả quản lý hộ tịch trên cả nước. Nhìn từ khía cạnh quản
lý vĩ mô, có thể thấy rõ tính năng động trong công tác ban hành chính sách, pháp luật
về quản lý hộ tịch thể hiện ngay ở chỗ các quy định trong hai văn bản pháp luật này
thường xuyên được đánh giá, kiểm nghiệm về tính khả thi trong thực tiễn và được cơ
quan chức năng tích cực nghiên cứu sửa đổi, bổ sung kịp thời theo định hướng phục vụ
nhân dân và quyết tâm cao về cải cách thủ tục hành chính. Biểu hiện rõ nhất của điều
này là mới đây, sau bảy năm thi hành Nghị định 83/1998/NĐ-CP, ngày 27/12/2005
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch
thay thế văn bản này, Nghị định này cũng được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
06/2012/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của các
Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực; đồng thời, Nghị định số
68/2002/NĐ-CP cũng được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày
21/7/2006. Hai Nghị định được này được thay thế bởi Nghị định số 24/2013/NĐ-CP
ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn
nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Nhìn lại quá trình 70 năm phát triển của công tác quản lý hộ tịch ở nước ta có
thể thấy, trong suốt thời gian hơn 30 năm (từ khi ban hành Điều lệ hộ tịch năm 1961
đến khi ban hành Nghị định số 184/CP năm 1994) do nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh
lịch sử cụ thể nên việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hộ tịch gần như không có sự

chuyển biến đáng kể đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đời sống xã hội. Có thể nói
trong giai đoạn này, hoạt động xây dựng thể chế về quản lý hộ tịch gần như đóng
băng. Hệ quả trực tiếp của tình trạng này là sự bất cập của hoạt động quản lý hộ tịch
suốt nhiều năm trước đây. Tuy nhiên, từ sau khi nhiệm vụ quản lý hộ tịch được chuyển
giao từ Ngành Công an sang Ngành Tư pháp và hệ thống Ủy ban nhân dân các cấp
GVHD: Ths. Diệp Thành Nguyên

20

SVTH: Võ Chúc Phương


×