Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

quản lý nhà nước về hộ tịch thực tiễn trên địa bàn xã phú hưng, huyện phú tân, tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.67 MB, 78 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
--  --

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA: 2011 – 2014
ĐỀ TÀI:

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH - THỰC TIỄN
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ PHÚ HƢNG, HUYỆN PHÚ TÂN,
TỈNH AN GIANG

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Ths. Võ Duy Nam

Trần Thị Điều

Bộ môn: Luật Hành chính

Mssv: B110109
Lớp: Luật hành chính 2 – K37

Cần Thơ, Tháng 4/2014



LỜI CẢM ƠN



Để hoàn thành luận văn này người viết đã nhận được sự hỗ trợ, động viên
cùng với sự tạo điều kiện tốt nhất từ phía chính quyền địa phương, nhà trường, thầy
cô, gia đình, bạn bè.
Xin gửi lời cám ơn đến chị Hân đang công tác tại Phòng Tư pháp huyện Phú
Tân, và các anh Hiện, anh Hậu, anh Ảng, chị Đỗ Quyên, chị Linh đang công tác tại Ủy
ban nhân dân các xã, thị trấn trên địa bàn huyện, thời gian qua được sự giúp đỡ nhiệt
tình của các anh chị tôi đã có số liệu cùng tình hình hộ tịch để hoàn thành đề tài luận
văn tốt nghiệp.
Xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong khoa Luật trường Đại
học Cần Thơ, cô thủ thư, cô Xuân cố vấn học tập đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc
hoàn thành hồ sơ, thủ tục và cung cấp sách, báo, tạp chí phục vụ làm luận văn.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến thạc sĩ Võ Duy Nam, giảng viên
khoa Luật – người thầy đã tận tâm truyền đạt kinh nghiệm, kiến thức hướng dẫn tôi,
không quản khó khăn dìu dắt tôi suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Lời cuối cùng, tôi xin cảm ơn Cha, Mẹ, gia đình và bạn bè đã luôn động
viên, lo lắng và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học.
Xin chân thành cảm ơn!
Cần thơ, ngày …….tháng ……..năm 2014

Trần Thị Điều


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN

..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................

..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
Cần Thơ, ngày ……...tháng ……..năm 2014


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục tiêu của đề tài ................................................................................................... 2
3. Đối tƣợng nghiên cứu .............................................................................................. 2
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 2
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................ 3
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................................... 3
CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH ............................... 4

1.1. Khái niệm hộ tịch .................................................................................................. 4
1.2. Đặc điểm của hộ tịch ............................................................................................. 5
1.3. Quản lý Nhà nƣớc về hộ tịch................................................................................ 5
1.3.1. Khái niệm quản lý Nhà nước về hộ tịch ........................................................... 5
1.3.2. Nguyên tắc quản lý Nhà nước về hộ tịch ......................................................... 7
1.3.3. Công tác quản lý Nhà nước về hộ tịch ........................................................... 10
1.3.4. Ý nghĩa của quản lý Nhà nước về hộ tịch ...................................................... 11
1.5. Lƣợc sử quản lý về hộ tịch ở nƣớc ta ................................................................ 11
CHƢƠNG 2 NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUẢN
LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH – THỰC TIỄN TẠI XÃ PHÚ HƢNG, HUYỆN
PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG ...................................................................................... 15
2.1. Cơ sở pháp lý trong quản lý Nhà nƣớc về hộ tịch ........................................... 15
2.2. Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền quản lý và đăng ký hộ tịch .......... 17
2.2.1. Ở trung ương ................................................................................................. 17
2.2.2. Ở địa phương ................................................................................................. 19
2.3. Thực tiễn quản lý Nhà nƣớc về hộ tịch tại xã Phú Hƣng, huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang ............................................................................................................. 22
2.3.1. Thủ tục đăng ký hộ tịch thuộc thẩm quyền đăng ký của Ủy ban nhân dân xã
Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang .............................................................. 22
2.3.2. Tình hình đăng ký hộ tịch trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, Tỉnh
An Giang .................................................................................................................. 32
CHƢƠNG 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH ................................................ 38
3.1. Đánh giá chung công tác quản lý Nhà nƣớc về hộ tịch hiện nay .................... 38
3.1.1. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về hộ tịch ở nước ta hiện nay .......... 38
3.1.2. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về hộ tịch ở xã Phú Hưng, huyện Phú
Tân, tỉnh An Giang ................................................................................................... 40
3.2. Yêu cầu quản lý Nhà nƣớc về hộ tịch trong giai đoạn tới ............................... 44



3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nƣớc về hộ tịch trên địa bàn xã
Phú Hƣng, huyện Phú Tân thuộc tỉnh An Giang ................................................... 45
3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật ....................................................................... 45
3.3.2. Kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch ............ 47
3.3.3. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, đăng ký hộ tịch .... 48
3.3.4. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật tại cơ sở ... 49
3.3.5. Kết hợp chặt chẽ giữa cải cách hành chính và đăng ký hộ tịch .................... 49
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 51


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Tuyên bố Montevideo1 cộng đồng dân cư ổn định2 là một trong những yếu
tố cơ bản hình thành nên quốc gia. Từ khi quốc gia xuất hiện thì chế độ quản lý dân
cư, trong đó một bộ phận quan trọng là quản lý về hộ tịch cũng trở thành vấn đề sống
còn.
Nếu hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước được xem là bộ mặt
của quốc gia thì hiệu quả của hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch là một trong những
thước đo đánh giá trình độ phát triển của quốc gia đó, không những thế nó còn góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, góp phần tích cực cho
việc xây dựng phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch không những liên quan đến quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân nói chung, quyền nhân thân nói riêng, mà còn liên quan đến cơ
cấu dân số, lao động, chế độ chính trị, chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng,
an ninh của một quốc gia. Thông qua quản lý hộ tịch quốc gia quản lý tốt con người,
nắm vững những vấn đề xã hội phát sinh liên quan đến con người một cách nhạy bén
nhất từ đó có khả năng hoạch định mục tiêu phát triển phù hợp đặc điểm của đất nước,
đưa đất nước ngày càng đi lên.

Nhận thức đúng vai trò của quản lý hộ tịch, Nhà nước ta đã từng bước xây dựng
hệ thống pháp luật, tổ chức bộ máy Nhà nước cùng với đội ngũ nhân lực quản lý hộ tịch
từ trung ương đến cơ sở đáp ứng yêu cầu quản lý về hộ tịch một cách hiệu quả và không
ngừng hoàn thiện. Trong những năm qua công tác quản lý hộ tịch có nhiều chuyển biến
tích cực, các sự kiện đăng ký hộ tịch của nhân dân cơ bản được thực hiện kịp thời và
đúng quy định của pháp luật, công tác phổ biến giáo dục pháp luật về hộ tịch được chú
trọng triển khai đến tận cơ sở. Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về hộ tịch của
nhân dân được nâng lên, đội ngũ cán bộ làm công tác hộ tịch cơ sở được quan tâm, củng
cố về số lượng và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ, các loại sổ sách, biểu mẫu hộ tịch được
hỗ trợ và cung cấp kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước. Tuy nhiên trên thực tế
hiện nay, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch vẫn còn một số tồn tại, bất cập chưa đáp
ứng được yêu cầu quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch, tình trạng dễ dãi trong cấp

1

Tuyên bố Montevideo về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia được thông qua tại Hội nghị quốc tế các nước châu
Mỹ ngày 27 tháng 12 năm 1933
2
Điều 1 Tuyên bố Montevideo: Theo nghĩa rộng, dân cư của một quốc gia là tất cả những người sinh sống trên
lãnh thổ một quốc gia nhất định và tuân theo pháp luật của Nhà nước đó. Theo nghĩa hẹp, dân cư dùng để chỉ tất cả
những người có quốc tịch của quốc gia đó.Mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữa Nhà nước với cộng đồng dân cư
của quốc gia chủ yếu thông qua chế định quốc tịch.
GVHD: Ths. Võ Duy Nam

1

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang


giấy tờ hộ tịch dẫn đến một người có nhiều bản chính giấy khai sinh với các thông tin
khác nhau, các cơ quan chưa xác định đúng giá trị pháp lý của giấy tờ hộ tịch, còn gây
nhiều khó khăn cho công dân, công tác lưu trữ còn thủ công, dễ gây thất thoát, hư hỏng,
thông tin hộ tịch của cá nhân mà giao cho nhiều chủ thể hành chính quản lý và thực hiện
đăng ký, lưu trữ lại không đảm bảo sự thống nhất quản lý và phối hợp nhịp nhàng giữa
các cơ quan có thẩm quyền đăng ký và quản lý hộ tịch khi truy xuất thông tin hộ tịch
của cá nhân dẫn đến việc truy xuất thông tin hộ tịch của cá nhân còn nhiều khó khăn.
Quản lý hộ tịch là vấn đề không mới nhưng luôn mang tính cấp thiết do điều kiện
thế giới khách quan luôn vận động, hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội thay đổi kéo
những đặc điểm dân cư phức tạp cũng luôn biến đổi không ngừng, từ đó đặt ra yêu cầu
thích ứng một cách linh hoạt cho hoạt động quản lý hộ tịch.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài nghiên cứu đưa ra một số vấn đề lý luận về quản lý hành chính Nhà nước
về hộ tịch, đồng thời nêu lên thực tiễn quản lý hộ tịch tại địa bàn xã Phú Hưng, huyện
Phú Tân thuộc tỉnh An Giang, qua đó thấy được những mặt tích cực cũng như những tồn
tại, hạn chế trong việc áp dụng quy định của pháp luật về hộ tịch vào thực tiễn. Đồng
thời đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý trên địa bàn huyện Phú Tân nói
riêng và hiệu quả quản lý hộ tịch nói chung.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là cơ chế quản lý hộ tịch của Nhà nước
ta, những quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình quản lý về hộ
tịch, được áp dụng trên thực tiễn tại địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang.
4. Phạm vi nghiên cứu
Người viết tập trung nghiên cứu về chế độ pháp lý trong quản lý hành chính Nhà
nước đối với “hộ tịch” được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000, Luật nuôi con nuôi năm 2010 và các văn bản dưới luật như: Nghị
định số 158/2005/NĐ-CP ban hành ngày 27 tháng 12 năm 2005 quy định về đăng ký và
quản lý hộ tịch, Nghị định 88/2008/NĐ-CP ngày 05 tháng 8 năm 2008 về xác định lại

giới tính, Nghị định 06/2012/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2012 sửa đổi bổ sung một
số điều về hộ tịch, hôn nhân và gia đình, chứng thực… cùng các tài liệu có liên quan
khác. Thông qua đó tìm hiểu cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý về quản lý hộ tịch và thực
tiễn áp dụng các quy định này trên địa bàn huyện Phú Tân thuộc tỉnh An Giang, những
nguyên nhân dẫn đến bất cập và tìm kiếm những giải pháp khắc phục những bất cập đó
trong công tác quản lý đối với hộ tịch.
GVHD: Ths. Võ Duy Nam

2

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu người viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:
- Phương pháp phân tích luật viết các quy định của pháp luật;
- Phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu: sách, báo, giáo trình, các trang
thông tin điện tử;
- Phương pháp thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài;
- Phương pháp so sánh đối chiếu những quy định của pháp luật và thực tiễn phát
sinh trên thực tế việc quản lý Nhà nước đối với hộ tịch.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận văn được trình bày gồm 3 chương:
Chương 1. Lý luận về quản lý Nhà nước về hộ tịch
Chương 2. Những quy định của pháp luật hiện hành về quản lý hộ tịch, thực tiễn
tại xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp hoàn thieenjcoong tác quản lý nhà
nước về hộ tịch

GVHD: Ths. Võ Duy Nam

3

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ HỘ TỊCH
1.1. Khái niệm hộ tịch
Thuật ngữ “hộ tịch” là một từ Hán Việt, cấu thành từ “hộ” có nghĩa là “dân sự”
hoặc “nhà ở” và từ “tịch” nghĩa là “sổ sách”, “sổ đăng ký quan hệ lệ thuộc”3.
Các từ điển Hán - Việt hiện nay cũng chú giải nhiều nghĩa khác nhau của từ hộ
tịch, thậm chí có sự nhầm lẫn giữa hai khái niệm hộ tịch và hộ khẩu nhưng nhìn chung
có hai cách hiểu thông dụng: Cách hiểu thứ nhất, hộ tịch được xem là một quyển sổ của
cơ quan quản lý dùng để ghi chép các vấn đề liên quan đến nhân thân như: số người, họ
tên, tuổi, quê quán, nghề nghiệp của từng người trong một đơn vị hành chính mình quản
lý. Tác giả Đào Duy Anh cho rằng: “Hộ tịch: Quyển sổ của Chính phủ biên chép số
người, chức nghiệp và tịch quán của từng người”. Tác giả Nguyễn Văn Khôn lại nhận
định “Hộ tịch: Sổ biên dân số có ghi rõ họ tên, quê quán và chức nghiệp của từng
người”. Cách hiểu thứ hai, hộ tịch chính là chỉ đến chính các sự kiện trong đời sống
từng người, hoặc từng hộ: họ tên, tuổi, quê quán, nghề nghiệp, kết hôn, nuôi con
nuôi,…thuộc sự quản lý của pháp luật. Theo tác giả Nguyễn Như Ý thì “Hộ tịch: Các sự
kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý của pháp luật” . Tác giả Nguyễn

Văn Đạm nhận định “Hộ tịch: quyền cư trú, được chính quyền công nhận của một người
tại nơi mình ở thường xuyên, của những người thường trú thuộc cùng một hộ, do chính
quyền cấp cho từng hộ để xuất trình khi cần”.
Theo định nghĩa về “hộ tịch” trong các Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 10-10-1998 về đăng ký hộ tịch và Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch (sau đây gọi tắt là Nghị định
158/2005/NĐ-CP) như sau: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân
thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”, như vậy “hộ tịch” về cơ bản chỉ có thể
xem là “sự kiện hộ tịch” chứ chưa định nghĩa chính xác thuật ngữ pháp lý “hộ tịch”. Bên
cạnh khái niệm hộ tịch chưa rõ ràng thì Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005
còn bổ khuyết thêm khái niệm “đăng ký hộ tịch” như sau:
“Đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này là việc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền:

3

Viện nghiên cứu lập pháp, chuyên đề: Một số vấn đề lý luận và so sánh pháp luật về hộ tịch

GVHD: Ths. Võ Duy Nam

4

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

- Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ,
con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác định lại
dân tộc.

- Căn cứ vào quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ hộ tịch
các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn trái pháp
luật; chấm dứt nuôi con nuôi.”
Tuy nhiên, trong khái niệm “đăng ký hộ tịch”, chữ “tịch” đã có giá trị biểu đạt
tương đương với “đăng ký”, điều này tạo nên sự trùng lặp về ý nghĩa khi giải thích khái
niệm (tương tự như cụm từ: núi Thoại Sơn,...). Từ đó, khái niệm “hộ tịch’ được xem
như một cụm từ chuyên môn trong khoa học pháp lý4.
1.2. Đặc điểm của hộ tịch
Hoạt động quản lý hộ tịch liên quan đến quản lý con người, nó nói đến các đặc
điểm nhân thân hay còn gọi là căn cước của mỗi người. Mỗi người có đặc điểm căn
cước hết sức phong phú, là đối tượng quản lý của nhiều hoạt động quản lý khác nhau:
quản lý hộ khẩu, quản lý tư pháp, quản lý chứng minh nhân dân,… Do đó, cần xác định
rõ đặc điểm của hộ tịch nhằm xác định chính xác nội dung quản lý hộ tịch.
Căn cước của mỗi người bao gồm các thông tin nhân thân phân biệt người này
với người khác như: họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch
nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú, các mối quan hệ xã hội, gia đình, tiền án, tiền sự,…Hộ
tịch có các đặc tính sau: ổn định khó thay đổi, có khả năng công khai và phổ biến thông
tin. Ví dụ các thông tin hộ tịch như: họ tên, ngày, tháng, năm sinh, tên cha, mẹ, dân tộc,
quốc tịch,…
1.3. Quản lý Nhà nƣớc về hộ tịch
1.3.1. Khái niệm quản lý Nhà nước về hộ tịch
Như chúng ta đã biết quản lý hộ tịch là một trong những bộ phận của quản lý Nhà
nước. Quản lý Nhà nước là sự tác động, tổ chức, điều chỉnh mang tính quyền lực Nhà
nước, bằng phương tiện, công cụ, cách thức tác động của Nhà nước đối với các lĩnh vực
của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội theo đường lối, quan điểm của Đảng cầm quyền. Quản lý Nhà nước được hiểu theo
cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của bộ máy
Nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực Nhà nước trên các
phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu này, quản lý Nhà nước

4

Viện nghiên cứu lập pháp, chuyên đề: Một số vấn đề lý luận và so sánh pháp luật về hộ tịch

GVHD: Ths. Võ Duy Nam

5

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

được thực hiện thông qua hoạt động của cả ba hệ thống cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức điều hành của hệ
thống cơ quan hành chính Nhà nước đối với các quá trình hoạt động và hành vi hoạt
động của con người theo pháp luật, nhằm đạt được những mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ
quản lý Nhà nước. Đồng thời, các cơ quan Nhà nước nói chung cùng thực hiện các hoạt
động có tính chấp hành, điều hành, tính chất hành chính Nhà nước nhằm xây dựng, tổ
chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình. Chẳng hạn, ra quyết định
thành lập, chia tách, xáp nhập các đơn vị, tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen
thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức; ban hành quy chế làm việc nội bộ,…Những hoạt
động trên cũng là hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. Từ đó có thể hiểu quản lý
Nhà nước theo nghĩa hẹp cũng chính là hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Quản lý hành chính Nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan
hành chính Nhà nước, của cơ quan Nhà nước khác và các tổ chức được Nhà nước ủy
nhiệm quản lý trên cơ sở của luật và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng tổ chức,
quản lý, điều hành các quá trình xã hội của Nhà nước. Quản lý hành chính Nhà nước
trước hết thực hiện bởi cơ quan hành chính Nhà nước và diễn ra trong lĩnh vực hành

pháp và ít nhất một bên tham gia có thẩm quyền hành chính Nhà nước.
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật (Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000, Luật nuôi con nuôi năm 2010 và các Nghị định,…) cũng như
sách báo pháp lý thì thuật ngữ “pháp luật về hộ tịch” chỉ mang tính ước định và tùy từng
trường hợp cụ thể mà nó được xác định theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, pháp luật về hộ tịch bao gồm toàn bộ hệ thống quy phạm các
vấn đề về hộ tịch, theo đó nguồn chủ đạo của pháp luật về hộ tịch bao gồm Bộ luật Dân
sự năm 2005, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 và
các văn bản về đăng ký và quản lý hộ tịch (Nghị định 158/2005/NĐ-CP, Thông tư liên
tịch 11/2008/TTLT-BTP-BNG,…) cũng trong cách hiểu này các quan hệ pháp luật được
phân thành hai nhóm cơ bản, đó là nhóm quan hệ mang tính chất dân sự và nhóm quan
hệ mang tính chất quản lý.
Theo nghĩa hẹp, thì pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quy phạm hành chính về
quản lý hộ tịch. Đối tượng của pháp luật về hộ tịch chỉ là những quan hệ pháp luật hành
chính mang tính chấp hành điều hành phát sinh trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về hộ
tịch.
Qua quá trình tìm hiểu, phân tích từ nhiều nguồn thông tin, người viết cho rằng:
“Quản lý Nhà nước về hộ tịch” là hoạt động chấp hành điều hành của cơ quan hành
GVHD: Ths. Võ Duy Nam

6

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

chính Nhà nước, của cơ quan Nhà nước khác trên cơ sở quy định của pháp luật về hộ
tịch và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng tổ chức, quản lý, điều hành của bộ
máy Nhà nước.

1.3.2. Nguyên tắc quản lý Nhà nước về hộ tịch
Quản lý hộ tịch cũng là một phần của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Do đó, hoạt động quản lý hộ tịch cũng phải dựa trên những nguyên tắc chung của hoạt
động quản lý hành chính Nhà nước nhằm xây dựng và áp dụng hệ thống nguyên tắc này
vào thực tiễn hoạt động quản lý hộ tịch một cách linh hoạt, đạt hiệu quả cao. Dựa trên
cơ sở khoa học về quản lý, Nhà nước ta chia các nguyên tắc trong quản lý hành chính
Nhà nước ra thành hai nhóm nguyên tắc:
 Nhóm nguyên tắc điều chỉnh mang tính chất chính trị, là tiền đề cho việc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, gọi là nhóm nguyên tắc chính trị - xã hội:
- Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính Nhà nước.
Đảng Cộng Sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
được trang bị nền tảng tư tưởng, lý luận là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do trên
đât nước ta. Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định vai trò lãnh đạo của Đảng ta:
“Đảng Cộng sản Việt Nam,… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
Đảng có vai trò to lớn và trở thành lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng
lãnh đạo Nhà nước thông qua đường lối, chính sách; thông qua tổ chức Đảng và Đảng
viên hoạt dộng trong các cơ quan, tổ chức Nhà nước; thông qua công tác cán bộ, công
tác kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng của các cơ quan Nhà nước,
cán bộ Đảng viên trong các cơ quan Nhà nước. Trên nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác
xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan Nhà nước, song “Các
tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật.”5.
- Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia quản lý Nhà Nước và xã hội.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là người chủ đất nước, là lực
lượng hùng hậu thực hiện các nhiệm vụ quản lý của Nhà nước. Chính vì vậy việc tập
hợp, tổ chức cho nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội là yêu
cầu tất yếu khách quan trong hoạt động quản lý của Nhà nước. Điều 6 Hiến pháp năm
2013 khẳng định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng


5

Điều 6 Hiến pháp 2013

GVHD: Ths. Võ Duy Nam

7

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác
của Nhà nước”.
Nhân dân lao động tham gia quản lý Nhà nước và xã hội dưới những hình thức
hết sức phong phú, đa dạng: tham gia hoạt động bầu cử, ứng cử, thảo luận các dự thảo
văn bản pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức Nhà
nước.
Thực hiện nguyên tắc này, Nhà nước cần xây dựng thiết chế pháp luật và đảm
bảo thực hiện trên thực tế để người dân lao động có thể tham gia một cách gián tiếp hay
trực tiếp vào hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội. Ví dụ như: ban hành luật trưng cầu
ý dân, xây dựng chế độ dân nhận xét, góp ý kiến cho cơ quan, tổ chức Nhà nước, cán bộ
công chức Nhà nước, xây dựng cơ chế tiếp dân của cơ quan Nhà nước, các cấp chính
quyền, xây dựng bộ phận tiếp thu, xử lý đơn, thư dân nguyện,…
- Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc có tầm quan trọng hàng đầu và trực
tiếp chi phối tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Yêu cầu của nguyên tắc này là
phải đảm bảo sự chỉ đạo điều hành, tập trung thống nhất của trung ương, của cấp trên,
trên cơ sở phát huy quyền chủ động sáng tạo của cấp dưới, quyền làm chủ của nhân dân,

của cán bộ công chức. Nguyên tắc này có các nội dung cơ bản sau: Địa phương phục
tùng trung ương trên cơ sở phân cấp, phân quyền rộng rãi, hợp lý và cụ thể; Cấp dưới
phục tùng cấp trên, cán bộ nhân viên phục tùng thủ trưởng; Thiểu số phục tùng đa số sau
khi trao đổi, thảo luận dân chủ; Cấp dưới chủ động, sáng tạo tong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ được giao nhưng chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên;
Thực hiện nghiêm chế độ thông tin, báo cáo giữa cấp trên và cấp dưới, giữa trung ương
và địa phương; Bảo đảm kỹ luật Nhà nước trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ cần khắc phục hai khuynh hướng: Một
là, khuynh hướng tập trung quan liêu, không đảm bảo quyền chủ động, sáng tạo của cấp
dưới, quyền làm chủ của nhân dân và cán bộ, công chức dưới quyền. Hai là, khuynh
hướng tự do, tùy tiện, phân tán, cục bộ địa phương, vô tổ chức, vô kỷ luật.
- Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, do đó việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa
các dân tộc được Nhà nước ta quan tâm sâu sắc. Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.

GVHD: Ths. Võ Duy Nam

8

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

Nguyên tắc này được cụ thể hóa trong công tác lãnh đạo và sử dụng cán bộ, trong
hoạch định chính sách phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội.
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức, hoạt động của các cơ quan, tổ chức Nhà nước

phải tuân thủ theo đúng pháp luật. Mọi cán bộ, công chức Nhà nước trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ quyền hạn, thi hành công vụ của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh quy
định của pháp luật. Nếu có vi phạm xảy ra phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh,
kịp thời, nếu gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa đảm bảo trật kỷ cương, hiệu lục, hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nước,
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân.
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi Nhà nước ta phải xây dựng hệ thống pháp luật
đồng bộ, hoàn chỉnh, điều quan trọng là đảm bảo pháp luật được thực hiện trong thực tế.
 Nhóm nguyên tắc mang tính sắp xếp, tổ chức thực hiện pháp luật trên thực tế,
gọi là nhóm nguyên tắc tổ chức kỹ thuật:
- Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ (địa giới hành
chính).
Hệ thống bộ máy quản lý hành chính Nhà nước ở nước ta vừa được tổ chức theo
cấu trúc ngành ở trung ương, vừa tổ chức theo cấp hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã). Vì vậy, trong quản lý hành chính Nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc quản lý theo
ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ.
- Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng.
Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng nhằm đảm bảo thực hiện
có hiệu quả từng chức năng quản lý riêng biệt của các đơn vị, tổ chức trong ngành, đồng
thời đảm bảo mối liên hệ liên ngành, làm cho toàn bộ hoạt động của hệ thống được đồng
bộ, chặt chẽ. Nếu thiếu đi sự liên kết này thì hoạt động của ngành trở nên thiếu đồng bộ,
ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
- Phân định chức năng quản lý về kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh
doanh. Nhà nước ta thực hiện nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, để đảm bảo hiệu quả hoạt động cao, trong hoạt động quản lý và đăng
ký hộ tịch còn phải tuân thủ một số có các nguyên tắc riêng căn cứ theo Điều 4 Nghị
định 158/2005/NĐ-CP nguyên tắc đăng ký và quản lý hộ tịch bao gồm:


GVHD: Ths. Võ Duy Nam

9

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

- Nguyên tắc mọi sự kiện hộ tịch phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, chính xác
theo quy định. Sự kiện hộ tịch khi được đăng ký sẽ làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt
một hay nhiều quan hệ pháp luật liên quan. Ví dụ như: Đăng ký khai sinh làm phát sinh
các quan hệ pháp luật về nhân thân (cá nhân có tên, tuổi, quốc tịch, dân tộc,…), về dân
sự (năng lực pháp luật, hưởng các ưu tiên về y tế dành cho trẻ dưới 06 tuổi,…) của cá
nhân, là cơ sở pháp lý cho cá nhân nhận sự bảo hộ của pháp luật. Yêu cầu đăng ký hộ
tịch đầy đủ, kịp thời, chính xác đảm bảo hoạt động quản lý hộ tịch được liên tục, hệ
thống quản lý hộ tịch được đồng bộ.
- Nguyên tắc mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một nơi theo đúng theo
thẩm quyền quy định của pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi sự phân cấp, phân công
nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan quản lý hộ tịch từ trung ương đến cơ sở,
thuận lợi trong quản lý và truy cứu trách nhiệm khi có sai phạm. Tránh tình trạng tiêu
cực: gặp việc khó thì đùn đẩy trách nhiệm, việc dễ thì tranh giành tranh công.
- Cơ quan quản lý hộ tịch cấp trên phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng
dẫn, chỉ đạo đối với cơ quan quản lý hộ tịch cấp dưới; trường hợp phát hiện thấy sai
phạm phải chấn chỉnh, xử lý kịp thời.
- Cơ quan đăng ký hộ tịch phải niêm yết công khai, chính xác các quy định về
giấy tờ mà người yêu cầu đăng ký hộ tịch phải xuất trình hoặc nộp khi đăng ký hộ tịch,
thời hạn giải quyết và đăng ký hộ tịch.
1.3.3. Công tác quản lý Nhà nước về hộ tịch
Công tác quản lý Nhà nước về hộ tịch theo Nghị định số 04-CP do Hội đồng

Chính phủ ban hành ngày 16 tháng 01 năm 1961 về điều lệ đăng ký hộ tịch có các nội
dung sau: “việc sinh, tử, kết hôn và những việc có liên quan như nuôi con nuôi, nhận
con ngoài giá thú, nhận cha mẹ đẻ, thay đổi quốc tịch, thay đổi họ, tên, chữ đệm, cải
chính ngày, tháng, năm sinh”. Hay nói cách khác nội dung của đăng ký hộ tịch bao
gồm: Đăng ký việc sinh, việc tử, việc kết hôn và ghi chú các việc thay đổi về hộ tịch. Từ
khi Nghị định 83/1998/NĐ-CP ra đời đến Nghị định 158/2005/NĐ-CP được ban hành
thì nội dung quản lý hộ tịch ngày càng được mở rộng, bao gồm:
- Quản lý các sự kiện sinh, tử, kết hôn, nuôi con nuôi, nhận cha, mẹ, con, giám
hộ.
- Quản lý việc thay đổi hộ tịch, cải chính hộ tịch, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ
tịch; xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc.
- Quản lý sự thay đổi các đặc điểm nhân thân do các sự kiện ly hôn, xác định lại
cha, mẹ, con, thay đổi quốc tịch, chấm dứt nuôi con nuôi.
GVHD: Ths. Võ Duy Nam

10

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

Việc mở rộng nội dung quản lý hộ tịch nói lên sự quan tâm ngày càng sâu sắc của
Nhà nước ta trong hoạt động quản lý dân cư, tuy nhiên nó đòi hỏi trình độ quản lý cũng
phải ngày càng được nâng cao.
1.3.4. Ý nghĩa của quản lý Nhà nước về hộ tịch
Về mặt xã hội, cùng với xu hướng nhận thức đúng đắn quyền con người mỗi
quốc gia ngày càng đánh giá cao giá trị của quản lý cư dân đặc biệt là quản lý hộ tịch
với giá trị, khả năng khai thác tiềm tàng của nó.
Về mặt lý luận, Nhà nước thể hiện chức năng quản lý xã hội của mình thông qua

hoạt động quản lý hộ tịch:
- Quản lý Nhà nước về hộ tịch cung cấp một hệ thống cơ sở dữ liệu về cư dân đầy
đủ chính xác, được cập nhật thường xuyên và kịp thời sẵn sàng hỗ trợ đắc lực cho việc
hoạch định chính sách xã hội một cách chính xác, khả thi, tiết kiệm thời gian và chi phí
thí điểm đến khi đưa vào thực tế. Có thể nói quản lý hộ tịch là cơ sở để Nhà nước hoạch
định các chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng,…và tổ chức thực hiện
có hiệu quả các chính sách đó.
- Quyền nhân thân được Hiến pháp quy định, quản lý Nhà nước về hộ tịch được
xem là phương tiện để người dân thực hiện, hưởng dụng quyền này. Giấy tờ hộ tịch nói
lên các thông tin mang tính nhân thân của cá nhân, qua đó cá nhân thể hiện mình trước
pháp luật, trước sự đánh giá của cá nhân, tổ chức khác khi họ tham gia vào các quan hệ
pháp luật nhất định.
- Chính hành vi đăng ký khai sinh của cá nhân tại Ủy ban nhân dân xã đánh dấu
điểm khởi đầu của hoạt động quản lý Nhà nước đối với từng người dân, đồng thời cũng
là điểm khởi đầu cho mối quan hệ của công dân với Nhà nước. Ở quốc gia mà nền dân
chủ càng được mở rộng phát huy thì các giá trị con người càng được Nhà nước tôn trọng
và bảo hộ.
- Giấy tờ hộ tịch giúp truy tìm nguồn gốc của một cá nhân một cách dễ dàng, chặt
chẽ là khẳng định của Nhà nước về vị thế của cá nhân trong gia đình và xã hội.
Chính vì vậy mà vấn đề quản lý hộ tịch giữ vai trò quan trọng đối với mỗi quốc
gia, quốc gia trong quá trình phát triển của mình luôn quan tâm xây dựng hệ thống quản
lý hộ tịch hiện đại, hiệu quả và khai thác thông tin mà nó mang lại.
1.5. Lƣợc sử quản lý về hộ tịch ở nƣớc ta
Từ thời phong kiến dân tộc, các triều đại phong kiến nước ta ít nhiều đều có quan
tâm đến biện pháp quản lí hộ tịch và kiểm kê nhân khẩu khá chặt chẽ phục vụ dự tuyển
đinh và thu thuế.
GVHD: Ths. Võ Duy Nam

11


SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

Dưới thời Lý biện pháp quản lý và kiểm kê hộ tịch chặt chẽ, làm cơ sở tuyển bổ
quân ngũ và sai dịch. Theo định lệ hàng năm vào mùa xuân, các xã quan lập hộ tịch của
xã mình kê khai nhân số xếp thành từng hạng là tôn thất (người trong họ vua), quan văn,
quan võ, quan theo hầu, quân nhân, tạp lưu hoàng nam (đinh nam đến tuổi trưởng
thành), long lão (già yếu), người tàn tật, người xiêu tán.
Nhà nước căn cứ vào số quân do các hương kê khai làm chuẩn đinh. Theo quy
định thì tất cả các đinh nam từ 18 tuổi trở lên thì được biên vào cuốn sổ màu vàng thì
được gọi là hoàng nam, 20 tuổi trở lên thì được gọi là đại hoàng nam.
Nhà nước tìm mọi biện pháp quản lý chặt chẽ dân đinh trong nước, nhà Lý còn ra
lệnh cấm nuôi tư nô và những người đến tuổi hoàng nam, ai mua bán hoàng nam, che
dấu đại hoàng nam thì bị nghiêm trị. Theo luật này, Nhà nước đặt tất cả dân đinh đến
tuổi trưởng thành vào loại người chịu binh dịch và tiến hành tuyển binh. Tuy nhiên,
trong thời bình, Nhà nước chỉ tuyển một số lượng nhỏ đinh tráng nhất định sung vào
quân ngũ để canh phòng và luyện tập, quân này chia thành hai loại: Loại quân triều đình
gọi là Cấm quân (quân đóng ở kinh thành) và quân ở địa phương gọi là lộ quân hay
sương quân (quân ở phủ châu). Ngoài ra, số còn lại thì ghi tên vào sổ quân, lúc thường ở
nhà luyện tập khi cần sẽ được chiếu theo sổ sách mà gọi vào quân ngũ, đây là loại dân
binh thường gọi là hương binh (ở đồng bằng) hoặc thổ binh (ở miền núi).6
Trong Lịch triều hiến chương loại chí nhà sử học Phan Huy Chú ghi: “Đại ước,
người trúng tuyển thì sung vào quân ngũ, người hạng kém thì biên vào sổ, có việc mới
gọi ra, niên hạn lâu chóng có lẽ không nhất định”. Thời Lý là thời đầu tiên thực hiện
chính sách ngụ binh ư nông. Trong bộ Đại Việt sử ký, Ngô Thì Sĩ viết: “Đời xưa giữ
quân lính ở việc làm ruộng là phục việc nguy hiểm vào nơi thuận tiện…Binh chế buổi
đầu nhà Lý…đem quân lính chia phiên về làm nghề nông để mệt nhọc và nhà hạ được
chia đều, việc cấp lương được giảm bớt”.

Trong phần binh chế chí của Lịch triều hiến chương loại chí Phan huy chú còn
viết trong mục “Lệ nuôi binh và cấp tuất” như sau: “Đời Lý ngoại binh không có lương,
cứ luân phiên đến canh, hết phiên canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà
Trần theo phép nhà Lý…binh các đạo đều chia theo phiên về làm nhà làm ruộng cho đỡ
tốn lương… Phép nuôi binh thời Lê Sơ lại để theo phép ngụ binh ư nông của các thời Lý
– Trần không phải cấp lương bổng”.

6

Trương Hữu Quýnh: Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 2007, tr.127, tr.128

GVHD: Ths. Võ Duy Nam

12

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

Dưới thời Pháp thuộc, nhằm phục vụ chính sách thực dân (đặc biệt là chính sách
thu thuế), chính quyền thuộc địa đã ban hành Sắc lệnh ngày 03-10-18837 quy định việc
lập sổ hộ tịch cho người Việt Nam, là sự du nhập mô hình quản lý hộ tịch của Pháp.
Pháp xây dựng đội ngũ chức dịch chuyên làm công tác hộ tịch, gọi là Hộ lại8 và hệ
thống sổ sách hộ tịch (gọi là Sổ bộ) rất đầy đủ, khoa học và được bảo vệ rất cẩn thận.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, công tác hộ tịch ở trung ương được Chính
phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa giao cho Bộ Tư pháp quản lý giúp Hội đồng
Chính phủ, ở địa phương là các Uỷ ban Hành chính thực hiện.
Sau năm 1954, ở miền Bắc công tác hộ tịch ở trung ương do Bộ Nội vụ phụ
9


trách và trực tiếp là Cục cảnh sát nhân dân10. Ở miền Nam mô hình đăng ký hộ tịch
được áp dụng tương tự như thời Pháp thuộc. Bộ luật dân sự Việt Nam Cộng hòa được
ban hành năm 1972 có quy định tương đối chi tiết về hộ tịch và chứng thư hộ tịch.
Từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến 1987: Đất nước thống nhất, công tác hộ
tịch được tiếp tục giao cho Bộ Nội vụ và ngành Công an quản lý cùng với quản lý hộ
khẩu, hình thành chức danh hộ tịch viên11.
Từ 1987 đến nay, trên cơ sở Nghị định 219/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày
20 tháng 11 năm 1987 nhiệm vụ quản lý hộ tịch được chuyển giao từ Bộ Nội vụ cho Bộ
Tư pháp (ngành Tư pháp) quản lý. Từ đó, Bộ Tư pháp chỉ đạo, tổ chức quản lý về hộ
tịch thống nhất trên cả nước, còn ngành Nội vụ (nay là ngành Công an) tiếp tục duy trì
chức năng quản lý hộ khẩu và cấp Chứng minh nhân dân.
Việc chuyển công tác hộ tịch từ ngành Nội vụ sang ngành Tư pháp đánh dấu sự
phân lập hệ thống quản lý dân cư thành các lĩnh vực quản lý Nhà nước khác nhau. Hình
thành nguyên tắc quản lý kết hợp giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, có sự tham
gia của mọi cấp hành chính từ trung ương đến cơ sở, có cả chủ thể quản lý ở trong nước
và ở nước ngoài. Với thiết kế này, đến nay ở nước ta đã hình thành mạng lưới quản lý
hộ tịch rộng khắp bao gồm toàn bộ hệ thống cơ quan quản lý có thẩm quyền chung
(Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp) và hệ thống cơ quan chuyên môn của ngành
Tư pháp và ngành Ngoại giao.

7

Sắc lệnh này được duy trì trong một thời gian dài, chỉ được sửa đổi hai lần bởi các Sắc lệnh ngày 10-2-1893 và
Sắc lệnh ngày 23-7-1931.
8
Hộ lại là người đăng ký và quản lý sổ sách hộ tịch trong bộ máy chính quyền cấp xã, thực hiện chế độ “cha
truyền con nối”
9
Nghị định số 04/Cp về Điều lệ đăng ký hộ tịch ngày 16 tháng 01 năm 1961 do Hội đồng Chính Phủ đã ban hành

10
Nghị định 982/TTg ngày 28 tháng 7 năm 1956 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Cục cảnh sát nhân
dân
11
Thông tư 1001/TTg ngày 10 tháng 8 năm 1956 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức ngành cảnh sát nhân
dân, trong đó hình thành nên lực lượng “cảnh sát hộ tịch”, đến năm 1957 chức danh này bổ sung thêm nhiệm vụ
cấp Giấy chứng minh nhân dân nên được gọi là hộ tịch viên.
GVHD: Ths. Võ Duy Nam

13

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

Từ khi Nghị định 158/2005/NĐ-CP ra đời ngày 27 tháng 12 năm 2005 có 05 cơ
quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch. Ở trong nước, thẩm quyền đăng ký hộ tịch được
xác định thuộc về cơ quan: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp thuộc tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã), với sự
phân cấp rõ ràng dựa trên các yếu tố về lãnh thổ và đối tượng đăng ký hộ tịch. Ở nước
ngoài, cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch vẫn là cơ quan đại diện ngoại giao và
Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.
Qua quá trình phát triển không chỉ hệ thống cơ quan quản lý và đăng ký hộ tịch
được xây dựng từ trung ương đến cơ sở mà một hệ thống những quy phạm pháp luật
điều chỉnh về quản lý và đăng lý hộ tịch cũng dần hoàn thiện, tuy chưa mang giá trị
pháp lý tầm đạo luật và còn rải rác trong nhiều văn bản khác nhau nhưng đã nói lên sự
phát triển tất yếu của bộ phận quản lý hộ tịch nói riêng trong hệ thống quản lý dân cư
nói chung của nước ta.


GVHD: Ths. Võ Duy Nam

14

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

CHƢƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH – THỰC TIỄN TẠI XÃ PHÚ HƢNG,
HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG
Trên cơ sở phân cấp quản lý theo lãnh thổ và theo thẩm quyền, pháp luật nước ta
quy định về thẩm quyền đăng ký và quản lý về hộ tịch cho các cơ quan có thẩm quyền
chung và cơ quan có thẩm quyền riêng. Thực tế thực thi pháp luật tại cấp cơ sở - xã Phú
Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cho ta thấy tình hình áp dụng pháp luật về hộ tịch
trong cơ quan đăng ký hộ tịch ở cơ sở có thẩm quyền chung.
2.1. Cơ sở pháp lý trong quản lý Nhà nƣớc về hộ tịch
Quản lý hộ tịch là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý dân cư. Những
quy định của pháp luật nước ta về quản lý và đăng ký hộ tịch được xây dựng tương đối
đầy đủ và ngày càng hoàn thiện.
Từ sau năm 1945, do yêu cầu quản lý Nhà nước trong thời kỳ mới, Nhà nước ta
ban hành Sắc lệnh ngày 10 tháng 10 năm 1945, tạm thời công nhận các luật của chế độ
cũ nếu chúng “không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng
hòa”.
Nhà nước ta liên tiếp ban hành các Nghị định về quản lý hộ tịch như: Các Nghị
định số 764/TTg ngày 08 tháng 5 năm 1956, thay thế hoàn toàn các quy định của chế độ
cũ, chuyển nhiệm vụ phụ trách hộ tịch về cho Bộ Nội vụ và Ủy ban hành chính các cấp
thực hiện. Nghị định số 04-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 16 tháng 01 năm 1961 và

Thông tư số 01/NV của Bộ Nội vụ ngày 11 tháng 01 năm 1964 về củng cố hệ thống
quản lý hộ tịch, thiết lập cơ chế quản lý song trùng trực thuộc giữa cơ quan có thẩm
quyền chung và cơ quan có thẩm quyền riêng. Chỉ giao cho hai cơ quan có thẩm quyền
đăng ký hộ tịch là Ủy ban hành chính cấp xã (ở trong nước), cơ quan đại diện Ngoại
giao, Lãnh Việt Nam (ở nước ngoài).
Nghị định số 219/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 20 tháng 11 năm 1987
chuyển giao nhiệm vụ quản lý hộ tịch từ Bộ Nội vụ sang cho Bộ Tư pháp, thiết lập
nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ. Nghị định
83/1998/NĐ-CP hình thành chức danh Tư pháp – Hộ tịch ở cơ sở, theo Nghị định này
hệ thống quản lý hộ tịch có ba cơ quan đăng ký hộ tịch: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy
ban nhân dân cấp xã (ở trong nước) và cơ quan đại diện Ngoại giao, Lãnh sự (ở nước
ngoài). Tuy nhiên, điểm hạn chế trong sự phân cấp hệ thống quản lý hộ tịch này là dồn
quá nhiều việc mang tính tác nghiệp cho cơ quan có thẩm quyền chung là Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
GVHD: Ths. Võ Duy Nam

15

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

Với sự ra đời của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27 tháng
12 năm 2005 cùng với Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP
thay thế Nghị định số 68/2002/NĐ-CP đã giải quyết được bất cập trong phân cấp thẩm
quyền từ Nghị định số 83/1998/NĐ-CP, theo đó số lượng cơ quan có thẩm quyền đăng
ký hộ tịch được tăng lên từ ba cơ quan lên năm cơ quan. Tuy nhiên, hiện nay những quy
định pháp luật về quản lý và đăng ký hộ tịch vẫn nằm rải rác trong các văn bản pháp luật
khác nhau: Bộ luật Dân sự năm 2005 có những quy định quy định về quyền nhân thân.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định về đăng ký kết hôn. Luật nuôi con nuôi
năm 2010 quy định đăng ký nuôi con nuôi.
Quy định của pháp luật hiện hành về quản lý và đăng ký hộ tịch tập trung chủ yếu
vào Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng
ký và quản lý hộ tịch. Nghị định này quy định về thẩm quyền quản lý Nhà nước về hộ
tịch, trình tự thủ tục, đăng ký hộ tịch, cấp bản sao các giấy tờ về hộ tịch,…
Ngoài ra còn có các Nghị định và Thông tư hướng dẫn thi hành luật và Nghị định
như: Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật nuôi con nuôi năm 2010, Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày
02 tháng 6 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hướng dẫn thực hiện một số quy định
của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, Thông tư số 12/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng
biểu mẫu nuôi con nuôi, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006 sửa
đổi, bổ sung Nghị định số 68/2002/NĐ-CP, Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02 tháng
02 năm 2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch,
hôn nhân và gia đình và chứng thực.
Những quy định về biểu mẫu như ban hành, ghi chép, sử dụng, lưu trữ biểu mẫu
được quy định cụ thể trong các văn bản như: Quyết định số 01/2006/QĐ-BTP ngày 29
tháng 03 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ
tịch, Thông tư số 08.a/2010/TT-BTP ngày 25 tháng 3 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp về việc ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng sổ, biểu mẫu hộ
tịch, Thông tư số 12/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc
ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng biểu mẫu nuôi con nuôi, Thông
tư số 05/2012/TT-BTP ngày 23 tháng 5 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi,
bổ sung một số điều của Thông tư số 08.a/2010/TT-BTP.
Các Chỉ thị, Nghị quyết chủ yếu quy định về phí, lệ phí trong quản lý hộ tịch bao
gồm: Chỉ thị số 24/2007/CT-TTg ngày 01 tháng 11 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ
về việc tăng cường chấn chỉnh việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ phí,
GVHD: Ths. Võ Duy Nam


16

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

chính sách huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân, Nghị quyết
29/2006/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang ngày 8 tháng 12 năm 2006
về ban hành mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí hộ tịch, Nghị quyết số
05/2011/NQ-HĐND ngày 20 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang
về việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí hộ tịch, Quyết định
số 40/2011/QĐ-UBND ngày 13 tháng 9 năm 2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang
về việc ban hành mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí hộ tịch trên địa
bàn.
Cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản pháp lý tầm đạo luật hoàn chỉnh điều
chỉnh về quản lý và đăng ký hộ tịch, theo xu hướng tất yếu của quá trình phát triển, tin
rằng không xa nữa dự thảo Luật Hộ tịch được bổ sung hoàn thiện được Quốc hội thông
qua điều chỉnh về quản lý và đăng ký hộ tịch.
2.2. Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền quản lý và đăng ký hộ tịch
Hệ thống cơ quan quản lý hộ tịch được thiết lập dựa trên nguyên tắc quản lý kết
hợp giữa quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ, có sự tham gia của mọi
cấp hành chính từ trung ương đến cơ sở, có cả chủ thể quản lý trong nước và ở nước
ngoài. Mạng lưới quản lý hộ tịch hình thành rộng khắp, phân cấp quản lý khá chặt chẽ,
bao gồm cả cơ quan có thẩm quyền chung (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp), hệ
thống cơ quan có thẩm quyền riêng (ngành Tư pháp, ngành Ngoại giao). Tuy nhiên,
chính sự phân cấp lại dẫn đến những tồn tại tiêu cực trong thẩm quyền quản lý hộ tịch.
Hiện nay, thẩm quyền quản lý hộ tịch của các cơ quan trong quy định của pháp luật về
hộ tịch được quy định cụ thể như sau:
2.2.1. Ở trung ương

2.2.1.1. Chính phủ
Trong hệ thống các cơ quan quản lý ở nước ta thì Chính phủ giữ vai trò là cơ
quan hành chính Nhà nước cao nhất, theo Điều 4 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001:
“Chính phủ thống nhất quản lý công tác hành chính tư pháp, các hoạt động về luật sư,
giám định tư pháp, công chứng và bổ trợ tư pháp; tổ chức và quản lý công tác thi hành
án, quốc tịch, hộ khẩu, hộ tịch”. Về mặt pháp lý, Chính phủ là cơ quan đứng đầu hệ
thống cơ quan hành pháp quản lý chung mọi lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc. Về mặt
hoạt động, Chính phủ được xem là chủ thể hình thức do cơ chế hoạt động lãnh đạo tập
thể, mỗi lĩnh vực quản lý thông qua cơ quan quản lý chuyên ngành thuộc cơ cấu Chính
phủ trong đó có quản lý hộ tịch.

GVHD: Ths. Võ Duy Nam

17

SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

2.2.1.2. Bộ Tư pháp
Từ sau năm 1945, Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Hội đồng Chính phủ phụ trách
công tác quản lý hộ tịch trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, nhiệm vụ này bị gián đoạn từ
năm 1956 do Nghị định 764/TTg năm 1956 chuyển nhiệm vụ quản lý hộ tịch sang cho
Bộ Nội vụ, quản lý trực tiếp là ngành Công an, quản lý hộ tịch cùng với quản lý Hộ
khẩu và Chứng minh nhân dân. Từ năm 1987, nhiệm vụ quản lý hộ tịch được trả về cho
Bộ Tư pháp, đánh dấu sự phân lập trong nhiệm vụ quản lý hệ thống dân cư thành các
lĩnh vực quản lý khác nhau12. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp trong quản lý hộ
tịch được quy định cụ thể tại Điều 75 Nghị định 158/2005/NĐ-CP.
2.2.1.3. Bộ Ngoại giao

Bộ Ngoại giao có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống quản lý hộ tịch, Bộ
Ngoại giao được giao nhiệm vụ phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện hướng dẫn, chỉ đạo,
kiểm tra, thanh tra việc thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch của các Cơ quan Ngoại
giao, Lãnh sự Việt Nam, quản lý Nhà nước về hộ tịch đối với công dân Việt Nam ở
nước ngoài. Nhiệm vụ, quyền hạn chụ thể của Bộ Ngoại giao được quy định cụ thể tại
Điều 79 Nghị định 158/2005/NĐ-CP. Sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giao
thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với bộ phận kiều bào ở nước ngoài, đồng thời
đáp ứng yêu cầu quản lý hộ tịch, đây là bộ phận hết sức quan trọng trong quản lý hộ
tịch.
 Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài
Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài có thẩm quyền đăng ký các
sự kiện hộ tịch cho công dân Việt Nam ở nước ngoài, là cơ quan có nhiệm vụ, quyền
hạn đăng ký hộ tịch ổn định nhất từ trước đến nay. Hoạt động của cơ quan Ngoại giao,
Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài đặt dưới sự quản lý, hướng dẫn của Bộ Tư pháp và Bộ
Ngoại giao, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được quy định như sau:
Thứ nhất, thực hiện đăng ký các việc hộ tịch cho công dân Việt Nam ở nước
ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giao. Thứ hai, quản lý, sử dụng các
loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp. Thứ ba, lưu trữ sổ hộ
tịch, giấy tờ hộ tịch. Thứ tư, cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch. Thứ năm, tổng hợp
tình hình và số liệu thống kê hộ tịch báo cáo Bộ Ngoại giao theo định kỳ 6 tháng và
hàng năm. Thứ sáu, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về hộ tịch theo thẩm
quyền.

12

Nghị định 219/HĐBT của Hộ đồng Bộ trưởng ngày 20 tháng 01 năm 1987

GVHD: Ths. Võ Duy Nam

18


SVTH: Trần Thị Điều


Đề tài: Quản lý Nhà nước về hộ tịch – thực tiễn trên địa bàn xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang

Viên chức Ngoại giao, Lãnh sự13 là người làm việc trong các cơ quan Ngoại giao,
Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài chuyên trách thực hiện công tác hộ tịch và phải chịu
trách nhiệm về tính chính xác của các giấy tờ hộ tịch khi cấp cho công dân Việt Nam ở
nước ngoài. Viên chức Ngoại giao, Lãnh sự làm công tác hộ tịch có trách nhiệm giúp cơ
quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trên (trừ
trường hợp giải quyết tố cáo).
2.2.2. Ở địa phương
Thực hiện quản lý theo cơ chế quản lý song trùng, kết hợp quản lý theo ngành và
quản lý theo lãnh thổ thể hiện rõ trong mô hình quản lý hộ tịch: Theo Nghị định số
219/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 20 tháng 11 năm 1987, cơ chế này thiết lập
giữa cơ quan có thẩm quyền chung là Ủy ban hành chính các cấp và cơ quan có thẩm
quyền riêng là Bộ Nội vụ (ở trung ương) và Công an các cấp. Tuy nhiên, cơ quan có
thẩm quyền đăng ký hộ tịch là Uỷ ban hành chính cấp xã và cơ quan đại diện Ngoại
giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài. Hiện nay, theo quy định tại Nghị định
158/2005/NĐ-CP cơ chế này được thiết lập giữa Ủy ban nhân dân các cấp và Bộ Tư
pháp (ở trung ương) và Sở Tư pháp cấp tỉnh, Phòng Tư pháp cấp huyện và công chức
Tư pháp – Hộ tịch cấp xã. Thẩm quyền đăng lý hộ tịch được phân cấp cho năm cơ quan
sau: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân
dân cấp xã và cơ quan đại diện Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài.
2.2.2.1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp
Nghị định số 184/CP của Chính Phủ ngày 30 tháng 11 năm 1994 Quy định về thủ
tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công nhân Việt
Nam và người nước ngoài bổ sung Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vào 01 trong 03 cơ quan có
thẩm quyền đăng ký hộ tịch, với sự phân cấp khá rõ ràng: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải

quyết các việc hộ tịch có yếu tố Ủy ban nhân dân cấp nước ngoài và một số việc hộ tịch
có tính chất phức tạp như cải chính, thay đổi hộ tịch; xã phụ trách đăng ký hộ tịch cho
người dân tại địa phương; Cơ quan đại diện Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài
phụ trách hộ tịch người Việt Nam ở nước ngoài14. Theo sự phân cấp thẩm quyền này thì
Ủy ban nhân dân tỉnh là cơ quan có thẩm quyền chung cao nhất tại địa phương lại được
giao quá nhiều nhiệm vụ tác nghiệp chuyên môn, không phù hợp thẩm quyền. Nghị định
158/2005/NĐ-CP giải quyết vấn đề này bằng cách giải phóng một phần công việc của
cấp tỉnh cho Ủy ban nhân dân cấp huyện và Sở Tư pháp. Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp
13

Thông tư liên tịch số 11/2008/TTLT-BTP-BNG ngày 31 tháng 12 năm 2008 Hướng dẫn thực hiện quy định của
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch tại các Cơ quan đại
diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sựcủa Việt Nam ở nước ngoài
14
Viện nghiên cứu lập pháp, chuyên đề: Một số vấn đề lý luận và so sánh pháp luật về hộ tịch
GVHD: Ths. Võ Duy Nam

19

SVTH: Trần Thị Điều


×