Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

quản lý nhà nước về thi hành án dân sự thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.5 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

----o0o----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 36 (2010 – 2014)

Đề tài:

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Giáo viên hướng dẫn:
Lâm Bá Khánh Toàn

Sinh viên thực hiện:
Trần Thị Mỹ Ngọc
MSSV: 5106073
Lớp:Luật hành chính K36

Cần Thơ, 11/ 2013


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ............................................................................................................................................. 3
1.1 Khái quát chung về thi hành án dân sự................................................................... 3


1.1.1 Khái niệm thi hành án dân sự ............................................................................. 3
1.1.2 Vai trò của hoạt động thi hành án dân sự.......................................................... 7
1.1.3 Những đặc trưng cơ bản của thi hành án dân sự ........................................... 10
1.2 Khái quát chung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ................................ 12
1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ....................................... 12
1.2.2 Các nguyên tắc cơ bản........................................................................................ 14
1.2.3 Các biện pháp quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ................................ 16
1.2.4 Vai trò của quản lý nhà nước về thi hành án dân sự...................................... 17
1.3 Lược sử các quy định pháp luật về thi hành án dân sự ...................................... 19
1.3.1 Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989 ............................................................ 19
1.3.2 Thời kỳ từ năm 1990 đến trước khi có Luật thi hành án dân sự năm 2008. 22
1.3.3 Thời kì năm 2008 cho đến nay........................................................................... 24
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG
HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ........................................................................ 27
2.1. Hệ thống cơ quan quản lý thi hành án dân sự .................................................... 27
2.1.1 Chính phủ............................................................................................................. 27
2.1.2 Bộ Tư pháp........................................................................................................... 27
2.1.3 Bộ Quốc phòng .................................................................................................... 28
2.1.4 Bộ Công an........................................................................................................... 29
2.1.5 Uỷ ban nhân dân các cấp ................................................................................... 30
2.1.6 Cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp ................................ 31
2.1.7 Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng ...................................... 34
2.2 Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự.................................................................... 36
2.2.1 Các cơ quan thi hành án dân sự........................................................................ 36
2.2.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thi hành án dân sự ........................... 39
2.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên ........................................................... 41
2.3.1 Chấp hành viên.................................................................................................... 41
2.3.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên ...................................................... 42



Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

2.4 Nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự .............................................. 43
2.4.1 Xây dựng cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự......... 43
2.4.2 Xây dựng cơ chế hoạt động thi hành án dân sự .............................................. 44
2.4.3 Quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật, kinh phí phương tiện cần thiết cho công tác
thi hành án dân sự........................................................................................................ 46
2.4.4 Quản lý công tác đào tạo cán bộ, thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ
làm công tác thi hành án dân sự................................................................................. 47
2.4.5 Quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ ................................................................... 48
2.4.6 Pháp luật về thanh tra, kiểm tra, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về thi
hành án dân sự ............................................................................................................. 48
2.4.7 Những hành vi cấm trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ............ 52
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - .................................................................. 54
3.1 Thực trạng quản lý nhà nước về thi hành án dân sự .......................................... 54
3.1.1 Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành................................................................ 54
3.1.2 Quản lý công tác xây dựng đề án, văn bản....................................................... 55
3.1.3. Quản lý công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm tra........................ 56
3.1.4 Quản lý công tác tổ chức, cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng ............................... 57
3.1.5 Quản lý công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo ..................... 59
3.1.6 Về thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại ................................................. 60
3.1.7 Quản lý về công tác kế hoạch tài chính, đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị
phục vụ công tác ........................................................................................................... 61
3.1.8 Một số mặt công tác khác ................................................................................... 62
3.2 Hạn chế, tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý nhà nước về thi
hành án dân sự....................................................................Error! Bookmark not defined.
3.2.1 Hạn chế, tồn tại......................................................Error! Bookmark not defined.
3.2.2 Khó khăn, vướng mắc..............................................Error! Bookmark not defined.
3.2.3 Nguyên nhân...........................................................Error! Bookmark not defined.

3.3 Một số giải pháp hoàn thiện về quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành
án dân sự..............................................................................Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN..............................................................................Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................. 71


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. THA: Thi hành án
2. THADS: Thi hành án dân sự
3. VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
4. TA: Tòa án
5. TAND: Tòa án nhân dân
6. BA,QĐ: Bản án, quyết, định
7. CHV: Chấp hành viên
8. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
9. CQTHA: Cơ quan thi hành án
10. CQTHADS: Cơ quan thi hành án dân sự
11. UBND: Ủy ban nhân dân
12. CQQLNN: Cơ quan quản lý nhà nước


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng và
Nhà nước ta đã từng bước tiến hành cải cách về mặt tổ chức và hoạt động của các cơ

quan tư pháp, trong đó có cơ quan thi hành án dân sự. Để triển khai thực hiện chủ
trương xã hội hóa một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự của Đảng về
cải cách tư pháp, trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị
quyết và các Luật liên quan đến cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp nói
chung và cơ quan thi hành án dân sự nói riêng như: Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Luật thi
hành án dân sự 2008 và hàng loạt các văn bản pháp luật có liên quan đến thi hành án
dân sự khác. Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới về tổ chức và
hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, nhiều bản án, quyết định có
hiệu lực của Tòa án án (quyết định dân sự trong bản án hình sự; bản án dân sự, hành
chính, lao động, kinh tế) đã được các cơ quan thi hành án dân sự kịp thời đưa ra thi
hành theo quy định của pháp luật đạt kết quả tương đối cao. Điều này, đã góp phần
đảm bảo an ninh trật tự xã hội, giữ gìn kỷ cương phép nước và thực hiện dân chủ,
công bằng xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thi hành án dân sự vẫn
còn có những bất cập chưa được giải quyết kịp thời như: Hệ thống văn bản pháp luật
nói chung và các văn bản pháp luật thi hành án dân sự nói riêng vẫn còn nhiều khoảng
trống, chưa điều chỉnh hết các quan hệ phức tạp nảy sinh trong thực tiễn thi hành án
dân sự; mô hình tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự chưa thực sự khoa
học, trong đó có một nguyên nhân quan trọng là quản lý nhà nước về thi hành án dân
sự còn nhiều bất cập, chưa phù hợp và không phát huy được hiệu quả. Do đó, đã làm
giảm hiệu lực, hiệu quả của thi hành án dân sự. Nhiều bản án, quyết định về dân sự đã
có hiệu lực pháp luật, nhưng không được tổ chức thi hành dứt điểm, đặc biệt, tình
trạng vi phạm pháp luật, tiêu cực, sách nhiễu trong tổ chức thi hành án dân sự vẫn diễn
ra nhiều. Từ những phân tích trên cho thấy công tác quản lý thi hành án dân sự có vị
trí, vai trò hết sức quan trọng, là mối quan tâm của dư luận và toàn xã hội.
Với những lý do trên, người viết quyết định chọn đề tài “Quản lý nhà nước về
thi hành án dân sự - Thực tiễn tại Sóc Trăng” làm luận văn tốt nghiệp.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn


1

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà
nước về thi hành án dân sự ở nước ta. Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp
luật và thực tiễn áp dụng nhằm tìm ra những vấn đề bất cập trong quản lý về thi hành
án dân sự. Từ đó người viết đưa ra một số giải pháp để khắc phục những hạn chế đó.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trọng tâm của đề tài được người viết chỉ giới hạn trong những nội dung cơ bản
về tổ chức, hoạt động, công tác quản lý về thi hành án dân sự.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng
với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích- tổng hợp, lịch sử- cụ thể và
các phương pháp nghiên cứu khác như: so sánh, thống kê để đánh giá và làm sáng tỏ
các vấn đề cần nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Bên cạnh lời nói đầu, kết luận, nội dung nghiên cứu của đề tài này được trình
bày gồm 3 chương và mỗi chương được thể hiện chi tiết qua các phần sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về thi hành án dân sự
Chương 2: Quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân
sự.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án
dân sự- Thực tiễn tại Sóc Trăng


GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

2

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Thi hành án dân sự đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính nghiêm minh của
pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đảm bảo cho hoạt động thi hành án dân sự được
diễn ra kịp thời và đúng pháp luật có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước và mối
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Để hiểu rõ hơn về thi hành án dân sự và
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. Trong chương này, người viết sẽ tìm hiểu sơ
lược về khái niệm, vai trò,lược sử…về thi hành án dân sự cũng như quản lý nhà nước về
thi hành án dân sự.
1.1 Khái quát chung về thi hành án dân sự
1.1.1 Khái niệm thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động do Cơ quan thi hành án dân sự tiến hành theo những
thủ tục trình tự nhất định, nhằm đưa các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực thi hành
của Tòa án ra để thi hành.1
Các bản án, quyết định được thi hành không chỉ bao gồm các bản án, quyết định của
Tòa án và Trọng tài Việt Nam mà cả các bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự
2008:
“Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật thi hành án dân sự bao gồm:
1. Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu lực pháp luật:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị

kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau
30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi
kiện tại Toà án;
e) Quyết định của Trọng tài thương mại.

1

Sở Tư pháp thành phố Hà Nội, Thi hành án dân sự là gì, –hanh-an-dan-su-la-gi/4086/

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

3

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay,
mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc,
trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.”
Qua quá trình nghiên cứu người viết nhận thấy có một số quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng hành chính vì từ
khi công tác thi hành án dân sự được chuyển giao từ tòa án sang các cơ quan thuộc Chính
phủ thì cơ quan tiến hành tố tụng thi hành án không phải là tòa án nữa. Việc giải quyết
khiếu nại, kháng nghị trong thi hành án đã khác hẳn về hình thức, thủ tục so với việc giải
quyết kháng cáo, kháng nghị trong tố tụng dân sự.2
Trong khi đó quan điểm thứ hai lại cho rằng, thi hành án dân sự là thủ tục tố tụng thi
hành các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, quyết định về tài sản
trong bản án, quyết định về hình sự, hành chính và quyết định khác do cơ quant hi hành
án dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật.3
Mặt khác theo quan điểm thứ ba thì thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng dân sự,
giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng của tố tụng dân sự vì nó mang đầy đủ tính
chất, đặc trưng của tố tụng dân sự. Theo quan niệm này, thì cơ quan thi hành án dân sự
hiện nay tuy được đặt trong hệ thống các cơ quan hành chính, nhưng nó không có chức
năng quản lý hành chính mà chỉ có chức năng thực hiện các bản án, quyết định của tòa án
– cơ quan xét xử. “Do vậy thực chất cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan tiến hành tố
tụng thực hiện nhiệm vụ của tố tụng dân sự là thi hành các bản án, quyết định của tòa
án”.4
Ngoài ra, cũng còn một số quan điểm khác cũng cho rằng, thi hành án dân sự cũng
giống như thi hành án hình sự, được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy, thi
hành án dân sự phải được coi là một giai đoạn của tố tụng dân sự và là hoạt động mang
tính chất tư pháp thuần túy.

2

Nguyễn Công Bình (2000), Một số ý kiến về thi hành án dân sự, Báo cáo tại hội thảo: Tư pháp dân sự, Viện nhà
nước và pháp luật tổ chức từ ngày 15-16/10/2000
3
Nguyễn Công Bình (2000), một số ý kiến về thi hành án dân sự, Báo cáo tại hội thảo: Tư pháp dân sự, Viện nhà
nước và pháp luật tổ chức từ ngày 15-16/10/2000
4


Nguyễn Công Bình (2000), một số ý kiến về thi hành án dân sự, Báo cáo tại hội thảo: Tư pháp dân sự, Viện nhà
nước và pháp luật tổ chức từ ngày 15-16/10/2000

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

4

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

Tuy nhiên, các quan điểm này vẫn chưa thể giải quyết được thỏa đáng các vấn đề đặt
ra. Cụ thể:
Hiện tại, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, thì việc thi hành án hình
sự được giao cho các cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức thi hành. Nhưng việc thi hành án
phạt tù vẫn được coi là một giai đoạn của quá trình tố tụng. Đồng thời, theo quy định của
pháp luật, thì cơ quan điều tra và một số cơ quan khác thuộc Chính phủ được giao nhiệm
vụ điều tra đối với một số tội phạm thuộc lĩnh vực quản lý như: Công an, Hải quan, Kiểm
lâm, điều tra quân đội, những cơ quan này điều là các cơ quan thuộc Chính phủ, nằm
trong hệ thống các cơ quan hành pháp, nhưng các hoạt động do các cơ quan này tiến hành
vẫn là hoạt động tố tụng. Chính vì vậy, không thể căn cứ vào việc cơ quan nào đảm nhận
việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự để xác định hoạt động thi hành án dân
sự là tố tụng hay không tố tụng, mang bản chất là hoạt động tư pháp hay hoạt động hành
chính.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008, thì
ngoài việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực pháp luật hoặc
chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng được thi hành ngay, thì cơ quan thi hành án
còn tổ chức thi hành cả quyết định của Trọng tài thương mại là cơ quan không nằm trong

hệ thống các cơ quan tư pháp. Do đó, việc căn cứ vào công việc cơ quan thi hành án dân
sự phải thực hiện để xác định thi hành án dân sự là một giai đoạn của tố tụng là chưa
thuyết phục.
Để có thể xem xét thi hành án dân sự mang bản chất hành chính hay tư pháp, cần phải
xem xét một số vấn đề sau:
Thứ nhất, mục đích của thi hành án dân sự
Trong quá trình tố tụng, cũng như sau khi đã kết thúc quá trình tố tụng, Tòa án cho ra
một bản án hoặc quyết định giải quyết một cách tổng thể về nội dung vụ án (trường hợp
vụ án được đưa ra xét xử). Bằng bản án, quyết định của mình Tòa án nhân danh nhà nước
xác định rõ sự thật khách quan của vụ án; xác định rõ quyền, nghĩa vụ của các bên tham
gia vào quá trình tố tụng. Tuy nhiên, lúc này quyền và nghĩa vụ của các bên mới chỉ xác
định được về mặt lý thuyết, trên cơ sở áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan để
giải quyết vụ việc và còn nằm trên giấy.Tương tự như vậy, khi giải quyết các tranh chấp,
Trọng tài Thương mại cũng mới chỉ vận dụng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ
việc và kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp đó cũng chỉ nằm trên giấy. Để các
quyền, nghĩa vụ này được thực thi trên thực tế, cần thiết phải có một hoạt động tiếp theo
để tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định đó.
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

5

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

Do đó, có thể thấy, mục đích của thi hành án dân sự là tổ chức thi hành các bản án, quyết
định của Tòa án và Trọng tài Thương mại, biến các quyền, nghĩa vụ về mặt lý thuyết
thành các quyền, nghĩa vụ thực tế. Thông qua thi hành án dân sự, trật tự pháp luật, tình
trạng ban đầu của các quan hệ do bị hành vi vi phạm xâm hại được khôi phục.

Như vậy, nếu xem mục đích của tố tụng là khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm
hại, đưa nó trở về trạng thái ban đầu như trước khi bị vi phạm, thì thi hành án dân sự là
một giai đoạn của tố tụng. Có thể nói, mục đích của quá trình tố tụng bao trùm lên mục
đích thi hành án dân sự. Mục đích của thi hành án dân sự là nhằm củng cố thêm mục đích
của tố tụng.
Thứ hai, tính chất công việc
Theo quy định của Luật thi hánh án dân sự năm 2008, thì cơ quan thi hánh án dân sự
có trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật và những bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi
hành ngay đều là kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp, nhưng tính chất lại khác
nhau. Bản án, quyết định của Tòa án là kết quả của quá trình tố tụng, nên nó mang bản
chất tư pháp. Còn quyết định của Trọng tài Thương mại, là kết quả quá trình giải quyết
tranh chấp thông thường, nên nó không mang bản chất tư pháp.
Thứ ba, về các công việc mà cơ quan thi hành án dân sự tiến hành
Cơ quan thi hành án căn cứ vào nội dung bản án, quyết định của Tòa án để thi hành,
dựa trên những quy định về thi hành án được quy định trong Luật thi hành án 2008 và các
văn bản hướng dẫn, đồng thời phải tuân thủ những quy định về cán bộ công chức. Cơ
quan thi hành án dân sự phải tổ chức thi hành đúngvới nội dung của bản án, quyết định
hoặc đúng với nội dung bản án và đơn yêu cầu thi hành án. Cơ quan thi hành án không
được tổ chức thi hành án trái với nội dung bản án, quyết định của Tòa án và Trọng tài
Thương mại.5 Đồng thời, trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự,
sử dụng quyền lực nhà nước trực tiếp tác động đến các bên có liên quan đến việc thi hành
án. Mặc dù, trong quá trình thi hành án, quyền định đoạt của các bên đương sự vẫn được
tôn trọng, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận với nhau
về cách thức thi hành án. Tuy nhiên, nếu như các bên không thỏa thuận được về phương
thức thi hành án, hoặc đã thỏa thuận nhưng bên phải thi hành án không tự nguyện thực
hiện đúng, thì cơ quan thi hành án dân sự sử dụng quyền lực nhà nước thông qua việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết để tổ chức thi hành dứt điểm bản án, quyết định của
5


Điều 4 Luật thi hành án dân sự năm 2008 và Điều 2 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 củ Chính Phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

6

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

Tòa án, quyết định của Trọng tài Thương mại. Đây là một trong những dấu hiệu rất đặc
trưng thể hiện bản chất hành chính của thi hành án dân sự. Tất cả các trường hợp, nếu như
đương sự có điều kiện thi hành án, nhưng không tự nguyện thi hành, đều dẫn tới áp dụng
biện pháp cưỡng chế để thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án và quyết định
của Trọng tài Thương mại.
Ngoài ra, khi thi hành trên thực tế, Chấp hành viên ngoài việc đảm bảo nội dung của
bản án, quyết định của Tòa án còn phải tuân theo sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của cơ
quan thi hành án dân sự, cơ quan quản lý Nhà nước về thi hành án dân sự và Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự, chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của
mình. Trong quá trình thực hiện, nếu có vi phạm những quy định về thủ tục thi hành dẫn
tới việc khiếu nại của đương sự thì việc khiếu nại được giải quyết theo thủ tục hành chính.
Từ các phân tích trên cho thấy, thi hành án dân sự là hoạt động mang tính chất hành
chính – tư pháp.
Ngoài ra, khác với hoạt động tố tụng khác đòi hỏi thủ tục rất chặt chẽ và chỉ do các cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện, thì việc thi hành án, trong một số trường hợp có thể để
người dân tự chịu trách nhiệm, tức là có thể tiến hành xã hội hóa một số hoạt động thi
hành án.
Tóm lại, thi hành án dân sự là hoạt động hành chính –tư pháp, tổ chức thi hành các

bản án , quyết định của Tòa án và Trọng tài Thương mại đảm bảo các bản án, quyết định
có hiệu lực trên thực tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong
quan hệ pháp luật dân sự.
1.1.2 Vai trò của hoạt động thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là phương tiện đưa bản án, quyết định của Tòa án, của Trọng tài
Thương mại vào thực tiễn cuộc sống.
Việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của
người phải thi hành án. Chính vì vậy, người phải thi hành án thường xuyên tìm mọi cách
lẩn trốn, không tự nguyện thi hành án. Trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự, sau khi
áp dụng các biện pháp giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án không đạt kết quả, cơ
quan thi hành án sử dụng quyền lực nhà nước thông qua việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế cần thiết để tổ chức thi hành dứt điểm bản án. Do đó, thi hành án trở thành
công cụ hữu hiệu để đảm bảo cho các bản án, quyết định của Tòa án và của Trọng tài
Thương mại được thực hiện trên thực tế.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

7

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

Thi hành án dân sự là thước đo kiểm nghiệm quá trình tố tụng.
Trong các giai đoạn tố tụng trước đó như điều tra, truy tố, xét xử của Tòa án và quá
trình giải quyết tranh chấp của Trọng tài Thương mại, các cơ quan này mới chỉ xem xét
nội dung vụ án dưới góc độ lý thuyết, vận dụng các quy định của pháp luật, phân tích về
mặt pháp lý các sự kiện để xác định sự thật khách quan của vụ án, xác định ai là người có
quyền, ai là người có nghĩa vụ, quyền và nghĩa vụ của mỗi người đến đâu và xác định ai

là người có quyền, nghĩa vụ liên quan và kết quả của quá trình đó là bản án, quyết định
của Tòa án và quyết định của Trọng tài Thương mại. Tuy nhiên, lúc này các quyền, nghĩa
vụ của các bên liên quan chỉ mới được xác định về mặt pháp lý, chưa được thực hiện
trong thực tiễn. Đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thực hiện
các quyền, nghĩa vụ đó trên thực tế, yêu cầu các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình. Lúc này sự phù hợp hay không phù hợp giữa các quyền, nghĩa vụ được xác định
trong bản án với thực tế sẽ được bộc lộ.
Mặt khác, trong quá trình tổ chức thi hành án, để việc thi hành án được thuận lợi, cơ
quan thi hành án nghiên cứu kỹ nội dung bản án, các tình tiết có liên quan đến vụ án để
lên phương án và lựa chọn biện pháp thi hành án. Chính trong quá trình này, cơ quan thi
hành án có thể phát hiện ra các sai sót của các giai đoạn tố tụng trước đó, từ đó sẽ kiến
nghị với người có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định theo trình tự giám đốc thẩm
hay tái thẩm.
Như vậy, có thể nói rằng, thi hành án dân sự là công cụ, là thước đo, để kiểm tra tính
đúng đắn của các giai đoạn tố tụng trước đó. Nếu tính đúng đắn của các giai đoạn tố tụng
trước đó được đảm bảo ở mức độ cao, thì việc thi hành án sẽ thuận lợi, ngược lại nếu các
giai đoạn tố tụng trước đó có vấn đề, thì quá trình thi hành án dân sự sẽ gặp nhiều khó
khăn.
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án người phải thi hành án và
người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án.
Như đã nêu trên, thi hành án luôn đụng chạm trực tiếp đến lợi ích về vật chất của
người phải thi hành án, nên quá trình thi hành án sẽ trực tiếp tác động đến đời sống của
người phải thi hành án và trong nhiều trường hợp còn tác động cả đến cuộc sống bình
thường của gia đình của người phải thi hành án. Do đó, trên thực tiễn có rất ít người phải
thi hành án tự nguyện thi hành án. Mặt khác, cũng có nhiều trường hợp, người phải thi
hành án không thỏa mãn với kết quả xét xử của Tòa án do quá trình xét xử không khách
quan, hoặc có sự không rõ ràng về pháp lý, nên người phải thi hành án tìm mọi cách để trì

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn


8

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

hoãn, chống đối việc thi hành án. Chính vì vậy, thi hành án dân sự sẽ là một cơ chế hữu
hiệu để người được thi hành án thực hiện quyền của mình.
Tuy nhiên, thi hành án dân sự không chỉ bảo vệ riêng quyền lợi của người được thi
hành án, mà thi hành án dân sự còn bảo vệ cả quyền lợi của người phải thi hành án, những
người có quyền lợi liên quan đến việc thi hành án. Thi hành án dân sự một mặt bảo vệ
quyền lợi của người được thi hành án, nhưng mặt khác, nó cũng bảo vệ người phải thi
hành án trước những kiểu đòi nợ theo kiểu “luật rừng”. Không những vậy, trong pháp luật
về thi hành án dân sự cũng có nhiều quy định cho phép người phải thi hành án chống lại
sự lạm dụng quyền lực của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên trong tổ chức thi hành án
dân sự.
Thi hành án dân sự góp phần đảm bảo trật tự pháp luật và nâng cao pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước để phán xử, nếu không được tổ
chức thi hành, thì toàn bộ kết quả của quá trình tố tụng trước đó trở nên vô nghĩa, dẫn đến
kỷ cương phép nước bị xem thường. Thông qua thi hành án dân sự, các mối quan hệ xã
hội bị xâm hại được khôi phục lại tình trạng ban đầu, trật tự pháp luật được lập lại. Bản án
có hiệu lực pháp luật được thi hành một cách triệt để sẽ có tác động đến ý thức chấp hành
pháp luật của người được thi hành án, người phải thi hành án nói riêng và nhân dân nói
chung, từ đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân, làm cho mọi người
hiểu và làm theo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thi hành án dân sự là kênh tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân.
Quá trình thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự thông qua các hoạt động
nghiệp vụ của mình động viên, giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi

hành án; tiến hành hòa giải để hai bên đương sự thỏa thuận với nhau về phương thức thi
hành án. Để làm được việc này, đòi hỏi chấp hành viên cơ quan thi hành án phải phổ biến,
giải thích rõ các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và các quy định của pháp
luật có liên quan để các bên thực hiện. Do đó, trong quá trình thi hành án dân sự cơ quan
thi hành án đã trực tiếp tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự và pháp luật nói chung đến người được thi hành án, người phải thi hành án. Mặt
khác, do thi hành án là hoạt động mang tính chất đặc thù, quá trình thi hành án dân sự có
sự tham gia của rất nhiều cơ quan, tổ chức có liên quan, nên họ có điều kiện tiếp xúc, nắm
bắt các quy định của pháp luật về thi hành án và các quy định có liên quan.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

9

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

1.1.3 Những đặc trưng cơ bản của thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động phức tạp, quyết định trực tiếp đến quyền và lợi ích
của các bên có liên quan, đảm bảo tính thực thi của các bản án, quyết định của Tòa án. Vì
vậy có thể nêu ra một số đặc trưng cơ bản của thi hành án dân sự cơ bản như sau:
Hoạt động thi hành án dân sự có tính độc lập tương đối
Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của hoạt động tư pháp nói chung và hoạt
động thi hành án dân sự nói riêng. Tính độc lập trong hoạt động thi hành án dân sự ở đây
được hiểu – trên cơ sở nội dung bản án, quyết định của Tòa án và theo đúng quy định của
pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong quá trình thi hành án, các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, công dân,… không được phép can thiệp làm ảnh hưởng đến quá
trình thi hành án như: làm cho việc thi hành án không đúng với quyết định của bản án,

chậm thi hành án hoặc thi hành không đúng theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, do hoạt động thi hành án quyết định trực tiếp trên thực tế đến quyền lợi ích
của các bên có liên quan nên nhiều trường hợp nếu đương sự không tự nguyện thi hành và
cần thiết phải có sự cưỡng chế để đảm bảo thi hành thì dễ ảnh hưởng đến trật tự, an ninh
chính trị ở địa phương nên cần phải có sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, sự tham
gia bảo vệ cưỡng chế của cơ quan Công an…Song phụ thuộc này của Cơ quan thi hành án
cũng không có nghĩa là các cơ quan có liên quan đến quá trình thi hành án có quyền can
thiệp hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án làm trái nội dung của bản án, quyết định mà chỉ có
tính chất hỗ trợ, tạo điều kiện để việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
quả hơn, nhanh hơn đồng thời cũng phù hợp với tình hình an ninh chính trị địa phương.
Hiệu quả hoạt động thi hành án phụ thuộc chủ yếu vào vai trò cá nhân Chấp hành
viên
Khác với hoạt động hành chính, hiệu quả hoạt động chủ yếu dựa trên cơ sở quyết định
của người đứng đầu cơ quan hành chính, còn hoạt động thi hành án dân sự lại dựa trên cơ
sở chủ yếu các cá nhân Chấp hành viên. Điều 20 Luật thi hành án dân sự 2008 quy định:
“Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật,
chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín”.
Ngoài ra, trong thi hành án dân sự, tính chủ động của Chấp hành viên trong lúc tổ
chức thi hành án được đề cao. Căn cứ vào tình hình thực tế, căn cứ vào quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự, Chấp hành viên lựa chọn cách thức thi hành án. Dựa vào sự tự
nguyện của các bên đương sự, nếu các bên không tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

10

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc



Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

áp dụng biện pháp cưỡng chế nhằm thi hành triệt để các bản án, quyết định của Tòa án,
Trọng tài Thương mại.
Hoạt động thi hành án dân sự đòi hỏi tính chính xác cao và không cho phép có sự sai
sót.
Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động đưa bản án, quyết định của Tòa án vào thực
thi trên thực tế, cho nên hoạt động thi hành án dân sự không cho phép các cơ quan thi
hành án có sai sót, vì nếu có sai sót sẽ rất khó, thậm chí có nhiều trường hợp không thể
khắc phục được. Thực tế chứng minh, nhà đã bán, phá dỡ, cho chuyển nhượng,… thì khó
có thể đưa nó trở lại tình trạng ban đầu. Vì lẽ đó, đã không ít trường hợp Chấp hành viên
thi hành sai dẫn đến hậu quả không khắc phục được nên ngoài việc phải nhận các hình
thức kỉ luật còn phải thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp
luật. Để thi hành án được đúng và đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án, thi Cơ
quan thi hành án phải vận dụng rất nhiều các quy định của pháp luật. Muốn tránh được
những sai sót, một mặt đòi hỏi Chấp hành viên phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
nắm vững pháp luật, bên cạnh đó phải có một cơ quan quản lý chuyên sâu về lĩnh vực
pháp luật để tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn Chấp hành viên và các cơ quan thi hành án thực
hiện đúng bản án và các quy định của pháp luật về thi hành án.
Hoạt động thi hành án dân sự là lĩnh vực hoạt động đòi hỏi sự quản lý tập trung thống
nhất công tác tổ chức.
Hoạt động thi hành án là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, quyết định trực
tiếp đến quyền cơ bản của công dân, đảm bảo về pháp chế thống nhất ở hiệu lực của bản
án, nên đòi hỏi hoạt động của cơ quan thi hành án phải có tính độc lập tương đối. Chính vì
vậy, pháp luật quy định Chấp hành viên có thể sử dụng ngay quyền lực được pháp luật
quy định để buộc tất cả các chủ thể có nghĩa vụ (cho dù người đó là ai, với chức vụ quyền
hạn gì,…) phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên.
Trong quá trình thi hành án, Chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. muốn thực hiện được yêu cầu đó thì phải có
một cơ chế hợp lý để Chấp hành viên có thể có được tính độc lập tương đối trong hoạt

động của mình, tránh bị chi phối hoặc điều chỉnh bởi nguyên tắc mệnh lệnh hành chính
làm cho việc thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác thiếu
khách quan, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong thi hành án.
Hoạt động thi hành án không có sự phân biệt đối xử
Bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào (cho dù cá nhân đó giữ cương vị lãnh đạo nào,
cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể, đơn vị lực lượng vũ trang,…) nếu có liên quan trực
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

11

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

tiếp đến việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án nào đó mà Tòa án đã tuyên thì đều phải thực
hiện nghĩa vụ thi hành án bình đẳng như nhau. Đặc điểm này có liên quan trực tiếp đến
việc xác định cơ chế quản lý và tổ chức bộ máy hoạt động của các cơ quan thi hành án.
Đảm bảo hiệu lực chung của bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác
Cũng như các hoạt động khác (điều tra, truy tố, xét xử), hoạt động thi hành án cũng là
hoạt động mang tính quyền lực chung, thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Một bản án,
quyết định có hiệu lực của Tòa sẽ không thể thi hành ở mỗi địa phương, mỗi đơn vị hành
chính khác nhau thì có mỗi kiểu khác nhau mà chỉ có thể thực hiện theo một nguyên tắc
thống nhất và có hiệu lực chung trong toàn quốc đối với bất kì cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào có liên quan. Đây cũng chính là yêu cầu chung của nguyên tắc xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đã được quy định trong
Hiến pháp nước ta. Thể hiện rõ nhất của đặc trưng này chính là cơ chế ủy thác thi hành án
mà hiện nay các cơ quan thi hành án đã, đang và sẽ tiếp tục thực hiện.
1.2 Khái quát chung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự
1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

Quản lý trong xã hội nói chung là quá trình tổ chức điều hành các hoạt động nhằm đạt
được những mục tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên những quy luật khách quan.6
Bản chất của quản lý nhà nước là quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước được ghi
nhận, củng cố bằng pháp luật và được thực hiện bởi bộ máy nhà nước với cơ sở vật chất –
tài chính to lớn, bằng phương pháp thuyết phục và cưỡng chế.
Quản lý nhà nước hiểu theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước theo nghĩa rộng là toàn bộ
mọi hoạt động của nhà nước nói chung, mọi hoạt động mang tính chất nhà nước, nhằm
thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước.7
Quản lý nhà nước hiểu theo nghĩa hẹp: là hoạt động quản lý do một loại cơ quan đặc
biệt thực hiện mà Hiến pháp và pháp luật nước ta gọi là các cơ quan hành chính nhà nước,
còn gọi là hoạt động chấp hành và điều hành nhà nước, hay thường gọi đơn giản là hoạt
động chấp hành và điều hành.8
6

Trường đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh, Những vấn đề của lý luận quản lý nhà nước,
/>nh.docx, [ngày 01/8/2013].
7
Trường đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh, Những vấn đề của lý luận quản lý nhà nước,
/>nh.docx, [ngày 01/8/2013].
8

Trường đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh, Những vấn đề của lý luận quản lý nhà nước,
/>nh.docx, [ngày 01/8/2013].

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

12

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc



Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

Thi hành án dân sự với tính cách là một hoạt động mang tính chất hành chính – tư
pháp, trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay và các quyết định của Trọng
tài Thương mại, cơ quan thi hành án, trực tiếp là cá nhân chấp hành viên, thay mặt nhà
nước, sử dụng quyền lực nhà nước để tổ chức thi hành bản án, quyết định đó, cũng cần
phải có sự quản lý chặt chẽ để đảm bảo cho quyền lực đó được sử dụng một cách có hiệu
quả nhất.
Từ khái niệm thi hành án dân sự, khái niệm về quản lý nhà nước nêu trên, có thể hiểu
quản lý nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án dân sự: là một bộ phận của quản lý nhà nước
trong lĩnh vực quản lý hành chính - tư pháp. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án
dân sự là thông qua hoạt động tổ chức, điều hành của các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá
nhân được nhà nước giao quyền nhằm tổ chức và phối hợp những cố gắng chung của toàn
xã hội để giải quyết những nhiệm vụ của công tác thi hành án dân sự, mà cụ thể là đảm
bảo các yếu tố vật chất, tinh thần, pháp lý... cho hoạt động thi hành án dân sự đem lại hiệu
quả cao nhất góp phần hoàn thiện cải cách nền hành chính nhà nước trong tình hình hiện
nay.
Quá trình quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự là chấp hành luật pháp,
ban hành các văn bản, cụ thể hóa các quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự; tổ chức
điều hành để đưa các văn bản quy phạm pháp luật đó vào thực tiễn thi hành án dân sự; tổ
chức bộ máy thi hành án; đào tạo, quản lý nguồn nhân lực phục vụ hoạt động thi hành án
dân sự; tiến hành kiểm tra việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước và những văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự; kịp thời uốn nắn
và xử lý các vi phạm trong hoạt động thi hành án dân sự; bảo đảm cơ sở vật chất, phương
tiện cho hoạt động thi hành án dân sự9... nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thi hành án dân sự nhằm đảm bảo cho mọi bản án quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật được thi hành nhanh chóng, đầy đủ và đúng pháp luật.
Như vậy, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự là hoạt động của các cơ

quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong việc sử dụng quyền lực nhà nước để xây
dựng và sử dụng phương tiện pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Trên mọi ý nghĩa cụ thể có thể hiểu, quản lý nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án dân
sự là một bộ phận của quản lý hành chính - tư pháp, do những cơ quan hành chính nhà

9

Thi hành án dân sự, vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự,
/>10/8/2013].

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

13

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

nước có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự để hiện
thực hóa các quyền, nghĩa vụ trong bản án trên thực tế, góp phần nâng cao ý thức tôn trọng
pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa và đảm bảo sự ổn định trật tự, an toàn xã hội; tạo
tiền đề thuận lợi cho việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội...
của đất nước trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.2 Các nguyên tắc cơ bản
Các nguyên tắc quản lý Nhà nước về thi hành án dân sự là các quy tắc chỉ đạo, các
tiêu chuẩn hành vi mà các cơ quan quản lý Nhà nước phải tuân thủ trong quá trình quản lý
thi hành án dân sự.
Các nguyên tắc quản lý Nhà nước về thi hành án dân sự do con người đặt ra nhưng
không phải do ý muốn chủ quan mà phải dựa trên các yêu cầu khách quan của các quy

luật chi phối quá trình quản lý thi hành án dân sự. Đồng thời, các nguyên tắc này phải phù
hợp với mục tiêu của quản lý; phải đảm bảo tính hệ thống, tính nhất quán và phải được
đảm bảo bằng pháp luật.
Quản lý Nhà nước đối với thi hành án dân sự ở nước ta cần vận dụng các nguyên tắc
cơ bản sau đây:
Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa hai mặt cơ bản “tập
trung” và “dân chủ” trong mối quan hệ hữu cơ biện chứng chứ không phải chỉ là tập
trung, hoặc chỉ là dân chủ. “Dân chủ” là điều kiện, là tiền đề của tập trung; cũng như “tập
trung” là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Hay nói cách khác, tập trung phải trên
cơ sở dân chủ; dân chủ phải trong khuôn khổ tập trung.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của pháp luật một số nước về thi hành án, cho thấy tuy
các hình thức tổ chức khác nhau, nhưng có chung một nguyên tắc là quản lý tập trung một
đầu mối, tổ chức một cơ quan thi hành án độc lập, có quyền ra quyết định thi hành án và
trực tiếp thực hiện quản lý mọi hoạt động liên quan đến công tác thi hành án.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về
công tác thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý
Nhà nước về công tác thi hành án dân sự và tổ chức việc thi hành án dân sự. Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về
công tác thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Tòa án quân sự và tổ
chức các cơ quan thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Tòa án quân sự.
Về nguyên tắc, hệ thống các cơ quan thi hành án được tổ chức theo ngành dọc từ trung
ương đến địa phương: Tổng cục Thi hành án dân sự (ở trung ương), Cục thi hành án dân
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

14

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc



Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

sự (ở cấp tỉnh), Chi cục thi hành án dân sự (ở cấp huyện), nhưng việc tổ chức thi hành án
thì chỉ có Cục thi hành án dân sự (ở tỉnh) và Chi cục thi hành án (ở huyện). Tổng Cục Thi
hành án (ở trung ương) thuộc Bộ Tư pháp chỉ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và
hướng dẫn nghiệp vụ, đôn đốc Cục thi hành án và Chi cục thi hành án thực hiện tổ chức
thi hành án. Tổng Cục Quản lý thi hành án dân sự không có thẩm quyền ra quyết định can
thiệp vào công việc chuyên môn thi hành án của Cục thi hành án và Chi cục thi hành án.
Việc ra quyết định tạm hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ việc thi hành án dân sự thuộc thẩm
quyền của cơ quan tố tụng.10
Để hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu quả, cần thiết phải quan tâm đến hoạt động
đặc thù mang tính chính trị – xã hội rộng lớn của nó để xây dựng cơ chế quản lý phù hợp.
Công tác quản lý thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng cần tập trung
thống nhất về một đầu mối, giao cho một cơ quan Nhà nước đảm nhận, có thẩm quyền
quản lý tập trung, thống nhất, chỉ đạo hướng dẫn, chi phối và phải chịu trách nhiệm về
mọi vấn đề liên quan đến công tác thi hành án. Bên cạnh đó, cần quy định cơ chế phối
hợp, phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong việc thực hiện công tác thi hành án.
Nguyên tắc tăng cưòng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước về thi hành
án dân sự
Quản lý Nhà nước được hiểu là sự tác động và điều chỉnh mang tính quyền lực Nhà
nước đối với các quá trình, quan hệ xã hội, hành vi hoạt động của con người do các cơ
quan Nhà nước tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội. Sự tác
động mang tính quyền lực Nhà nước là sự tác động bằng pháp luật và theo nguyên tắc
pháp chế, qua đó Nhà nước thể hiện quyền lực của mình đối với mọi hoạt động trong xã
hội.
Công tác thi hành án nói chung (bao gồm thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, kinh
tế, lao động, hành chính…) vừa là công tác chuyên môn, nghiệp vụ, vừa thể hiện quyền
lực Nhà nước, xuất phát từ nguyên tắc Hiến định: “Các bản án và quyết định của Tòa án
nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng, những người và đơn

vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” (Điều 136 Hiến pháp năm 1992).
Để một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án phát sinh hiệu lực
trên thực tế, cần phải có sự chấp hành, phối hợp chấp hành, phối hợp tác động của nhiều
chủ thể. Tuy nhiên sự tác động, điều chỉnh, hướng dẫn hành vi của các chủ thể này theo

10

Điều 2, Luật thi hành án dân sự 2008

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

15

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

cách nào đó nhằm hướng tới mục đích để phán quyết của Tòa án thể hiện hiệu lực trên
thực tế chính là yêu cầu của quản lý Nhà nước về thi hành án.
So với hoạt động quản lý Nhà nước trên nhiều lĩnh vực, hoạt động quản lý Nhà nước
đối với công tác thi hành án dân sự mang nhiều yếu tố đặc thù. Bởi lẽ, ngoài việc phải
thực hiện đúng chức năng, nguyên tắc, nội dung của quản lý Nhà nước nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác này, quản lý Nhà nước về thi hành án dân sự còn nhằm khẳng định
tính nghiêm minh của pháp luật, thể hiện quyền lực Nhà nước, đảm bảo nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Nội dung quản lý, cách thức tác động và cơ chế quản lý cũng thể
hiện những vấn đề riêng có, linh hoạt để công tác thi hành án đạt hiệu quả cao, góp phần
nâng cao ý thức pháp luật trong quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, quản lý nhà nước về thi hành án dân sự còn phụ thuộc vào tính tất yếu, có
căn cứ và thời hiệu của bản án và quyết định đã có hiệu lực của Tòa án. Điều này bảo đảm

được tính khách quan, kịp thời, nghiêm minh của pháp luật, bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành đúng thời hạn và phát huy hiệu quả, qua
đó, công tác quản lý Nhà nước đối với thi hành án cũng sâu sát, nắm chắc được tiến độ và
giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh.
Hiệu quả của quản lý Nhà nước có thể đạt được từ quản lý vĩ mô và quản lý trực tiếp.
Song nếu thực hiện đồng bộ và có sự bổ sung, quan hệ trực tiếp với nhau thì hiệu quả của
quản lý sẽ đạt cao hơn nhiều. Có như vậy mới có thể làm tăng hiệu quả quản lý Nhà nước
đối với công tác này và qua đó đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện quyền lực Nhà nước.
1.2.3 Các biện pháp quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

 Phương pháp giáo dục, thuyết phục, vận động
Nếu như trong quản lý nhà nước nói chung, mệnh lệnh hành chính (mệnh lệnh, phục
tùng) là phương pháp chủ yếu, thường được sử dụng thì biện pháp giáo dục, thuyết phục,
vận động lại được các cơ quan thi hành án rất coi trọng, đặc biệt trong các vụ án có tính
chất phức tạp.
Vận động, thuyết phục thành lợi cho cả hai bên- người được thi hành án và người
phải thi hành án. Cơ quan THA cũng thoát khỏi gánh nặng vì nhiều trường hợp số tiền thu
được từ người phải thi hành án không đủ trả tiền tạm ứng cho chi phí cưỡng chế. Khi
không phải cưỡng chế, cũng có nghĩa là loại trừ khả năng có chống đối, ảnh hưởng đến an
ninh trật tự tại địa phương hoặc các khiếu nại sau đó.

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

16

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp


Vận động, thuyết phục chỉ đạt hiệu quả khi có một hệ thống pháp luật điều chỉnh một
lĩnh vực thi hành án dân sự thống nhất, đồng bộ phù hợp với thực tiễn quản lý, pháp luật
được phổ biến, tuyên truyền sâu rộng tới người thực hiện.

 Phương pháp hành chính
Là biện pháp tác động trực tiếp của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng các
mệnh lệnh hành chính buộc đối tượng quản lý phải phục tùng. Trong quản lý nhà nước
đối với hoạt động thi hành án dân sự, phương pháp này cũng hết sức cần thiết.
Trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, biện pháp hành chính thể hiện sự tham
gia của Nhà nước vào trong hoạt động thi hành án dân sự qua những thủ tục hành chính,
các biện pháp xử lý vi phạm (xử phạt hành chính, cưỡng chế hành chính) và hệ thống các
cơ quan quản lý các cấp.
 Phương pháp cưỡng chế
Các bản án, quyết định của Tòa án phải được thực hiện nghiêm chỉnh. Trường hợp
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng theo các bản án, quyết định đó thì phải cương
quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế, không thể mượn lý do hoà giải để kéo dài thời gian
thi hành án.
Bằng việc phân tích cho các bên thấy được quyền lợi và nghĩa vụ, đồng thời chỉ rõ
bản án đã có hiệu lực bắt buộc phải thi hành. Pháp luật chỉ cho họ một thời gian nhất
định, nếu qua thời gian đó, họ không thi hành thì phải áp dụng biện pháp cưỡng chế. Khi
cưỡng chế, người phải thi hành án còn phải chịu toàn bộ các chi phí cưỡng chế.
Trên thực tế, việc phải tổ chức cưỡng chế không nhiều, cưỡng chế chỉ tiến hành đối
với những vụ việc có tính chất phức tạp, đương sự chây ỳ, chống đối. Cưỡng chế là biện
pháp quan trọng để đảm bảo hiệu lực của quản lý Nhà nước đối với hoạt động thi hành án
dân sự.
Ngoài các biện pháp cơ bản nêu trên, trong quản lý nhà nước về hoạt động thi hành
án dân sự còn sử dụng một số phương pháp khoa học khác như phương pháp thống kê,
phương pháp điều tra… để phục vụ cho công tác quản lý.
1.2.4 Vai trò của quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

Từ khái niệm quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ta có thể nói một cách cụ thể
hơn, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự là hoạt động của các cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho:
Một là, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được chấp hành đầy đủ,
nghiêm chỉnh, đúng luật. Một trong những nguyên tắc của thi hành án dân sự là cơ quan thi
hành án dân sự và chấp hành viên phải tổ chức thi hành án đúng nội dung bản án quyết định
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

17

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

của tòa án và của Trọng tài Thương mại. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp chỉ
thực sự được phát huy khi bản án, quyết định của tòa án, quyết định của Trọng tài Thương
mại được nghiêm chỉnh thi hành. Một bản án quyết định có hiệu lực pháp lực nếu không
được thi hành thì cũng không hơn gì mớ giấy lộn vì các quyền và nghĩa vụ của các bên liên
quan không được thực hiện trên thực tế. Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự nâng cao
hiệu quả của công tác thi hành các bản án, quyết định của Tòa án là đã trực tiếp tác động dến
các cơ quan tư pháp, làm cho quá trình tố tụng trở nên có ý nghĩa thực tế trong cuộc sống.
Hai là, đảm bảo hiệu lực điều hành, quản lý công tác thi hành án dân sự của bộ máy nhà
nước. Để đảm bảo cho mục đích thi hành án đạt được, thì đòi hỏi toàn bộ hệ thống tổ
chức cơ quan thi hành án dân sự, từ hoạt động của bộ máy dến hoạt động của Chấp hành
viên và các cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự phải được vận hành một
cách nhịp nhàng, thống nhất, đúng pháp luật.
Ba là, tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, đảm
bảo pháp chế và những yêu cầu khác đối với thi hành án dân sự. Mọi hoạt động của bất cứ cá
nhân, tổ chức nào có liên quan đến hoạt động thi hành án đều phải tuân thủ nghiêm túc các quy

định của pháp luật về thi hành án dân sự, các văn bản có liên quan. Hoạt động của Chấp hành
viên phải chuẩn xác, mẫu mực, đáp ứng được đòi hỏi của các quy định pháp luật về thi hành án
dân sự nói riêng và pháp luật nói chung. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào hoạt động
của các cơ quan thi hành án dân sự, của chấp hành viên và các cơ quan hữu quan cũng đạt được
mục đích hoàn hảo như mong muốn, mà vẫn có những vi phạm pháp luật xảy ra trong quá trình
thi hành án dân sự. Để khắc phục được điều này, thì quản lý thi hành án dân sự có vai trò rất
quan trọng, nó trở thành phương tiện đảm bảo cho hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự,
chấp hành viên và cơ quan hữu quan thi hành đúng pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật.
Bốn là, tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án một cách đầy đủ, hiệu quả buộc
những người phải thi hành án phải thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Thi hành án dân
sự là một công việc tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế của những người có liên quan
đặc biệt là người phải thi hành án, nên trong giai đoạn thi hành án gặp rất nhiều khó khăn
làm cho hoạt động thi hành án không được đảm bảo. Vì vậy, hoạt động quản lý về thi
hành án dân sự là rất cần thiết, nó đảm bảo cho cơ quan thi hành án dân sự có điều kiện
thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả và buộc người phải thi hành án phải thi hành.
Năm là, ngăn chặn, phòng ngừa, tiếp tục đấu tranh với những hành vi vi phạm trật tự
quản lý ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân
sự. Do chủ thể quản lý nhà nước về thi hành án dân sự được tổ chức theo hàng dọc từ
trung ương đến địa phương nên hoạt động quản lý thi hành án dân sự được diễn ra thường
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

18

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

xuyên, liên tục và chủ động, chính vì vậy mà có tác dụng ngăn chặn những hành vi vi
phạm pháp luật trong thi hành án dân sự. Đồng thời thông qua hoạt động quản lý nhà

nước về thi hành án dân sự, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời phát hiện và xử
lý các vi phạm nảy sinh trong thi hành án dân sự. Điều này sẽ góp phần làm lành mạnh
môi trường thi hành án dân sự, làm trong sạch bộ máy cơ quan thi hành án, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật trong đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân
sự, từ đó nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, góp phần làm tăng cường hiệu
quả của thi hành án dân sự.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện công tác quản lý về thi hành án dân sự, các chủ thể
quản lý sẽ phát hiện những điểm chưa phù hợp từ đó tiếp tục hoàn thiện pháp luật và cơ
chế tổ chức thực hiện trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
1.3 Lược sử các quy định pháp luật về thi hành án dân sự
Quá trình phát triển pháp luật thi hành án dân sự ở nước ta từ năm 1945 có thể được
khái quát qua các thời kỳ sau:11
1.3.1 Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án
dân sự năm 1989, là giai đoạn mà tổ chức hoạt động thi hành án dân sự chưa được dựa
trên một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành, thậm chí có thời kỳ chỉ căn cứ vào Điều lệ tạm thời về công tác
Chấp hành án ban hành kèm theo Công văn số 827/CV ngày 23/10/1979 của Tòa án nhân
dân tối cao. Công tác thi hành án dân sự đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Toà án. Tuy
nhiên, về vấn đề quản lý Nhà nước, hình thức tổ chức và pháp luật thi hành án dân sự có
thể được chia thành các giai đoạn nhỏ như sau: 1945 -1949, 1950 - 1980, 1981 - 1989.
Giai đoạn 1945 đến 1949: Trước cách mạng tháng Tám, ở nước ta đã tồn tại chế định
Thừa phát lại. Căn cứ Luật tố tụng dân sự ban hành theo Nghị định ngày 16/3/1910 của
Toàn quyền Đông Dương. Thừa phát lại là công lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm
và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật, được hưởng thù lao của khách
hàng theo biểu giá quy định và không có quyền từ chối thi hành nhiệm vụ khi được
yêu cầu. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, Thừa phát lại chịu sự chỉ đạo trực tiếp
của những công chức có trách nhiệm của Tòa án như: Chưởng lý, biện lý, thẩm
phán, lục sự... Tổ chức Thừa phát lại chủ yếu tồn tại, hoạt động ở các thành phố
lớn, còn ở các vùng nông thôn việc thi hành án do chính quyền cơ sở đảm nhiệm.

11

Luật Minh Khuê, Những nội dung cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự, Nguyễn Thanh Thủy – Lê Anh Tuấn,
[ngày 11/8/2013].

GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

19

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

Một trong những nhiệm vụ chính của Thừa phát lại là thi hành án dân sự. Chế định thừa
phát lại đã hình thành, tồn tại ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến
năm 1950 và sau đó còn tiếp tục tồn tại dưới chế độ nguỵ quyền Sài gòn cho đến ngày
miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975).
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trên cơ sở Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung,
Nam bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật chung thống nhất cho toàn quốc, nếu
những đạo luật ấy “không trái với các nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam
và chính thể dân chủ cộng hoà”. Chế định thừa phát lại tiếp tục được duy trì. Tại
Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp, phòng giám đốc Hộ vụ
được thành lập, trong đó có Ban công lại thực hiện nhiệm vụ quản lý tổ chức Thừa
phát lại. Cũng theo tinh thần Sắc lệnh ngày 10/10/1945, những quy định về thủ tục
thi hành án dân sự tiếp tục được áp dụng. Tổ chức Thừa phát lại - hình thức tổ chức
và hoạt động thi hành án dân sự đầu tiên của chế độ mới là công cụ đắc lực trong
việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án nhân dân.
Sắc lệnh số 13, ngày 20/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân

chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán đã đặt cơ sở pháp lý
đầu tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam. Sắc lệnh quy định Ban Tư pháp
xã có quyền “thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên” bao gồm các bản
án, quyết định của Tòa án.
Như vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã được hình thành ngay trong những năm đầu
sau cách mạng tháng Tám thành công và tồn tại dưới hai hình thức là: Thừa phát lại và
Ban Tư pháp xã. Tuy tồn tại hai lực lượng thi hành án, nhưng việc thi hành án dù do
Thừa phát lại hay Ban Tư pháp xã tiến hành đều thể hiện quyền lực Nhà nước và được
bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Mặc dù còn ở những bước đi ban đầu nhưng tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự đã
có những đóng góp quan trọng vào việc hình thành và phát triển của nền Tư pháp mới thể
hiện bản chất dân chủ của Nhà nước dân chủ nhân dân. Nhưng ở giai đoạn này, tổ chức
và hoạt động thi hành án dân sự vẫn còn rất sơ khai, pháp luật thi hành án dân sự chưa
đầy đủ và còn nhiều hạn chế, cần phải được tiếp tục củng cố, hoàn thiện trong giai đoạn
tiếp theo.
Giai đoạn từ tháng 5 - 1950 đến năm 1980: Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký Sắc lệnh số 85/SL về “cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng“ tạo nên sự thay
đổi có tính chất bước ngoặt trong tổ chức và hoạt động tư pháp nói chung và tổ
GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

20

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự - Thực trạng và giải pháp

chức hoạt động thi hành án dân sự nói riêng, trong tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự có sự thay đổi từ chỗ việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã
thực hiện được thay thế bằng Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của Biện lý. Nhà nước

thực thi trách nhiệm thi hành án thông qua việc Toà án chủ động thi hành án dân sự mà
không cần chờ đến yêu cầu của các đương sự.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức tòa án
nhân dân năm 1960. Điều 24 của Luật này đã xác định: “Tại các tòa án nhân dân
địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và
quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết
định hình sự”. Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên chấp hành án được
xác định rõ trong Luật tổ chức tòa án nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Ngày 13/10/1972, Chánh án tòa án
nhân dân tối cao đã ra Quyết định số 186/TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của
Chấp hành viên. Tên gọi “Chấp hành viên” ra đời từ và đó tồn tại cho đến ngày
nay.
Để đưa công tác thi hành án từng bước đi vào nề nếp, TAND tối cao đã ban hành Điều
lệ tạm thời về công tác thi hành án (kèm theo công văn số 827/CV ngày 23/10/1979) quy
định khá chi tiết, cụ thể về trình tự, thủ tục THA.
Như vậy, nét đặc trưng trong nội dung quy định của Điều lệ tạm thời, cũng như các
văn bản pháp luật trong thời kỳ này là khẳng định trách nhiệm chủ động của Nhà nước
đối với việc thi hành các BA,QĐ của TA; nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong quá
trình THA không được ghi nhận, điều này đã tạo ra tâm lý thụ động, ỷ lại, chỉ biết trông
đợi vào Nhà nước của người được THA và người phải THA. Việc THA thể hiện tính chất
“bao cấp” nặng nề, vừa làm tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vừa làm hạn chế
hiệu quả công tác THA do không phát huy được tính chủ động và trách nhiệm của đương
sự trong quá trình THA.
Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1989: với sự ra đời của Hiến pháp năm 1980 và Luật
Tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 ra đời tạo cơ sở pháp lý cho việc Bộ Tư pháp (mới
được thành lập sau hơn 20 năm giải thể) đảm nhiệm công tác quản lý Toà án nhân dân về
mặt tổ chức, trong đó có việc quản lý về mặt tổ chức đối với nhân sự làm công tác thi
hành án dân sự. Tại Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) giao cho Bộ Tư pháp có nhiệm vụ “trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành
hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy chế chấp hành án”. Để thực hiện nhiệm vụ này,


GVHD: Lâm Bá Khánh Toàn

21

SVTH: Trần Thị Mỹ Ngọc


×