Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Đôi nét về thơ trữ tình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.73 KB, 3 trang )

Trong nhiều bài thơ, nhất là thơ Nôm, của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
chúng ta bắt gặp những rung động thơ tinh tế, biểu lộ một tâm
hồn nghệ sĩ rất nhạy cảm. Không chỉ là những tiếng thơ mĩ lệ,
những lời thơ đẹp, mà là những xúc cảm thực sự mang tính trữ
tình
(...) Lâu nay, khi nói về thơ ông. người ta hay nghĩ nhiều đến chất triết lý, chất trí tuệ, ít người chú ý đến
chất trữ tình của ông. Trong rừng thơ trí tuệ ấy, yếu tố trữ tình trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đem lại cho
chúng ta cảm giác tươi mát như lạc giữa đại ngàn bỗng gặp một mảnh trời xanh biếc. Trong dịp này, tôi
xin sẽ không đề cập đến mảnh thơ trí tuệ, mảng thơ giáo huấn và mảng thơ phê phán của ông, cũng như
chưa nói đến hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc của ông, mà chi xin nói đôi nét về thơ trữ lình.
Trong nhiều bài thơ, nhất là thơ Nôm, của Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta bắt gặp những rung động thơ
tinh tế, biểu lộ một tâm hồn nghệ sĩ rất nhạy cảm. Không chỉ là những tiếng thơ mĩ lệ, những lời thơ đẹp,
mà là những xúc cảm thực sự mang tính trữ tình. Đó là chiều sâu tâm hồn của mội thi sĩ có bề dày của cả
cuộc sống thời đại, của cả một sức học uyên bác, một sức nghĩ sâu sắc, một cây bút tài hoa. Tôi đã gặp
đâu đây một câu nói hay của một nhà tư tưởng: Triết học cũng như toán học khi đén đỉnh cao sẽ gặp thơ
ca. Ở trường hợp Nguyễn Bỉnh Khiêm, trí tuệ đã phát triển đến nghệ thuật trữ tình, ông đi từ tư duy logic
đến tư duy hình tượng không chút nào khiên cưỡng. Sự chuyển tiếp ấy dung dị, lão thực đến mức người
đời sau đọc thơ ông không khỏi ngạc nhiên về trình độ bậc thầy trong cấu tạo hình ảnh, sử dụng màu sắc,
với những câu thơ vô cùng trong sáng. Có ai nghĩ được rằng người viết những câu:
“Chẵn lẽ đầy vơi số song nhau
Âm dương tiêu trưởng rất cơ màu."
hoặc:
“Thái cực chưa chia còn hỗn độn,
Lưỡng nghi hợp lại mới khai trương…”
Cũng là những người viết những câu:
“Vườn rau sáng dạo sương đầy dép,
Bến cá đêm trăng bóng lọt thuyền…”
hoặc:
“Núi nhuộm sắc thu, xanh chuyển nhạt
Sóng lồng bóng nguyệt, trăng ghen nhau…”
Trong thơ ông, thiên nhiên cũng có tình như người. Giữa sự vật, giữa gió, trăng, hoa, có cũng có mối liên


quan tình cảm với nhau. Thấy hoa nở mới hay có gió đưa tin, nhin mặt nước vẫn rõ bóng nguyệt như dáng


giai nhân. Nhà thơ của chúng ta. giữa những ưu tư về thời thế, vẫn dành thời gian để đợi ánh trăng qua
hàng tre trúc. Để chờ gió đến báo tin hoa nở trước nhà. Nỗi lo đời, thương dân không làm mất đi cái
phong thái ung dung, nỗi rung dộng của lòng mình:
“Đêm, đợi trăng cài bóng trúc
Ngày, chờ gió thổi tin hoa…”
Ông muốn níu lại từng làn hương thoáng qua song cửa, ban đêm nâng chén rượu, ông hồi hộp sợ bóng
trăng tan đi, không ở lại với mình:
“Nương song, ngày tiếc mùi hương lạc
Nối chén, đêm âu bóng quế tan…”
(Thơ Nôm, bài 23)
Tiêu biểu cho thơ trữ tình của Nguyễn Bỉnh Khiêm, có lẽ nên nhắc đến hai bài Khuê tình và Cảm cựu,
một bài nói về nỗi đau buồn của người thiếu phụ nhớ thương chồng nơi trận mạc, một bài nói đến tình
bạn xưa của bản thân tác giả.
“Tiếng ngâm theo ngọn gió tây
Phong khuê thiếu phụ ngủ say một mình
Bỗng nghe hơi gió bên mình
Mới hay có kẻ xót tình biệt ly
Chẳng nề trận mạc ra đi
Trông xa gợi nỗi tái tê bao niềm
Giọt mưa rả rích bên thềm
Như ai thủ thỉ trong đêm nỗi lòng.”
("Nỗi lòng ở chốn phòng khuê" - Bản dịch thơ)
Cũng vần những chất liệu từng gặp trong những bài thơ viết về chinh phụ xưa nay. nhưng ở đây không
phải là tiếng trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt lúc ra đi mà là tiếng trống thúc quản nơi trận mạc
cũng dấy lên nỗi đau lòng của người ở nhà - không phải là ngọn gió xuân không hiểu cho lòng người lại
cứ ỡm ờ vào động màn the, mà là hơi giá buốt thấm vào phòng khuê làm cho người thiếu phụ cô đơn càng
thấm cảnh xót xa ly biệt. Khép lại bài thơ trên là tiếng thì thầm đêm dài của giọt mưa trước thềm, tạo nên

một cảm giác buồn quạnh thê lương và triền miên không dứt. Đối với nhà thơ, nỗi lòng chinh phụ ấy là
một thực trạng của đời sống nhân dân. Chất trữ tình của bài thơ là sự cô đọng của tình thương đời của
ông. Nếu không có tấm lòng ấy, nếu không hòa mình vào số phận của nhân dân trong đời ly loạn ấy, khó
có thể viết nên những vần thơ thiết tha như vậy.
Bài "Cảm cựu" cũng là một bài thơ hay. Thơ xưa cũng từng viết về tình bạn, mừng bạn, khóc bạn, tiễn
bạn như chúng ta đã biết, ở đây Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi vào thơ tình cảm nhớ thương người bạn cũ.
Chúng ta có thể hiểu được nỗi riêng của ông trong thời buổi ấy, người bạn tâm giao có thể do thời thế mà
bước sang một trận tuyến khác; nhưng đối với ông. Hắc triều hay Nam triều, nhà Mạc hay nhà Lê trung
hưng lúc bấy giờ cũng chỉ là những kẻ hung ác hại dân, cho nên khoảng cách không gian chỉ làm cho lòng
nhớ bạn càng mặn nồng hơn. Nỗi riêng ấy, Nguyễn Binh Khiêm chỉ biết trao gửi cho vầng trăng, vầng
trăng lẽo đẽo theo từng bước bên mình, như mối tình chung thủy của ông


“Sơ giao bạn cũ cách xa
Tấm son có biết đậm đà nữa thôi?
Đau lòng vô cớ lệ rơi,
Nhớ ai luống những bồi hồi xiết đau
Sao buồn vẳng tiếng canh thâu
Non cao riêng dứt đàn sầu cho xong
Biết ta chỉ tấm trăng trong
Quan sơn muốn dặm trăng cùng theo ta”
(Bản dịch trích trong bài viết của Vân Trinh)
Chúng ta có thể còn tìm thấy nhiều nét trữ tình như thế ở một số thơ lớn của dân tộc. Mảng thơ này ít
được người đời sau chú ý, dù nó có giá trị nghệ thuật rất cao. Có lẽ mảng thơ ấy đã bị che lấp bởi cái
bóng núi đồ sộ về triết học, về nhân cách tư tưởng của Nguyền Bỉnh Khiêm hầu như đã trở thành trọng
tâm nghiên cứu của nhiều thế hệ và cũng là đặc trưng lớn nhất, cơ bản nhất, của sự nghiệp văn chương
của ông. Dù vậy. chúng ta vẫn nên chắt lọc một chút ánh trăng trong rừng già cổ kính, một chút trời xanh
bên tượng đài trang nghiêm. Làm như vậy, để càng thấy lồng lộng tầm cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm, càng
thấy sự đa dạng, phong phú ở tâm hồn ông.
Trích: Loigiaihay.com




×