Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Cái nhìn của tác giả Nguyễn Ái Quốc đối với các dân tộc bị áp bức được thể hiện qua Bản án chế độ thực dân Pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.5 KB, 2 trang )

Hồ Chủ tịch, người chiến sĩ tiên phong đã phất cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, dành trọn cuộc đời mình cho công cuộc cách mạng
vĩ đại ấy.
Phong trào giải phóng dân tộc "đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử thế giới vào đầu thế kỉ 20". Đặc
biệt, chiến tranh đế quốc 1914 - 1918 và hòa ước Vécxây đáng sỉ nhục làm cho các dân tộc và các giai
cấp bị áp bức trên toàn thế giới nhận định được rõ, thêm bản chất của chủ nghĩa tư bản. Các nước đồng
mình "chiến thắng", một mặt tăng cường bóc lột giai cấp công nhân Châu Âu, Châu Mĩ, một mặt ra sức
khai thác tàn nhẫn thuộc địa. Cách mạng Tháng Mười chỉ ra con đường đấu tranh của nhân loại cần lao.
"Phương Đông thức tỉnh" sẽ góp phần quan trọng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc. Nhân dân các nước bị nô
dịch nổi dậy giành độc lập, tự do, có nghĩa là từng bộ phận của chủ nghĩa đế quốc sẽ sụp đổ, bão táp cách
mạng sẽ nổi lên ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mĩ latinh. Người anh hùng mới của thế kỉ 20 ra đời với một
trách nhiệm lớn lao. Điều đó không thể vắng mặt trong văn học thế giới.
Hồ Chủ tịch, người chiến sĩ tiên phong đã phất cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, dành trọn cuộc đời mình
cho công cuộc cách mạng vĩ đại ấy. Ở đâu, bất cứ lúc nào, Bác cũng hướng tình cảm, ý chí, hoạt động vào
đó. Bác "tin theo Lênin", tán thành Đệ tam Quốc tế, học tập, nghiên cứu, vào sinh ra tử cũng vì sự nghiệp
giải phóng các dân tộc bị áp bức. Những phút xúc động nhất trong đời Bác, khi ở nước ngoài, thời trẻ, là
những phút Bác nghĩ đến những dân tộc còn sống trong vòng nô lệ: khi Bác được tin ông Cúc (Cook)
tuyệt thực và chết vì vấn đề độc lập của dân tộc mình, khi Bác thấy những người công nhân da đen bị
nước biển cuốn đi. Những lần ấy, Bác đã khóc. Tâm hồn nghệ sĩ của Bác dễ rung cảm trước những cảnh
hùng vĩ. Trần Dân Tiên kể rằng: trên tàu biển, anh Ba thích xem cảnh mặt trời mọc; những đêm trăng, anh
đi đi lại lại trên tàu, "hầu như không ngủ", và anh Ba "ngây người nhìn một hòn đảo ở Tênêríppho, miệng
nhắc đi nhắc lại:
- “Bốn! Anh nhìn kia! Đẹp quá, hùng vĩ quá!".
Trái tim ấy hiểu thấu và thương cảm sâu xa hàng trăm triệu người sống cuộc đời lầm than, khổ nhục. Trái
tim ấy càng thấy rõ cái "hùng vĩ" của những người nô lệ, những người có tâm hồn trong sáng, thủy chung,
kiên cường - những người có đầy đủ chí khí để làm cách mạng. "Và muốn được giải phóng, các dân tộc
chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình".
Hiểu rõ giai cấp công nhân, Bác Hồ biết tất cả nỗi khổ cực và sức mạnh của họ, những người duy nhất có
khả năng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc. Xuất thân từ một gia đình yêu nước, Bác thông cảm sâu
sắc với nông dân. Hình ảnh người nông dân thuộc dịa chiếm vai trò lớn trong tác phẩm "Bản án chế độ
thực dân Pháp" (...) Đề bạt người nông dân như một người bạn chiến đấu dũng cảm của giai cấp công


nhân, đó là một sáng tạo trong văn học lúc bấy giờ. Qua hình tượng người nông dân trong tác phẩm, Hồ
Chủ tịch chỉ rõ rằng vấn đề thuộc địa thực chất là vấn đề nông dân.
Nói đến họ, lời văn "Bản án chế độ thực dân Pháp" bao giờ cũng đầm ấm, thiết tha, bác hiểu tấm lòng
thương yêu quê hương đất nước của họ. Đàn cừu, mảnh vườn đối với họ là những gì thân thiết nhất: "Họ
phải đột ngột lìa vợ, lìa con, bỏ đàn cừu, bỏ mảnh ruộng để vượt đại dương, đem xương phơi trên các bãi
chiến trường Châu Âu". Dù có sống sót, họ cũng chỉ lê "tấm thân tàn ma dại" trở về sống kiếp trâu ngựa
dưới cái chế độ "không hề biết gì đến công lí và chính nghĩa”. Bọn thực dân kết án tử hình những người
vô tội. Tiếng oán hờn thống thiết như thúc giục mọi người hãy thấm máu trên người, đứng dậy làm cách
mạng, đánh đuổi bọn thực dân: "Máu của những người Việt Nam ấy nhuộm đỏ cánh đồng Mỹ - ngụy, dù
có phai với thời gian, nhưng vết thương lòng của những bà mẹ già, những em bé mồ côi, thì không bao
giờ hàn gắn được". Chương Những nỗi khổ nhục của người đàn bà bản xứ chứa chan tình thương cảm xót
xa của Bác.
Không phải Bác chỉ thấy ở nhân dân lao động thuộc địa cuộc đời đầy oan khốc, Bác còn thấy họ là những
người khẳng khái, thương nước yêu nhà, và dũng cảm phản kháng cái chế độ thuộc địa bất lương ấy.
Những người phụ nữ có chồng con, cha anh bị giam cầm, đã vượt mọi gian nguy đến thăm họ: "Tất cả cái
đám người đã kiệt sức ấy mang theo đủ mọi thứ, nào nón, nào quần áo rách, cơm nắm... để lên đưa cho


người bị can, là cha, là chồng". Đó là những người nông dân "nổi lên chống tạp dịch", là những người
Lào bỏ nhà bỏ cửa trốn đi, không chịu đi phu cho giặc, là "những vụ biến động lừng danh năm 1908 và
năm 1916" ở Việt Nam. Đặc biệt, trong chương XII, Nô lệ thức tỉnh, tác giả đã kết thúc tác phẩm bằng
hình ảnh đầy hứa hẹn của Trường Đại học Phương Đông, trên đất nước Liên Xô, một "dấu hiệu của kỉ
nguyên mới" của các dân tộc bị áp bức.
Tóm lại, với Bản án chế độ thực dân Pháp của Hồ Chủ tịch, một nhân vật tích cực đã ra đời trong văn học
hiện đại: nhân vật đại diện cho các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa vùng dậy làm cách mạng, đại diện cho
một lực lượng cách mạng hiện nay đang làm cho chủ nghĩa đế quốc suy yếu và tan vỡ, và thúc đẩy quá
trình diệt vong của nó; một nhân vật anh hùng mà giản dị, gian khổ mà trong sáng, kiên cường, bất khuất,
một lòng thủy chung với cách mạng.
Trích: Loigiaihay.com




×