Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Luận án tiến sĩ không gian và thời gian nghệ thuật trong cố đô của yasunary kawabata

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (29.5 MB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ HẠNH

KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
NGHỆ THUẬT TRONG CÓ ĐÔ
CỦA YASUNARY KAWABATA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC






C huyên ngành: V ăn học nư óc ngoài

HÀ NỘI- 2015




TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ HẠNH

KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
NGHỆ THUẬT TRONG CÓ ĐÔ
CỦA YASUNARY KAWABATA



KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP
ĐẠI
HỌC




C huyên ngành: V ăn học nước ngoài

Ngưòi hưóng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH DUNG

HÀ NỘI- 2015


LỜ I CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình, tôi đã nhận
được sự giúp đờ và chỉ bảo tận tình của các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ
văn- Trường ĐHSP Hà Nội 2, trong tố bộ môn Văn học nước ngoài.
Tôi xin bày tở lòng biết ơn sâu sắc của mình tới các thầy, cô giáo trong
khoa, tổ, đặc biệt là TS. Nguyễn Thị Bích Dung - người đã trực tiếp hướng
dẫn tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hci Nội, ngày

tháng năm 2015

Sinh viên


Nguyễn Thị Hạnh


L Ờ I C AM Đ O A N
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
TS.Nguyễn Thị Bích Dung. Tôi xin cam đoan rằng:
- Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
- Ket quả này không trùng với kết quả của bất kỳ tác giả nào đã được
công bố. Neu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hci Nội, ngày

thảng năm 2015

Sinh viên

Nguyễn Thị Hạnh


M Ụ C LỤC

MỞ Đ À U ................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài.................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đ ề .................................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................... 5
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sá t..................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................6
7. Đóng góp của khóa luận.....................................................................................6
8. Bố cục khóa luận................................................................................................ 6

NỘI DUNG.............................................................................................................7
CHƯƠNG 1. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG CÓ Đ Ô .................7
1.1. Khái niệm về không gian nghệ thuật.............................................................7
1.2. Không gian nghệ thuật trong c ố đô...............................................................8
1.2.ì. Không gian chùa chiền, nỉ viện............................................................... 10
1.2.2. Không gian sinh hoạt.................................................................................18
1.2.3. Không gian tâm lý ......................................................................................24
CHƯƠNG 2. THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG CÓ Đ Ô ....................32
2.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật....................................................................32
2.2. Thời gian nghệ thuật trong c ổ đ ô ................................................................33
2.2.1. Thời gian tự nhiên......................................................................................34
2.2.2. Thời gian tâm lỵ .........................................................................................40
2.3. Cách tổ chức thời gian................................................................................. 42
KẾT LUẬN......................................................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHĂO
PHỤ LỤC


MỞĐẢƯ

1. Lí do chọn đề tài
1.1. L í do khoa học
Yasunary Kawabata (1899- 1972) là một nhà văn lớn của Nhật Bản,
người Châu Á thứ hai sau R. Tagore nhận giải thưởng Nobel văn chương vào
năm 1968, đúng 100 năm sau cuộc Duy tân Minh Trị (1968) khởi đầu. Những
sáng tác của Y. Kavvabata phản ánh và khắng định những nét đẹp truyền
thống của con người và thiên nhiên Nhật Bản bằng “nghệ thuật viết văn tuyệt
vời và tình cảm lớn lao, thế hiện được bản chất và cách tư duy Nhật
Bản”(Đánh giá của Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điên khi trao giải).
Y. Kawabata được các nhà nghiên cún tôn vinh như người “Mở cánh cửa

tâm hồn Nhật Bản”. Ông là nhà văn Nhật Bản đầu tiên nhận giải Nobel văn
học vào năm 1968 với bộ ba tiểu thuyết: X ứ tuyết (1947), Ngàn cánh hạc
(1951), Cố đô (1962).
Cố đô là một trong ba bộ tiểu thuyết tiêu biểu, đặc sắc làm nên tên tuổi
của Y. Kawabata. Mỗi tác phấm của Y. Kawabata đều cho thấy nghệ thuật
viết văn tuyệt vời và tình cảm lớn lao, thể hiện được bản chất của cách tư duy
Nhật Bản qua bút pháp sáng tác bậc thầy - một kiếu sáng tác lãng mạn mà
không gian và thời gian nghệ thuật là một yếu tố rất quan trọng trong đó.
Không gian và thời gian là sản phấm sáng tạo đế nhà văn thế hiện quan
niệm nhất định về con người, cuộc sống. Vì vậy, việc tìm hiếu về không gian
và thời gian nghệ thuật là điều thú vị, là sự quan tâm của nhiều người.
Đối với Y. Kawabata, từ lâu “Không gian và thời gian nghệ thuật” trong
sáng tác của ông vẫn được coi là một đề tài mới mẻ và hấp dẫn đối với những
người say mê văn chương Nhật Bản - say mê dòng văn học xứ Phù Tang.
Không gian và thời gian nghệ thuật là hiện tượng của thế giới khách quan khi


đi vào nghệ thuật được soi rọi bằng tư tưởng, tình cảm, được nhào nặn và tái
tạo trở thành một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, thấm đẫm cá tính sáng tạo
của nhà văn.
Không gian và thời gian trong văn học rất tiêu biếu cho khả năng chiếm
lĩnh đời sống rộng, sâu và nhiều mặt của ngôn từ. Cảm quan về không gian và
thời gian gắn liền với cảm quan về con người và cuộc đời, gắn bó với ước mơ
và lý tưởng của nhà văn. Không gian và thời gian là những yếu tố quan trọng
góp phần tạo nên diện mạo và giá trị của tác phấm. Mỗi nhà văn có cách tổ
chức không gian và thời gian riêng tùy thuộc vào tài năng và phong cách của
mỗi người. Nhưng nhìn chung đó là những phạm trù quan trọng, giúp nhà văn
tái hiện về hiện thực đời sống, phản ánh quan niệm nhân sinh quan của mình.
Tác phấm văn học là sản phấm của nhà văn. Ớ đó nhà văn không chỉ tái
hiện lại những sự kiện, hiện tượng của thế giới, đề xuất một quan niệm khái

quát tư tưởng rõ rệt về chúng mà còn xây dựng nên một thế giới nhân vật và
sự kiện tồn tại trong không gian và thời gian nghệ thuật nhất định đã gia công
và xử lý theo ý đồ của mình. Tìm hiếu không gian và thời gian trong một tác
phấm văn học là điều rất thú vị và là mối quan tâm của nhiều người. Từ lâu
trong sáng tác của Y. Kawabata đề tài này được xem là đề tài mới mẻ, hấp
dẫn đối với những người say mê tìm hiểu văn chương xứ sở Phù Tang.
1.2. L í do

SÍT phạm

Việc tìm hiếu sáng tác của Y. Kawabata sẽ gúp người giáo viên tương lai
có cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học
Nhật Bản. Từ đó tích lũy được những tư liệu cần thiết cung cấp cho học sinh
hiểu biết thêm về những sáng tác văn học được học trong nhà trường phổ
thông như thơ Haikư của Basho. Và đặc biệt giúp các em có cái nhìn đúng
đắn trong học tập và trong cuộc sống.

2


Một tác phấm văn chương sinh động, hấp dẫn được thể hiện qua rất
nhiều phương diện nghệ thuật, trong đó “Không gian và thời gian nghệ thuật”
là đề tài độc đáo và đặc sắc. Khi nghiên cứu đề tài này người viết không chỉ
nắm được nội dung tư tưởng của tác phấm mà còn là dấu hiệu nhận biết
phong cách của nhà văn.
Từ nhũng lí do đó chúng tôi chọn đề tài Không gian và thời gian nghệ
thuật trong c ố đô của Y. Kawabata với hi vọng sẽ khám phá được phần nào
đóng góp của tác giả làm nên giá trị nghệ thuật cho tác phấm.
2. Lịch sử vấn đề
Nói tới không gian và thời gian nghệ thuật là là nhắc tới một trong

những vấn đề cơ bản của khoa nghiên cứu văn học hiện đại. Ngày nay không
gian và thời gian nghệ thuật rất được giới nghiên cứu chú trọng. Tuy nhiên
trước thế kỷ XX, khái niệm này dường như chưa được quan tâm một
cách đúng mức.
Y. Kawabata là một trong những nhà văn góp phần làm phong phú các
giá trị văn chương của nhân loại trong thế kỉ XX. Sáng tác của ông luôn thu
hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước:
Tạp chí văn học số 16 (tháng 9/ 1999) tác giả E.G.Sheidensticker nhận
xét: “Tôi cho rằng nên xếp Y. Kawabata vào dòng văn chương mà ta có thế
dò đến tận bậc thầy Haikư của thế kỉ XVII”. Trong bài viết này tác giả chủ
yếu tìm hiếu nghệ thuật Chân không trong sáng tác của Y. Kawabata.
Tạp chí văn học số 9 năm 1999: Tác giả Lưu Đức Trung có bài viết bàn
về “Thi pháp tiểu thuyết Y. Kawabata- Nhà văn lớn của Nhật Bản”. Thể hiện
rõ thi pháp đặc trưng trong sáng tác của Y. Kawabata là thi pháp Chân không
(nói ít, gợi nhiều, ý được thoát ra từ khoảng trống của câu chữ).
Tạp chí văn học số 2 năm 2002, tác giả Nhật Chiêu có bài “Thế giới
Kawabata Yasunary trong tác phẩm của ông”

3


Tạp chí văn học số 1 năm 2004 với bài “Thủ pháp tương phản trong
truyện Người đẹp say ngũ của Y. Kawabata” của tác giả Khương Việt Hà,
bài viết tập trung đi sâu tìm hiểu nghệ thuật của tác phấm
Trong tạp chí văn học số 7 năm 2005: Đào Thị Thu Hằng có bài: “Y.
Kawabata giữa dòng chảy Đông- Tây”. Bài viết nghiên cứu về sự ảnh hưởng
của văn hóa phương Tây đối với Y. Kawabata và khắng định văn hóa phương
Đông là gốc rễ trong tư tưởng nhà văn.
Tạp chí văn học số 11 năm 2005 với bài: “Y. Kawabata- Lữ khách
muôn đời đi tìm cái đẹp” của tác giả Nguyễn Thị Mai Liên. Bài nghiên cứu đi

sâu vào vẻ đẹp Nhật Bản trong sáng tác của Y. Kawabata: v ẻ đẹp thiên nhiên,
vẻ đẹp phong tục, vẻ đẹp của tâm hồn con người.
Trong nghiên cứu văn học số 6 năm 2006: Khương Việt Hà có bài bàn
về “Mĩ học Y. Kawabata” bài viết trình bày rõ quan điếm về cái đẹp của Y.
Kawabata và nguồn gốc hình thành quan điểm đó.
Tác giả Đào Thị Thu Hằng vói cuốn chuyên luận ‘‘Vẫn hóa Nhật Bản
và Yasunary Kaxvabata ” chuyên luận viết về những nét văn hóa đặc sắc của
Nhật Bản, về tác giả Y. Kawabata và nghệ thuật kế chuyện trong sáng tác của
ông, trong đó có nhắc đến phương diện không gian và thời gian.
Nhìn chung, đã có một số bài viết đề cập đến “Không gian và thời gian
nghệ thuật” trong sáng tác của Y. Kawabata nhưng chưa được khai thác sâu
mà chủ yếu chỉ tập trung làm nối bật cái đẹp trong tác phẩm của ông.
Trong L í luận văn học - vấn đề và suy ngẫm của Nguyễn Văn Hạnh và
Huỳnh Như Phương, hai nhà nghiên cứu đi vào làm rõ một số đặc điểm về
hình tượng thời gian và không gian, v ề hình tượng không gian có không gian
thiên nhiên, không gian sinh hoạt, có thê là không gian mở hay không gian
khép, là không gian tĩnh hay động.về hình tượng thời gian có thời gian trần
thuật, thời gian tâm lí. Tác giả cũng nhấn mạnh “hình tượng thời gian cũng
đồng thời biểu lộ cách nhìn của con người về thế giới”[9; tr 183].
4


Không gian và thời gian là hai khía cạnh của sự vật, là kích thước của sự
sống, là một hiện tượng của thế giới khách quan. Nghệ thuật biếu hiện sự
sống, tái hiện sự sống làm sao không dựng cái khung không gian và thời gian
lên được để chứa đựng vật, để cho sự vật có chỗ sống, sinh sôi nảy nở” (Huy
Cận). Trong khóa luận này, người viết muốn tìm hiểu, khám phá sâu hơn
phương diện “Không gian và thời gian nghệ thuật trong c ố đô của
Y. Kawabata”.
Cố đô là là một trong ba tác phấm đạt giải Nobel của Y. Kawabata. Tác

phẩm nói tới vẻ đẹp của thành phố Kyoto và các truyền thống cố, cũng từ đó
thê hiện tâm lí của con người - đặc biệt là nói tới cặp chị em song sinh đã bị
chia cách từ lúc mới chào đời. Không gian và thời gian trong tác phẩm được
Y. Kawabata thế hiện rất độc đáo, sinh động khiến độc giả cảm nhận mới mẻ
không dễ gì nắm bắt được ngay mà phải bằng cả tâm hồn, sự hứng thú của
mình để tìm hiếu sâu sắc vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Đe tài nhằm mục đích khám phá không gian và thời gian nghệ thuật
trong Cố đô của Y. Kawabata. Qua đó thấy được tài năng của nhà văn và
nhũng đóng góp lớn lao của ông cho nền văn học Nhật Bản nói riêng và cho
nhân loại nói chung.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này người nghiên cứu hệ thống các khoảng không gian và thời
gian khác nhau trong tác phấm, sau đó tiến hành phân tích, so sánh, đối chiếu
giúp người đọc thấy được những đóng góp, sáng tạo mới mẻ của Y. Kavvabata
về vấn đề đang cần bàn.

5


5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Không gian và thời gian nghệ thuật trong c ố đô của Y. Kawabata.
5.2. Phạm vi khảo sát
Tiểu thuyết Cố đô của Y. Kawabata do Thái Văn Hiếu dịch.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đe thực hiện đề tài này, người viết đã sử dụng các phương pháp như:
- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp khảo sát tác phẩm.
- Phương pháp tống hợp nâng cao vấn đề

7. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận đóng góp một phần nhỏ bé vào việc cung cấp ngữ liệu về
việc giảng dạy những tác phấm văn học Nhật Bản sau này ở phố thông.
8. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung của khóa luận được chia làm
hai chương:
Chương 1: Không gian nghệ thuật trong c ố đô
Chương 2: Thời gian nghệ thuật trong c ố đô

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG CÓ ĐÔ
1.1. Khái niệm về không gian nghệ thuật
Không gian là hình thức cơ bản của thế giới. Trong đó, các vật thế có độ
dài và độ lớn khác nhau nhưng đó chưa phải là không gian nghệ thuật. Không
gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Không có hình
tượng nghệ thuật nào không có không gian.
Neu thế giới nghệ thuật là thế giới của cách nhìn và mang ý nghĩa khái
quát thì không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách
nhìn. Không gian ấy có thế rất rộng có thế là rất hẹp. Nó cũng có viễn cảnh,
có giá trị tình cảm. Tình cảm có thế làm cho không gian bao la thêm hay gò
bó chật chội hơn. Không gian nghệ thuật không đồng nhất với không gian
hiện thực. Đây là yếu tố quan trọng không thế thiếu trong việc hình thành thế
giới nghệ thuật, góp phần thế hiện thế giới quan tư tưởng của người nghệ sĩ
trước hiện thực và xã hội, phụ thuộc vào cách phản ánh thế giới của nhà văn
vì nó mang tính chủ quan.
Trong “Từ điên thuật ngữ văn học” các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình

Sử, Nguyễn Khắc Phi đã định nghĩa về không gian nghệ thuật như sau:
“Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, thế
hiện chỉnh thể của nó. Sự miêu tả trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng
xuất phát từ một “điếm nhìn” diễn ra trong “trường nhìn” nhất định. Không
gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên mang tính chủ quan, ngoài
không gian vật thế có không gian tâm tưởng”[8; tr 322]. Do vậy, không gian
nghệ thuật có tính độc lập, tương đối, không quy được vào không gian địa lý.
Không gian nghệ thuật trong tác phấm văn học có tác dụng mô hình
hóa các mối quan hệ của bức tranh thế giới như: Thời gian, xã hội, đạo đức,
7


tôn ti trật tự. Không gian nghệ thuật có thê mang tính địa điêm, tính phân
giới, tính cản trở. Nó cung cấp cơ sở khách quan đế khám phá tính độc đáo
cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật. Không gian
nghệ thuật là một mô hình nghệ thuật về thế giới mà con người đang sống,
đang cảm thấy vị trí, số phận mình trong đó. Không gian nghệ thuật mang
tính ước lệ, mang ý nghĩa cảm xúc, tâm tưởng của thế giới tinh thần. Trong
văn học, không gian được biểu hiện bằng các không gian điểm mang tính
ước lệ tượng trưng: Làng quê, trong nhà, ngoài vườn, bến sông, thành phố,
biển khơi, lễ hội, con đường...
Việc tìm hiêu không gian nghệ thuật của một tác giả, một tác phâm có
tầm quan trọng lớn, cho phép khám phá phong cách và cá tính sáng tác của
người nghệ sĩ một cách khoa học về đời sống.
1.2. Không gian nghệ thuật trong c ố đô
Cố đô là một trong những kiệt tác nghệ thuật đạt giải Nobel văn học của
Kawabata (năm 1968). Câu chuyện nói tới một cặp chị em song sinh đã bị
chia cách từ lúc mới chào đời, tác phấm đã nói lên vẻ đẹp của thành phố
Kyoto và các truyền thống cố với những phụ nữ Kyoto còn giữ vẻ duyên
dáng, không bị nền văn hóa phương Tây làm biến chất.

Tiểu thuyết Cố đô kể về cô gái trẻ Chieko, một đứa trẻ bị cha mẹ nghèo
xơ xác bỏ rơi và được gia đình thương gia Takichiro nhận nuôi, ở đây cô được
nuôi nấng dạy dỗ theo những nguyên tắc truyền thống của Nhật Bản. Chieko
là một cô bé nhạy cảm, trung thành, nhưng thường ấp ủ về thân thế của mình.
Ớ Nhật bản người ta cho rằng một đứa trẻ bị bở rơi sẽ khố ải với tai ương suốt
đời, thêm vào đó theo một quan niệm hết sức lạ lùng của Nhật Bản, trẻ sinh
đôi còn chịu sự nhục nhã đáng xấu hố. Một ngày tình cờ cô gặp một cô gái lao
động xinh đẹp trong rừng tuyết tùng gần thành phố và phát hiện ra rằng cô là
người em song sinh của mình. Họ gắn kết sâu sắc với nhau vưọt qua hàng rào


giai cấp xã hội - cô gái thô kệch, làm việc nặng nhọc Naeko và cô gái thanh
nhã, luôn được bảo vệ cấn mật Chieko, nhung sự giống nhau lạ lùng giữa họ
đã mau chóng làm phát sinh rắc rối, phiền toái. Toàn bộ câu chuyện được đặt
trong bối cảnh năm lễ hội tôn giáo ở Kyoto từ mùa xuân anh đào nở rộ đến
mùa đông lấp lánh tuyết.
Bản thân thành phố thật sự là một nhân vật quan trọng, thủ đô của vương
quốc xưa, từng là nơi đóng đô của Thiên hoàng và triều đình, sau hàng ngàn
năm vẫn là một thánh địa lãng mạn, quê hương mỹ thuật và hàng thủ công
trang nhã, ngày nay tuy bị khai thác cho du lịch nhưng vẫn là địa điểm thăm
viếng được ưa chuộng. Với các chùa chiền phật giáo và các đền thờ Thần đạo,
khu thủ công xưa và vườn thực vật, nơi này mang trong nó chất thơ mà Y.
Kawabata thể hiện bằng một phong cách dịu dàng, nhã nhặn, không ủv mị mà
tự nhiên như một sự hấp dẫn đầy xúc động. Ông đã sống trong thất bại nặng
nề của đất nước và nhận thức chắc chắn rằng tương lai đòi hỏi những gì về
tinh thần cầu tiến, nhịp điệu và sức sống công nghiệp. Nhưng trong làn sóng
hậu chiến của sự Mỹ hóa mạnh mẽ, tiểu thuyết của ông là lời nhắc nhở nhẹ
nhàng về sự cần thiết cứu lấy một cái gì đó trong vẻ đẹp và cá tính của Nhật
Bản xưa cho một nước Nhật Bản mới. Ông mô tả những lễ nghi, tôn giáo ở
Kyoto một cách tỉ mỉ như thể chọn mẫu hoa văn trên thắt lưng truyền thống

trong trang phục phụ nữ. Những khía cạnh này trong tiếu thuyết có thề có giá
trị tài liệu, nhưng độc giả thích thú với những đoạn miêu tả sâu sắc như vậy
như đoạn tả nhóm người trung lưu của thành phố thăm viếng người thực vật vốn bị đóng cửa một thời gian dài vì lính Mỹ chiếm đóng lập doanh trại ở đó
đế nhím xem những con đường đáng yêu với hàn cây long não còn nguyên và
có thế làm vui sướng những con mắt thành thạo hay không.
Không gian Co đô của Y. Kawabata đã góp phần quan trọng trong việc
bộc lộ tư tưởng, dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Ớ đây, ông đã dựng lên một
không gian đồng hiện giữa hiện tại và quá khứ . Y. Kawabata thường khắc
9


họa một vài đường nét còn lại là những khoảng trống hư không. Điều này cho
thấy tác giả luôn trân trọng quá khứ, hướng về quá khứ đế tìm lại vẻ đẹp
truyền thống đang dần bị lãng quên.
Căn cứ vào kết quả khảo sát cho thấy không gian nghệ thuật trong c ố đô
củaY. Kawabata gồm ba kiếu không gian: Không gian chùa chiền, ni viện;
Không gian sinh hoạt; Không gian tâm lý. Các kiểu không gian trong tiếu
thuyết Cố đô được thống kê như sau:
Các kiễu không gian

Số lần xuất hiện và tỉ lệ phần trăm

1. Không gian chùa chiền, ni viện
Không gian của nghệ thuật

4 lần (10,52%)

Không gian của tâm linh

10 lần (26,32%)


Không gian của lễ hội

5 lần (13,16%)

2. Không gian sinh hoạt
Không gian ngôi nhà

5 lần (13,16%)

Không gian thành phố Kimono

3 lần (7,89%)

Không gian vùng Bắc Son

5 lần (13,16%)

3. Không gian tâm lý

6 lần (15 ,79%)

Qua kết quả khảo sát cho ta thấy kiếu không gian chủ đạo trong c ố đô là
không gian của tâm linh. Sau đây là các kiếu không gian xuất hiện trong tiếu
thuyết Cố đô của Y. Kawabata:
1.2.1. Không gian chùa chiền, ni viện
ỉ.2.1.]. Không gian của nghệ thuật
Nhắc tới không gian nghệ thuật trong tác phấm văn học là nói về một
vấn đề có nhiều tranh cãi, nhiều quan niệm khác nhau, tuy nhiên các quan
điểm đều gặp gỡ nhau trong quan niệm cho ràng: Không gian nghệ thuật

không đồng nhất với không gian hiện thực. Đó là mô hình nghệ thuật về thế

10


giới mà con người đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của mình trong
không gian đó. Không gian nghệ thuật là một yếu tố quan trọng thuộc hình
thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là phạm trù thuộc hình thức nghệ thuật.
Tuy nhiên điều đặc biệt là ở chỗ, không gian nghệ thuật là hình thức mang
tính nội dung. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm của Y. Kawabata cũng
là một trong những yếu tố nghệ thuật độc đáo của Y. Kavvabata làm nên sự
hấp dẫn cho tác phẩm.
Trong Cố đô, bên cạnh những không gian hẹp của “các đường hẻm chật
chội có những ngôi nhà đã sạm đen vì cũ kỹ” là không gian những lối mòn,
những con đường: “hai bên con đường nhỏ dẫn từ cánh cống hẹp vào nhà có
những bụi hagi trắng đang kì nở rộ”. Và mở rộng hơn là không gian của
những hồ nước được phủ lên sắc hồng tươi đẹp của hoa anh đào: “Nơi đây
dưới tán lá xanh ngự trị cảnh tranh tối tranh sáng. Mùi lá non và đất ấm phảng
phất... Con đường đã dẫn họ tới một khu vườn rộng có hồ ở giữa. Hồ lớn hơn
cái hồ mà họ vừa đi qua. Cảnh vật vụt trở nên sáng sủa nhờ những cây anh
đào đầy hoa in bóng trên mặt nước hồ”. Thành phố Kyoto nổi tiếng với những
lễ hội bốn mùa,cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và những chùa chiền thấp
thoáng dưới những tán lá xanh. Ớ thành phố xinh đẹp, trù phú: “Kyoto là một
thành phố lớn với những cây cối đẹp đến sững sờ. Không sao tả được cái
tuyệt mỹ nơi khu vườn bao quanh biệt thự hoàng gia cạnh chùa Xingakuin,
cánh ròng thông bên hoàng cung, bao nhiêu vạt vườn mênh mang của nhũng
ngôi chùa cố mà ngay cây cối trên các phố xá cũng rất tươi tốt. Những cây
liễu rủ ở Kiyamachi và bên bờ sông Takaxe, những con đường trồng liễu dọc
các dãy phố Godgio và Horikata thật lạ thường... Cả những cây thông đở mọc
thành hình bán nguyệt trên Bắc Sơn cũng khiến người ta thán phục”. Chính

cảnh đẹp tuyệt vời này đã thu hút du khách thập phương tụ họp về đây trong
những ngày lễ hội và cũng là nơi hai chị em song sinh Naeko và Chieko tình
cò' tìm ra nhau sau mấy chục năm lưu lạc.
11


Nhìn tống thế, ngoài không gian thiên nhên, cây cỏ, không gian trong c ố
đô được Kawabata xây dựng đồng hiện gồm có: không gian phố phường c ố
đô, không gian cửa hiệu của gia đình Xada, không gian chùa chiền, không
gian làng, ràng - thông liễu ở Bắc Son, không gian Thất Lâu Thượng Quận.
Không gian phố cố ở Kyoto: những ngôi chùa cố, thành phố ngập tràn trong
màu xanh tươi trẻ của cây cối. Chieko và Xinichi đã hứng khởi có một lưọt đi
dạo không gian khu vườn cây phong lớn đế ngắm cảnh thiên nhiên. Không
gian phố phường Kyoto cũng là nơi diễn ra các lễ hội mà lễ hội nào cũng nhắc
Chieko liên tưởng về quá khứ.
1.2.1.2. Không gian của tâm linh
Chùa Heian Dgingu, nơi có hoa anh đào đang kì nở rộ, chùa này được
coi là không cố lắm. Chieko nhận được lời mời của Xinichi Midzuki, đi xem
anh đào nở ở chùa này. Hơn nữa chùa Heian nối danh với ngày lễ Kỷ Nguyên.
“Người ta dựng ngôi chùa này vào năm 1895 để tưởng niệm thiên hoàng
Kammu, người hơn ngàn năm trước đã hạ chiếu thiên đô về chỗ bây giờ là
Kyoto. Cống tam quan và chùa ngoài giống y như cổng Otemmon và cung
Daigokuden ở Heian”. Không gian vườn chùa Heian “Vườn chùa ở Heian
Dgingu thành ra một trong các địa điếm ưa dùng nhất đế tổ chức hôn lễ”.
Chieko thả hồn mình vào rặng anh đào rủ, tâm trang vô cùng thoải mái, “tâm
hồn nàng tràn đầy niềm rạo rực thiêng liêng”. Ngoài những cây anh đào đồ sộ,
tốt lạ thường, nơi đây còn có “bao nhiêu là thông - không to lắm nhung dáng
đẹp. Giá một khi không có anh đào ra hoa, chỉ tấm áo màu xanh của thông
thôi cũng đã thỏa mắt. Cho dù bây giờ đây, màu xanh trinh nguyên của thông
và làn nước hồ trong vắt có lẽ chỉ là nền tôn thêm những đóa anh đào phớt

hồng”. Tâm trạng Chieko lúc này vô cùng tốt, nàng được hòa mình với thiên
nhiên, không gian chùa chiền yên tĩnh, thanh tịnh. Hai người ngắm cảnh ở
chùa này và con nghĩ tới chùa Daigodgi, nơi đây người ta sắp sửa hoàn tất

12


việc trùng tu ngôi chùa tháp năm tầng. Ngôi chùa này được ví “tươi rói
như Đen V àng...”
Bên cạnh không gian của chùa chiền là không gian của ni viện. Mặc dù
ông Takichiro Xada là một nhà kinh doanh tơ lụa nhưng ông đã vào ở ấn
trong chùa đế học thiết kế những mẫu vẽ kimono độc đáo. “Ngôi chùa không
lớn mà dân tình Kyoto ai cũng biết nó ở biệt lập, xa lánh mọi cặp mát tò mò
của đám khách du lịch”. Ni viện là nơi mà ông chủ kinh doanh tơ lụa chọn
làm nơi sáng tạo nghệ thuật. “Takichiro thuê một buồng trong chùa. Lòng ông
khao khát sự cô tịch mà ở đây mọi cái đều đồng điệu với tâm trạng ông”. “
Xada là một thương gia bán buôn áo dài may sẵn có cửa hiệu ở
khu Nakaghio”.
Ni viện là nơi rất thích hợp với tính “ưa cô độc” của Takichiro. Vì tình
yêu thương con gái Chieko, ông có thê ở ni viện nửa tháng đê dệt cho con gái
một chiếc thắt lưng kimono. Tình yêu thương từ cha mẹ là một niềm hạnh
phúc to lớn, khác xa so với người chị em song sinh Naeko. Đó là một thân
phận hoàn toàn khác, một người phụ nữ lao động, làm công và một tiêu thư
được cha mẹ yêu thương, quan tâm hết mực.
1.2.1.3. Không gian của lễ hội
Kyoto nơi gia đình Chieko sống là nơi có nhiều chùa cố Phật giáo và
Thần đạo. Hằng năm nhiều lễ hội lớn nhỏ diễn ra làm cho Kyoto trở thành
không gian văn hóa với nhiều hoạt động lễ nghi mang tính cộng đồng, vừa tôn
nghiêm vừa thế hiện tinh thần đoàn kết. Kawabata đã kì công miêu tả những
công đoạn chuẩn bị và cách thức tiến hành nghi lễ ở các lễ hội, cách bài trí và

sắp xếp không gian trong chùa cho mỗi dịp nghi lễ. Chùa chiền và lễ hội gắn
kết các nhân vật theo một sự tác hợp rất ngẫu nhiên nhưng đầy xúc cảm. Một
trong những lễ hội đế lại nhiều ấn tượng đối với Chieko là lễ hội Ghion. Hiện
tại, lễ Ghion năm nay, Chieko trở nên ưu tư vì biết cha mẹ ruột không may

13


mất sớm. Đó là nỗi buồn đau đối với nàng. Một lễ Ghion xa xăm, khi Chieko
còn trong sáng, ngây thơ đã dần trôi sâu hơn vào quá khứ nhưng lại vẫn cứ
hiên hiện rõ như in trong kí ức Chieko. Hằng năm, các nghi thức chuấn bị cho
lễ hội vẫn không thay đối, nhạc công và những chiếc kiệu được trang hoàng
hoa dây kết bằng đèn lồng vẫn cứ rực rở như thế. Tuy những chi tiết bài trí ở
chùa xưa và nay có sự thay đối theo thời gian lịch sử. Và chúng gợi nhắc hồi
ức tươi đẹp khi Chieko và Xinichi mới chừng bảy, tám tuổi. Là một cậu bé có
nét đẹp xinh xắn, Xinichi ngày nhỏ đã được chọn làm chú tiếu có nhiệm vụ
rước lễ. Hình ảnh cậu bé Midzuki Xinichi “mặc quần áo chú tiểu, lông mày
kẻ, bôi môi son đỏ thắm, mặt xoa phấn trắng, đi cỗ xe đấy trong ngày lễ
Ghion” cách đó hàng chục năm không thế nào phai nhòa trong tâm trí của
Chieko. Có hăn những nghi thức quan trọng dành riêng cho chú tiêu làm
nhiệm vụ rước lễ. VI vậy vai trò của chú tiếu cũng trở nên thiêng liêng hơn và
hình ảnh chú tiếu Xinichi bé bỏng trở thành ấn tượng khó phai trong kí ức
nhiều người. Đối với Chieko, đó là kí ức đẹp về tuối thơ ngây thơ, vô tư lự
trong sự bảo bọc bằng tình thương yêu của cha mẹ. Lúc đó Chieko say mê đi
theo chú tiểu khắp chốn và nhớ như in đến cả chi tiết “hai người bạn đồng lứa
tóc cắt ngắn” đến chúc mừng Xinichi. Cứ mỗi năm lễ hội Ghi on diễn ra, hình
ảnh của quá khứ lại đồng hiện với hiện tại trong dòng liên tưởng của cô. Đối
với cô, hình ảnh đó thuộc về những gì thân thương nhất. Ấn tượng về Xinichi
khi cậu đã trưởng thành vẫn cứ trong trẻo và gần gũi như thế trong ý thức của
Chieko. Cho dù về sau này thời gian có trôi qua, hình ảnh cậu bé Xinichi năm

nào cũng sẽ mãi tươi mới khi xuất hiện trong trí nhớ của cô. Khi ấy cô chưa
biết mình không phải là con ruột của ông bà Takichirô. Sau khi bí mật đã
được tiết lộ, thì kí ức xa xưa trong Chieko lại hiện về rõ hơn bao giờ hết.
Trong lễ Ghion, riêng phần âm nhạc, có đến hai mươi sáu cách diễn tấu cùng
với nhạc đệm dành cho vũ điệu cung đình. Buổi tối trước khi rước lễ, tràng
đèn lồng nhỏ trang hoàng kiệu cũng được chuẩn bị sẵn sàng. Không gian tràn
14


ngập âm thanh và ánh sáng đó đã mang hình ảnh Xinichi khoác trang phục
chú tiếu từ xa xăm về trong kí ức của Chieko. Hằng năm lễ hội vẫn diễn ra
theo quy luật của thời gian. Năm nay, những nghi thức lễ hội vẫn vậy, nhưng
tâm thế của cô thì đã khác. Những mối un tư mơ hồ chiếm hết tâm trí Chieko.
Do vậy, khi hẹn gặp Xinichi trong khung cảnh mùa xuân- mùa của các lễ hội,
Chieko đã đột nhiên chia sẻ với Xinichi bí mật của mình. Lúc này, quá khứ và
hiện tại đan xen nhau xuất hiện như một đoạn phim nghệ thuật. Đang là cảnh
Chieko ở cửa hàng của thời hiện tại chuấn bị đi ra đường, thì tiếp đến là đồng
hiện quá khứ cảnh cuộc nói chuyện qua điện thoại hẹn đi ngắm hoa giữa
Chieko và Xinichi. Hình ảnh chú tiếu Xinichi còn trở đi trở lại trong hồi ức
của Chieko nhiều lần nữa. Khi đi dạo ngắm những chùm hoa uất kim hương
nhiều màu sắc cùng bố mẹ, nghe bố hỏi ý kiến về việc tiếp nhận Hideo vào
gia đình, Chieko chọt đồng hiện hình ảnh Xinichi khi chàng còn là chú tiếu.
Hồi ức tươi đẹp đó trở về là sự tiếc nuối khi phải xa rời tuối thơ. Rồi khi lễ
hội Ghion đang tới gần, Chieko thích thú nhớ tới chú tiếu Xinichi năm nào ăn
vận bảnh bao ngự trên chiếc kiệu thứ nhất. Cuộc trò chuyện vui vẻ giữa
Chieko, Xinichi và Riuxuke trên đường từ quán “Daiychi” trở về cũng lại
nhắc đến chú tiểu Xinichi và “cô bé đi sau kiệu không chịu tụt lại”. Kí ức của
Riuxuke về cô bé Chieko cũng ấn tượng không kém hồi ức sống động về
Xinichi trong tâm trí Chieko. Đó là sự kiện nối bật được kí ức tuối thơ lưu giữ
và gợi nhiều cảm xúc. Kỉ niệm đã làm cho tình thân càng trở nên khắng khít.

Ba lễ hội chính trong năm của kinh đô cố là lễ Kỉ Nguyên, lễ cấm Qùi
và lễ Ghion, đều do chùa Heian Dginu tổ chức, các đám rước thì đều từ hoàng
cung. Xuyên suốt thời gian lễ hội diễn ra trong năm định mệnh ấy, liên tục
những mối liên hệ mới và những nhầm lẫn nảy sinh. Lễ hội Ghion nhừng
ngày sau cùng không khí vẫn rộn ràng, nô nức, nhất là đêm rước lễ vói những
tràng đèn lồng nhỏ trang hoàng kiệu. Chiếc cầu trên Đại lộ thứ tư là không
gian Kawabata sắp đặt để tạo ra sự nhầm lẫn cho Hideo. Hai chị em Chieko
15


và Naeko lần đầu tiên gặp nhau và nhận ra nhau. Cùng một thời điểm, Hideo
đi xem hội vô tình gặp Naeko. Sự việc này đồng hiện trong trí nhớ Hideo khi
chàng một lần nữa đi ngang qua cây cầu ấy. Việc nhầm lẫn dẫn dắt tới hệ quả
cuối cùng là Hideo có được cuộc hẹn cùng đi dạo với Naeko trong lễ Kỉ
Nguyên. Trong lễ Kỉ Nguyên, Naeko đã diện thắt lưng hình thông liễu do
Hideo tặng, đó là điều kiện đế cô thôn nữ chốn Bắc Sơn được lộng lẫy giống
như tiểu thư chốn kinh đô. Xinichi và Riuxuke lại được sắp xếp đế thấy khung
cảnh này và đến lượt họ nhầm lẫn. Những mảnh ghép được xâu chuỗi tạo nên
sự logic cho câu chuyện. Lễ hội Ghion diễn ra cũng gợi trong lòng ông
Takichirô và người bạn hoài niệm tiếc nuối về quá khứ vàng son lễ hội khi hai
ông còn nhỏ. Qua câu chuyện của hai người, ở lễ hội của thời xưa mọi chuẩn
mực vẫn còn được duy trì, sự thiêng liêng và niềm háo hức vẫn như còn
nguyên vẹn. Lễ hội và chùa chiền cũng đồng thời lên ở trong Takichirô một
thời quá khứ của thanh niên trai tráng, những hoạt động mang tính cộng đồng.
Cuộc thi chặt trúc với những luật lệ quy củ vốn có thời xa xưa vẫn cuốn hút
ông Takichiro. Không gian cố kính thiêng liêng chốn chùa chiền cùng những
kí ức đồng hiện kết nối Chieko với bố mẹ mình. Bằng niềm tin tâm linh, ông
Takichirô chọn chùa chiền làm nơi tĩnh tâm, nuôi dường những ý tưởng sáng
tạo bản vẽ. Cũng trên đường thăm cha trở về, khi Chieko đặt những bước
chân xuống chùa, những hình ảnh về lần thỉnh chuông chùa Nembutsu cùng

mẹ hồi nào trở về đồng hiện. Bà Xighe đến chùa cũng là đế tìm đến sự thanh
tịnh. Chi tiết câu chuyện đồng hiện được miêu tả cặn kẽ. Sự gắn kết giữa hai
người phụ nữ đầy nữ tính đã tạo nên bức tranh đồng hiện đậm tình mẫu tử.
Những lễ hội được tố chức thường xuyên tại Kyoto tạo nên đặc trưng riêng
như một hình thức bảo lưu những giá trị văn hóa truyền thống. Và trong bối
cảnh đó, nhũng con ngưòi Nhật trở nên gắn bó bền chặt. Lễ hội, chùa chiền
cùng với kỉ niệm cứ sống mãi trong kí ức Chieko và những nhân vật khác như
sự trường tồn của chính truyền thống.
16


“Những khách ở xa đến quen cho là lễ Ghion kéo dài cả thảy có một
ngày- mười bảy tháng bảy, lúc trong thành phố có rước Ymakobo”. Nhưng
thực chất lễ Ghion kéo dài hơn thế nhiều “lễ Ghion kéo dài suốt tháng bảy”.
Lễ hội diễn ra vô cùng ý nghĩa “Mở đầu hội rước kiệu hàng năm là kiệu
naghinataboka có các cậu bé mặc trang phục chú tiểu ngồi trên. Ngày mùng
hai và mùng ba tháng bảy, ở mỗi quận lại chuấn bị một kiệu rước riêng của
quận mình”. Lễ hội ở đây diễn ra mang đậm dấu ấn của thành phố Kyoto từ
việc chuấn bị các nghi lễ cho tới việc rước kiệu như thế nào: “người ta làm
kiệu từ đầu tháng, và đến mùng mười tháng bảy nghi thức “tẩy rửa” kiệu diễn
ra ở cầu Đại lộ thứ tư trên sông Kamogaoa. Tuy gọi là “tẩy rửa” nhưng sự
thực vị vua trụ trì chùa chỉ giản đơn nhúng cành cây thiêng xakaki uống nước
rồi rẩy lên kiệu”.
Đe chuấn bị cho lễ hội Ghion sắp diễn ra, mọi người đã chuấn bị từ hôm
trước. Không ngoại lệ, không gian nơi cửa hiệu nhà Chieko cũng có sự chuấn
bị “ở cửa hiệu của Chieko người ta đã dờ dãy hàng rào tô điếm cho mặt tiền
ngôi nhà để tu bổ”.
“Ngày lễ Lửa ở chùa trên núi Kurama, dành cho việc xua đuối các hung
thần vốn được Chieko ưa thích hơn lễ Daimondgi. Naeko cũng thường có mặt
ở lễ Lửa...”. Nhật Bản là quốc gia có rất nhiều lễ hội nổi tiếng và thu hút rất

nhiều du khách cả trong nước và trên thế giới. Qua việc tìm hiểu c ố đô cho
bạn đọc biết đến văn hóa của Nhật Bản vô cùng phát triển, người đọc khi đã
được biết tới Nhật Bản chỉ muốn tới đó tự tìm hiếu và khám phá những giá trị
văn hóa nơi đây.
Hội Karyobinga, có bơi thuyền rồng trên khúc sông gần Araxiyama và
Kyokuxinoen bên dòng suối chảy qua vườn chùa Kamigamo... Những lễ hội
diễn ra được tố chức theo những thời điêm cố định trong năm trở thành truyền
thống văn hóa Kyoto. Toàn bộ c ố đô, những lễ hội diễn ra trong hệ qui chiếu
so sánh tâm cảnh và ngoại cảnh. Lễ tống hạ vào đêm trước tiết lập thu, sau đó
17


nửa tháng đống lửa tiễn biệt cháy. Ngày còn nhỏ, Chieko háo hức đế ngắm
khung cảnh này. Nhưng hiện tại, khi đối diện với những tình huống quá bất
ngờ trong cuộc sống, nỗi lòng đang rối như tơ vò, Chieko cảm nhận nỗi buồn
không dứt, lễ tống hạ không còn là sự háo hức đối với cô nữa. Lễ Ghion vào
mùa hạ của hiện tại nhắc về một lễ Ghion xa xôi, sống động trong kí ức. Quá
khứ vui tươi đã lùi han, hiện tại gieo vào lòng người những ưu tư không dễ
nguôi ngoai, c ố đô luôn có kết thúc mở, rộng lối cho một khoảng mênh
mông vô định của xúc cảm tràn về. Nội tâm nhân vật như một tập phim, trong
đó những mảnh ghép trắng đen là hình ảnh của quá khứ luôn ào ạt song song
với nhừng thước phim đầy màu sắc của hiện tại. Lấy khung hình này chồng
lên khung hình kia, ta phát hiện có nhiều sự trùng lặp một cách hữu ý. Chính
tiêu thức về cái đẹp đã khiến cho khoảnh khắc cái đẹp của quá khứ trở thành
vĩnh hằng và đế lại dư âm vang vọng nhiều hồi trong hiện tại. Ta nhận diện
nhân vật thiếu nữ qua nội tâm là những hình ảnh trong sáng, ấm áp tình cảm,
khơi gợi sự hứng khởi đối với những cái đẹp trong cuộc sống khi nó trở về
đồng hiện trong ý thức của nhân vật. Dòng ý thức của các lữ khách là một tập
hợp các hình ảnh về cái đẹp của thiên nhiên bốn mùa của Nhật Bản.
1.2.2. Không gian sinh hoạt

1.2.2.1. Khống gian ngôi nhà
Trên mỗi trang sách, Y. Kavvabata luôn ý thức về việc dựng lại không
gian hẹp, truyền thống, đặc trưng riêng của nước Nhật (lễ hội, đền đài, cây
cối, cố đô...) muôn đời không bị thời gian và con người làm cho nhạt phai.
Nhưng bên cạnh không gian thiên nhiên, quang cảnh biểu hiện cho niềm tự
hào dân tộc còn có một dạng không gian khác, đó là không gian ngôi nhà.
Không gian này mang đậm ý nghĩa mục đích của tác giả. Đây cũng là nét độc
đáo trong nghệ thuật xây dựng không gian của nhà văn. Chính không gian này
đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhà văn khai thác tâm lý, tình cảm, tính cách


của nhân vật. Đời sống của nhân vật hiện lên cụ thế, sinh động, chân thực ở
đây. Ngôi nhà của Takichiro được xây dựng theo kiếu cách Kyoto xưa, cho
nên người nào vào nhà vệ sinh cũng không khỏi phải theo lối hành lang hẹp,
qua chỗ bàn ông ngồi trong phòng khách.
Không những thế, “gian phòng chỗ Takichiro ngồi trên chiếc đệm mỏng
sau bàn, sàn có trải tấm thảm cổ của hải ngoại. Chiếc bàn được ngăn cách ra
bằng những tấm rèm vải hoa quý. Chính Chieko nghĩ ra việc treo rèm”.
Không gian ngôi nhà của Chieko còn hiện lên với vẻ đẹp của những pho
tượng: “Trong nhà họ có bảy pho tượng thần Hotay. Điều đó có nghĩa là, ít
nhất cũng đã bảy năm rồi không có ai trong gia đình họ đi sang thế giới bên
kia, họ vốn có cũng như vẫn còn lại ba người với nhau: cha, mẹ và Chieko”.
Ngôi nhà nhìn từ ngoài vào có hàng rào bên lối vào cửa hiệu và những phiến
gỗ. Trên tầng hai, dưới mấy khung cửa số con có treo tấm biến hiệu cũ, bên
trên nó là cái mái nhỏ xíu - một vật trang trí độc đáo và đồng thời cũng là dấu
hiệu cho thấy hãng buôn đã lâu đời”. Không gian ngôi nhà hiện lên cho thấy
gia đình ông Takichiro là một gia đình thương gia buôn bán khá giả, có lối
kiến trúc mang đậm chất cố đô Kyoto.
Cửa hàng của gia đình Xada là không gian cư trú của ba thành viên
Takichiro, Xighe và Chieko. Tuy vậy vì thiết kế khá đặc biệt mà nó gây cản

trở cho công việc sáng tạo của ông Takichiro. Trong không khí tĩnh mịch nơi
chùa chiền, khi phác thảo bản vẽ cho thắt lưng kimono, bất chợt ông
Takichiro lại đồng hiện khung cảnh buôn bán ở cửa hàng nhà ông. Việc mua
bán ở cửa hàng và những người khách ra vào ngang qua phòng làm việc của
ông gây phiền nhiễu cho ông không ít. Ông phải kìm nén những bực dọc và
nó trở thành độc tố trong tâm hồn ông, hiện hình một cách rõ nét qua bản
phác thảo kimono mà ông đưa Hideo xem mẫu. Bức vẽ này thế hiện sự sáng
tạo tuyệt vời của ông Takichiro, chiếc thắt lưng cùng mẫu vẽ đó được Hideo
dệt như một cặp bằng cả tài năng và tâm hồn. Một thành phấm hoàn hảo được
19


tạo ra từ sự lao động nghệ thuật của hai lữ khách độc lập nhau đã tạo thành
nhịp cầu đế những tâm hồn cô độc được giải phóng. Và dòng ý thức dẫn ông
đến với tấm rèm vải hoa được Chieko chu đáo treo đế ngăn cách âm thanh
bên ngoài với phòng làm việc của ông.
Cửa hiệu của gia đình Xada cách đó hàng chục năm nơi cô bé Chieko bị
bở rơi được dấu kín trong hồi ức của ông Takichiro và bà Xighe. Đó là không
gian nơi cái đẹp được sinh ra. Neu không có mảng kí ức của bà Xighe, người
đọc sẽ phân vân giữa hai giả thuyết: Chieko bị bở rơi hay Chieko thực sự bị
đánh cắp. Bối cảnh đồng hiện này tồn tại trong kí ức bà Xighe như một ngăn
tủ không có chìa khóa đê mở.
Không gian buồng ngủ của Chieko tuy không xuất hiện trong dòng ý
thức của nhân vật nào nhưng khung cảnh cố định này là khung nền diễn ra hai
sự việc ấm áp đối với Chieko. Nơi đây khi thấy Chieko có cảm xúc khác lạ
trong khi lễ Ghion đang diễn ra, bà Xighe đã ngủ chung giường vói con gái.
Cũng chính nơi đây, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng hai chị em gái đã
ngủ chung với nhau. Đây là không gian trong sự sắp đặt có ngụ ý của Y.
Kawabata đế tạo sự đồng hiện trong ý thức của người đọc.
ì.2.2.2. Không gian thành pho “Kimono ”

“Kyoto là một thành phố lớn với những cây cối đẹp đến sững sờ” Đây là
một thành phố lớn, đẹp nhất Nhật Bản. v ẻ đẹp tuyệt mĩ của “ khu vườn bao
quanh biệt thự hoàng gia cạnh chùa Xingakuin, cánh rừng thông bên hoàng
cung, bao nhiêu vạt vườn mênh mang của những ngôi chùa cố mà ngay cây
cối trên các phố xá cũng rất tươi tốt, chính chúng là điều trước nhất đập vào
mắt du khách”. Cảnh đẹp ở thành phố này không chỉ có vậy mà còn thể hiện
ở: “Những cây liễu rủ ở Kiyamachi và trên bờ sông Takaxe, những con đường
trồng liễu dọc các dãy phố Godgio và Horikaoa thật lạ thường. Đây là loài
liễu rủ thực sự, nhũng cành non mềm mại của chúng buông xuống sát đất. Cả

20


×