Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

một số biện pháp rèn kĩ năng học văn cho học viên ở trung tâm giáo dục thường xuyên – hướng nghiệp tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.54 KB, 29 trang )

Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
1

DANH MỤC VIẾT TẮT
- TH: Trung học
- BTVH: Bổ túc văn hóa
- BGD&ĐT: Bộ giáo dục và Đào tạo
- GDTX: Giáo dục thường xuyên
- GDTX – HN: Giáo dục Thường xuyên – Hướng nghiệp
- GV: Giáo viên
- HĐDH: Hoạt động dạy học
- KTXH: Kinh tế xã hội
- SGK: Sách giáo khoa
- PPDH: Phương pháp dạy học
- THCS: Trung học cơ sở
- TH: Tiểu học
- THPT: Trung học Phổ thông
- TTGDTX: Trung tâm giáo dục Thường xuyên
- XH: Xã hội
- TLV: Tập làm văn



DANH MỤC BIỂU ĐỒ
1. Biểu đồ kĩ năng học văn – Trang 6
2. Bảng số liệu trước khi tác động của đề tài – Trang 10
3. Mô hình cấu tạo các luận điểm tập làm văn – Trang 19
4. Bảng số liệu sau khi tác động đề tài – Trang 22
5. Bảng số liệu so sánh kết quả trước và sau khi thực hiện đề tài 23

Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu


2

PHẦN MỞ ĐẦU

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong quá trình dạy - học, thầy và trò Trung tâm GDTX đều xác định môn Ngữ
Văn có tầm quan trọng đặc biệt trong chương trình học và có ảnh hưởng lớn trong việc
giáo dục và bồi dưỡng tâm hồn con người. Học văn là nhu cầu và là yêu cầu không thể
thiếu trong đời sống xã hội, học văn là rèn người, rèn kĩ năng cho các môn học khác
Dạy văn là một công việc khó khăn phức tạp đòi hỏi người giáo viên tận tâm và
sáng tạo. Có như thế mới giúp cho học sinh hiểu đúng nghĩa của môn học và từng bước
nâng cao được chất lượng giáo dục, các em chẳng những hiểu được môn văn, hiểu được
chính mình mà còn am hiểu đời sống xã hội.
Hơn như thế: dạy văn sẽ giúp mỗi ngày bồi dưỡng tâm hồn các em. Học văn học
viên sẽ biết trân trọng cuộc sống đang có, biết yêu quý mọi người và biết tu dưỡng để có
thể tiếp bước ông cha giữ gìn quê hương đất nước. Các em biết sống chân thành, trung
thực nhưng chan chứa nghĩa tình.
Tuy nhiên trong thực tế học viên ở các Trung tâm giáo dục thường xuyên nói
chung đại đa số các em là người thiểu số nên trình độ dân trí còn thấp, khả năng giáo tiếp
bằng tiếng phổ thông còn hạn chế, bản chất rụt rè nên thiếu tự tin khi trình bày một vấn
đề. Đại đa số các em vừa học vừa làm nên chưa chủ động trong việc học tập và tiếp thu
kiến thức.
Hơn nữa đặc trưng của học viên trung tâm là: Đối tượng học đa dạng không đồng
đều về trình độ nhận thức, tuổi tác theo học cũng khác nhau. Không đồng nhất như học
sinh Phổ thông.
Trong khi đó biên soạn chương trình Bộ giáo dục và đào tạo yêu cầu học sinh Phổ
thông và học viên Trung tâm đều học theo một chương trình và đáp ứng được kiến thức
theo chuẩn BGD&ĐT quy định. Kết thúc 3 năm học mỗi học sinh đều phải đảm bảo kì
thi tốt nghiệp đáp ứng đúng yêu cầu của bộ ban hành. Đó là một thách thức đối với thầy
cô và là thử thách lớn mà học viên Trung tâm phải vượt qua.

Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
3

Sau nhiều năm nghiên cứu về cấu trúc môn văn ở trương chình cấp phổ thông
trung học: Cấu tạo phân môn văn rất rõ ràng, lôgic tôi nhận thấy ở cấp học phổ thông
không giống như học sinh Tiểu học hay học sinh Trung học cơ sở đi sâu vào từ ngữ, ngữ
pháp mà tập trung phản ánh phần văn học và tập làm văn. Một mặt giúp các em cảm thụ
được cái hay, cái đẹp của ngữ nghĩa một phần qua môn tập làm văn giúp các em chủ
động sáng tạo khi nhận xét đánh giá một vấn đề, từ đó trang bị cho các em có vốn sống
phong phú, có khả năng diễn đạt để người đọc, người nghe hiểu được vấn đề.
Để làm tốt được hai vấn đề trên, người dạy văn cần phải đổi mới phương pháp, đặc
biệt lấy học viên làm trung tâm, nâng cao vai trò, chủ động sáng tạo của các em. Bên
cạnh đó chú trọng rèn luyện kĩ năng đọc thông nói thạo, viết thành văn bản cho các em
Ở sáng kiến này tôi xin nêu ra cách tiếp cận một tác phẩm văn chương phù hợp với
đối tượng học viên và cách tiếp cận, cách dạy làm một bài văn nghị luận bắt đầu từ những
thao tác ban đầu cho đến khi hoàn thiện một bài văn.
Vì những lí do trên tôi chọn sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp rèn kĩ năng
học văn cho học viên ở Trung tâm Giáo dục Thường xuyên – Hướng nghiệp Tỉnh" Đề tài
không có tham vọng nghiên cứu với quy mô như một đề tài khoa học mà chỉ mong muốn
đưa ra những kinh nghiệm của cá nhân được rút ra trong quá trình giảng dạy môn văn để
đồng nghiệp tham khảo trao đổi. Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao
hiệu quả dạy học ở Trung tâm GDTX - Hướng Nghiệp Tỉnh nói riêng và các Trung tâm
GDTX nói chung, mong ước tất cả học viên Trung tâm đều có tâm hồn trong sáng có tình
yêu cuộc sống và kiến thức văn học, hiểu biết xã hội, đáp ứng được yêu cầu phát triển KT
– XH ở địa phương và trong gia đình.
II. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi nghiên cứu
Dựa trên những hoạt động thực tiễn của các giờ giảng văn và những yếu tố quyết
định đến sự thành công của tiết dạy và dựa trên quá trình rèn kĩ năng nghe - nói - đọc -
viết thành bài của học viên ở Trung tân GDTX - Hướng nghiệp Tỉnh.

Dựa trên những khảo sát thực tế. Những biện pháp chỉ đạo việc dạy và học trong
Trung Tâm của phòng văn hóa.
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
4

Dựa trên những biện pháp chỉ đạo việc dạy và học trong Trung tâm.
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tìm giải pháp ở "Một số biện pháp rèn kĩ năng học
văn cho học viên Trung tâm GDTX – HN Tỉnh"
2. Đối tượng nghiên cứu.
Dựa vào các hoạt động dạy và học môn Ngữ văn ở Trung tâm GDTX –
HN Tỉnh.
Từ đó người viết tiến hành nghiên cứu, thực hiện nhiệm vụ giảng dạy ở 2 lớp với
tổng số 62 học viên.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Thực hiện nhiệm vụ "Đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng và bám sát đối
tượng, dạy học vùng miền" Theo cuộc vận động của Sở giáo dục nhằm từng bước nâng
cao hiệu quả giáo dục.
Giờ dạy văn cần trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản, đầy đủ cả nội dung
và hình thức của tác phẩm từ đó nuôi dưỡng tâm hồn trong sáng yêu tổ quốc có nguyện
vọng phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước, có lòng say mê văn chương.
Bên cạnh đó nghiên cứu các vấn đề lí luận về kiểu bài nghị luận: đặc điểm, yêu
cầu, bố cục, trình bày nhằm đưa ra những phương pháp để rèn luyện kĩ năng làm bài văn
nghị luận cho học viên một cách hiệu quả nhất từ khâu tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết
bài và kiểm tra bài viết. Để giúp các em có nhận thức và kĩ năng cần thiết khi tạo lập văn
bản nghị luận.
Xuất phát từ mục đích trên và dựa trên những đánh giá đúng, cơ bản về thực trạng
về việc học văn ở Trung tâm giáo dục Thường xuyên – Hướng nghiệp Tỉnh. Từ đó đề
xuất các biện pháp, kĩ năng phục vụ hoạt động học tập môn Ngữ văn đảm bảo phù hợp
đối tượng, khả năng học tập của học viên Trung tâm giáo dục Thường xuyên nói chung
và học viên Trung tâm giáo dục Thường xuyên – Hướng nghiệp Tỉnh riêng.

Bên cạnh đó nghiên cứu để tìm cho bản thân những kinh nghiệm thiết thực nhằm
phục vụ tốt hơn cho việc giảng dạy, giúp môn học đạt hiệu quả, khắc phục được tình
trạng yếu kém của học viên.
IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
5

- Sáng kiến giúp cho học viên Trung tâm dễ dàng tiếp cận các tác phẩm văn học
trên cơ sở đã được rèn kĩ 4 kĩ năng: nghe – nói - đọc - viết.
- Nghiên cứu đã kế thừa các phương pháp, các kĩ năng học văn được giáo viên
giảng dạy văn đã thực hiện. Song điểm khác biệt là chú trọng những mặt yếu, thiếu của
từng em ở Trung tâm để cụ thể hóa cách dạy phù hợp.
- Việc thực hiện các kĩ năng dạy văn như trên:
- Giúp cho tình cảm trò gắn bó keo sơn, thầy chia sẻ bù đắp những thiếu, yếu của
học trò. Trò cảm nhận được tầm lòng chia sẻ của thầy cô. Từ đó, biết lắng nghe những
điều cô giáo dạy, biết yêu quý môn Ngữ văn và quyết tâm vượt qua được những rào cản
về ngôn ngữ, về sự yếu, thiếu: biết lắng nghe thấu hiểu, biết diễn đạt rõ ràng, đúng ngữ
điệu, biết xây dựng một văn bản hoàn thiện ở mọi lĩnh vực. Nhờ đó các em cũng có thể
học tập tốt hơn ở các môn văn hóa khác.
- Sáng kiến cũng giúp cho các thầy cô đang giảng dạy ở TTGDTX có thêm nhiều
kinh nghiệm và kĩ năng, đổi mới phương pháp dạy văn cho học viên. Từ đó nâng cao chất
lượng dạy và học đồng bộ ở môn Ngữ văn và làm đòn bẩy để nâng cao chất lượng cho
toàn bộ các môn học khác được học trong nhà trường. thực hiện.Như lời Bác Hồ dạy:
"Việc gì tốt cho dân thì nên làm" tận tụy, gần gũi, mến yêu học viên.Việc làm tuy nhỏ
nhưng đã góp phần làm thay đổi nhận thức của học viên Trung Tâm-Thế hệ thanh niên
trong thời kì hội nhập, đổi mới. Như vậy điểm mới của đề tài là đã xây dựng được thế hệ
mới trong thanh niên, học viên ở TTGDTX – HN Tỉnh.
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN "RÈN KĨ NĂNG HỌC VĂN CHO HỌC
VIÊN TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN – HƯỚNG NGHIỆP
TỈNH"
1. KHÁI NIỆM
Kĩ năng
Kĩ năng là một khái niệm tích hợp bao hàm cả mục tiêu, nội dung và
hiệu quả học tập. Đó là sự tích hợp các kĩ năng: Nghe – nói – đọc – viết tác
động một cách tự nhiên nên các nội dung trong một tình huống có ý nghĩa
đối với học viên nhằm đạt mục tiêu học tập.
Có thể nêu các công thức sau:
Những nội dung, những tình huống.
Kĩ năng: Những mục tiêu, những tình huống.
Năng lực học văn của học viên.



















2. Các kĩ năng cơ bản của môn văn
Chương trình ngữ văn hướng về bốn kĩ năng: Nghe – nói – đọc – viết.
Các nội dung
Năng
Lực
Học
Viên

Các mục tiêu
Các kĩ năng
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
7

Đã nhiều năm chúng ta coi nhẹ việc rèn luyện kĩ năng nghe và nói mà chỉ chú ý
tới đọc và viết, mặc dù việc rèn hai kĩ năng năng này hiệu quả chưa được
nhiều.
Kĩ năng nghe và nói là hai kĩ năng được hình thành từ trước khi đến trường học.
Học viên Trung tâm Giáo dục Thường xuyên- Hướng nghiệp Tỉnh đã có những kĩ năng
nghe về bản ngữ khá thuần thục, từ đó các em có khả năng giao tiếp một cách bình
thường. Tuy nhiên, yêu cầu học văn đối với các em đòi hỏi không chỉ biết nghe và hiểu
lời thuyết giảng của thầy mà còn phải có thái độ tiếp nhận tích cực, biết nghe lời phát
biểu của bạn và sẵn sàng có ý kiến đồng tình hay phản biện. Bên cạnh đó học viên còn
phải hiểu được những lời ăn, tiếng nói trong giao tiếp hàng ngày để có cách ứng xử kịp
thời. Kĩ năng nghe trong môn ngữ văn đòi hỏi phải nghe bằng trí tưởng tượng để hiểu
được sức biểu cảm của nghệ thuật sử dụng tu từ, cú pháp trong văn, thơ. Học viên có kĩ
năng này phải tự biết nghe mình, nghe giọng đọc tự bộc lộ sự hiểu biết về các văn bản
của mình và nghe cả những lời mình nói thầm khi nó chưa thành tiếng.
Rèn luyện kĩ năng là rèn luyện năng lực lĩnh hội lời nói thông thường và lời nói

nghệ thuật. Biết nghe, cũng đồng thời biết nói.
Trong giờ học ngữ văn, giáo viên cần rèn luyện cho học viên biết nghe khi thầy
giảng, biết nghĩ khi thầy nói hoặc trong các buổi tọa đàm, hội thoại khác – vốn là điều ta
chưa thấy rõ qua các giờ học văn.
Kĩ năng nghe – nói gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong giờ học văn rèn cho học viên
năng lực nói để đối đáp, tương tác lại với bạn với thầy.
Quan điểm rèn kĩ năng cho học trò là rèn năng lực học văn, rèn khả năng phát
biểu trong các giờ học được thực hiện ở cả 3 phân môn: Văn, Tiếng Việt và
tập làm văn, giáo viên tổ chức giờ học như một giờ giao tiếp nhiều chiều:
Học viên nghe, nói với thầy; học viên nghe – nói với nhau, học viên nghe
nói với nhà văn, với nhân vật Tuy nhiên kĩ năng được chúng ta chú trọng
rèn luyện hơn cả là giờ luyện nói về kiểu văn bản trong phân môn tập làm
văn và phân tích văn bản.
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
8

Nghe – nói – đọc – viết được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau, trong môn ngữ văn.
Đọc văn bản – đọc để củng cố kiến thức, đọc để tìm hiểu nhận biết kiểu văn bản trong
phân môn tập làm văn, đọc bộc lộ sau khi học văn bản để kiểm tra nhận thức, hiệu quả
cảm thụ, đọc thuộc lòng bài thơ, mỗi cách đọc đều được cô giáo rèn luyện trong việc dạy
ngữ văn.
Năng lực đọc gắn với năng lực viết như là một sự gắn bó của năng lực lĩnh hội và
sản sinh văn bản. Nhìn trên quy trình dạy thì năng lực viết chỉ chú ý ở giờ tập làm văn
bao gồm các kĩ năng mà giáo viên cần chú ý cho học viên như:
+ Kĩ năng tìm hiểu để.
+ kĩ năng lập dàn ý.
+ kĩ năng diễn đạt thành văn.
Ở chương trình trung học không chỉ yêu cầu viết bộ phận mà còn đòi hỏi năng lực
viết văn bản hoàn thiện theo kiểu văn bản quy định.
Rèn luyện kĩ năng nói – viết, nghe - đọc là sự kết hợp chặt chẽ giúp học viên chiếm

lĩnh và tạo lập văn bản, là những năng lực phổ biến trong đời sống có tính văn hóa đó là
sự tích hợp vĩ mô và vi mô, khi nói rằng nghe – nói - đọc - viết là mục tiêu của cả môn
học.
Việc rèn luyện kĩ năng: Nghe – nói – đọc – viết đòi hỏi hoạt động của học viên
trong giờ học và muốn hoạt động này hiệu quả, tương tác thì giáo viên cần thiết kế cụ thể
trong từng bài dạy.
Rèn được bốn kĩ năng trên thật sự là một việc làm cần thiết vì nó trả lời cho các
câu hỏi: làm thế nào để học viên Trung tâm có kĩ năng học văn.
Từ những vấn đề có tính chất lí luận trên áp dụng trong quá trình cảm thụ một tác
phẩm văn học và áp dụng trong quá trình tìm hiểu kiểu bài văn nghị luận, ở Trung tâm
giáo dục thường xuyên – Hướng nghiệp Tỉnh tôi nhận thấy thực trạng học văn còn rất
nhiều khó khăn nhất là đối tượng học viên là người vùng cao, các dân tộc ít người.



Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
9

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HỌC VIÊN HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở TRUNG TÂM
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN – HƯỚNG NGHIỆP TỈNH:

I. Khái quát về TTGDTX – HN Tỉnh:Tổ chức học văn hóa theo chương trình
GDTX – HN. Tuy nhiên với đặc điểm chung: kinh tế còn khó khăn, mặt bằng dân trí
thấp, nên việc dạy học văn hóa vừa là một nhiệm vụ quan trọng song gặp rất nhiều khó
khăn.
1. Những ưu điểm, hạn chế của đội ngũ giáo viên giảng dạy.
a) Ưu điểm:
- Tất cả GV đều yêu ngành, yêu nghề, có tinh thần học tập và luôn cập nhật, đổi
mới cách giảng dạy.
.Tuy tổ văn có nhiều thành tố tích cực nhưng đội ngũ vẫn còn những hạn chế sau:

b) Hạn chế:
* Về thầy:
- Số giáo viên nữ nhiều, độ tuổi sinh nở còn chiếm tỉ lệ cao.
- Do các thầy cô còn trẻ nên kinh nghiệm chưa nhiều, vốn sống thực tế còn ít, sự
chia sẻ với học sinh dân tộc thiểu số chưa thường xuyên.
- Một số giáo viên chưa có nhiều trải nhiệm thực tiễn cùng được sống với đồng bào
các dân tộc ít người cho nên việc cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ học viên chưa được nhiều
nên việc thực hành dạy học chưa có hiệu quả cao.
* Về trò:
- Học viên cơ bản là con em đồng bào dân tộc vùng cao về học, nên học tập không
thường xuyên, liên tục, kiến thức hổng, rơi vãi, không đáp ứng được với kiến thức phải
tiếp nhận của chương trình.
- Bản chất thiều tự tin, rụt rè, nhút nhát.
- Học xa gia đình nên thiếu thốn tình cảm, tinh thần và vật chất.
- Nhiều học viên không có sự quản lí của gia đình nên việc phối kết hợp giữa gia
đình và nhà trường đôi lúc chưa được chặt chẽ.
- Năng lực học tập còn hạn chế nên dẫn đến kết quả còn yếu kém xẩy ra trong quá
trình tương đối dài, cụ thể như sau:
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
10

2. Thực trạng kết quả đầu năm khảo sát môn Ngữ văn:
Khảo sát đầu năm
Lớp 12 A (30 HV)
Kết quả đầu năm
Lớp 12 B(32 HV)

STT



Điểm số
Tổng số % Tổng số

%
Ghi chú
1 0 2 7 3 9.4

1 0 0 16 50

2 2 4 13 6 18.8

3 3 3 10 3 9.4

4 4 4 13 2 6.2

5 5 10 34 2 6.2

6 6 7 23 0 0


- Báo cáo trên cho thấy chất lượng yếu kém môn ngữ văn của học viên. sự yếu kém
đó không chỉ do lỗi của học viên mà với tư cách của một người dạy tôi tự kiểm điểm sự
yếu kém đó cũng là một phần lỗi do giáo viên giảng dạy bộ môn.
Xuất phát từ thực trạng trên trong quá trình giảng dạy ngữ văn khối 11 và khối 12
đặc biệt dạy theo đối tượng, phân loại theo chủ trương của Sở giáo dục và đào tạo. Bản
thân tôi đã tìm ra được một số nguyên nhân sau:
II. MỘT SỐ TỒN TẠI, NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ TRONG VIỆC HỌC
VĂN CỦA HỌC VIÊN Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN - HƯỚNG
NGHIỆP TỈNH
Một là vốn tiếng việt đối với học viên Trung tâm còn quá ít.

- Học viên còn lạ lẫm đối với các từ chỉ dùng ở miền xuôi không phổ biến ở miền
núi.
- Học viên không cắt nghĩa nổi từ ngữ.
- Tự ngữ có sức gợi cảm, học viên không cảm nhận được, còn thờ ơ.
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
11

Ví dụ ở bài thơ Tràng Giang: Các em không hiểu nghĩa các từ nguyện nhân cơ bản
là trình độ tiếng phổ thông của các em còn quá yếu chỉ nhận biết mặt chữ không hiểu
được ngữ nghĩa sâu sa.
Hai là các tác phẩm chủ yếu phản ánh cuộc sống và con người miền xuôi trong khi
đó vốn hiểu biết về cuộc sống và con người miền xuôi quá ít. Có nhà văn đã tâm sự "Học
sinh dân tộc miền núi vốn hiểu biết về đời sống xã hội chỉ hạn hẹp trong những đường
viền thung lũng" Do vậy đã hạn hẹp là sóng đôi là nông cạn vì thế các em khó có thể tiếp
thu được cảm xúc của văn học. Khả năng tiếp nhận văn học của học viên cũng yếu kém.
Chẳng hạn ở lớp 10 khi học truyện Kiều ngay cả tên truyện "Đoạn Trường Tân Thanh"
học viên củng chỉ có thể cắt nghĩa chưa trọn vẹn như : Đoạn là gì? Trường là gì? Tân là
gì? Nhiều em không hiểu nhan đề truyện không chỉ ở tiếng kêu xé lòng mà tác giả muốn
xây dựng một hình tượng con người với nỗi đau triền miên, một phụ nữ trong xã hội
phong kiến bị đầy đọa. Các em không thể chuyển từ thực tế ngôn từ sang tiếp nhận của
chủ thể. Như vậy các em thiếu đi sự sáng tạo trong văn học
Ba là, học viên còn cảm nhận văn học một cách đơn giản.
Qua bài khảo sát lớp (11A) có học viên viết "Em không biết tại sao Xuân Diệu lại
tài thế buộc được cả gió, tắt được cả nắng, ông là người trời".
Như các thầy cô đã biết: giữa thế giới nghệ thuật với thực tiễn khách quan, thì hình
tượng không thể là sự tái hiện mà nó còn là sự cải biến để tạo ra một thế giới mới chưa hề
có trong thực tại mà người đọc phải hiểu, nó trở thành một thế giới nghệ thuật.
Vì các em hiểu ít, đọc ít, học ít nên diễn giải suy lí như vậy; Hơn nữa học viên
người dân tộc thật thà, bộc trực nên suy diễn là điều ít thấy, các em hay hiểu theo nghĩa
đen của từ ngữ. Khi tôi đặt vấn đề phân tích câu ca dao quen thuộc:

"Con ơi nhớ lấy câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua"
Nếu là học sinh phổ thông các em sẽ hiểu tầng nghĩa hàm ẩn "sông sâu" là những
nơi đâu "Đò đầy" mang tiềm ẩn nguy cơ gì? Thì câu ca dao lúc đó mới đạt được mục
đích; Còn với nhiều em học viên ở trung tâm do không hiểu ngữ nghĩa nên khẳng định
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
12

"Sông sâu" lội được còn không biết "đò đầy" là như thế nào. Như thế câu ca dao sẽ mất đi
hình tượng của tác phẩm
- Bốn là,các em không viết chuẩn chính tả do điều kiện học tập chưa thường xuyên
như các em còn học phổ cập và điều kiện kinh tế gia đình không cho phép các em học
xuyên suốt chương trình như học sinh phổ thông. Từ đó sự yếu, thiếu nhiều hơn.
- Năm là, do đặc điểm của học viên Trung tâm là có thể học bất cứ lúc nào khi các
em có điều kiện. Cho nên học viên ở nhiều độ tuổi, hoàn cảnh khác nhau. Có học viên đã
bỏ việc học tập sau nhiều năm tốt nghiệp phổ cập. Có nhiều học viên không còn các kĩ
năng tối thiểu khi học văn. Nhất là viết một văn bản nghị luận. Cho nên việc tiếp tục
theo học chương trình Ngữ văn bậc Trung học là rất khó khăn.
Từ những nguyên nhân trên, cho nên học viên trung tâm, nhất là học viên người
dân tộc thiểu số; rơi vào tình trạng học ít, hiểu ít, viết văn hoặc trình bày vấn đề tương đối
khó khăn, thực tế giảng dạy và quá trình kiểm tra đánh giá tôi rất trăn trở và đã tìm ra một
số biện pháp, kĩ năng học văn và làm văn cho các em.















Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
13

CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH DẠY VĂN Ở TRUNG TÂM
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN – HƯỚNG NGHIỆP TỈNH.
1. Đối với các giờ giảng văn:
a. Giáo viên chủ động làm công tác tư tưởng, gỡ bỏ rào chắn tâm lí
cho học viên.
Đại đa số học viên Trung tâm là con em các bác dân tộc thiều số nên thường nói
không sõi, viết không chuẩn vì vậy các em hay tự ti, mặc cảm với môn văn. Các em cho
rằng môn văn là cao siêu cho nên mình yếu kém không học được cũng là đương nhiên,
yếu và kém là chuyện bình thường cho nên giờ giảng văn là cơ hội để giáo viên động
viên, khích lệ, giải tỏa những rào chắn trên, bằng sự tinh tế sư phạm, giúp các em vượt
qua được hàng rào ngôn ngữ rút ngắn khoảng cách văn hóa để các em đến với thế giới
hình tượng văn học một cách tự nhiên. Bên cạnh đó tập cho các em đồng cảm với cách
nói của người miền xuôi, tập cho các em khám phá ra chiều sâu của ngữ nghĩa là các em
có thể học được môn văn và cũng có thể hiểu sâu sắc tác phẩm.
- Trong thực tế muốn học viên học tốt môn văn thì cô giáo dạy văn cần làm cho
học viên yêu quý cô giáo, sau đó sẽ yêu thích môn văn và tin tưởng mình có thể học tốt
môn văn - vì học sinh dân tộc có bản chất rõ nét: Đã yêu quý thầy cô thì yêu luôn môn
thầy cô dạy. Vì vậy khi thầy cô lên lớp cần có nét mặt rạng rỡ, cách nói chân thành tha
thiết thì sẽ thu hút được các em, làm cho các em gần gũi và dần dần chăm chỉ, thích đọc
văn.
- Đặc biệt hiện nay mô hình bán trú ở các Trung tâm đang được nhân rộng các em

học viên cần ở giáo viên nói chung và giáo viên văn nói riêng sự ân cần, tế nhị, thái độ
sâu sắc yêu thương. Trong giờ học để có hiệu quả giáo viên cần giải quyết được tình
trạng yếu kém của các em.
Tâm lí của học viên trung tâm thường khép kín, các em ít cới mở, chỉ trao đổi tâm
tư tình cảm với những người yêu quý, cảm thông với các em, cho nên biện pháp tốt cho
giáo viên là phải cảm hóa được các em, gây được niềm tin yêu giữa Thầy và Trò.
Nhưng làm được điều này người giáo viên dạy văn cần thường xuyên gần gũi, thủ
thỉ, tâm tình vì các em không thích thầy quá cao xa hoặc thầy quá xáo rỗng.
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
14

Dạy các em, giáo viên cần biết vận dụng đúng lúc, đúng cách nhưng tất cả phải
chân thật như thế sẽ rút bỏ được khoảng cách làm cho các em xích lại gần thầy cô, chăm
học hơn
b. Giáo viên chủ động tháo gỡ thiếu hụt ngôn ngữ
Ngôn ngữ là khoảng cách thể hiện sự khác biệt giữa các đối tượng học sinh, do vậy
trong các giờ văn cô giáo cần tạo ra một môi trường giao tiếp bằng tiếng việt một cách lí
thú.
Những năm qua tôi đã tổ chức cho các em tọa đàm trao đổi, nói chuyện, kể chuyện,
viết bài về các nhân vật văn học; nhằm mục đích trau dồi ngôn ngữ nói và viết, đặc biệt là
học viên con em các bác vùng cao cần được quan tâm để nâng cao dần trình độ tiếng việt,
dần dần các em thích học tiếng việt yêu các tác phẩm văn học. Đã có nhiều em có sổ tay
văn học, các em chép lại những bài thơ hay, những bài văn hay, những câu nói tâm đắc
của những nhà yêu nước, từ đó các em có vốn văn để vận dụng vào cuộc sống hàng ngày
và vào bài tập làm văn. Làm được điều đó giáo viên luôn tạo được những cuộc thi đọc
thuộc lòng, đọc diễn cảm, thi kể chuyện cho các em trong các giờ giảng văn hay các buổi
sinh hoạt ngoại khóa.
Bên cạnh những việc làm trên giáo viên còn giúp các em hiểu được nghĩa của các
từ ngữ còn xa cách với các em: Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Tôi cho rằng dạy văn
thì từ là rất quan trọng” Phải hiểu tất cả các ý nghĩa của từ, dùng từ đúng

chỗ là quan trọng và đó là khó khăn lớn nhất của học viên Trung tâm. Vì
vậy trong việc giảng giải về từ cho học viên phải tiến hành tỉ mỉ, cặn kẽ các
em chưa phân biệt được nghĩa của từ trong văn chương
c. Giáo viên dạy văn tăng cường luyện tư duy cho học viên.
Tư duy được tăng cường là biện pháp để nâng cao trình độ văn học cho
học viên. Vì các em chưa nắm được thực chất của một tác phẩm văn học nên
không nhận biết được: Văn học không hề đơn giản là sự phản ánh cuộc sống
mà còn là cách lí giải cuộc sống. Phải dạy các em biết thông qua tác phẩm
để nhìn thấy cuộc sống
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
15

Việc rèn luyện tư duy cho học viên Trung tâm nếu được tiến hành thường xuyên,
kiên trì, liên tục, bền bỉ và cụ thể, tỉ mỉ sẽ làm phong phú dần sự cảm nhận của các em về
văn học, sẽ hình thành thói quen vận dụng tri thức lí luận vào việc học văn, từ đó nâng
cao chất lượng dạy văn của giáo viên nói chung.
Mỗi lời giảng của giáo viên sẽ như hạt sương đẫm dần trên thảm cỏ làm cho tâm
hồn của các em thấm được chất văn chương, muốn làm được điều này giáo viên hình
thành cho học viên thói quen cắt nghĩa từ mỗi khi tìm hiểu tác phẩm. Đối với học viên
Trung Tâm giáo viên cần giúp học viên cắt nghĩa bốn lớp rõ ràng:
- Cắt nghĩa về từ ngữ:
- Cắt nghĩa về hình ảnh:
- Cắt nghĩa về hình tượng:
- Cắt nghĩa về chủ đề:
Ví dụ:
Trước khi giảng bài Tràng Giang lớp 11A Trung tâm GDTX - Hướng nghiệp Tỉnh
tôi đã khảo sát một số em do trình độ tiếng việt của các em còn hạn chế nên sức gợi tả
của bài thơ tác động rất ít đến các em như khi hỏi: Em hiểu như thế nào về hai chữ Tràng
Giang trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận? Đại đa số các em chỉ nói được đó là con
sông dài, khi hỏi đến sắc thái trừu tượng và ý nghĩa cổ xưa của hai từ Hán Việt thì nhiều

em không biết. Do đó tôi rất chú trọng khai thác tới ý vị cổ điển và hiện đại của đầu đề và
lời đề từ. Đồng thời tôi chú trọng khai thác đến một số hình ảnh qua việc phân tích cách
dùng từ giản dị dễ hiểu đối với học viên miền núi
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Học viên miền núi dễ liên tưởng và cảm nhận được sức gợi của từ ngữ, hình ảnh đó
là sự trôi nổi, lặng lẽ của bao kiếp người trong vòng đời vô định…
d. Giáo viên dạy văn tác động đến các em bằng các biện pháp đặc thù của môn
giảng văn.
Người giáo viên nên biết xử lý một văn bản nghệ thuật như một phương tiện để tác
động vào đời sống tình cảm, tư tưởng, tâm hồn, nhân cách, lối sống học viên; Bởi vậy cần
sử dụng nhiều biện pháp để tác động đến tình cảm và cảm xúc tới trí tưởng tượng và óc
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
16

liên tưởng, trí tuệ và nhân cách của học viên nhất là những đối tượng còn yếu kém khi
học môn văn.
Ví dụ: Thao tác đọc diễn cảm cho học viên nghe, đây là biện pháp chung tuy nhiên
rất quan trọng với học viên Trung tâm. Vì nó tạo nên tính biểu cảm cho giờ học văn và
gây ấn tượng ban đầu cho học viên
Trước khi tìm hiểu giá trị tác phẩm, thầy cô dạy văn đọc diễn cảm sẽ luôn gây
được ấn tượng về tác phẩm, giúp học viên hướng về tác phẩm sắp học, tăng sự hào hứng
khi học viên tìm hiểu tiết học.
Đối với học viên ở Trung tâm GDTX đây là dịp thầy, cô truyền tới các em vẻ đẹp
âm thanh, làm cho các em hứng thú từ đó các em tập phát âm giống thầy cô, dần như thế
phát âm sẽ chuẩn và đúng hơn.
- Giáo viên luôn tạo điều kiện để học viên bộc lộ ấn tượng khi tiếp cận tác phẩm
văn học.
Đây là yêu cầu có trong giờ giảng văn giúp học viên bộc lộ được những ấn tượng
của mình khi học tác phẩm, đối với học viên yếu, kém các thầy cô sẽ biết được những
phản ứng tự nhiên và tập cho các em suy nghĩ về chính cảm xúc của mình.

- Hướng các em vào giai điệu của các bài thơ, việc làm này có khả năng tác động
vào tình cảm của học viên đồng thời dạy cho các em phương pháp tiếp cận, phân tích
nhũng tác phẩm trữ tình.
- Trong quá trình hướng dẫn các em chiếm lĩnh tác phẩm giáo viên luôn sử dụng
câu hỏi gợi tìm cho học viên, cách đặt câu hỏi phải dùng cách dẫn dắt từ dễ đến khó. Đây
là biện pháp giúp các em giải mã các hình ảnh, chi tiết hình tượng và giúp các em tìm ra
điều các em muốn nói.
Đối với học viên yếu kém rất khó khăn trong việc tìm ra ý nghĩa khái quát; Do vậy
giáo viên hướng dẫn theo từng bước từ dễ đến khó.
Ví dụ:
Dạy bài “Chữ người tử tù” sau khi hướng dẫn cách đọc và cho học viên đọc xong
tôi đặt câu hỏi:
+ Em cho cô biết ấn tượng của em sau khi đọc tác phẩm này?
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
17

Và khi phân tích, tôi tiếp tục hỏi:
+ Em hiểu gì về nhan đề tác phẩm?
Sau đó học viên xem tranh, ảnh, kiểu chữ lại hỏi:
+ Qua việc đọc tác phẩm em hãy cho cô biết Huấn Cao xuất hiện như thế nào?
Sau khi học viên kể ra sự xuất hiện của Huấn Cao tôi lại đặt câu hỏi tiếp:
+ Tác giả dùng những biện pháp nghệ thuật nào khi miêu tả?
+ Tác dụng của nó ra sao?
Như vậy lúc đầu ta chỉ tạo điều kiện cho học viên đọc ra suy nghĩ về cảm nhận
chung sau đó hướng sự chú ý vào nhân vật Huấn Cao đặc biệt chú ý đến thái độ của tác
giả khi thể hiện nhân vật…Cuối cùng ta đưa các em vào tình huống buộc suy nghĩ, giáo
viên lại đặt câu hỏi:
+ Theo em Nguyễn Tuân muốn nói điều gì qua việc thể hiện nhân vật
Những biện pháp đó phần nào khắc phục cho học viên không bị rơi vào tình trạng
thấy khó, ngại nói, ngại bộc lộ quan điểm; Từ đó giờ giảng văn không còn trở nên khô

khan, buồn tẻ, đơn điệu. Giúp học viên chủ động sáng tạo trong việc học tập, khơi dậy
khả năng cảm thụ văn học ở các em.
Lưu ý: Khi giảng văn, giáo viên người Kinh không chỉ có kinh nghiệm
sống, kinh nghiệm ứng xử mà còn phải biết ngôn ngữ của các em nhằm
chuyển giao hoạt động chuyển dịch từ tiếng việt sang tiếng của các em và
ngược lại làm cho tiếng việt giàu thêm. Đặc biệt là các lớp từ tượng thanh,
tượng hình, từ láy thường xuất hiện trong các tác phẩm. Hiện nay ở các
trường cũng như các trung tâm các thầy đã chú ý đến việc học tiếng dân tộc.
2. Nội dung, biện pháp rèn kĩ năng làm văn nghị luận
Xuất phát từ thực trạng, học viên Trung tâm rất khó khăn trong quá trình làm văn
nghị luận. Nên tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng học văn cho học viên
Trung tâm giáo dục thường xuyên như sau:
Thứ nhất trước tiên giáo viên nên cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản
về những vấn đề của xã hội và các tác phẩm văn học trong chương trình. Đây là điều kiện
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
18

vô cùng quan trọng cần phải có để giúp các em có những vốn kiến thức cơ bản vận dụng
vào giải quyết được tất cả các vấn đề trong bài văn nghị luận.
Ví dụ:
Các vấn đề xã hội đang quan tâm hiện nay là gì? Thực trạng các vấn đề đó như thế
nào? Cách giải quyết vấn đề ấy ra sao?
Hay khi học các tác phẩm văn học trong chương trình giáo viên cần cung cấp cho
các em hiểu biết về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, những giá trị về nội dung và nghệ thuật,
những nhận xét, đánh giá về tác phẩm.
Thứ hai sau khi cung cấp vốn kiến thức cơ bản, giáo viên đặc biệt chú trọng vào
việc cung cấp cho các em những kiến thức về kiểu bài nghị luân cụ thể.
Khái niệm văn nghị luận, vai trò của văn nghị luận trong đời sống.
- Đặc điểm của bài văn nghị luận cần chú ý vào hệ thống luận điểm và luận cứ
cùng với những yêu cầu của nó đó là: Các luận điểm, luận cứ phải đảm bảo tính khái

quát, tính tiêu biểu, độ chân thật, đúng đắn, toàn diện. Luận điểm, luận cứ phải gắn bó
chặt chẽ thành hệ thống, các luận điểm được xây dựng giống như bộ khung cho các đoạn
văn nghị luận xoay quanh hệ thống luận điểm, luận cứ tạo ra tính thống nhất của văn bản.
Các luận điểm chở thành cốt lõi của bài văn và là linh hồn của bài văn.
- Khi rèn luyện kĩ năng xây dựng luận điểm, luận cứ; giáo viên cần rèn
kĩ cho các em cân nhắc đến từng vai trò, vị trí của mỗi luận điểm, đặt chúng
trong mối quan hệ tương quan và sắp xếp theo hệ thống, vị trí quan hệ; cách
sắp xếp các luận điểm có quan hệ liên quan đến nghệ thuật, bố cục và nghệ
thuật lập luận của văn bản.
+ Luận điểm xuất phát: Luận điểm này thường được dùng làm luận điểm ở phần
đặt vấn đề nhằm giới thiệu vấn đề đề cập đến trong bài.
+ Các luận điểm tiếp theo được mở rộng trình bày ở phần thân bài nhằm giải quyết
vấn đề, phát triển ý, triển khai các lập luận mà vấn đề cần được giải quyết .
+ Luận điểm chính: Được sử dụng ở phần kết thúc vấn đề nhằm khẳng định vấn đề.
Theo các lập luận trên ta có mô hình cấu tạo các luận điểm sau :
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
19


Thứ ba là một bài văn nghị luận có các quy trình sau:
Nêu tạo lập một quy trình làm văn nghị luận cho học viên nhằm khắc phục cách
viết lan man, thiếu định hướng nên giáo viên cần rèn cho học viên có những kĩ năng sau:
Để làm bài văn nghị luận học viên cần có bốn bước theo quy trình như tạo lập các
văn bản đó là: Tìm hiểu đề, tìm ý, viết nháp và sửa chữa bài. Sau đó tạo lập hoàn chỉnh
bài văn, bước cuối cùng kiểm tra bài viết.
Như phần đặt vấn đề đã đề cập trong bài văn nghị luận, hệ thống luận điểm có vai
trò lớn, nó như là linh hồn của bài văn. Đây là một vấn đề quan trọng các em phải xác
định để tạo lập được trong quá trình tìm hiểu đề, tìm hiểu ý và xây dựng dàn bài. Để xây
dựng được luận điểm sát yêu cầu các em cần bám sát vào nội dung chính để tạo lập luận
điểm cho đúng yêu cầu đề bài.

Ví dụ:
Nghị luận về một tác phẩm: Suy nghĩ của em về một nhân vật ông lão lái đò trong
"Người lái đò Sông Đà" của Nguyễn Tuân.
Khi làm bài văn này học viên cần xác định những luận điểm chính sau:
- Luận điểm 1: Ông lão lái đò sống và chèo đò trong hoàn cảnh hết sức
đặc biệt.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Luận điểm xuất phát
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Luận điểm
m
ở rộng 1

Luận điểm
m
ở rộng 1

Luận điểm
m
ở rộng 1

Luận điểm
m
ở rộng 1

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Lu
ận điểm chính

Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu

20

- Luận điểm 2: Trong hoàn cảnh đó đã làm nổi bật nên những nét tính cách phẩm
chất đáng quý của người lao động.
- Luận điểm 3: Ông lái đò đại diện tiêu biểu cho những người lao động mới.
Như vậy ta có thể thấy, để tìm kiếm, xác định rõ hệ thống luận điểm để giải quyết
một vấn đề, ngay từ thao tác đầu học viên cần xác định được trục cơ bản của bài văn nghị
luận? Xây dựng hệ thống luận điểm theo phát triển của thời gian hay không gian, theo
các mối quan hệ xã hội hay các lĩnh vực khác nhau. Trả lời được các câu hỏi này là giáo
viên đã rèn cho học viên có hướng để hoàn thành luận điểm. Sau đó rèn cho các em biết
cách sử dụng các luận cứ kết hợp tốt giữa các lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ những
luận điểm trên.
Khi làm bài văn nghị luận các em tạo lập được các văn bản trên có sự phát hiện ra
hệ thống luận điểm, luận cứ điều đó chưa đáp ứng được bài văn hoàn hảo, mà muốn bài
văn hoàn chỉnh các em cần được rèn cách trình bày các luận điểm cho hợp
lí.
Giáo viên cần cung cấp cho học viên quy trình cơ bản khi trình bày luận điểm theo
phương pháp sau:
TỒNG - PHÂN - HỢP (3 Bước)
Bước 1: Dẫn dắt nêu nội dung của luận điểm (Thường được thể hiện ở khâu chủ
đề).
Bước 2: Dùng các (luận cứ, lí lẽ, dẫn chứng) để phân tích làm sáng tỏ
luận điểm.
Bước 3: Khái quát, nâng cao luận điểm.
Một điều đáng chú ý đối với tất cả các em học viên là khả năng nhận xét đánh giá
khái quát chung vấn đề: Trước khi trình bày các luận điểm bao giờ các em cũng phải nêu
ý kiến nhận xét đánh giá chung hoặc giải thích ngắn ngọn vần đề cần nghị luận.
Ví dụ:
Bài văn yêu cầu nghị luận vấn đề: Giá trị nhân đạo của truyện kiều


Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
21

Giáo viên phải hướng dẫn các em giải thích thế nào là giá trị nhân đạo và giá trị nhân đạo
trong truyện kiều được thể hiện như thế nào? Sau đó mới bước vào nghị luận cụ thể.
Bố cục của bài văn nghị luận có vai trò quan trọng trong việc thể hiện khả năng
nghị luận của người viết. Vì vậy giáo viên cần cung cấp cho học viên yêu cầu bố cục một
bài văn nghị luận thông thường đặc biệt là sắp xếp các luận điểm, luận cứ theo một hệ
thống logic chặt chẽ.
Tóm lại: Giáo viên muốn các em làm tốt văn nghị luận thì cần rèn cho các em tính
chịu khó học tập, tích lũy tri thức để các em có được một kiến thức văn học phong phú,
vững chắc. Bài văn nghị luận hay vừa phải chinh phục khối óc, vừa chinh phục được trái
tim người đọc và phải thấu tình đạt lí, vừa có nội dung tư tưởng cao đẹp lại vừa có tác
dụng truyền cảm. Do vậy, người thầy cần phải có năng lực, phẩm chất và đặc biệt là tình
yêu môn văn, tình yêu học trò.
Thứ tư là bất cứ người giáo viên nào khi đứng trên bục giảng đặc biệt là đứng
trước tương lai của các em, tôi trăn trở suy nghĩ dạy để cho các em làm được gì, dạy như
thế nào cho phù hợp.
Chính vì day dứt đó, nên tôi đã cố gắng ở rất nhiều khâu, suy nghĩ tìm tòi đổi mới
tìm ra giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, một trong các giải pháp quan trọng trong môn ngữ
văn là giáo viên phải luôn đổi mới cách kiểm tra đánh giá, để phát hiện những học viên
khá giỏi kịp thời bồi dưỡng. Đặc biệt tìm ra những nguyên nhân học yếu, học kém lập
được có kế hoạch và bồi dưỡng đúng đối tượng theo chất lượng môn học.










Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
22

CHƯƠNG IV. HIỆU QUẢ "MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG HỌC VĂN
CHO HỌC VIÊN TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN – HƯỚNG
NGHIỆP TỈNH’’
Với việc rèn kĩ năng văn học cho học viên, giáo viên đã rèn luyện về năng lực quan
sát tưởng tượng để cảm nhận hiện thực khách quan. Từ "Cảm tính" học viên sẽ được rèn
luyện về năng lực phán đoán, suy luận "Tư duy lý tính" để nhận thức hiện thực đúng đắn
hơn.
Nhận thức của học viên thay đổi: trở nên sâu sắc, mạnh mẽ học viên không còn
hiểu biết nông cạn mà nhận biết được hiện tượng bên ngoài và bản chất bên trong của sự
vật hiện tượng.
Việc rèn kĩ năng văn học cho học viên có tác dụng hoàn thiện, việc rèn luyện tư
duy hoàn thiện quá trình nhận thức cho học viên. Bên cạnh đó việc rèn kĩ năng học văn sẽ
giúp học viên có lập trường, tư tưởng góp phần hoàn thành bản lĩnh, nhân cách con người
mới xã hội chủ nghĩa cho học viên. Học viên trở thành người có năng lực - một công dân
tương lai tốt.
Học văn tốt, học viên đã được trang bị những kiến thức về đời sống văn học. Trình
độ tư duy phát triển góp phần rèn luyện tư tưởng, lập trường, tình cảm, hình thành bản
lĩnh nhân cách cho học viên.
- Qua quá trình vận dụng đề tài hai năm tôi đã thu được kết quả của
học viên sau khi tác động đề tài:
Kết quả học kì I
Lớp 12 A (32 HV)
Kết quả học kì I
Lớp 12 B(32 HV)




STT


Điểm số
Tổng số % Tổng số

%

Ghi chú
1 Khá 6 18.7 3 9.4

2 Trung bình 19 59.4 14 43.8

3 Yếu 7 21.9 15 46.8

4 Kém 0 0 0 0


Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
23

Quá trình vừa học tập, nghiên cứu và ứng dụng thực hiện các biện pháp rèn học
văn cho học viên ở Trung tâm Giáo dục Thường xuyên – Hướng nghiệp Tỉnh đề tài đã
thu được nhiều kết quả:
1. Giờ học văn không còn là giờ học khó và khô khan. Các em hào hứng, phấn
khởi chờ đón giờ văn.
2. Việc vận dụng văn nói của học viên linh hoạt, sinh động, cuốn hút người nghe
hơn.

3. Bài viết đã chuẩn chính tả, diễn đạt lưu loát nội dung sinh động.
4. Tỉ lệ học viên yếu kém giảm, tỉ lệ trung bình tăng và đặc biệt đã có nhiều học
viên thực sự học khá môn Ngữ văn.
5. Số liệu so sánh đầu năm học và kết quả sau khi tác động của đề tài
KẾT QUẢ
Lớp 12A Lớp 12B
Kết quả

Học lực
% Đầu năm % Cuối học kì I % Đầu năm % Cuối học kì I
Kém 20 0 59.4 3.1
Yếu 23 21.9 28.2 46.7
Trung bình 57 59.4 12.4 43.5
Khá 0 18.7 0 6.7

- Có thể nói rằng rằng: một số biện pháp rèn kĩ năng cho học viên đã thu được kết quả
ban đầu, giúp giáo viên điều chỉnh phương pháp dạy phù hợp với đối tượng, góp phần
nâng cao hiệu quả dạy và học môn Ngữ văn.Theo kế hoạch đề ra của đề tài cuối năm học
tỉ lệ đỗ tốt nghiệp của 12A : 90%,
12B: 85% với kếtquả đó so với kết thúc học kì I lớp
12A tăng 11,9% lớp 12B tăng 32,4%.Như vậy điều đó cho thấy chất lượng môn
Văn của tôi đã vượt lên được chỉ tiêu đề ra.



Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
24

PHẦN KẾT LUẬN
I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Để nâng cao được chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong quá trình giảng dạy giáo
viên cần chú ý:
Trước hết về phương pháp: mỗi thầy cô dạy văn cần nắm chắc chương trình ngữ
văn ở khối PTTH và cần có sự liên kết với chương trình trước và sau để hệ thống kiến
thức trang bị cho các em có sự đồng tâm liên thông và giúp người học hiểu được đích của
việc học văn.
- Cần nắm chắc phương pháp dạy văn:
+ Phương pháp đọc sáng tạo
Là phát triển cảm thụ, hình thành những thể nghiệm nghệ thuật cho học sinh bằng
phương tiện nghệ thuật. Đòi hỏi người đọc phải chú ý đến: từ, câu, nhịp điệu, kích thích
trí tưởng tượng gây cảm xúc.
+ Phương pháp gợi tìm: Thầy cô phải xây dựng được hệ thống câu hỏi có logic
chặt chẽ, đồng thời xây dựng được hệ thống bài tập về văn bản tác phẩm vừa học đặt
thành vấn để tổ chức tranh luận.
+ Phương pháp nghiên cứu: Giúp học sinh tự thiết lập năng lực để giải quyết vấn
đề. Có thể tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu văn học. Có thể ở các buổi xemina nhằm
tổng kết một vấn đề văn học mà học sinh được chuẩn bị trước nội dung
Phương pháp này giúp học viên nắm được những kĩ năng gắn liền với một vấn đề
cụ thể trong văn học
+ Phương pháp tái tạo: thường áp dụng trong làm văn.
Học viên lập được dàn bài, xác định được các luận điểm. Việc đưa ra các phương
pháp dạy văn trên tôi muốn các thầy cô nhận diện cụ thể còn khi thực hiện ta nên phối
hợp giữa các phương pháp sao cho linh hoat, hài hòa, nhuần nhuyễn nếu làm tốt được
điều này kết quả học tập của học viên sẽ cao hơn.
Thứ hai, thiết kế các mục tiêu học tập cho học viên từ dễ đến khó phù hợp với cấp
độ tư duy của học viên
- Từ biết -> hiểu -> áp dụng -> phân tích -> đánh giá -> sáng tạo.
Nguyễn Thị Hà – Trung tâm GDTX – HN tỉnh Lai Châu
25


Coi trọng hoạt động tương tác giữa học viên với học viên, giữa giáo viên với học
viên
- Giáo viên dạy văn là dạy người nên cần quan tâm chú ý đến từng đối tượng học
viên, động viên khích lệ kịp thời để học viên tự tin, phấn khởi trong học tập và mọi hoạt
động trong cuộc sống tạo điều kiện để các em phát huy được sở trường năng lực của bản
thân.
Thứ ba, kết quả học tập của các em là sự phản hồi hoạt động giữa thầy và trò. Do
đó giáo viên luôn đổi mới cách kiểm tra đánh giá nhằm phát hiện ra những hạt giống đỏ
có năng lực học môn văn để thường xuyên bồi dưỡng. Đồng thời qua kiểm tra đánh giá
giáo viên cũng nắm bắt được những mặt yếu, thiếu của học viên để kịp thời đưa ra được
những biện pháp giúp đỡ phù hợp cho các em.
Thứ tư, tăng cường ứng dụng thông tin vào bài giảng nhằm thu hút học viên và
phong phú kiến thức.
II. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Môn văn có tầm quan trọng đặc biệt trong chương trình học và có tác dụng to lớn
trong việc giáo dục nhân cách học viên nhất là bồi dưỡng tâm hồn con người. Học văn là
một nhu cầu cấp thiết trong đời sống xã hội bởi học văn là để hiểu mình, hiểu người, hiểu
đời sống xã hội.
Một trong những nhiệm vụ cơ bản là giáo viên đề ra những phương pháp cụ thể,
thích hợp cho từng học trò nhằm từng bước nâng cao chất lượng:
1. Vấn đề nâng cao chất lượng trong môn ngữ văn là một điều cần thiết. Giúp học
viên nâng cao sự hiểu biết về mọi vấn đề trong xã hội. Phát huy được vai trò tích cực chủ
động tiếp nhận của học viên. Trên cơ sở đó đề tài chỉ ra những phương pháp và biện pháp
cụ thể khi hướng dẫn học sinh học môn văn giúp các em định hướng để việc dạy học văn
có hiệu quả hơn.
2. Các bước thể hiện phương hướng và biện pháp đề xuất trên tôi rất hy vọng đề tài
giúp các em chuyển biến về nhận thức từ tác phẩm đến phân tích, bình giá và nhận thức
cuộc sống, các em sẽ có khả năng phát huy một cách tối đa năng lực tiếp nhận sáng tạo
chủ động và tích cực hóa hoạt động của các em khi nghe giảng. Giúp các em tiếp thu giá

×