Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.17 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------

TRƯƠNG PHƯƠNG DUNG

KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT
TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------

TRƯƠNG PHƯƠNG DUNG

KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT
TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân

Hà Nội – 2015


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS Nguyễn Thúy Vân, người đã dành nhiều thời gian quý báu tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Triết học - Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gian Hà Nội đã góp ý
tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi luôn nhận được sự giúp
đỡ, động viên của bạn bè và những người thân trong gia đình. Tôi xin chân
thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 12 năm 2014

Học viên

Trương Phương Dung


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, chưa
từng được công bố. Các tài liệu sử dụng tham khảo đã được trích nguồn đầy
đủ và chính xác.
Xin chân thành cảm ơn!


Tác giả luận văn

Trương Phương Dung


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ......................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ........................................................... 8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu................................................ 8
6. Đóng góp mới của luận văn...................................................................... 9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ..................................................................... 9
8. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 9
B. NỘI DUNG............................................................................................. 10
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC
VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ............................................................. 10
1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền, đạo đức và pháp luật 10
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ................................................................. 10
1.1.2.Một số vấn đề lý luận về đạo đức và vai trò của đạo đức trong xã hội.
..................................................................................................................... 18
1.1.3. Một số vấn đề lý luận về pháp luật và vai trò của pháp luật trong nhà
nước và xã hội. ............................................................................................. 22
1.2. Tính tất yếu của việc kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ................. 27
1.2.1. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật.............................................. 27

1.2.2. Sự cần thiết phải kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. ............................. 30
1.3. Nội dung kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ................................................ 33


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY HIỆU QUẢ
KẾT HỢP ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY37
2.1. Thực trạng kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ................................................... 37
2.1.1. Khái quát lịch sử kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội ở
Việt Nam. ..................................................................................................... 37
2.1.2. Những kết quả đã đạt được và một số hạn chế tồn tại của việc kết hợp
pháp luật và đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay. .................................................................................... 43
2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kết hợp đạo đức và pháp luật trong
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ...... 69
2.2.1. Đổi mới, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đạo đức, của pháp
luật cũng như ý nghĩa của sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ..................................... 69
2.2.2. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với củng cố và
phát triển các giá trị đạo đức tiến bộ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ............................................................. 71
2.2.3. Chú trọng việc giáo dục nâng cao đạo đức, ý thức pháp luật trong gia
đình, nhà trường, xã hội. .............................................................................. 75
2.2.4. Đánh giá đúng vai trò của dư luận xã hội và dựa vào những luồng dư
luận tích cực để góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội.
..................................................................................................................... 78
2.2.5. Tăng cường công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, vi

phạm đạo đức; chú trọng giáo dục cải tạo khi xử lý người vi phạm pháp luật.
..................................................................................................................... 81
KẾT LUẬN ................................................................................................. 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 87


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

NNPQ

: Nhà nước pháp quyền

NNPQ XHCN

: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội quan trọng trong
kiến trúc thượng tầng, có vai trò rất quan trọng đối với việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Trong xã hội Á Đông truyền thống, đạo đức vốn được xem là
công cụ chủ yếu của các nhà cầm quyền dùng để điều chỉnh hành vi con
người, nhằm đem lại sự ổn định cho xã hội. Dần dần, sự phát tiển của xã hội
làm cho các quan hệ xã hội biến đổi ngày càng phong phú và phức tạp, mà
nếu chỉ dựa vào đạo đức, trật tự xã hội không được bảo đảm. Khi đó, pháp
luật xuất hiện với chức năng điều chỉnh hành vi con người mang tính bắt
buộc. Cả đạo đức và pháp luật đều có những thế mạnh và điểm yếu riêng. Tuy
vậy, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, biện chứng, tác động, ảnh hưởng
và bổ sung cho nhau. Thực tiễn quản lý xã hội của các quốc gia cho thấy

không thể tách rời mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, ngay cả khi xây
dựng NNPQ: một nhà nước thượng tôn pháp luật, thì những qui phạm pháp
luật vẫn phải luôn có mối quan hệ với các qui phạm đạo đức.
Trong điều kiện Việt Nam xây dựng NNPQ, pháp luật giữ vai trò đặc
biệt quan trọng, mọi hoạt động của nhà nước và công dân đều chịu sự điều tiết
của pháp luật; sự bình đẳng trước pháp luật là quyền và nghĩa vụ của tất cả
mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Tuy nhiên, Việt Nam trong một thời gian
dài chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Nho giáo, sự coi trọng đạo lý, ứng xử theo đạo
lý đã trở thành truyền thống của dân tộc. Người Việt đã quen với lối ứng xử
“trăm cái lý không bằng tý cái tình”. Có thể nói, hiện nay thói quen xử sự theo
đạo lý vẫn còn ngự trị trong lối sống của không ít người. Vì vậy, trong điều
kiện xây dựng NNPQ, khi pháp luật đã trở thành phương tiện chủ yếu để nhà
nước thực hiện chức năng quản lý thì đạo đức vẫn giữ một vai trò quan trọng
trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chính trong nét đặc thù này, đặt ra
yêu cầu nhận thức đúng đắn về vai trò, về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp
1


luật; Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình hội
nhập quốc tế làm gia tăng tính phức tạp trong các quan hệ xã hội và đời sống
xã hội nói chung. Song song với những ảnh hưởng tích cực là không ít những
ảnh hưởng tiêu cực như lối sống thực dụng, xa rời các giá trị truyền thống
v.v… Trong điều kiện đó, để nhà nước điều hòa một cách có hiệu quả nhất
các quan hệ xã hội thì cần phải kết hợp chặt chẽ pháp luật với việc phát huy
các giá trị đạo đức.
Chính vì thế, nghiên cứu sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong điều
kiện Đổi mới, xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay là việc làm có ý
nghĩa quan trọng và cần thiết, góp phần xây dựng một nhà nước pháp quyền
Việt Nam có một môi trường pháp lý thực sự tôn nghiêm, bên cạnh việc giữ
gìn và phát huy được các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài Kết hợp
đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay để viết Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam là một vấn đề đang được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm. Về phương diện lý luận, từ trước đến nay, mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức đã thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học ở
một số lĩnh vực như: Luật học, Đạo đức học và Triết học.
Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu theo hai mảng sau:
Nhóm công trình nghiên cứu về đạo đức, pháp luật, về vai trò của
đạo đức và pháp luật trong xã hội gồm có:
Lê Quang Thưởng (1994), Tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo đức truyền
thống và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phan Văn Tỉnh (1994),
Đạo đức truyền thống của dân tộc là môi trường thuận lợi của việc thực hiện
pháp luật, Xã hội và Pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn
2


Quốc Việt (2002), Bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong quá
trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu cấp
khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Tuyết Ba (2002), Vai trò của
đạo đức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường, Tạp chí Triết học, số 5; Nguyễn Bình Đặng Lục (2005), Vai trò của
pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
Hoàng Thị Kim Quế (2007), Pháp luật và đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội; Nguyễn Minh Đoan (2009), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã
hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trong đó, nổi bật là các công trình:
Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam (Nxb Khoa

học xã hội, 2000) của hai tác giả Vũ Khiêu và Thành Duy. Sách đề cập đến
vấn đề pháp luật và đạo đức ở Việt Nam một cách tương đối toàn diện, theo
tiến trình lịch sử của sự phát triển. Sách tập trung phân tích những nét đặc
trưng của đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam,
thứ triết lý được hình thành từ lâu đời trong lịch sử dân tộc và đang biến đổi
do tác động của các nhân tố phát triển của xã hội hôm nay. Có thể nói, trong
từng chương của cuốn sách đều đã đề cập đến vị trí, vai trò của đạo đức và
pháp luật trong triết lý phát triển của dân tộc qua các giai đoạn lịch sử của nó.
Tuy nhiên, cuốn sách không chỉ ra đặc điểm cũng như sự tương tác giữa pháp
luật với đạo đức, không đề cập một cách cụ thể vai trò của đạo đức và pháp
luật trong quản lý xã hội.
Tác giả Nguyễn Quốc Việt có đề tài nghiên cứu: “Bảo lưu những giá
trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam hiện nay” (Đề tài nghiên cứu cấp Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2002). Đây là công trình tuy chỉ tiếp cận một khía cạnh của mối quan hệ giữa
đạo đức với pháp luật, nhưng tác giả đã đề cập đến vấn đề rất có ý nghĩa trong
điều kiện hiện nay của nước ta. Đó là việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo
3


đức truyền thống của dân tộc trong điều kiện mới, cụ thể là trong quá trình cải
cách, đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền, hợp tác và hội nhập quốc tế.
Tác giả đã nêu ra và luận giải các vấn đề như sự cần thiết phải bảo lưu các giá
trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện pháp luật; thực trạng bảo
lưu các giá trị đạo đức truyền thống ở nước ta hiện nay... Bên cạnh đó, tác giả
cũng đề xuất nhiều giải pháp bao gồm các phương pháp, cách thức bảo lưu
các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam hiện nay.
Trong nội dung nghiên cứu này, phải kể đến công trình điển hình là
cuốn sách Pháp luật và đạo đức của tác giả Hoàng Thị Kim Quế (Nxb Tư

pháp, Hà Nội, 2007). Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu khá đồ sộ về
pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Trong đó, tác giả đã đề
cập một cách tương đối toàn diện các vấn đề như vị trí, vai trò của pháp luật
và đạo đức trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội; sự thống nhất,
sự khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức. Công trình cũng
giới thiệu cho người đọc những nội dung cơ bản trong tư tưởng pháp luật và
đạo đức ở phương Đông, phương Tây. Cuốn sách cũng đề cập đến thực trạng
đạo đức, pháp luật trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Qua đó, tác giả đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăng cường quản lý xã hội bằng
pháp luật kết hợp giáo dục thực hành đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả không luận
giải các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhận thức của con người...
ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, và chưa phân tích
mối quan hệ này trong điều kiện cụ thể xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam hiện nay.
Tiếp theo là cuốn Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội của tác
giả Nguyễn Minh Đoan (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009). Đây là một
cuốn sách viết về vai trò của pháp luật với nội dung khá rõ ràng và dễ hiểu.
4


Trong đó, tác giả phân tích sâu sắc về vai trò của pháp luật đối với nhà nước,
đối với đời sống kinh tế - xã hội, đối với đường lối, chính sách của Đảng...
Thông qua bốn chương của cuốn sách, tác giả nhấn mạnh rằng, pháp luật là
công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, công cụ quản lý xã hội quan trọng, có
hiệu quả nhất. Tuy nhiên, tác giả cũng khẳng định pháp luật không phải là
công cụ quản lý duy nhất, càng không phải là công cụ quản lý vạn năng.
Thông qua luận giải của tác giả, người đọc có thể hình dung một cách rõ ràng
về vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội.
Nhóm công trình nghiên cứu về sự kết hợp, mối quan hệ giữa đạo

đức và pháp luật trong đời sống xã hội có các công trình:
Triệu Vũ (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng
giữa đức trị và pháp trị trong quản lý xã hội, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
số 11; Trần Hậu Thành (1998), Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, Tạp
chí Giáo dục lý luận, số 5; Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh (2000), Về
quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 6; Hoàng
Xuân Châu (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nền kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học
Đại học Quốc gia Hà Nội; Lương Hồng Quang (2002), Tư tưởng Hồ Chí
Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh; hàng loạt công trình nghiên cứu
chuyên sâu của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế về mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức như: Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong hệ thống điều chỉnh xã hội - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/ 1999;
Hoàng Thị Kim Quế (chủ nhiệm) Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, 2002; Vấn đề
kết hợp quản lý xã hội bằng pháp luật với giáo dục nâng cao đạo đức ở nước
ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 12/2002; Nguyễn Thúy Hoa (2006), Kết hợp
pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước tại Việt Nam hiện nay, Luận văn
5


Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Tạ Thị Thu
Đông (2012), Kết hợp đạo đức và pháp luật – cơ sở và giải pháp trong việc
quản lý xã hội, xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay, Tạp chí Phát triển
nhân lực, số 3; Nguyễn Văn Năm (2012), Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, Luận án
Tiến sĩ Đại học Luật Hà Nội.
Xin điểm qua một số công trình nghiên cứu ở nội dung này như:
Đề tài nghiên cứu: "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản

lý xã hội ở nước ta hiện nay" của tác giả Hoàng Thị Kim Quế (Đề tài Khoa
học cấp Bộ, 2002). Đây là công trình nghiên cứu một cách khá toàn diện các
vấn đề như vị trí, vai trò, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong quản
lý xã hội; tác giả cũng bước đầu nghiên cứu những biểu hiện việc kết hợp
giữa pháp luật với đạo đức ở một số lĩnh vực pháp luật cụ thể; trên cơ sở đó,
tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp luật
với đạo đức.
Tác giả Lương Hồng Quang có đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp
pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội (Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2002), và tác giả Tạ Thị Thu Đông có đề tài Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức và pháp luật (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010) nghiên cứu
về mối quan hệ giữa đạo đức, pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Những
đề tài này đề cập một cách khá sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
đạo đức và pháp luật; mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong tư tưởng
Hồ Chí Minh. Hai tác giả đều có sự phân tích khá sâu sắc các quan điểm, tư
tưởng của Hồ Chủ tịch và khẳng định, đạo đức là gốc, là cơ sở để xây dựng
pháp luật tiến bộ, là nhân tố đảm bảo việc thực hiện pháp luật, là công cụ hỗ
trợ cho pháp luật trong việc giữ gìn trật xã hội, thuần phong mỹ tục của dân
tộc; ngược lại, pháp luật cũng có tác động mạnh mẽ đến đạo đức. Pháp luật
ghi nhận và đảm bảo về mặt pháp lý các chuẩn mực đạo đức, là công cụ hữu
6


hiệu hỗ trợ cho cái thiện đấu tranh thắng cái ác, tạo điều kiện để các giá trị
đạo đức phát triển bền vững. Chính vì vậy, luận văn khẳng định, cần phải có
sự kết hợp chặt chẽ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội. Có thể
nói, các luận văn đều đã đề cập trực diện nhiều khía cạnh trong mối quan hệ
giữa pháp luật với đạo đức.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Xuân Châu với đề tài Mối quan hệ
giữa pháp luật với đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng

XHCN ở Việt Nam (Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Luận văn đã đề cập
những khía cạnh của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức. Tuy nhiên luận
văn không đề cập một cách cụ thể quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Luận văn trình bày về
những điểm tương đồng, khác biệt và sự tác động qua lại giữa pháp luật với
đạo đức cũng như đề cập đến vai trò của pháp luật, đạo đức trong quản lý xã
hội nhưng chưa chỉ ra đặc thù của mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức
trong giai đoạn hiện nay; chưa luận giải về sự cần thiết phải kết hợp giữa pháp
luật với đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội.
Nhìn chung, các công trình kể trên đã nghiên cứu về đạo đức và pháp
luật, về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật nói chung, hay là mối quan hệ
đạo đức và pháp luật trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Các tác giả đã
nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt của đạo đức và pháp luật, sự
ảnh hưởng qua lại một cách mật thiết giữa chúng; chỉ ra vai trò của đạo đức
và pháp luật trong đời sống xã hội với tư cách là những phương tiện quan
trọng điều chỉnh hành vi con người. Một số công trình nghiên cứu vấn đề kết
hợp giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội nói
chung. Tuy nhiên, các công trình chưa đề cập một cách cụ thể sự kết hợp đạo
đức với pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiên nay. Đây là hướng nghiên cứu mà tác giả luận văn
muốn hướng đến.
7


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về đạo
đức, pháp luật, nhà nước pháp quyền, luận văn đi vào làm rõ tính tất yếu và
thực trạng sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
kết hợp đạo đức và pháp luật một cách hiệu quả hơn.

Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn cần phải thực hiện
những nhiệm vụ sau:
Một là, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền, về
đạo đức và pháp luật, về mối quan hệ giữa đạo đức pháp luật.
Hai là, làm rõ tính tất yếu và thực trạng của việc kết hợp đạo đức và
pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Ba là, bước đầu đề xuất một số giải pháp phát huy hiệu quả việc kết
hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong quá trình xây
dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu sự kết hợp đạo đức và pháp luật
trong xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam, từ thời kỳ Đổi mới đến nay, thể
hiện trong các văn kiện Đảng, trong hoạt động lập pháp và thực thi pháp luật
trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan niệm của triết học Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về lý luận
NNPQ XHCN, về pháp luật và đạo đức. Ngoài ra, luận văn còn tham khảo, sử
dụng kết quả các công trình trong nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài
nước có liên quan trực tiếp đến nội dung của luận văn.

8


- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu các phương
pháp của phép biện chứng duy vật như: Phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp thống nhất logic – lịch sử, khái quát hóa…
6. Đóng góp mới của luận văn
- Trên cơ sở lý giải sự cần thiết và thực trạng kết hợp giữa đạo đức và

pháp luật trong xây dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân ở Việt Nam hiện nay, luận văn bước đầu đề xuất một số giải pháp
mang tính định hướng cho việc nâng cao hiệu quả của sự kết hợp giữa đạo
đức và pháp luật trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Góp phần bổ sung và làm sáng tỏ thêm những
vấn đề lý luận về kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng NNPQ
XHCN ở Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo
dùng trong công tác nghiên cứu những vấn đề liên quan, tiếp cận ở cả góc độ
triết học, đạo đức và pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.

9


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP
ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền, đạo đức và pháp luật.
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
* Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền được hình thành cách đây hơn hai
nghìn năm. Lúc đầu đó chỉ là những ý tưởng, những quan niệm của các nhà tư
tưởng về những yếu tố, những khía cạnh có tính đơn biệt của việc tổ chức
quyền lực nhà nước, phát huy vai trò của pháp luật và giải quyết mối quan hệ

giữa nhà nước và pháp luật. Sau đó những ý tưởng này được phát triển thành
tư tưởng có giá trị phổ biến của nhân loại. Nội dung chủ yếu của tư tưởng nhà
nước pháp quyền là đề cao vai trò của pháp luật nhằm bảo vệ các giá trị xã
hội như tự do, công bằng, bình đẳng và phát triển.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, do đòi hỏi của lịch sử và xuất phát từ
khát vọng về tự do, dân chủ, có hai thời kỳ xuất hiện nhiều tư tưởng, quan
điểm tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền. Đó là thời kỳ nhà nước cổ đại
Hy Lạp, La Mã khi mà nhà nước chiếm hữu nô lệ đã thể hiện hết tính chất tàn
bạo, dã man của nó và thời kỳ cách mạng tư sản ở châu Âu khi giai cấp tư sản
phát động các cuộc cách mạng đánh đổ chế độ phong kiến chuyên chế, xây
dựng nền cộng hoà và xã hội tự do, bình đẳng, bác ái.
Những tư tưởng tích cực tiến bộ về Nhà nước pháp quyền trong thời kỳ
cổ đại ở phương Tây thể hiện rõ nét ở các nhà tư tưởng tiêu biểu của thời kỳ
này như Solong, Socrat, Platon, Aristot, Xixeron v.v…
Solong (638-559 tr.CN) được coi là người đầu tiên nêu ý tưởng về nhà
nước pháp quyền khi ông chủ trương cải cách nhà nước Athen bằng việc đề
10


cao vai trò của pháp luật. Theo ông, chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật tự
và tạo nên sự thống nhất, ông chủ trương giải phóng tất cả mọi người bằng
pháp luật, nhà nước và pháp luật là hai công cụ để thực hiện dân chủ, tự do và
công bằng, vì vậy, hãy kết hợp sức mạnh quyền lực nhà nước với pháp luật.
Nhà nước Athen với những tư tưởng cải cách của Solong được xem là nhà
nước dân chủ nhất cho đến thời điểm đó.
Heraclit (520-460 tr.CN) cho rằng pháp quyền là phương tiện quan
trọng để chống lại cực quyền, ông kêu gọi nhân dân phải đấu tranh để bảo vệ
pháp luật như bảo vệ chốn nương thân của mình.
Platon (427-374 tr.CN) quan niệm tinh thần thượng tôn pháp luật phải
là nguyên tắc, bản thân nhà nước và các nhân viên nhà nước phải tôn trọng

pháp luật; nhà nước sẽ suy vong nếu pháp luật không còn hiệu lực hoặc chỉ
phụ thuộc vào chính quyền; Xixeron (106-43 tr.CN) đưa ra quan niệm: nhà
nước phải là một cộng đồng pháp lý.
Quan niệm của các nhà tư tưởng cổ đại tuy được nêu ở những góc độ
khác nhau nhưng tựu trung đều cổ vũ cho việc đề cao pháp luật và xây dựng
nhà nước hoạt động trong khuôn khổ pháp luật công bằng. Những ý tưởng đó
có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành và phát các lý thuyết về tính tối cao của
pháp luật, về phân chia quyền lực nhà nước và nhà nước pháp quyền nói chung.
Những quan điểm, tư tưởng về nhà NNPQ thời kỳ cổ đại được tiếp tục
phát triển, nhất là trong thời kỳ các cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ
phong kiến chuyên chế, độc tài và vô pháp luật ở châu Âu thế kỷ 17, 18.
Trong thời kỳ này tư tưởng về nhà nước pháp quyền được phát triển khá
phong phú, toàn diện, hình thành hệ thống quan điểm trong các học thuyết
chính trị - pháp lý, tiêu biểu là quan điểm của các nhà tư tưởng: J.Lock, S.L.
Montesquieu, J.J.Rousseau, I.Kant, Hegel, Monh. Trong đó, đáng chú ý là học
thuyết của J.Lock, S.L.Montesquieu và J.J.Rousseau.

11


John Lock (1632-1704) là người đặt nền móng cho sự ra đời học thuyết
về nhà nước pháp quyền tư sản. Ông đưa ra tư tưởng về nhà nước trong cuốn
“Khảo luận thứ hai về chính quyền”. J.Lock nhận thấy nguy cơ của quyền lực
tuyệt đối, quyền của độc tài dù trao cho một cá nhân hay một nhóm người.
Ông cho rằng dạng nhà nước tốt nhất là quyền lực của hệ thống chính quyền
được hạn chế bằng cách chia thành các nhánh và mỗi nhánh có quyền hạn
riêng đủ cần thiết để thực hiện chức năng của mình. Ông cho rằng một hệ
thống nhà nước cần có quyền xét xử độc lập dựa trên duy nhất hiến pháp
chung của quốc gia. Trách nhiệm lập pháp là của quốc hội và nhiệm vụ của
nhà vua là hành động như một người chấp pháp tối cao.

Tiếp sau John Lock, Montesquieu (1698-1755) trong tác phẩm
“Tinh thần pháp luật” đã đề ra lý thuyết phân chia quyền lực, một trong
những nội dung chủ yếu của NNPQ tư sản. Ông quan niệm, khi nắm trong
tay quyền lực con người thường có xu hướng lạm dụng nó, vì vậy, phân
chia quyền lực để tránh lạm quyền. Theo ông, mỗi quốc gia đều có ba thứ
quyền lực là: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Để
chống độc quyền thì ba thứ quyền lực này phải được tổ chức sao cho có
tính độc lập và kiềm chế lẫn nhau.
J.J.Rousseau (1712-1788) trong “Bàn về khế ước xã hội” đã coi khế
ước xã hội là cơ sở để giải quyết các vấn đề về nhà nước, pháp luật và công
dân. Ông đã bàn cặn kẽ về “tam quyền” theo lý thuyết của Montessquieu.
“Khế ước xã hội” là ý chí chung, là quyền lực tối cao được thiết lập từ những
cá thể thành viên hợp lại. Ý chí chung của toàn thể dân chúng khi được công
bố nó trở thành luật.
Đến I.Kant (1724-1804) – học giả người Đức, lý thuyết về nhà nước
pháp quyền tư sản với tính cách là một học thuyết triết học – chính trị tương
đối hoàn chỉnh đã được xác định. Ông triệt để tán thành việc áp dụng lý

12


thuyết phân quyền. Theo ông ở đâu áp dụng nguyên tắc này thì ở đó có
NNPQ, nếu không chỉ là chuyên quyền.
Lý luận kinh điển về NNPQ phát triểm mạnh ở nước Đức vào nửa đầu
thế kỷ XIX. Robert Fon Mohn, Karl Teodor Valker - hai nhà luật học người
Đức, là những người đầu tiên dùng thuật ngữ NNPQ đã được lập luận trong
triết hoc của Canter, Hegen. Mohn và Valker đề ra nguyên tắc về tính tối cao
của luật như là tiêu chuẩn quan trọng nhất của NNPQ. Theo Mohn, trong ba
loại quyền trong NNPQ thì quyền lập pháp có vị trí cao nhất, không thể không
có sự kiểm tra của các cơ quan tư pháp lớn hơn sự hoạt động lập pháp mà chỉ

lớn hơn các cơ quan hành pháp mà thôi. Theo Mohn và Valker, trong những
tiêu chuẩn của NNPQ đó là sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật, thừa
nhận mục đích sống còn của tất cả mọi người không phụ thuộc vào địa vị xã
hội của họ. Tính tối cao của luật, sự ngự trị của pháp luật thể hiện qua quyền
lực nhân dân dưới thình thức chủ quyền của nghị viện.
Như vậy, từ thế kỷ XVII-XVIII, trong triết học pháp quyền đã thiết lập
nguyên tắc bình đẳng về hình thức pháp luật của tất cả mọi người tham gia
các quan hệ pháp luật, bằng sự thống nhất về bản chất của lợi ích và nhu cầu.
Trong quan niệm cổ điển của thuyết pháp quyền tự nhiên của J.J.Rousseau, cơ
chế kiểm tra của bộ máy chính trị - nhà nước được dùng để cân bằng lợi ích
của toàn dân, của các nhóm, các giai tầng và các lợi ích cá nhân. Và sự cân
bằng đó chỉ có thể đạt được, vẫn theo tư tưởng của J.J.Rousseau, khi có sự
phân quyền và tôn trọng tính tối cao của luật và không chỉ là trật tự pháp luật
tối ưu mà còn là tổ chức chính trị lý tưởng nói chung.
Ở phương Đông, mầm mống về tư tưởng NNPQ cũng xuất hiện từ thời
cổ đại. Đó là tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng thuộc phái Pháp gia như:
Quản Trọng, Thương Ưởng, Hàn Phi… Quản Trọng chủ trương đề cao “Luật,
lệnh, hình, chính”, vua phải giữ pháp, không vì vua muốn mà thay đổi lệnh,
lệnh đáng tôn hơn vua. Hàn Phi coi pháp là chuẩn mực cao nhất của việc cai
13


trị đất nước, khi thi hành pháp luật thì không kể đến tình cảm riêng, không
câu nệ chuyện thân sơ, sang hèn, tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Học
thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử là sự tiếp thu những điểm ưu trội của ba
trường phái trong Pháp gia: “pháp” (Thương Ưởng), “thuật” (Thân Bất Hại),
“thế” (Thận Đáo); từ đó, phát triển và xây dựng một hệ thống lý luận pháp trị
tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời.
Sự phân tích trên cho thấy tư tưởng về nhà nước pháp quyền nói chung,
đặc biệt ở phương Tây là cả một quá trình phát triển kế tiếp và nối dài, có sự

kế thừa và hoàn thiện trong quá trình vận động đó, để đi đến những quan điểm
chung thống nhất về nhà nước pháp quyền.
* Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
Nghiên cứu các tư tưởng, quan điểm về Nhà nước pháp quyền trong
lịch sử tư tưởng nhân loại, có thể rút ra những điểm chung, khái quát về đặc
trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền như sau:
- Nhà nước pháp quyền là tổ chức chính trị của nhân dân, là biểu hiện
tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp
quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước. Mục tiêu của nhà nước
pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực
chính trị thuộc về nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm chủ quyền của nhân dân bằng pháp luật, là
nhà nước thượng tôn pháp luật, trong đó pháp luật phải phản ánh "ý chí chung
của nhân dân", "lợi ích chung của xã hội".
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ được
các quyền tự do, dân chủ của công dân.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về
những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ đối với
nhà nước và chịu trách nhiệm pháp lý về những hành vi vi phạm pháp luật của mình.
14


- Nhà nước pháp quyền tư sản có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước
theo nguyên tắc tam quyền phân lập, có sự phân chia, đối trọng và kiểm soát
quyền lực nhà nước giữ ba bộ phận: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm sự độc lập của Toà án và
tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật. Có cơ chế giám sát sự tuân thủ
pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện.
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn

bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp
pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Khi kế thừa, tiếp thu tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền
trong lịch sử tư tưởng nhân loại là kế thừa, tiếp thu những mặt tích cực, hợp
lý, tiến bộ, khái quát trong các đặc trưng nêu trên. Đó là thành quả trí tuệ, là
kết tinh của khát vọng dân chủ, tự do và nhân quyền của nhân loại.
NNPQ ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các giá trị đặc thù của
mỗi một quốc gia, dân tộc. Không thể có một nhà nước pháp quyền chung
chung cho mọi quốc gia, dân tộc. Tính đặc thù của NNPQ được xác định bởi
hàng loạt yếu tố. Các yếu tố này về thực chất rất đa dạng, phong phú và phức
tạp, được xác định bởi các điều kiện về lịch sử, truyền thống - văn hoá, tâm lý
xã hội của mỗi dân tộc, các chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá. Các yếu
tố này không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi một dân tộc trong
quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển của mình mà còn quyết định mức
độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền.
Mỗi một quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh
tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà
nước pháp quyền thích hợp.

15


* Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
NNPQ với tư cách là cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ nhà
nước và xã hội đã được xây dựng ở nhiều quốc gia tư bản phát triển và đang
phát triển.
Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng NNPQ đang đặt ra như một tất yếu lịch
sử và tất yếu khách quan dựa trên quá trình nhận thức, tiếp thu tư tưởng tiến
bộ của nhân loại, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam với những đặc thù riêng.
Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định chủ trương “đẩy nhanh công

cuộc xây dựng NNPQ XHCN trên nhiều mặt và xác định phải tiếp tục đẩy
mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế”, “xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về
nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa
các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn
bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến,
hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền” [12,
tr.126]. Như vậy, ở đây chúng ta vẫn dễ dàng nhận thấy rằng, tính pháp chế là
đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền và bản chất của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về mặt tư duy
lý luận, có lẽ điểm khác biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam so với các nhà nước pháp quyền khác là ở cơ chế vận hành của nhà
nước, bởi vì ở các nhà nước pháp quyền tư sản thì cơ chế vận hành phổ biến
là “tam quyền phân lập”. Còn chúng ta xác định quyền lực nhà nước là tập
trung, thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp thực hiện quyền lực.
Chủ trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam với những đặc trưng đã nêu ở trên vẫn tiếp tục được khẳng định tại
Đại hội XI của Đảng, trong đó Đảng ta đặc biệt chú ý đến việc “nâng cao
16


năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương” [13, tr.247].
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang những đặc
trưng sau:
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực sự
của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hồ Chí
Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì

dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ” [31, tr.515].
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tôn trọng,
thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và
hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến
pháp và Luật trong đời sống xã hội.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tổ chức
theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chịu
trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công
dân thực hiện các nghĩa vụ trước nhà nước và xã hội.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực
hiện đường lối đối ngoại hoà bình, hữu nghị hợp tác, bình đẳng và phát triển
với các nước láng giềng, các nhà nước và các dân tộc khác trên thế giới; tôn
trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã tham gia.
Trên đây là những đặc trưng cơ bản của NNPQ XHCN ở Việt Nam.
Sau một thời gian dài của quá trình nhận thức, tìm tòi, thể nghiệm, đến nay
17


yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã chính thức trở thành một
nguyên tắc định hướng cho quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà
nước Việt Nam.
NNPQ được nhận diện là phương thức tổ chức dân chủ quyền lực nhà
nước mà theo đó pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện quyền lực cũng như
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể trong xã hội.

Về mặt tư duy lý luận, điểm khác biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam so với các nhà nước pháp quyền tư sản là ở cơ chế vận
hành của nhà nước. Nếu các nhà nước pháp quyền tư sản có cơ chế vận hành
phổ biến là “tam quyền phân lập”, thì NNPQ XHCN ở Việt Nam có sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Điều này để nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất,
cũng chính là dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước
và pháp luật.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về đạo đức và vai trò của đạo đức trong
xã hội.
- Thuật ngữ "đạo đức" trong tiếng Anh là Morality, trong tiếng Pháp là
Morale…, có gốc từ Latinh là Moris, có nghĩa là lề thói, đạo nghĩa. Thuật ngữ
này được hình thành từ rất sớm trong xã hội chiếm hữu nô lệ, khoảng thế kỷ
IV trước công nguyên, gắn với tên tuổi nhà tư tưởng vĩ đại Arixtốt (384-322)
trước công nguyên. Thời kỳ xa xôi người ta quan niệm đạo đức là những
chuẩn mực chung nhằm điều chỉnh hành vi con người, sao cho tạo nên mối
quan hệ hài hòa giữa con người với nhau, giữa con người với xã hội. Theo
tiếng Hy Lạp cổ Ethos là luân lý, là thói quen, là phong tục tập quán, thông
qua đó mà điều chỉnh hành vi của con người. Sau này, người phương Tây
cũng dùng từ "Ethique" với nghĩa là đạo đức học.
Ở phương Đông, Trung Quốc là nơi mà các nhà tư tưởng nói đến đạo
đức nhiều nhất, điển hình là Nho giáo. Trong tiếng Trung Quốc, chữ "đạo
18


×