Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

SKKN tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học các bài học giáo dục đạo đức môn giáo dục công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 17 trang )

---------------------------

T¹o høng thó cho häc sinh trong giê häc c¸c
bµi häc ®¹o ®øc m«n Gi¸o dôc c«ng d© n

:


2
Sáng kiến kinh nghiệm môn Giáo dục công dân 9

Đề tài: "Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học các bài học đạo đức
môn Giáo dục công dân"

Phần I: Lí do chọn đề tài
Trước đây, bộ môn Giáo dục công dân (GDCD) không được coi trọ ng ở
trường phổ thông, người dạy thường trái tay, hoặc giáo viên chủ nhiệm lớp nào
thì dạy bộ môn Giáo dục công dân lớp đó. Vì vậy, giáo viên dạy bộ môn này
chưa có sự đầu tư trong bài dạy. Nội dung bài dạy đơn điệu, sơ sài. Thậm chí
giờ dạy chỉ qua loa, chiếu lệ để giáo viên chủ nhiệm còn giải quyết việc khác
của lớp. Hiện nay, bộ môn GDCD có các phong trào cải tiến về phương pháp
dạy học hay những đợt thi giáo viên giỏi qua từng cấp, đặc biệt hằng năm
Phòng giáo dục có thanh tra giáo viên dạy bộ môn này. Qua những đợt hội
giảng, thi giáo viên giởi các cấp hay những đợt thanh tra chuyên môn, giáo
viên được cọ sát, học hỏi rất nhiều. Song nếu chỉ qua những đợt thi đó thì chưa
đủ mà giáo viên còn phải tìm tòi, sáng tạo phương pháp dạy học mới để phát
huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học đồng thời khêu
gợi niềm say mê, háo hức của học sinh với bộ môn giáo dục nhân cách này.
Đó chính là lí do tôi chọn đề tài: "Tạo hứng thú cho học sinh trong các bài
học đạo đức môn Giáo dục công dân"



3
Phần II: Cơ sở lí luận và thực tiễn để giải quyết đề tài

1. Thực trạng việc giảng dạy bộ môn GDCD ở nhà trường hiện nay
Như chúng ta đã biết ngành giáo dục đã trải qua rất nhiều cuộc cải cách
giáo dục và đã phấn đấu thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ, đáp ứng phù
hợp với yêu cầu của các giai đoạn cách mạng mới. Tuy nhiên, ngành giáo dục
vẫn còn trăn trở là những chỉ giáo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về
phương pháp đào tạo nêu trên, tuy có được nghiên cứu, ứng dụng vào thực tiễn
học cũng như đời sống hằng ngày nhưng chưa đạt kết quả như mong muốn. Vì
sao vậy? Có rất nhiều lí do dẫn đến việc giáo dục bộ môn nhân cách cho học
sinh chưa đạt hiệu quả cao.
Trước hết phải kể đến đó là việc xã hội, gia đình và bản thân ngành giáo
dục còn chú trọng các môn khoa học nhằm nâng cao trí tuệ mà chưa chú ý
nâng cao nhân cách cho học sinh nghĩa là chỉ chú ý rèn tài mà chưa chú ý rèn
đức. Biểu hiện cụ thể mà ai cũng thấy rõ là môn GDCD chưa bao giờ được Bộ
Giáo dục và Đào tạo xếp vào môn thi tốt nghiệp hay vào cấp III dù chỉ một
lần. Điều này làm cho giáo viên và học sinh chủ quan, chỉ ý thức được rằng
miễn là dạy học đủ bài, đúng chương trình. Chính môn GDCD không được
chọn vào các môn thi trong các kì thi quan trọng nên sách th am khảo, sách bài
tập còn ít, đặc biệt là sách viết về phương pháp dạy học bộ môn này thì càng
hiếm.
Một vấn đề nữa là lượng thời gian dành cho bộ môn này còn ít (1 tuần /
1 tiết). Sách mới viết hiện nay nội dung rất phong phú, hợp với trình độ học
sinh nhưng nếu giáo viên dạy bộ môn mà không có sự đầu tư thì giờ học sẽ rất
nhàm chán, thậm chí học sinh không chú ý lắng nghe. Thực trạng cho thấy,
học sinh chưa hứng thú học bộ môn này.
Thông qua việc dự giờ các lớp và tình hình giảng dạy chung của khối
lớp 9, người viết nhận thấy điểm hạn chế tồn tại tập trung ở phương pháp

truyền thụ kiến thức của giáo viên cho học sinh. Trước hết là sự đầu tư cho giờ
dạy còn hạn chế dẫn đến giờ học khô khan, không đọng lại trong tâm trí học


4
sinh một hình ảnh hoặc một ấn tượng nào.Thứ hai vì không có trì nh độ chuyên
môn về môn này (giáo viên trường tôi 100 % là trái tay) nên những nội dung
bài dạy còn chưa sâu, chưa kĩ.
Trong đợt thi giáo viên giỏi vừa qua, trải qua những vòng loại, các giáo
viên đạt thành tích cao trong hội thi đều là những giáo viên đã biết kết hợp
nhiều phương pháp dạy học để gây hấp dẫn, hứng thú cho học sinh và điều rất
quan trọng đó là sử dụng công nhệ thông tin, đặc biệt là kênh hình hợp lí, để
lại những ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn học sinh.
2. Đối tượng học sinh
- Học sinh chúng tôi chủ yếu là con nông nghiệp và buôn bán, trình độ
dân trí chưa cao. Phụ huynh học sinh chủ yếu lo miếng cơm manh áo mà chưa
chú ý giáo dục con cái về mọi mặt.
- Học sinh chưa tự giác học tập, ít tham khảo sách vở, mải chơi. Các em
chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nếu không được giao
nhiệm vụ cụ thể. Các em ngại đi tìm tư liệu cho bài học, tiếp thu bài một cách
thụ động.


5
Phần III: quá trình triển khai thực hiện đề tài

A. Đặc điểm môn học

Môn GDCD ở trường THCS là môn học thay thế cho môn chính trị Đạo đức trước đây. Đặc điểm của nó bao quát các kiến thứcvề đạo đức học và
pháp luật. Tất nhiên, các kiến thức của nó là rất đơn giản. Nó cung cấp những

tri thức sơ lược về quan hệ xử sự trong gia đình (cha, mẹ, anh, chị, em, ông,
bà), quan hệ hàng xóm, quan hệ cộng đồng xã hội. Đồng thời cung cấp những
hiểu biết về các qui tắc của pháp luật như quyền lao động. quyền công dân ...
Đặc điểm chương trình là kết cấu đồng tâm với các lớp của các cấp học
cao hơn
Môn GDCD có vị trí vô cùng quan trọng, cùng với các môn học khác có
nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Song môn GDCD là trực
tiếp nhất. Những tri thức môn GDCD trực tiếp xây dựng tư tưởng, tình cảm
đạo đức, trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân đối với gia đình, học đường và
cộng đồng xã hội. Giáo viên dạy bộ môn này phải đánh giá đúng được vị trí,
tầm quan trọng của bộ môn.

B. Những quan điểm về vấn đề tạo hứng thú trong giờ
dạy môn GDCD (ở các bài dạy đạo đức)
I. Những quan niệm về vấn đề tạo hứng thú cho học sinh

Tạo hứng thú cho học sinh trong gìơ học đó là vấn đề mà bất kì giáo
viên nào khi lên lớp cũng đều mong muốn mình có thể làm được điều đó song
không phải ai cũng thành công. Bằng chứng cho thấy, có những giáo viên khi
lên lớp học sinh rất thích học nhưng cũng có những giáo viên khi lên lớp học
sinh không có hứng thú, gây ra mất trật tự. Theo tôi để tạo được hứng thú
trong giờ học giáo viên phải nắm vững các bước sau:
1. Giáo viên phải hiểu được yêu cầu và nội dung của công tác giáo
dục tư tưởng, chính trị đạo đức cho học sinh


6
ở đây, giáo dục tư tưởng đạo đức và ý thức chính trị cho học sinh phải
trên cơ sở của chương trình, kiến thức của môn học. Mức độ giáo dục học sinh
THCS là phải phù hợp với trình độ, lứa tuổi. Yêu cầu cụ thể như sau:

a. Công tác giáo dục tư tưởng đạo dức, chính trị phải phù hợp với trình
độ kiến thức của chương trình học
Đặc điểm kiến thức của lớp 6, lớp 7 về đạo đức là rất giản đơn như khái
niệm về khoan dung, lễ độ, trung thực... những kiến thức này thường phải gắn
với thực tế để minh hoạ, giảng giải và mức độ xây dựng tình cảm cho học sinh
nhẹ nhàng, tự nhiên trên cơ sở của giảng giải.
b. Công tác giáo dục phải phù hợp với đối tượng lứa tuổi
Hầu hết học sinh THCS còn nhỏ tuổi. Việc hiểu các khái niệm còn trực
tiếp, cảm tính cho nên đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp giáo dục thích
hợp. Việc giáo dục ý thức chính trị cũng như giáo dục tư tưởng đạo đức cho
học sinh phải trên cơ sở ý nghĩa rút ra của mỗi khái niệm và kiến thức bài
giảng. Từ đó để học sinh cảm nhận và tự nâng lên thành nhận thức và ý thức
của bản thân. Tránh những lí thuyết chung chung, tránh những lời hô hào phải
thế này, thế nọ.
c. Công tác giáo dục tư tuởng đạo đức cho học sinh phải thiết thực, phù
hợp với yêu cầu thự tiễn của xã hội hiện nay
- Những yêu cầu về lối sống hiện nay
- Những ứng xử hằng ngày của học sinh (trong gia đình, nhà trường, xã hội...)
- Những vấn đề an toàn giao thông
- Những vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái.
- Những vấn đề về kỉ luật trong học tập, lao động.
2. Các nguyên tắc của công tác giáo dục
Giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh thông qua môn học GDCD đó
là việc làm bắt buộc và khó. ở đây, phải xuất phát từ khái niện đạo đức học
của pháp luật để hình thành ở các em những tình cảm đạo đức và các hành vi
đạo đức, hành vi pháp luật. Chính vì vậy đòi hỏi các phương pháp sau:


7
- Phải cho học sinh hiểu khái niệm rồi mới rút ra ý nghĩa vận dụng, hình

thành tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
- Tính thực tiễn trong công tác giáo dục tư tưởng phải xuất phát từ thực
tiễn cuộc sống, thực tiễn cách mạng để giáo dục.
- Giáo dục tư tưởng đạo đức đáp ứng với yêu cầu thiết thực của gia đình,
học đường và xã hội ở địa phương nơi trường đóng.
- Giáo dục tư tưởng đạo đức phải phù hợp với đối tượng, phù hợp với
chương trình học.
Tất cả các nguyên tắc trên là sự kết hợp hài hoà và gắn liền cơ hữu với
nhau, không thể coi nặng cái này mà coi nhẹ cái kia.
Một bài giảng gây được hứng thú cho học sinh trước hết phải là một bài
giảng có tính giáo dục tốt và phải biết vận dụng kết hợp các nguyên tắc trên.

II. Một số biện pháp chính mà tôi đã làm

Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh qua môn học GDCD
để được thực hiện tốt theo tôi cách dạy của giáo viên là quan trọng nhất. Cô là
người gợi mở, học sinh tự do phát triển. Giáo viên dẫn dắt vấn đề, đưa kiến
thức và tình huống bên ngoài cuộc sống để cho giờ học thêm sinh động. Giờ
học, học sinh phải được "phát ngôn" theo sự hiểu biết của mình gắn với bài
học, giúp học sinh say mê với môn học. Giáo viên như một người bạn, người
tâm giao, có vướng mắc là các em hỏi ngay mà không ngại.
Với SGK, giáo viên dựa vào khung sườn từ đó có cách gợi mở với mỗi
bài học để HS chủ động. Từ kiến thức nền đó, giáo viên "biến hóa" để HS hiểu
bài, biết thế nào là tốt - xấu, nếu nguy hiểm cầu cứu ở đâu...Tuy nhiên, cũng
có cái khó là đồ dùng dạy học còn ít, tranh ảnh minh họa cũng ít, phần lớn
giáo viên phải tự chuẩn bị, tự làm, công sưu tầm tư liệu mất rất nhiều thời
gian.
Thực tế, nếu dập khuôn theo SGK thì môn GDCD là khô cứng, giáo
điều, HS rất khó hiểu. Chương trình lớp 9 khó, nhiều bài liên quan đến chính
trị, tư tưởng như lý tưởng sống của thanh niên, hay tôn trọng và học hỏi các



8
dân tộc khác... Kiến thức đưa vào thì giáo viên và học sinh đều phải dạy và
học, tuy nhiên, để minh họa cho bài học khá khó khăn.
Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy để tạo hứng thú cho học sinh trong
giờ học GDCD cần chú ý các biện pháp sau:
1. Biện pháp đưa thực tiễn, tư liệu cuộc sống vào bài giảng, làm cho
bài giảng phong phú sinh động, học sinh dễ hiểu và có ấn tượng sâu về
bài học.
Những tư liệu này phải phong phú, cập nhật những vấn đề mang tính
thời sự mà học sinh quan tâm. Muốn vậy, đòi hỏi người giáo viên phải thường
xuyên theo dõi những vấn đề của xã hội đặc biệt khi đọc các thông tin trên
báo, mạng, truyền hình giáo viên phải ghi lại những vấn đề có thẻ phục vụ cho
bài giảng.
2. Biện pháp nêu gương
Mỗi khái niệm đạo đức, pháp luật mỗi chủ đề cần đưa gương tốt về
người thật, việc thật. Đồng thời gương xấu nếu có để học sinh tránh. Những
tấm gương nêu ra phải được nhiều học sinh biết, đặc biệt là những tấm gương
ở địa phương mình.
3. Biện pháp mời báo cáo ngoại khoá
Ví dụ:
- Mời báo cáo an toàn giao thông
- Báo cáo luật lệ đi đường
- Báo cáo gương tốt trả của rơi cho người bị mất
- Báo cáo về gương dũng cảm cứu người bị nạn
Biện pháp này, học sinh phải được chuẩn bị, giáo viên hướng dẫn học
sinh tìm tư liệu, kiểm tra bài báo cáo trước khi học sinh trình bày trước lớp.
4. Biện pháp tổ chức cho học sinh đi tham quan các chủ đề đạo đức và
pháp luật.

Biện pháp này phải được sự đồng ý của Ban Giám hiệu nhà trường, giáo
viên nên liên hệ địa điểm trước khi tham quan và có sự thông báo với phụ
huynh học sinh.


9
5. Biện pháp viết báo tường, hát các bài có chủ đề về đạo đức - người tốt,
việc tốt.
Biện pháp này có thể kết hợp với đoàn đội, giáo viên chủ nhiệm để học sinh
được tập duyệt trong giờ sinh hoạt lớp.
Bên cạnh giờ lên lớp của môn GDCD, các nhà trường nên tổ chức giáo
dục đạo đức công dân cho học sinh thông qua các hoạt động ngoại khóa, qua
lễ chào cờ đầu tuần, giờ sinh hoạt lớp... giúp HS hiểu rõ hơn các "chuyển
động" trong đời sống xã hội.

III. ứng dụng trong bài dạy cụ thể

Giáo dục công dân bài 10 - tiết 14: Lí tưởng sống của thanh niên (Tiết 2)
Phần I: Phần chuẩn bị của giáo viên
- Những tấm gương, những ví dụ thực tế
- Chuẩn bị băng hình chính diện và phản diện về lối sống của thanh
niên hiện nay.
- Các hình ảnh về hoạt động của thanh niên
Tham khảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Phần II: Chuẩn bị của học sinh
- Tìm hiểu những tấm gương của thanh niên qua các thời kì
- Chuẩn bị diễn đàn thanh niên
- Chuẩn bị câu hỏi toạn đàm
- Chuẩn bị phần máy tính phục vụ cho buổi toạ đàm.
Đối với bài này, tôi xác định đây là một bài dạy khó, các kiến thức của

bài rất trừu tượng đối với học sinh. Vậy làm thế nào để học sinh dễ hiểu, bài
dạy gây ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn học sinh. Tôi đã suy nghĩ và vận
dụng các biện pháp thích hợp để tạo hứng thú trong gìơ dạy. Tuy nhiên để làm
nên thành công trong giờ dạy không thể thiếu đó là sử dụng côn g nghệ thông
tin.
1. Biện pháp đưa các tư liệu cuộc sống vào bài dạy để tạo ấn tượng
cho học sinh:


10
Đối với mục Xác định lí tưởng sống cao đẹp của thanh niên ngày nay,
tôi đưa các tư liệu, hình ảnh trong cuộc sống và bài giảng. Những tư liệu này
không chỉ giới học sinh qua tâm mà toàn xã hội đang quan tâm đó là tư liệu về
hiến máu nhân đạo, hình ảnh thanh niên tham gia vào hoạ động chung tay
khắc phục lũ lụt năm 2007. Những tư liệu này rất đơn giản có trên mạng.
Đây là hai thông tin để học sinh tìm hiểu về lí tưởng sốn của thanh niên
ngày nay:
Từ ngy 10/10/2007 đến 12/10/2007,
điểm hiến máu đặt tại siêu thị Big C Hà
Nội đã có 205 bạn trẻ đăng ký hiến máu,
122 đơn vị máu được tiếp nhận.

Thanh niên tình nguyện vận
động các bạn trẻ hiến máu
Ti Bỡnh nh, ngay sau khi nc l rỳt, 12
i thanh niờn v y bỏc s tr tỡnh nguyn ó
cú mt cỏc vựng trng im ca l
khỏm bnh, cp thuc min phớ, lm v sinh
mụi trng, khc phc ng giao thụng,
cỏc cụng trỡnh thy li,

SV Trường CĐSP Bình Định
chung tay khắc phục lũ

Tôi cho các em đọc, quan sát ảnh và sau đó nêu câu hỏi: Khi nghe
những thông tin đó, em có suy nghĩ gì về hoạt động của thanh niên hiện
nay?
Học sinh dễ ràng thấy được hoạt động của thanh niên rất đa dạng,
phong phú, thiết thực. Thanh niên tham gia vào rất nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội đến những nơi đất nước và nhân dân đang cần.


11
Từ đó cho học sinh thấy được ý nghĩa việc làm của họ đó là đem
đến cho con người cuộc sống ấm no, góp phần thực hiện mục tiêu công
nghiệp hoá hiện đại hoá...
Sau đó giáo viên cho học sinh tự rút ra lí tưởng sống cao đẹp của
thanh niên ngày nay là gì bằng câu hỏi phụ: "Theo em, thanh niên ngày
nay cần phải sống như thế nào?". Khi học sinh trình bày ý kiến của
mình, giáo viên viết tóm tắt ý kiến đó lên bảng, sau đó gạch chân các từ
ngữ quan trọng và cuối cùng chốt lại - đây chính là lí tưởng sống cao đẹp
của thanh niên này nay.
Đối với mục cách rèn luyện của bản thân tôi cũng đưa hình ảnh
thiết thực để cho học sinh tự nhận thấy mình phải làm theo tấ m gương
nào, và không nên theo lối sống nào.
Tôi đưa một đoạn băng hình về đối tượng thanh niên nghiện ngập
và một đoạn băng hình tự tôi lồng hình ảnh về các hoạt động của thanh
niên năm 2006,2007 tham gia rất nhiều các lĩnh vực trong đời sống xã
hội. Dưới mỗi hình ảnh là các lời bình, và nhạc là bài hát mà thanh niên
rất yêu thích - "Mùa hè xanh". Học sinh được nghe một đoạn nhạc bài
hát và 20 hình ảnh mỗi cùng với lời bình chỉ trong 2 phút. Sau khi xem

băng hình xong tôi hỏi: Nêu cảm nghĩ của em khi xem các hình ảnh
trên?.
Từ các hình ảnh đó, học sinh biết mình phải làm theo tấm gương
nào và không nên sa vào con đường ma tuý. Có thể nói, hình ảnh trên đã
tác động đến tâm lí, hành vi của các em và từ đó hướng các em đi đúng
con đường mà xã hội đang cần và mong muốn.
Đối với học sinh các em rất thích thú khi xem các hình ảnh đó, và
các em nói đó là một ấn tượng sâu đậm đối với các em, có em còn xin
đoạn băng hình đó. Còn người dự cảm thấy dưng dưng, có một sự xúc
động thật sự trong tâm hồn. Để làm hình ảnh này tốn không nhiều thời
gian tất cả từ bài hát đến hình ảnh đều lấy trên mạng.
Đây là một số hình ảnh lồng trong đoạn băng đó:


12


13


14

2. Biện pháp nêu gương
Những tấm gương mà tôi nêu ra rất gần gũi với học sinh đó là những
tấm gương ngay ở trường, địa phương Yên Hoà, học sinh biết rất rõ.
Ví dụ: Em hãy nêu tấm gương thanh niên ngày nay sống có lí tưởng?
Sau khi học sinh nêu xong tôi giới thiệu tấm gương con của một giáo
viên trong trường đó là anh Phan Minh Châu con cô giáo Nguyễn Thị Hồng
Ngọc Tổ Văn - Sử - Công dân - Người đượi giải hai kì thi Hoá quốc gia năm
1999, anh là tấm gương sáng về học tập để ta noi theo.

Hay những tấm gương trong thời kì kháng chiến mà gây một làn sóng
trong giới thanh niên làm thay đổi cách sống, suy nghĩ của thanh niên đó là
Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm... tôi đưa luôn cả hình ảnh 2 cuốn nhật kí
của hai liệt sĩ này.


15

3. Biện pháp cùng tìm hiểu, cùng làm theo
Cho học sinh nêu các phong trào hoạt động của thanh niên hiện nay?
Có rất nhiều các phong trào hoạt động sôi nổi, đem lại lợi ích thiết thực
cho cộng đồng và xã hội như:


16
+ Mùa hè xanh
+ Hành trình viết tiếp tuổi 20, sống đẹp, sống có ích
+ Hành quân về chiến trường xưa
+ Chiến dịch Kì nghỉ hồng...
Hướng học sinh đến tìm hiểu và học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Đây cũng là một phong trào hoạt động sâu rộng trong quần chúng nhân
dân.
4. Biện pháp toạ đàm
Học sinh được tự tổ chức một buổi toạ đàm nói về lí tưởng sống của
thanh niên ngày nay (thời gian 15 phút). Nội dung phải được cô giáo duyệt
trước. Các em tham gia rất nhiệt tình. Có thể nói qua phần chuẩn bị các em đã
nắm được cơ bản nội dung bài học.
* Nội dung toạ đàm gồm hai phần
- Trò chơi ô chữ: Học sinh tìm hiểu về các tấm gương thanh niên xưa.
Mục đích để cho học sinh thấy mình cần phải tiếp nối truyền thống của cha

ông đi trước. Phần này học sinh cũng có những hình ảnh, bài hát tạo không
khí sôi nổi trong buổi toạ đàm
- Phần 2 là trao đổi toạ đàm về ước mơ của các em, về những sáng kiến
đóng góp cho Đoàn thanh niên và quyết tâm thực hiện lí tưởng sống của mỗi
người.
IV. Kết quả
- Với những biện pháp mà tôi vận dụng trong bài dạy của mình, đa số
học sinh hiểu và nắm được bài. Các em biết vận dụng những điều đã học vào
thực tế cuộc sống đặc biệt biến thành kĩ năng sống của mỗi người.
- Điều quan trọng hơn đó là học sinh có hứng thú trong giờ học môn
GDCD, các em thấy đây là môn học thực sự bổ ích, giúp các em hình thành tư
tưởng đạo đức đúng đắn, biết sống có lí tưởng, có mục đích, sống là để cống
hiến.


17

Phần IV: Kết luận
Trên đây là những suy nhĩ việc làm của cá nhân tôi. Đó là nhữ ng ý kiến,
việc làm rất nhỏ góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học cũng như
nâng cao chất lượng dạy học. Theo tôi đây là cách học tập tốt, học đi đôi với
hành, rất phù hợp với đặc trưng bộ môn.
Để có những giờ dạy đạt hiệu quả cao, học sinh dễ hiểu, dễ ghi nhớ nội
dung là một việc làm khó. Trong qúa trình giảng dạy tôi mạnh dạn nêu một
kinh nghiệm nhỏ của mình, rất mong được sự tộc đổi, đóng góp chung của
đồng nghiệp để chất lượng dạy học môn GDCD ngày càng được nâng cao, để
học sinh hào hứng hơn với môn học này.
Hà Nội, tháng 4 năm 2008
Người viết




×