Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH BÙ ĐẮP THU NHẬP CHO NHỮNG HỘ SẢN XUẤT LÚA TRONG VÙNG LÚA CHUYÊN CANH ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.77 KB, 16 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN

BÁO CÁO TÓM TẮT

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH BÙ
ĐẮP THU NHẬP CHO NHỮNG HỘ SẢN XUẤT LÚA TRONG
VÙNG LÚA CHUYÊN CANH ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG
THỰC QUỐC GIA
(Nghiên cứu một số trường hợp tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long)

Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Bảo Dương
BÁO CÁO TÓM TẮT

Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Bảo Dương
Thư ký khoa học: ThS. Phùng Giang Hải

Hà Nội, 2009
1


Mở đầu
Hiện tại, Việt Nam đang đảm bảo an ninh lương thực tốt nhưng trong tương lai với
sự gia tăng dân số, sự thu hẹp diện tích nông nghiệp và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia rất có thể sẽ bị ảnh hưởng. Chính vì vậy,
trong thời gian qua Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tập trung ban hành nhiều chủ trương,
chính sách về quy hoạch ổn định đất lúa nhằm mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực. Tuy
nhiên, đến nay số diện tích đất nông nghiệp cần giữ để sản xuất lúa lâu dài vẫn chưa được
quy hoạch thật rõ và cụ thể hóa đến từng tỉnh và huyện trong cả nước đang tạo ra nguy cơ
đe dọa đến khả năng duy trì diện tích lúa đảm bảo an ninh lương thực của cả nước. Câu hỏi
về số diện tích hơn 3,8 triệu ha đang trồng lúa được phân bố theo các vùng, tỉnh, huyện với


diện tích cụ thể là bao nhiêu vẫn chưa sáng tỏ (Chu Tiến Quang, 2008). Bộ Nông nghiệp
và PTNT đã Dự thảo lần thứ 9 Đề án “Chiến lược an ninh lương thực quốc gia đến năm
2020” và hy vọng sau khi Chiến lược được thông qua sẽ chỉ rõ được các “vùng lúa chuyên
canh này”.
Mặt khác, duy trì được diện tích đất lúa nhưng vấn đề mấu chốt là nông dân ở
những vùng lúa chuyên canh cần phải duy trì sản xuất lúa trên diện tích đã quy hoạch này
để đảm bảo cung cấp một lượng lúa gạo nhất định hàng năm. Điều này phụ thuộc chủ yếu
vào lợi ích thu được từ chính những diện tích sản xuất lúa này - nếu sản xuất không có lợi
nhuận hoặc thu nhập thì sẽ rất khó buộc người sản xuất tiếp tục trồng lúa và diện tích trồng
lúa sẽ có thể giảm. Trong thời gian gần đây đã xuất hiện nhiều vấn đề, hiện tượng có nguy
cơ đe dọa đến an ninh lương thực quốc gia: nông dân trả ruộng lại cho hợp tác xã hay
chính quyền địa phương, cho thuê lại ruộng chứ không trực tiếp sản xuất, chuyển ruộng
chuyên canh lúa sang các cây trồng khác hoặc nuôi cá, tôm… Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến hiện tượng trên, như thanh niên/lao động trẻ hiện nay không hứng thú với các hoạt
động sản xuất nông nghiệp; cơ hội kiếm việc làm phi nông nghiệp dễ dàng hơn trước; cơ
sở hạ tầng kỹ thuật và công nghệ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp kém dẫn tới hiệu quả sản
xuất thấp; các cây trồng khác hoặc nuôi tôm cá cho giá trị kinh tế cao hơn. Thực tế cho
thấy, cốt lõi của các vấn đề trên cũng chính là chuyện thu nhập: thu nhập từ sản xuất lúa
thấp về cả hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích sản xuất lúa thấp, thậm chí bị lỗ vốn
do nhiều nguyên nhân (chi phí đầu vào-giống, phân bón, thuốc trừ sâu, công lao động…
cao; giá lúa gạo trên thị trường thấp) và thu nhập từ sản xuất lúa thấp (do diện tích nhỏ)
không đủ chi tiêu cho hộ gia đình. Trong trong trường hợp đó, chính sách hỗ trợ của Nhà
nước sẽ đóng một vai trò quan trọng để giữ được số diện tích này và duy trì được hoạt
động sản xuất lúa ở mức cần thiết. Trước nguy cơ tiềm ẩn của việc bỏ đất trồng lúa, nghiên
cứu này là cơ sở khoa học đề xuất chính sách hỗ trợ bù đắp thu nhập cho các hộ sản xuất
lúa trong các vùng quy hoạch trồng lúa chuyên canh nhằm khuyến khích các hộ duy trì và
phát triển sản xuất lúa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Nghiên cứu cơ sở khoa học và đề xuất chính sách bù đắp thu nhập cho hộ trồng lúa
nghiên cứu tập trung vào 3 mục tiêu: (i) Luận giải cơ sở lý luận về chính sách bù đắp thu
nhập cho hộ sản xuất lúa trong vùng quy hoạch sản xuất lúa chuyên canh, (ii) Đánh giá

thực trạng thu nhập của các hộ, trong đó có thu nhập từ sản xuất lúa và nhu cầu cần bù đắp
thu nhập của hộ trồng lúa trong quy hoạch vùng sản xuất lúa chuyên canh, (iii) Đề xuất các
giải pháp, chính sách bù đắp/cải thiện thu nhập trực tiếp cho các hộ trồng lúa trong các
vùng quy hoạch SX lúa nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra bao gồm: (1) thu nhập và cơ cấu thu nhập của
hộ trong vùng quy hoạch sản xuất lúa hiện nay như thế nào? Những yếu tố chủ yếu nào tác
động đến quyết định của người nông dân đối với việc sản xuất lúa? (2) đâu là cơ sở khoa
học của chính sách bù đắp thu nhập cho người sản xuất trong vùng quy hoạch sản xuất lúa

2


nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia? (3) cần có những chính sách và giải pháp nào
đảm bảo mức thu nhập hợp lý cho các hộ sản xuất lúa ở các vùng quy hoạch sản xuất lúa
phục vụ an ninh lương thực quốc gia?
Để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra, nhóm nghiên cứu đã tiến hành tổng quan các
chính sách liên quan đến bù đắp thu nhập, tìm hiểu kinh nghiệm của chính sách bù đắp thu
nhập của 1 số quốc gia trên thế giới đồng thời trong phạm vi của Đề tài, nhóm nghiên cứu
chọn nghiên cứu điển hình tại tỉnh Long An để tiến hành khảo sát thu nhập của hộ nông
dân trồng lúa trong vùng quy hoạch sản xuất lúa nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia. Nghiên cứu tập trung phân tích hiệu quả kinh tế: thu nhập và hệ số thu nhập/chi phí, so
sánh cơ cấu thu nhập của nông hộ trong mối liên hệ với quy mô diện tích đất canh tác,
nhằm đề xuất các giải pháp bù đắp thu nhập.

Hiện trạng Chính sách bù đắp thu nhập
Thời gian qua, các chính sách của Đảng và Chính phủ đã phát huy tác dụng đóng
góp lớn trong thành tựu của ngành nông nghiệp. Đã có hàng loạt các chính sách đã được
ban hành và thực thi nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp Việt Nam tuy nhiên trong khuôn
khổ báo cáo này sẽ chỉ tập trung vào phân tích và liên hệ với một số chính sách lớn có ảnh
hưởng mạnh đối với sự phát triển của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt

Nam.
Chính sách về đất lúa: đặc biệt tập trung vào các cơ chế, chính sách cho nông
nghiệp và phát triển nông thôn bao gồm chính sách đất đai cho nông dân không có đất,
thiếu đất sản xuất và hướng tạo việc làm - Quyết định số 26/2008/QĐ-TTg ngày
05/02/2008 - “Giữ ổn định diện tích đất trồng lúa có điều kiện thuỷ lợi để thâm canh tăng
năng suất; đưa vào trồng đại trà các giống lúa có chất lượng cao dành cho xuất khẩu. Phát
triển mạnh trồng cây ăn quả, rau và hoa, cây cảnh ở những nơi có điều kiện, hình thành
vùng chuyên canh cây ăn quả, hoa, cây cảnh có giá trị xuất khẩu”. Ngoài ra, việc quản lý
đất đai có liên quan đến đất lúa gần đây được thực hiện rất chặt chẽ theo Nghị định Số
69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ: “Trường hợp đặc biệt phải
chuyển đất lúa nước, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ sang sử dụng vào mục đích
khác phải báo cáo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, trình Thủ tướng
Chính phủ quyết định”.
Chính sách đầu tư CSHT: Nhà nước ban hành các chính sách tăng cường đầu tư cơ
sở hạ tầng về thuỷ lợi, giao thông nông thôn để phát triển sản xuất; trong đó thuỷ lợi là lĩnh
vực được ưu tiên đầu tư nhất. Đối với đồng bằng sông Cửu Long, để phòng ngừa, né tránh
và cùng chung sống với lũ, tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội và thay đổi cả hình thức và
nội dung của khu vực thì việc phát triển giao thông, thuỷ lợi, xây dựng các cụm dân cư vẫn
là yêu cầu cấp bách. Đồng thời, các chính sách của Chính phủ trong thời gian gần đây còn
tập trung hỗ trợ phát triển cơ giới hóa và điện khí hóa đối với khu vực nông nghiệp, nông
thôn nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển và nâng cao đời sống nông dân.
Chính sách vốn tín dụng: đã có hàng loạt các chính sách hỗ trợ nông dân vay vốn
tín dụng để phục vụ sản xuất trong thời gian qua và nhìn chung đều đã có những tác động
tích cực đối với sự phát triển chung của ngành nông nghiệp. Mặc dù vậy, phải nói rằng cho
đến nay các chính sách này vẫn còn tồn tại một đặc điểm chung - hạn chế rất nhiều tác
dụng của chính sách - đó là thủ tục rất rườm rà, gây khó khăn cho nông dân. Điển hình
nhất là Quyết định 497/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ lãi suất vốn vay mua
máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu
nông thôn mới được ban hành gần đây rất ít có nông dân tiếp cận được và bản thân ngân
hàng cũng ít mặn mà với loại hình cho vay này.


3


Chính sách về KHCN: khuyến khích sản xuất, nâng cao trình độ thâm canh sản
xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất thông qua các chương trình khuyến nông,
chương trình chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp nông thôn. Các
chính sách hỗ trợ được quy định trong Luật Khoa học Công nghệ năm 2000, Luật Đầu tư
2005, Luật Chuyển giao KHCN năm 2006 và một số các văn bản quy phạm pháp luật khác
về cụ thể các loại hỗ trợ đất đai, thuế, vốn tín dụng… Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ kiến
thức về chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho các đối tượng là nông dân nghèo, nông dân người
dân tộc thiểu số được đánh giá là vẫn chưa đem lại hiệu quả cao.
Chính sách thị trường và tiêu thụ lúa cho nông dân: đặc trưng là định hướng tự do
hoá thị trường khuyến khích lưu thông để hạn chế tình trạng nơi thiếu nơi thừa lương thực,
Nhà nước chủ trương cho mở cửa tự do lưu thông lương thực, xóa bỏ tình trạng ngăn sông
cấm chợ, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào lưu thông phân phối lương
thực. Chính sách xuất nhập khẩu gạo trước đây do Nhà nước điều tiết bằng hạn ngạch nay
đã được thay đổi (hiện Việt Nam không còn phải nhập khẩu gạo mà chỉ xuất khẩu) thông
qua Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/1/2006 khuyến khích mọi thành phần kinh tế
đều có thể được phép xuất khẩu gạo và lúa hàng hóa. Gần đây, Chính phủ cũng ban hành
một số chính sách nhằm ổn định giá cả tiêu thụ lúa gạo trong nước và đời sống của nông
dân bằng cách chỉ đạo giá sàn cho các doanh nghiệp thu mua lúa gạo hàng hóa của dân.
Chính sách quản lý vật tư đầu vào cho sản xuất nông nghiệp: chủ yếu do Bộ
NN&PTNT ban hành và chỉ đạo thực hiện tập trung vào các vấn đề về phân bón, thuốc bảo
vệ thực vật, giống, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y…
Chính sách phù hợp trong bối cảnh WTO: theo Vụ Chính sách Thương mại Đa biên
(Bộ Thương mại), trong WTO có 2 bộ tiêu chuẩn về trợ cấp. Một bộ áp dụng cho nông sản
đề cập trong Hiệp định Nông nghiệp. Một bộ áp dụng cho sản phẩm phi nông nghiệp, được
quy định trong Hiệp định về Trợ cấp và biện pháp đối kháng. Việt Nam đã cam kết tuân
thủ đầy đủ các quy định về trợ cấp trong Hiệp định nông nghiệp. Theo Điều 6 của Hiệp

định Nông nghiệp của WTO, những nước đang phát triển như Việt Nam có thể duy trì một
số biện pháp trợ cấp đầu tư và trợ cấp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp (Kinh tế nông
thôn, 2009). Cụ thể, Nhà nước được quyền trợ cấp cho nông nghiệp lên đến 10% tổng giá
trị sản lượng nông nghiệp. Nhưng đến nay Việt Nam trợ cấp nhiều nhất cho nông nghiệp
mới vào khoảng 260 triệu USD/năm (tương đương với 3-4%). Như vậy, biên độ về trợ cấp
cho nông nghiệp theo cam kết WTO của Việt Nam còn rất rộng.
Chính sách khác: là các chính sách được xây dựng và ban hành tương đối độc lập
nhằm các mục tiêu cụ thể như hỗ trợ phát triển các khâu yếu kém trong sản xuất, phòng
chống giảm nhẹ thiên tai… Các chính sách thuộc lĩnh vực này có thể kể đến như miễn trừ
thủy lợi phí, đầu tư kiểm soát lũ, nghiên cứu giải pháp sống chung với lũ…

Kinh nghiệm quốc tế
Thái Lan:
Để đảm bảo cuộc sống cho những người nông dân trồng lúa và phát triển bền vững
nghề trồng lúa, Thái Lan đã thi hành những chính sách sau: (1) Chính sách hỗ trợ giống
lúa tốt, cho năng suất cao; (2) Chính sách hỗ trợ ứng dụng KH&CN mới vào sản xuất lúa;
(3) Chính sách tiết kiệm chi phí đầu vào của sản xuất lúa; (4) Chính sách hỗ trợ người sản
xuất đa dạng hóa sản phẩm; (5) Chính sách phát triển kết cấu hạ tầng vùng sản xuất lúa; (6)
Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh lúa gạo gắn kết lâu dài và
phân chia lợi ích công bằng với người sản xuất lúa; (7) Chính sách hỗ trợ giá nông sản và
tiếp cận thị trường; (8) Chính sách tăng thu nhập cho nông dân qua thuế và tín dụng. Bên
cạnh đó, Thái Lan khuyến khích các tổ chức tư nhân tham gia vào các chương trình khuyến

4


nông. Cơ giới hóa đã bao phủ từng thửa ruộng, kể cả khâu sau thu hoạch được cơ giới hóa
toàn bộ. Nhưng bí quyết thành công của nông dân Thái Lan chính là sự kết hợp khéo léo
giữa kinh nghiệm canh tác truyền thống với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ mới. Bởi do điều kiện tự nhiên như địa lý, địa chất, tính chất đất trồng trọt nên

nhiều vùng cần phải có những công nghệ và kỹ thuật canh tác đặc thù.
Trung Quốc:
Là quốc gia sản xuất ngũ cốc nhiều nhất thế giới, với sản lượng thóc 385 triệu tấn
mỗi năm vào những năm đầu thập kỷ 90. Vì vậy, để hỗ trợ thu nhập cho người trồng lúa
thông qua việc tăng năng suất và sản lượng với nhiều chính sách khác nhau như: (1) Chính
sách cung cấp cho nông dân giống lúa tốt, năng suất cao; (2) Chính sách hỗ trợ ứng dụng
KH&CN mới vào sản xuất lúa; (3) Chính sách hỗ trợ giá đầu vào, đầu ra; (4) Chính sách
đa dạng hoá cây trồng; (5) Chính sách thuế; (6) Chính sách xây dựng kết cấu hạ tầng;
Ngoài ra, Trung Quốc có chính sách hỗ trợ nông dân ở nhiều lĩnh vực, nhiều mức
độ khác nhau như: từ năm 2004 hỗ trợ trực tiếp đối với nông dân trồng lương thực tập
trung vào hỗ trợ về giống, mua máy móc công cụ. Từ năm 2006, mở rộng hỗ trợ mua tư
liệu sản xuất nông nghiệp, mức hỗ trợ trực tiếp đối với nông dân trồng lương thực trong
các năm 2004-2006 tương ứng là 11.600 triệu NDT, 13.200 triệu NDT, và 14.200 triệu
NDT. Mức hỗ trợ nhân rộng giống trong các năm 2004-2006 là 2.852 triệu NDT, 3,752
triệu NDT, và 4.020 triệu NDT và mức hỗ trợ mua máy móc công cụ là 70 triệu
NDT/2004; 300 triệu NDT/2005; 670 triệu NDT/2006. Trung Quốc nghiên cứu ứng dụng
công nghệ nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm tận dụng
những phế thải nông nghiệp góp phần làm tăng thu nhập của người nông dân trồng lúa.
Inđônêxia:
Chính phủ áp dụng một số biện pháp đảm bảo lợi ích cho người trồng lúa và hỗ trợ
người tiêu dùng, gồm có:
- Nhà nước thực hiện chính sách khuyến khích chế tạo máy nông nghiệp ở trong
nước bằng cách cho vay vốn lãi suất thấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập nguyên
liệu và đánh thuế nhập khẩu mức cao. Riêng động cơ xăng, diesel và máy kéo nhỏ, máy
kéo lớn thì cho phép nhập một số lượng nhất định.
- Áp dụng mức giá sàn nhằm ổn định giá lúa và đảm bảo nông dân có thể thu được
lợi nhuận ngay cả trong thời kỳ thu hoạch. Tuy nhiên việc định giá sàn phải được áp dụng
với các mức khác nhau cho từng vùng riêng biệt dựa vào đặc điểm sản xuất từng vùng và
các điều kiện bất thường khác như hạn hán, lũ lụt...
- Tiếp tục duy trì trợ giá tiêu dùng gạo nhưng chỉ tập trung cho các nhóm dân cư

nghèo nhất và việc trợ giá gạo sẽ bị loại bỏ khi giá trong nước giảm xuống bằng mức giá
thế giới.
- Chính phủ Inđônêxia đã đẩy mạnh phát triển thị trường các vật tư đầu vào cho
sản xuất nông nghiệp để giúp người sản xuất có thể tiếp cận với giống cây trồng năng suất
cao, phân bón và các vật tư chủ yếu khác. Các thay đổi chính sách phân bón bao gồm:
- Loại bỏ trợ giá phân bón: trước đây Inđônêxia đã trợ giá rất lớn mặt hàng phân
bón đã gây những tác động tiêu cực đối với sản xuất nông nghiệp. Để nâng cao hiệu quả
của thị trường phân bón, đẩy mạnh tăng trưởng sản xuất nông nghiệp, Inđônêxia đã loại bỏ
dần dần trợ giá cho phân bón, gồm Urê, SP 36, và KCL.
- Loại bỏ độc quyền của doanh nghiệp Nhà nước, cho phép tư nhân tham gia kinh
doanh mặt hàng phân bón. Trước đây các doanh nghiệp Nhà nước và các hợp tác xã kiểm

5


soát hệ thống kinh doanh phân bón đã làm cho chi phí phân phối tăng rất cao. Do vậy,
Chính phủ đã cho phép và khuyến khích khối tư nhân tham gia lĩnh vực này và khi số
lượng các doanh nghiệp kinh doanh tăng lên đã làm lành mạnh thị trường này trở lại với sự
gia tăng của chất lượng và giảm giá bán.
- Thực hiện chính sách tín dụng nông nghiệp mạnh thông qua triển khai cuộc cách
mạng xanh với hai chương trình BISMAS và INMAS: (1) Trong chương trình BISMAS,
nhà nước đóng vai trò chính trong cấp cho nông dân vốn đầu tư (với lãi suất ưu tiên) vào
phân bón, giống, kỹ thuật nông nghiệp thông qua mạng lưới các tổ chức tín dụng nhằm
tăng mức sử dụng đất nông nghiệp và giống mới, phát triển thủy lợi, xây dựng đường xá và
mua sắm phương tiện vận chuyển trong nông nghiệp, hệ thống kho chứa lương thực để
mua lúa tại chỗ cho nông dân. Nhà nước còn đầu tư đào tạo nông dân phương thức canh
tác mới, quy hoạch lại đồng ruộng, đưa công cụ cơ khí bán cơ khí vào lao động sản xuất
nông nghiệp, loại bỏ phương thức canh tác cổ tryền. (2) Chương trình INMAS cấp vốn với
lãi suất thông thường cho những hộ nông dân có từ 5 ha trở lên, chủ yếu là các điền chủ
nhỏ. Người nông dân được vay tín dụng của nhà nước để mua nguyên liệu, nhiên liệu và

thiết bị phục vụ nông nghiệp. Ngược lại, họ có nghĩa vụ bán thóc cho nhà nước ngoài phần
nộp thuế thu nhập theo luật pháp Nhà nước.
Đài Loan:
Chính sách đất đai: Trong những năm đầu phục hồi kinh tế, Chính quyền Đài Loan
thực hiện chính sách giảm tô để giảm bớt gánh nặng cho nông dân, sau đó đưa ra chính
sách "hạn điền" quy định số lượng ruộng đất được phép sở hữu tư nhân đối với các chủ đất.
Số ruộng đất vượt mức hạn điền được Chính phủ định giá theo tính toán của Nhà nước và
tạo điều kiện về tín dụng cho nông dân mua trả góp trong thời hạn dài.
Chính sách giao đất cho nông dân được áp dụng đối với cả đất thuộc sở hữu Nhà
nước. Chính phủ Đài Loan đã đưa ra chủ trương khuyến khích nông dân "chung nhau kinh
doanh", "uỷ thác kinh doanh"; "thay mặt kinh doanh"… để tập trung ruộng đất đạt tới quy
mô cần thiết của nông nghiệp hàng hoá, khai thác có hiệu quả quỹ đất đai hạn hẹp, thúc
đẩy tăng trưởng nông nghiệp với tốc độ khoảng 4%/năm trong suốt thời kì từ 1952 - 1981.
Chính sách về cơ giới hóa sản xuất lúa: Đài Loan xây dựng “quỹ xúc tiến cơ giới
hóa nông nghiệp” và coi đây là một trong những hạng mục trọng điểm của chính sách nông
nghiệp nói chung. Hoạt động cơ giới hóa nông nghiệp chủ yếu là do các trang trại gia đình
quy mô nhỏ (trên dưới 1 ha) thực hiện với những phương thức thích hợp để giảm tối đa các
chi phí vô ích, từ đó tăng thu nhập.
Máy móc phục vụ cho cơ giới hóa nông nghiệp ở Đài Loan phần lớn là các loại nhỏ
gồm máy kéo 2 bánh, máy sấy lúa, máy gặt đập liên hợp… đảm bảo cơ giới hóa khâu làm
đất, tưới nước trên 98%, khâu cấy lúa 90%, khâu phun thuốc trừ sâu 85-87%, khâu thu
hoạch lúa 95%, khâu sấy hạt 70%.
Chính sách xây dựng kết cấu hạ tầng vùng trồng lúa: Đài Loan đã áp dụng chương
trình điện khí hoá nông thôn từ rất sớm nên tạo điều kiện thuận lợi để cơ giới hoá, tiết kiệm
chi phí sản xuất lúa. Chính phủ đã đầu tư những khoản tiền rất lớn vào đào tạo nông dân,
xây dựng một mạng lưới giao thông, một hệ thống các công trình thủy lợi phục vụ đắc lực
cho sản xuất lúa ở các vùng quy hoạch trồng lúa chuyên canh.
Philipin:
Từ đầu thập kỉ 1990 của thế kỷ trước Philippin đã triển khai Chương trình quốc gia
về "Tăng Sản lượng Ngũ cốc Gintong Ani" nhằm duy trì sản lượng ngũ cốc trong nước,

thông qua các biện pháp tăng năng suất như phát triển hệ thống thuỷ lợi đối với cây lúa, và

6


dùng các giống lúa mới được cấp chứng nhận và giúp nông dân sử dụng các thiết bị sau thu
hoạch. Một số chính sách mà Philippin đã áp dụng nhằm bù đắp thu nhập cho người sản
xuất lúa bao gồm: (1) Chính sách cơ khí hoá nông nghiệp; (2) Chính sách đa dạng hoá cây
trồng; (3) Chính sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; (4) Chính sách hỗ trợ công nghệ sau
thu hoạch.
Đặc biệt, trước tình hình thiếu hụt gạo Philippin quyết định Ban hành “Luật hiện
đại hoá Nông ngư nghiệp” (AFMA) bắt đầu áp dụng từ tháng 3 năm 1998. AFMA là một
tổ hợp các chính sách liên quan đến sản xuất và tiếp thị, tài nguyên con người, nghiên cứu,
chuyển giao công nghệ và khuyến nông, phát triển kinh tế nông thôn, thương mại và tài
chính. Luật này do Bộ Nông nghiệp làm điều phối viên với sự tham gia của Bộ Khoa học
và Công nghệ, giao thông, Liên lạc. Các biện pháp cụ thể là: (i) Quy hoạch các vùng sản
xuất chuyên canh, trong đó quan trọng nhất là lúa gạo, tại đó xây dựng các nhà máy chế
biến, hệ thống tín dụng, thủy lợi, thông tin, tiếp thị, giám sát chất lượng để phục vụ sản
xuất các mặt hàng chiến lược; (ii) Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu, chuyển giao, áp
dụng công nghệ và khuyến nông từ 0,2% lên 1% tổng giá trị gia tăng của ngành; (iii) Triển
khai các chương trình phát triển công nghiệp nông thôn cung cấp khuyến khích đầu tư vào
ngành nghề gắn với nông nghiệp, giao quyền cho chính quyền địa phương thực hiện việc
hỗ trợ đầu từ và tiếp thị; (iv) Giảm thuế cho mọi vật tư, thiết bị nhập khẩu của các doanh
nghiệp nông ngư nghiệp.

Kết quả khảo sát thực địa
Nghiên cứu về thực trạng thu nhập của hộ sản xuất lúa ở ĐBSCL, nhóm nghiên cứu
đã tiến hành khảo sát 85 hộ trên địa bàn hai huyện Mộc Hóa và Tân Hưng tỉnh Long An.
Tổng hợp một số nét đặc trưng cơ bản của hộ điều tra về tình hình chung của chủ hộ, nhân
khẩu, lao động, đất đai và tình hình sử dụng đất của hộ có những ảnh hưởng nhất định đến

sản xuất lúa trong vùng ĐBSCL. Số liệu điều tra hộ về thu nhập của hộ và số nhân khẩu
của hộ đã tính toán được thu nhập bình quân trên người của hộ. Thông qua chỉ tiêu đó phân
loại ra thành 4 nhóm, hộ giàu, hộ khá, hộ trung bình và hộ nghèo (việc phân tích trong các
phần tiếp theo sữ phân tổ dựa vào 4 nhóm này).

Cơ cấu thu nhập của hộ sản xuất lúa
Cơ cấu thu nhập của hộ nông dân sản xuất lúa phân ra 4 nguồn thu khác nhau: trồng
trọt, chăn nuôi, phi nông nghiệp và thu khác; trong đó: thu nhập của hộ từ trồng trọt là chủ
yếu, chiếm 76,89%, thu nhập khác chiếm 15,20%, còn thu nhập từ chăn nuôi và thu nhập
khác không đáng kể. Cơ cấu thu nhập này của hộ cho thấy đây là vùng không những là
thuần nông mà hoạt động nông nghiệp của nông hộ chỉ chủ yếu là trồng trọt; trong trồng
trọt cũng chỉ chủ yếu là độc canh cây lúa nước và cơ cấu thu nhập cũng có sự thay đổi theo
các địa phương khác nhau trong vùng. Cơ cấu thu nhập của hộ nông dân sản xuất lúa có sự
thay đổi theo điều kiện kinh tế của hộ, Các hộ khá và giàu có thu nhập từ trồng trọt chiếm
tỷ trọng cao hơn các nhóm hộ còn lại. Hộ giàu có thu nhập từ trồng trọt là 84,66% và hộ
khá là 78,52%, trong khi đó, hộ nghèo chỉ có 54,43%, Tỉ trọng thu nhập từ chăn nuôi và
thu nhập phi nông nghiệp có sự trái chiều giữa các nhóm hộ giàu và nghèo. Nhóm hộ giàu
có thu nhập từ chăn nuôi chiếm 3,18% trong khi đó hộ nghèo không có thu nhập ngành
chăn nuôi. Ngược lại, thu nhập phi nông nghiệp của hộ nghèo chiếm đến 30,38% là cao
nhất trong các nhóm thì nhóm hộ giàu lại thấp nhất chỉ đạt 9,36%. Ngoai ra, nhóm hộ
nghèo còn có thêm nguồn thu nhập khác với tỉ trọng khá lớn (15,19%). Nguồn thu nhập
này của các hộ chủ yếu là đi làm thuê với nhiều hình thức khác nhau vì họ không có đủ đất
để sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu thu nhập của hộ nông dân sản xuất lúa thay đổi theo diện
tích đất nông nghiệp của hộ. Thu nhập của hộ chủ yếu là từ trồng trọt đối với tất cả các
nhóm hộ có trên 1 ha đất nông nghiệp. Đặc biệt nhóm hộ có từ 5-10 ha đất nông nghiệp có

7


đến trên 90% thu nhập là từ hoạt động trồng trọt. Ngược lại nhóm hộ có dưới 1 ha đất nông

nghiệp lại có phần thu nhâp chính từ hoạt động phi nông nghiệp, chiếm tỷ lệ 48,71%,
Trong khi đó ngành trồng trọt là nghề nghiệp chính lại chỉ đóng góp 34,75%.
Nhìn vào cơ cấu thu nhập thấy rằng chăn nuôi ở vùng này không phát triển, chỉ đóng
góp một phần rất nhỏ vào thu nhập của hộ. Tính bình quân chung thu nhập từ chăn nuôi
đóng góp chỉ có 3% giá trị thu nhập, nhóm hộ cao nhất cũng chỉ có 8%. Bên cạnh đó, một
số hộ còn không có thu nhập từ hoạt động chăn nuôi, như nhóm hộ có trên 10 ha đất nông
nghiệp hay nhóm hộ cso từ 1 - 3 ha cũng có thu nhập nhưng rất thấp, 0,47%.

Thu nhập từ sản xuất lúa của hộ
Thu nhập từ lúa của hộ nông dân đạt bình quân 46,51 triệu/hộ những không đồng
đều mà có xu hướng tăng từ hộ nghèo đến hộ giàu và mức chênh lệc rất lớn. Thu nhập từ
lúa của nhóm hộ nghèo bình quân chỉ có khoảng 10 triệu đồng/hộ, hộ trung bình đạt 27,34
triệu đồng/năm, hộ khá là 63,24 triệu đồng/năm và nhóm hộ giàu đạt 77,78 triệu đồng/năm.
Đây cũng phản ảnh một thực tế là đa số các hộ nông dân ở vùng sản xuất lúa, hộ khá và
giàu thường có nhiều diện tích lúa hơn nên tổng thu nhập từ lúa của họ lớn. Những hộ
nghèo (chưa kể những hộ không có đất sản xuất lúa) thì thường có ít đất lúa (như đã thảo
luận ở các phần trên) nên thu nhập từ lúa thấp. Như vậy, với mức thu nhập từ lúa rất thấp
liệu hộ nghèo có thể đảm bảo được cuộc sống của họ không, nếu không họ phải làm gì để
có thu nhập mà không bỏ ruộng.
Thu nhập từ sản xuất lúa của hộ chiếm phần lớn trong thu nhập từ trồng trọt đồng
thời cũng chiếm phần lớn trong tổng thu nhập của hộ. Bình quân chung, thu nhập từ lúa
chiếm đến 98,48 % thu nhập trồng trọt của hộ; trong đó: nhóm hộ khá và nhóm hộ nghèo
chỉ số này là 100%, nhóm hộ giàu thấp nhất cũng chiếm đến 93,87%. Cũng tính bình quân
chung, thu nhập từ lúa chiếm 72,04%; trong đó cao nhất là nhóm hộ khá chỉ số này là
79,23%, thấp nhất là nhóm hộ nghèo chỉ số này đạt 62,16%. Kết quả khảo sát phản ánh
một thực tế là những vũng khảo sát là vùng nông nghiệp thuần nông, thu nhập của nông
dân chủ yếu là từ trồng trọt. Vùng khảo sát còn là vùng sản xuất độc canh cây lúa, thu nhập
của nông dân phụ thuộc chính vào lúa.
Thu nhập từ lúa của hộ nhìn theo góc độ các hộ nông dân có diện tích đất nông
nghiệp khác nhau. Hộ có nhiều diện tích lúa có thu nhập từ lúa nhiều hơn là đương nhiên.

Nhưng điều đáng chú ý ở đây là chỉ số thu nhập lúa/thu nhập trồng trọt có 3 nhóm hộ đạt
100%, tức là họ chỉ sản xuất độc canh cây lúa còn trong nhóm hộ dưới 1 ha chỉ số này chỉ
là 95,52%. Như vậy, trong nhóm hộ ít đất đã có sự chuyển đổi sang canh tác các cây trồng
khác. Nhóm hộ có từ 3-5 ha đất cũng có thu nhập từ lúa chỉ chiếm 95,81% tổng thu nhập
từ trồng trọt là do trong nhóm có một số hộ chuyển đổi đất sang trồng dưa hấu cho tổng thu
nhập trên 1 ha đất khác cao (khoảng 120 triệu đồng/ha).
Thu nhập từ lúa trong tổng thu nhập của hộ nông dân có sự khác biệt khá lớn giữa
các nhóm hộ phân theo tiêu chí về diện tích đất nông nghiệp. Chỉ số này thấp nhất ở nhóm
hộ có diện tích đất nông nghiệp dưới 1 ha, thu nhập từ lúa chỉ đạt 39,11 %. Điều này là dễ
hiểu bởi 1 ha đất nông nghiệp mà chủ yếu là sản xuất lúa thì không giải quyết được lao
động là bao. Vậy người nông dân phải tự mày mò chuyển đổi lực lượng lao động đi làm
các nghề khác để có thêm thu nhập, hoặc là làm phi nông nghiệp, hoặc là đi làm thuê cho
những hộ có nhiều ruộng đất.
Thu nhập từ lúa chiếm phần lớn nhất trong các nhóm hộ có diện tích ruộng đất từ 3
ha trở lên, đặc biệt nhóm hộ có từ 5 - 10 ha chỉ số này chiếm đến trên 90%. Như vậy có thể
thấy rằng, khi hộ có khoảng 3 ha đất lúa trở lên họ mới thực sự tập trung vào sản xuất nông
nghiệp nên thu nhập chủ yếu từ sản xuất lúa. Khi họ có đến trên 10 ha đất họ bắt đầu có

8


tích lũy vốn và chuyển đổi sang mua máy móc làm dịch vụ nông nghiệp như cày bừa, gắt
tuốt lúa, kết hợp phục vụ cho nhu cầu sản
xuất của gia đình với làm dịch vụ cho những
Hiệu quả sản xuất lúa ở vùng này
hộ tại địa bàn.

phụ thuộc vào mùa vụ, vụ xuân có
Tóm lại, cho dù nhìn trên những khí
hiệu quả hơn, có hộ thu đến 7 tấn/ha,

cạnh của hộ giàu, hộ nghèo, hộ có nhiều hay
bán giá 4200 đ/kg có tổng thu gần 30
hộ ít đất sản xuất nông nghiệp thì thu nhập
triệu đồng. Nhưng vụ hè thu bấp
từ lúa vẫn chiếm một tỉ trọng rất cao trong
bênh lắm, có khi chỉ thu được 4 – 4,5
tổng thu nhập của hộ nông dân ở vùng trồng
lúa. Để nông dân trong vùng này tập trung
tấn thôi, giá bán lại rẻ quá, hiện tại
sản xuất lúa đảm bảo an ninh lương thực
có người bán 2.900 đồng/kg, tính ra
quốc gia. Cần phải có những biện pháp bù
lỗ vốn. PRA, xã Vĩnh Châu B, Tân
đắp thu nhập để hộ sản xuất lúa có thu nhập
Hưng, Long An
cao từ hoạt động kinh tế này. Đặc biệt là để
hộ không bỏ ruộng hay chuyển ruộng sang
mục đích khác thì việc xem xét những biện
pháp nào đó để họ có thể yên tâm sản xuất
lúa là hết sức khó khăn, có lẽ phải có những
gói chính sách đồng bộ mới có thể mong giải quyết được.

Hiệu quả của sản xuất lúa của hộ nông dân
Có nhiều chỉ số có thể dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế, nhưng trong trường hợp
hộ sản xuất lúa là một hoạt động sản xuất nông nghiệp mang tính chất hộ gia đình tiểu
nông, nên chỉ số được lựa chọn để đánh giá chính là tổng thu, chi phí, thu nhập và thu nhập
trên tổng thu. Do những hộ có mức độ kinh tế khác nhau, những hộ có diện tích canh tác
khác nhau thường có những quyết định khác nhau trong sản xuất lúa. Nên trong phần này,
những nội dung thảo luận sẽ phân ra so sánh giữa các nhóm hộ đó, Căn cứ để thảo luận
cũng chỉ tập trung vào những số liệu điều tra hộ trồng lúa tại huyện Mộc hóa và Tân Hưng,

tỉnh Long An, Sản xuất lúa của hộ nông dân ở đây chủ yếu là canh tác theo công thức luân
canh lúa xuân - lúa hè thu. Trong hai vụ sản xuất này khác nhau nhiều về điều kiện thời tiết
nên hiệu quả rất khác nhau, thường thì vụ lúa xuân là vụ ăn chắc và có hiệu quả hơn vụ lúa
hè thu, Cụ thể như thế nào sẽ được thảo luận dưới đây.
Thu nhập vụ lúa xuân của hộ sản xuất lúa đều đạt khá, nhóm hộ giàu và khác có
mức đầu tư cao hơn và đạt được thu nhập khá hơn. Hộ giàu và hộ khác có điều kiện kinh tế
khá hơn nên mức đầu tư của các hộ này bình quân mỗi ha là gần 16 triệu đồng, một số hộ
còn có mức đầu tư cao đến gần 18 triệu đồng/ha. Nên thu nhập của các nhóm hộ này đạt
bình quân trên 9 triệu đồng/ha. Có nhiều hộ đạt thu nhập đến 15-16 triệu đồng/ha, những
hộ nông dân này chủ yếu có lợi thế là thu hoạch
đúng thời điểm thời tiết thuận lợi, lúa chất lượng
cao, năng suất khá và giá cao.
Một chỉ số mà hiện nay cả xã hộ nông thôn
đang thảo luận là mức thu nhập của hộ sản xuất lúa
đạt bao nhiêu % tổng thu thì người trồng lúa sẽ yên
tâm sản xuất. Trong nghiên cứu này cũng tính toán
chỉ tiêu thu nhập trên tổng thu và thấy như sau: mức
thu nhập trên tổng thu đạt 35,9%, trong đó ở các
nhóm hộ khác nhau có sự biến động nhưng không
nhiều. Ở nhóm hộ khá và hộ nghèo chỉ số này cao
hơn đạt trên 39%, và thấp nhất là nhóm hộ trung

9

Theo dự thảo Nghị
định đất lúa: đảm bảo
cho người sản xuất lúa
có thu nhập bằng 40%
doanh thu.



bình đạt 35, 37%. Như vậy, các chỉ tiêu này sát với chỉ tiêu mà dự thảo Nghị định đất lúa
đưa ra là thu nhập trên doanh thu bằng 40%. Tuy nhiên, việc sử dụng chỉ tiêu này cũng gặp
rắc rối là hộ nghèo có mức đầu tư thấp nên chỉ số này lại cao hơn mà thực chất thu nhập
của họ lại thấp hơn.
Về vụ hè thu, theo nhiều ý kiến tại các địa phương, vụ hè thu là vụ làm ăn bấp bênh
lắm, đặc biệt là ở vùng thấp và hệ thống cơ sở hạ tầng còn rất kém, như không có đê bao,
không có trạm bơm điện, không có lò sấy… Thực tế năng suất lúa vụ hè thu có nhiều hộ
đạt khá (trên 6 tấn/ha) nhưng nếu gặp mưa và lũ về sớm thì năng suất giảm, giá bán cũng
giảm nên thu nhập thấp và thậm chí nhiều hộ thu không đủ chi do công thu hoạch khi đó
lại rất cao, từ 1,6 triệu đồng/ha, tăng lên đến 4 triệu đồng/ha. Tuy nhiên, không phải năm
nào cũng gặp phải khó khăn như vậy, không phải hộ nào cũng gặp phải rủi ro đó mà nhiều
hộ nông dân vẫn có thu nhập khá.
Tóm lại, hiệu quả sản xuất lúa hiện tại của hộ nông dân đã đạt được trong năm
2009 là khả quan trong vụ đông xuân, với mức thu nhập tương đối khá và chỉ tiêu thu nhập
trên tổng thu của hộ cao đạt bình quân 36%, có nhóm hộ đã đạt được đến 40% ngang bằng
với mức đề xuất của dự thảo Nghị Định đất lúa. Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất lúa của vụ hè
thu quá thấp tính bình quân chung thu nhập/tổng thu chỉ đạt khoảng 11 %, thậm chí có
nhóm hộ còn bị lỗ vốn. Mặt khác hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa không giống nhau giữa
các nhóm hộ có mức độ kinh tế khác nhau và quy mô đất đai khác nhau. Nhóm hộ có điều
kiện kinh tế khá có mức đầu tư cao hơn và đạt được thu nhập cũng cao trong cả hai vụ.
Nhóm hộ nghèo có mức đâu tư thấp nên thu nhập cũng thấp, nhưng không vì thế mà thu
nhập trên tổng thu của nhóm này thấp vẫn đạt cao nhất gần 40% vào vụ đông xuân, tuy
nhiên về vụ hè thu nhóm này hiện tại bị lỗ và chỉ tiêu thu nhâp/tổng thu đang âm 2%.
Chính sách bù đắp thu nhập cho hộ trồng lúa cần phải xem xét theo các nhóm hộ khác
nhau và chỉ tiêu về thu nhập /chi phí hiện tại vẫn chưa giải quyết được vấn đề khi mà
người có thu nhập không cao những lại có thu nhập/tổng thu cao như phân tích ở trên. Quy
mô đất sản xuất lúa của hộ cho thu nhập cao nhất ở nhóm hộ có diện tích đất canh tác lúa
từ 3 – 5 ha/hộ và có chiều hướng giảm đia ở nhóm hộ có nhiều diện tích hơn. Vậy vấn đề
về hạn điền trong tương lai được mở tiếp liệu hiệu quả sản xuất lúa có được tối ưu không,

điều này cũng cần được cân nhắc khi có quy hoạch những vùng trồng lúa chuyên canh đảm
bảo an ninh lương thực.

Bù đắp thu nhập cho hộ sản xuất lúa trong vùng quy hoạch SX lúa
đảm bảo ANLT quốc gia
Theo nghĩa rộng, chính sách này sẽ bao gồm nhiều biện pháp khác nhau (trực tiếp,
gián tiếp, bằng tiền, bằng vật chất...) chứ không chỉ một biện pháp duy nhất nào để hỗ trợ
người sản xuất lúa ở các vùng quy hoạch sản xuất lúa vì mục tiêu an ninh lương thực, làm
sao để họ có thu nhập đủ tái sản xuất mở rộng để phát triển bền vững nghề trồng lúa. Do
vậy, chính sách “Bù đắp thu nhập” ở đây không có nghĩa là Nhà nước chỉ sử dụng biện
pháp đưa tiền tiền trực tiếp cho người sản xuất lúa, mà phải là hệ thống các giải pháp chính
sách tạo ra cho người sản xuất lúa có được năng lực sẩn xuất mang tính cạnh tranh cao và
có thu nhập đủ tái sản xuất mở rộng. Theo nghĩa hẹp, thì chính sách chính sách “Bù đắp
thu nhập” chỉ áp dụng đối với những đối tượng sản xuất lúa gạo ở các vùng vùng quy
hoạch sản xuất lúa chuyên canh nhằm mục tiêu an ninh lương thực và chỉ áp dụng đối với
những đối tượng sản xuất lúa có mức thu nhập từ sản xuất lúa dưới ngưỡng thu nhập tối
thiểu nào đó tính theo đơn vị diện tích là hécta do Nhà nước quy định đối với từng vùng
quy hoạch sản xuất lúa vì mục tiêu an ninh lương thực cho từng thời gian cụ thể.

10


Trên cơ sở đó, có một số nội dung chính sẽ cần phải tính đến trong quá trình xây
dựng phương án bù đắp thu nhập cho người sản xuất lúa trong vùng chuyên canh đảm bảo
an ninh lương thực. Bao gồm:
Bù đắp thu nhập để đảm bảo sản xuất lúa có thu nhập: điều quan trọng nhất của
sản xuất theo cơ chế thị trường là sản xuất phải có thu nhập nên việc tính toán hiệu quả ở
phần trên đã chỉ ra rằng sản xuất lúa hiện nông dân đang có thu nhập trong vụ đông xuân,
nhưng trong vụ vụ hè thu nhiều hộ không có thu nhập.
Bù đắp thu nhập đảm bảo mức chi tiêu cho sinh hoạt của hộ trồng lúa: sản xuất

lúa không những phải có thu nhập cho người sản xuất mà mức thu nhập đó phải đảm bảo
cuộc sống cho họ hoặc ít nhất là bù đắp được chi phí cơ hội của họ nhằm duy trì diện tích
sản xuất lúa.
Bù đắp thu nhập để hộ có thu nhập từ trồng lúa ít nhất là tương đương với đối
tượng sản xuất khác hoặc hoạt động kinh tế khác: cũng là nội dung về chi phí cơ hội mà
người nông dân có được khi chuyển trồng lúa sang các hoạt động khác trên vùng đất lúa.
Ngoài khía cạnh pháp lí sẽ được ban hành chính thức trong thời gian tới về duy trì diện tích
đất lúa theo quy hoạch mà người dân sẽ buộc phải tuân thủ thì vấn đề đảm bảo thu nhập
của họ tương đương hoặc thậm chí cao hơn các hoạt động khác có thể tiến hành trên vùng
đất đó cũng là một điểm mấu chốt để khuyến khích việc tiếp tục duy trì trồng lúa. Điều này
đúng với cả việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa và thậm chí việc bỏ hoang đất lúa do
vấn đề về thu nhập từ trồng lúa.
Ngưỡng có thể nông dân sẽ bỏ không trồng lúa: để chuẩn bị cho ngành sản xuất
lúa tiến lên thành ngành sản xuất hàng hóa, khi đó người sản xuất sẽ dừng sản xuất tại một
thời điểm nhất định dựa vào kì vọng về lợi nhuận có được từ sản xuất - ví dụ, giá bán lúa
xuống bằng hoặc thấp hơn giá thành sản xuất thì sẽ ngừng sản xuất.

Đề xuất chính sách
Một số quan điểm về bù đắp thu nhập cho hộ nông dân trồng lúa trong
vùng quy hoạch trồng lúa chuyên canh nhằm đảm bảo ANLT
Căn cứ Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khoá X) về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; Nghị quyết số
24/NQ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ về Ban hành chương trình hành động thực hiện
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 7 (khoá X) về “Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn”. Đề án quy hoạch tổng thể đất lúa đến 2020, tầm nhìn đến 2030 và những văn
bản hiện hành về chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quan điểm về xây dựng chính sách bù đắp thu nhập cho
người sản xuất lúa trong vùng quy hoạch sản xuất lúa bảo đảm mục tiêu an ninh lương
thực quốc gia như sau:
(1) Chính sách bù đắp thu nhập cho người sản xuất lúa trong vùng quy hoạch nhằm

bảo đảm trước hết vì mục tiêu phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, bảo đảm an ninh
lương thực quốc gia; đồng thời, phải không ngừng nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống
của nông dân sản xuất lúa với mức không thấp hơn thu nhập bình quân của vùng nông thôn
trong từng giai đoạn.
(2) Chính sách bù đắp thu nhập cho người sản xuất lúa trong vùng quy hoạch phải
đảm bảo hài hoà lợi ích và phát triển giữa các vùng, các loại sản phẩm nông nghiệp khác
và đáp ứng được quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền nông nghiệp nước ta theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.

11


(3) Chính sách bù đắp thu nhập phải phù hợp, đồng bộ với hệ thống các chính sách
về nông nghiệp, nông thôn, nông dân được Nhà nước ban hành, đồng thời phải phù hợp
với những cam kết của nước ta với tổ chức thương mại quốc tế (WTO);
(4) Chính sách bù đắp thu nhập phải tạo thuận lợi để nông dân trồng lúa ứng dụng
tốt khoa học kỹ thuật, sử dụng hiệu quả, hợp lý tài nguyên đất đai, lao động; đặc biệt, phải
khơi dậy và tạo ra phong trào, động lực mới để nông dân tích cực thâm canh, tăng năng
suất và tạo sức bật mới nhằm gia tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích trồng lúa
ngày càng cao.
Như vậy, vấn đề cốt lõi của những quan điểm trên không ngoài mục đích chính là
tiếp tục phát huy thế mạnh của nước ta và các vùng về sản xuất lúa gạo, vì mục tiêu phát
triển nông nghiệp và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; đồng thời, phải không ngừng
nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của nông dân sản xuất nông nghiệp nói chung và
sản xuất lúa nói riêng; trên cơ sở đó bảo đảm yêu cầu không ngừng phát triển nông nghiệp
theo hướng hiện đại, phát triển nông thôn toàn diện và bền vững.

Nội dung cơ bản của chính sách bù đắp thu nhập cho hộ sản xuất lúa
trong vùng quy hoạch trồng lúa chuyên canh đảm bảo ANLT
Mục tiêu

Mục tiêu nâng cao thu nhập cho hộ sản xuất nông nghiệp nói chung và hộ trồng lúa
trong những năm tới cần được xác định trên cơ sở tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW
ngày 5 tháng 8 năm 2008 của Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá X) của Đảng về “nông
nghiệp, nông dân, nông thôn”, đã yêu cầu: “Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt
3,5 - 4%/năm; sử dụng đất nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm
bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài.Phát triển nông nghiệp
kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản
việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay”.
Với mức thu nhập được định hướng trên, đến 2015 mức thu nhập của người nông
dân sẽ gấp 1,57 lần so với hiện trạng năm 2007 và đến 2020 sẽ gấp 2,53 lần năm 2007.
Đây là cơ sở và là mục tiêu cần phấn đấu đạt được nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết số
26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm 2008 của Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá X) của
Đảng về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn” đã yêu cầu.
Trên cơ sở bảo đảm yêu cầu thu nhập cho nông dân nói chung nêu trên, xác định
mức thu nhập cho người trồng lúa để đảm bảo an ninh lương thực đó là: bảo đảm mức thu
nhập không thấp hơn thu nhập bình quân của vùng nông thôn trong từng giai đoạn. Dựa
theo kết quả nghiên cứu tình hình và dự báo về thu nhập dân cư nông thôn đến 2020, mức
thu nhập của người dân nông thôn và mức thu nhập của người trồng lúa được dự kiến với
kịch bản: “Thu nhập hộ sản xuất lúa phấn đấu đến năm 2010 bằng mức thu nhập trung
bình của dân cư nông thôn”.
Những tiêu chí để thực hiện chính sách bù thu nhập
Tiêu chí cần phấn đấu để bảo đảm nâng cao thu nhập cho người trồng lúa phải có 4
điểm quan trọng, các tiêu chí này là định hướng đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030:
(1) Quy mô diện tích canh tác lúa/hộ: đến 2020 không dưới 2,5 ha/hộ (số nhân khẩu
một hộ trồng lúa không quá mức bình quân chung là 4,6 khẩu);
(2) Năng suất lúa/năm: đến 2020 không dưới 11,5 tấn/ha;
(3) Chi phí giá thành sản xuất lúa không quá 55%/giá bán;

12



(4) Giá bán lúa không dưới 4,3 triệu đồng/tấn (tính theo thời giá hiện nay và thu
nhập cho hộ trồng lúa không dưới 40% doanh thu từ sản xuất lúa dần phấn đấu lợi nhuận
từ sản xuất lúa cũng đạt mức này). Các mức giá cần điều chỉnh hợp lí theo thời gian và
mức độ trượt giá (nếu có).
Như vậy, có thể xác định 4 tiêu chí nêu trên cũng là 4 yếu tố quan trọng để áp dụng
chính sách bù thu nhập cho người trồng lúa. Cả 4 yếu tố đều có tác động trực tiếp đến thu
nhập của hộ sản xuất lúa và đều quan trọng ngang nhau. Đây là cơ sở để tác động và áp
dụng các chính sách đối với đối tượng là hộ nông dân trồng lúa trong các vùng chuyên
canh nhằm mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực.
Đối tượng áp dụng chính sách bù thu nhập
Đối tượng hộ trồng lúa để áp dụng chính sách bù thu nhập cũng cần được phân loại
để áp dụng chính sách một cách phù hợp nhằm khuyến khích sản xuất hàng hoá. Căn cứ
vàu yêu cầu quy mô diện tích sản xuất (như đã nêu trên), cần phân loại với 3 mức cụ thể
như sau:
(1) Hộ có quy mô diện tích từ 3 ha trở lên: là hộ sản xuất hàng hoá, cần khuyến
khích theo hướng sản xuất hàng hóa và theo quy luật thị trường.
(2) Hộ có quy mô từ 1,0 đến dưới 3 ha: là hộ có sản xuất hàng hoá, hỗ trợ một phần
chính sách bù thu nhập;
(3) Hộ có quy mô từ dưới 1,0 ha: là nhóm hộ yếu thế nhất cần được áp dụng các
chính sách hỗ trợ bù đắp thu nhập một cách tích cực nhằm duy trì diện tích sản xuất lúa
đảm bảo an ninh lương thực. Mặt khác, cần có định hướng để chuyển đổi cơ cấu đối với
nhóm hộ này đảm bảo diện tích sản xuất lúa bình quân được nâng lên theo mục tiêu đã đặt
ra vào năm 2020.
Nội dung của chính sách
(1) Hỗ trợ gián tiếp cho hộ sản xuất lúa: tập trung hỗ trợ giải quyết các vấn đề
thuộc loại “ngoại tác” đối với sản xuất lúa và thu nhập của người trồng lúa như: tổ chức
sản xuất, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, đất đai, tài chính, thuế, nhập khẩu vật tư, xuất
khẩu lúa gạo, thủ tục hành chính... Trong đó, quan trọng nhất là tổ chức lại sản xuất, tạo
thuận lợi cho hộ nông dân sản xuất lúa có quy mô sản xuất phù hợp với năng lực của mình,

đồng thời tạo thuận lợi cho nông dân sản xuất được hưởng các dịch vụ cơ bản theo hướng
giảm tối đa chi phí của quá trình sản xuất cả “đầu vào và đầu ra”. Các chính sách hỗ trợ
này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hộ nông sân sản xuất lúa tự chủ được sản xuất, kinh
doanh, hạn chế tối đa các chi phí sản xuất và bảo đảm tiêu thụ lúa gạo với giá có lợi nhất,
trên cơ sở đó nâng thu nhập của người sản xuất lúa trong cơ chế thị trường.
(2) Hỗ trợ hộ sản xuất lúa nâng cao năng lực sản xuất: tập trung hỗ trợ nông dân
sản xuất lúa nâng cao được năng lực sản xuất, đặc biệt là vấn đề về đất đai và vốn (liên
quan đến quy mô sản xuất), cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, trình độ lao động và cơ cấu
lực lượng sản xuất. Đây là những nội dung quan trọng nhằm giúp cho nông dân trồng lúa
có khả năng tự phát triển, tự nâng cao thu nhập và tự cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường với bối cảnh hội nhập quốc tế.
(3) Hỗ trợ hộ sản xuất lúa giảm thiểu chi phí sản xuất: tập trung vào đưa ra các hỗ
trợ giảm thiểu một cách hợp lí các loại chi phí đầu vào vật chất và chi phí công lao động để
giảm giá thành sản xuất. Chính sách sẽ nhằm tạo điều kiện tận dụng các tiến bộ kĩ thuật,
các mô hình canh tác tiên tiến để tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất, giảm thiểu lượng đầu
vào sản xuất đồng thời điều tiết vĩ mô nhằm ổn định giá cả thị trường và qua đó gia tăng
lợi nhuận từ sản xuất lúa cho người nông dân trồng lúa.

13


Giải pháp chính sách cụ thể
-

Về nhận thức: cần tăng cường nhận thức đúng đắn về bù đắp thu nhập, đặc biệt
là bù đắp thu nhập cho nông dân sản xuất lúa là hết sức cần thiết bên cạnh khía
cạnh về kinh tế còn nhằm đảm bảo các giá trị về xã hội và nhân văn. Với hiện
trạng và tầm quan trọng của ngành sản xuất lúa gạo đối với Việt Nam, đây là cơ
sở để ổn định kinh tế nông thôn, là điều kiện cơ bản để cả xã hội ổn định, đất
nước phát triển bền vững.


-

Về tổ chức sản xuất: đây được coi là nhóm giải pháp tổng hợp quan trọng để
phát triển sản xuất và tăng thu nhập cho hộ sản xuất lúa, nâng cao năng suất,
giảm chi phí, nâng cao giá trị sản phẩm và mang lại thu nhập ngày càng cao cho
hộ sản xuất, đơn vị kinh tế sản xuất, kinh doanh lúa. Giải pháp này trước hết sẽ
tập trung định hướng ngành sản xuất lúa gạo thành ngành kinh tế hàng hóa với
các hỗ trợ chính sách về “dồn điền đổi thửa” để cơ cấu lại và gia tăng quy mô
sản xuất làm nền tảng cho đẩy mạnh cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá trong sản xuất,
tiết kiệm thời gian, chi phí lao động và giảm các chi phí lưu thông và nâng cao
khả năng tiếp cận thị trường của sản phẩm lúa gạo.
Mặt khác, giải pháp này cũng sẽ tập trung đẩy mạnh sự phát triển của khu vực
dịch vụ sản xuất nông nghiệp và khuyến khích sự phát triển của thị trường lúa
gạo nhằm cân đối thị trường đầu vào và đầu ra cho sản phẩm này một cách tự
nhiên, tránh các tác động “bóp méo” quá mức. Đồng thời, chính sách cũng sẽ
hỗ trợ việc đa dạng hóa thu nhập (phát triển ngành nghề phụ) cho nông dân
trồng lúa một cách hợp lí nhằm cải thiện thu nhập trong thời gian trước mắt khi
thu nhập từ trồng lúa chưa tăng được do nhiều nguyên nhân.
Một điểm quan trọng trong chính sách này là việc nâng cao vai trò và vị thế của
các tổ chức, hiệp hội của người nông dân nói chung và người trồng lúa nói
riêng (như Hội nông dân, Liên minh Hợp tác xã…) nhằm bảo vệ quyền lợi cho
chính họ. Chính sách sẽ nhằm hỗ trợ các tổ chức này để có thể làm một đối
trọng trong chuỗi giá trị lúa gạo, đảm bảo quyền lợi cho người nông dân trồng
lúa, ví dụ, kinh doanh vật tư đầu vào phục vụ sản xuất lúa đảm bảo người sản
xuất lúa có thể mua được vật tư với giá cả phù hợp hoặc đóng vai trò thu mua
lúa gạo để đảm bảo người trồng lúa bán được gạo với giá tốt nhất có thể.

-


Về đào tạo, nâng cao năng lực cho người sản xuất lúa: tập trung đào tạo lao
động, nâng cao năng lực chuyên môn cho nông dân sản xuất lúa thông qua các
hoạt động đào tạo, tập huấn giúp xây dựng lực lượng sản xuất lúa trong dài hạn
theo hướng chuyên môn hoá cao độ để tăng hiệu quả sản xuất. Định hướng này
cần được thực hiện sớm và phải có sự hỗ trợ thường xuyên từ Nhà nước bao
gồm cả vấn đề về tài chính và kĩ thuật. Ngoài ra, các giải pháp nâng cao trình
độ dân trí, văn hóa cho các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa cũng cần được đề
cập trong nội dung này nhằm thu hẹp khoảng cách về dân trí cho nông dân nói
chung do sự khác biệt giữa các vùng địa lí. Trong tình hình hiện nay, biện pháp
đào tạo lao động, nâng cao trình độ toàn diện cho nông dân trồng lúa là biện
pháp hữu hiệu để nâng cao thu nhập cho hộ sản xuất lúa ít nhất trong vài năm
tới.

-

Về cơ sở hạ tầng: tập trung điều tiết ngân sách cho các địa phương được quy
hoạch sản xuất lúa gạo phục vụ an ninh lương thực phát triển kết cấu hạ tầng,
phát triển kinh tế xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương
chuyên lúa và vùng phát triển công nghiệp, dịch vụ. Chính phủ, Bộ Nông
nghiệp và PTNT cần có kế hoạch ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng và

14


cơ sở vật chất đối với vùng quy hoạch chuyên canh lúa và các doanh nghiệp
chuyên sản xuất kinh doanh lúa gạo (hệ thống thủy lợi, kho chứa, cơ sở chế
biến…) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và tăng giá trị gia tăng của
sản phẩm lúa gạo. Hệ thống sản xuất giống sẽ cần được quan tâm đầu tư hơn
nữa làm cơ sở tăng năng suất và sản lượng đảm bảo cung cấp đủ giống tốt cho
các vùng quy hoạch chuyên canh sản xuất lúa.

-

Về giá cả thị trường: tập trung điều tiết bằng cả chính sách vĩ mô và vi mô
nhằm đảm bảo ổn định một cách tương đối giá cả đầu vào (giống, phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật…) và đầu ra (lúa) trong dài hạn. Trước mắt, trong ngắn
hạn khi nguồn lực, trình độ sản xuất và khả năng chống chịu với những rủi ro
của cơ chế thị trường của người sản xuất không cao - trường hợp của nông dân
nói chung và người trồng lúa Việt Nam nói riêng thì nếu có biến động lớn về
giá cả đầu vào và đầu ra, Nhà nước phải can thiệp bằng chính sách bù thu nhập
trực tiếp cho người sản xuất đảm bảo ổn định cuộc sống và công bằng xã hội.

-

Về chi phí sản xuất: tập trung vào các giải pháp để giảm chi phí phân bón (hợp
lí hóa quy trình sử dụng, tổ chức lại thị trường), chi phí cơ giới phục vụ sản
xuất lúa (phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất lúa, mở rộng khu vực dịch
vụ nông nghiệp), chi phí thuốc bảo vệ thực vật (tăng cường công tác dự tính, dự
báo và hướng dẫn sử dụng thuốc, đẩy mạnh áp dụng các biện pháp phòng trừ
tổng hợp), chi phí thủy lợi (hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi, quy hoạch lại vùng
sản xuất, chuyên môn hóa khâu thủy lợi).
Ngoài ra, giải pháp chính sách này sẽ tập trung hỗ trợ việc hợp lí hóa quy trình
canh tác, tăng cường áp dụng các biện pháp bảo đảm giảm thiểu hao hụt trong
khâu thu hoạch, công nghệ sau thu hoạch… để giúp giảm chi phí sản xuất.

-

Về bù đắp thu nhập cho hộ trồng lúa: tập trung áp dụng chính sách giá mua lúa
linh hoạt theo cơ chế thị trường bảo đảm “mức lời tương đối” cho người trồng
lúa - giá mua tính trên giá thành thực tế từ vụ lúa và thu nhập thực tế của người
trồng lúa trong từng điều kiện nhất định. Các bù đắp, hỗ trợ được phép theo quy

định của WTO cần được tận dụng như đầu tư hạ tầng nông thôn nhằm hỗ trợ
gián tiếp hoạt động sản xuất nông nghiệp, ngành nghề phi nông nghiệp, đào tạo,
chuyển giao kỹ thuật, cung cấp thông tin thành tựu khoa học kỹ thuật, thông tin
thị trường trong nước và quốc tế...

-

Về cách chính sách hỗ trợ khác: tập trung đảm bảo một số các yêu cầu chính
phục vụ sản xuất và kinh doanh lúa gao như vốn tín dụng, hỗ trợ phòng chống
và giảm nhẹ thiên tai, đào tạo nhân lực, tăng cường các hoạt động khuyến nông
và hỗ trợ phát triển các mô hình hợp tác sản xuất, phát triển thị trường nhằm
thúc đẩy cả ngành sản xuất và kinh doanh lúa gạo cùng phát triển một cách toàn
diện và bền vững.

Kết luận
Có thể thấy rằng ngành sản xuất lúa của Việt Nam mặc dù đạt được rất nhiều thành
công trong giai đoạn vừa qua nhưng hiện cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới
trên con đường hội nhập và những biến động khách quan. Hiệu quả sản xuất còn ở mức
thấp, quy mô sản xuất trên từng đơn vị sản xuất chưa phù hợp làm giảm lợi thế theo quy
mô của sản xuất, việc ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật chưa tốt do nhiều nguyên nhân, trình
độ lao động còn tương đối thấp, cơ cấu lực lượng sản xuất chưa hợp lí, mức độ phụ thuộc
vào thiên nhiên còn cao là những vấn đề chính cần quan tâm. Tất cả các vấn đề được nhắc
đến ở đây đều góp phần trong việc làm cho thu nhập của người sản xuất lúa chưa được như

15


mong muốn và đang tạo ra nguy cơ giảm diện tích sản xuất lúa ảnh hưởng đến an ninh
lương thực do một bộ phận người trồng lúa có thu nhập thấp, không đủ trang trải cuộc sống
chuyển đổi nghề nghiệp hoặc chuyển đổi cơ cấu cây trồng.

Trong bối cảnh như vậy, việc Nhà nước cần phải có những biện pháp can thiệp là hết sức
cần thiết nhằm duy trì được diện tích trồng lúa cần thiết vì các mục tiêu an ninh lương
thực. Giải pháp chính sách bù đắp thu nhập cho các hộ gia đình trồng lúa trong các vùng
chuyên canh là đúng đắn và kịp thời trong giai đoạn này.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế với các cam kết thương mại rõ ràng của
Việt Nam với phần còn lại của thế giới, các chính sách hỗ trợ cần được xây dựng và ban
hành một cách hợp lí để tránh bóp méo thị trường, vi phạm các cam kết đã kí và gây phản
tác dụng đối với sự phát triển bền vững của ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam. Mặt khác,
các chính sách này cũng nên được nghiên cứu và xây dựng sao cho ngành sản xuất lúa gạo
của Việt Nam sẽ tự đứng vững và phát triển mạnh, bền vững trong dài hạn mà không cần
tới các trợ cấp thường xuyên của Chính phủ nữa. Đó mới chính là mục tiêu thực sự của
chính sách này - giúp ngành sản xuất lúa gạo của Việt Nam tự khẳng định được mình trên
trường quốc tế xứng với tầm cỡ của nó với những lợi thế cạnh tranh rất rõ ràng do thiên
nhiên mang lại.
===========================

16



×