Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.48 KB, 87 trang )

LỜI

CẢM

ƠN
Trước

hết

em

xin

chân

thành

cảm

ơn

Chi nhánh Ngân hàng Công
thương Chương Dương
,
đặc

biệt



Ban



lãnh

đạo

ngân

hàng đã

tạo

điều
kiện

cho

em

vào

thực

tập



nhiệt

tình


giúp

đỡ

em

trong

thời

gian thực
tập

để

em

hoàn

thành

tốt

luận

văn

tốt

nghiệp


này.
Em

xin

chân

thành

cảm

ơn

sự

giảng

dạy

qua

bốn

năm

học

của


quý
thầy

cô trường

Đại

học

Kinh tế quốc dân,

đặc

biệt



thầy



của

khoa

Tài
chính – Ngân hàng. Em

xin


cảm

ơn

cô Trương Thị Hoài Linh

đã

trực

tiếp
hướng

dẫn,

giúp

đỡ em

rất

nhiều

để

hoàn

thành

đề


tài

luận

văn

tốt

nghiệp.
Trong

quá

trình

thực

tập,

do

thời

gian



hạn


nên

nghiên

cứu

chưa

sâu,
mặt khác

kiến

thức

còn

hạn

chế,

chủ

yếu





thuyết


cũng

như
còn hạn
chế về
kinh

nghiệm

thực

tế nên

không

tránh

khỏi

những

thiếu sót.

Do

đó,
để

luận


văn

được

hoàn chỉnh

hơn,

kính

mong

được

những

ý

kiến

đóng
góp

chân

tình

của


giáo

viên hướng

dẫn

cũng

như

Ban

lãnh

đạo

Ngân
hàng.
Em

xin

kính

chúc

quý

thầy


cô,

các

anh

chị

trong

Chi nhánh Ngân
hàng Công thương Chương Dương dồi dào

sức

khỏe,

thành

đạt



hạnh
phúc.

Kính

chúc


Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương

ngày
càng

lớn

mạng

và phát

triển

bền

vững.
Xin

chân

thành

cám

ơn!
Ngày
28
tháng 4.năm

2009

Sinh

viên

thực

hiện
Trương Quang Hải

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLĐ Ban lãnh đạo
CBCNV Cán bộ công nhân viên
CBTD Cán bộ tín dụng
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
HĐQT Hội đồng quản trị
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHCT Ngân hàng Công thương
QĐ Quyết định
TCT Tổng công ty
TGĐ Tổng giám đốc
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TTQT Thanh toán quốc tế
UBNN Uỷ ban nhân dân
VN Việt Nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thế giới đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng
trên nhiều phương diện. Mới đây, Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)

Ben Bernanke đã tuyên bố, sớm nhất thì cũng phải đến cuối năm 2010 kinh tế
toàn cầu mới có thể hồi phục.Đương nhiên, Việt Nam cũng không thoát khỏi
vòng xoáy của “cơn bão” khủng hoảng, và Chính phủ đã thực hiện một loạt
biện pháp để kích thích nền kinh tế.
Cộng thêm việc Chính phủ vừa đề ra chính sách cho vay hỗ trợ lãi suất
và bảo lãnh tín dụng (nằm trong gói kích cầu 1 tỷ USD), dự kiến các khoản
tín dụng sẽ tăng vọt trong thời gian sắp tới. Bởi vậy, các quy trình phân tích
tín dụng chất lượng cao sẽ là một mũi tên trúng 2 đích: vừa đảm bảo nguồn
vốn hỗ trợ đến đúng địa chỉ, qua đó thúc đẩy nền kinh tế, vừa duy trì sự ổn
định cho hệ thống Ngân hàng.
Từ thực tế kể trên, rõ ràng các Ngân hàng cần có giải pháp hữu hiệu để
đưa các khoản cho vay đến đúng địa chỉ, mà trực tiếp nhất là nâng cao chất
lượng phân tích tín dụng. Sự thực là hoạt động này vốn luôn là ưu tiên hàng
đầu của các Ngân hàng từ xưa đến nay, nhưng trong tình hình hiện tại thì
công tác phân tích tín dụng càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nhất là,
hiện nay tại Chi nhánh Vietinbank Chương Dương còn tồn tại một số vấn đề.
Vì vậy, chuyên đề “Nâng cao chất lượng phân tích tín dụng đối với doanh
nghiệp tại Chi nhánh Vietinbank Chương Dương” được lựa chọn nhằm đóng
góp thêm một quan điểm, và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công
tác phân tích tín dụng của Chi nhánh Vietinbank Chương Dương.
1
CHƯƠNG 1
CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán –
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh

doanh nào trong nền kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội thông qua năm 1997
và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng (được
thông qua ngày 15/6/2004) thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có
liên quan”, còn “hoạt động ngân hàng” được hiểu là “hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2 Chức năng của Ngân hàng thương mại
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân
hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính
sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Ngân hàng nói chung
và Ngân hàng thương mại nói riêng có 3 chức năng chính như sau:
- Trung gian tài chính: Trong nền kinh tế, luôn tồn tại hai loại chủ thể,
một loại có chi tiêu và đầu tư vượt quá thu nhập, nghĩa là cần bổ sung vốn,
còn một loại có thu nhập lớn hơn chi tiêu, như vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Tuy nhiên, không phải lúc nào hai loại chủ thể trên cũng có thể tiếp xúc
2
trực tiếp với nhau, do đó cần đến trung gian tài chính để kết nối người tiết
kiệm với người đầu tư.
Với chuyên môn, khả năng thẩm định thông tin của mình và sự không hoàn
hảo trong hệ thống tài chính, Ngân hàng thương mại là tổ chức thích hợp nhất để
đóng vai trò trung gian tài chính, bằng cách đi huy động vốn trước khi cho vay
lại để hưởng chênh lệch lãi suất. Khi đó, Ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là
người cho vay.
- Tạo phương tiện thanh toán: Làm phương tiện thanh toán chính là một
trong những chức năng quan trọng nhất của tiền tệ. Tuy nhiên, việc in tiền là độc
quyền của Bộ Tài chính, hoặc Ngân hàng Trung ương và các Ngân hàng thương
mại không có khả năng tự tạo ra các giấy bạc của riêng mình. Dù vậy, Ngân
hàng thương mại vẫn có khả năng tạo ra phương tiện thanh toán, hay nói cách

khác là làm gia tăng tổng cung tiền bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng).
Thông qua hoạt động nhận gửi và cho vay, hệ thống Ngân hàng thương mại
sẽ làm tăng cung tiền, tuy nhiên mức độ gia tăng này là bao nhiêu thì còn phụ
thuộc vào tỷ lệ dự trữ của các Ngân hàng. Trong trường hợp lý tưởng, nếu mỗi
Ngân hàng đều dự trữ lượng tiền mặt bằng 10% tiền gửi thì số nhân tiền m sẽ có
giá trị bằng 10.
- Trung gian thanh toán: Trong đa số các trường hợp, việc thanh toán bằng
tài khoản (chuyển khoản) tiện dụng và dễ quản lý hơn rất nhiều so với thanh toán
bằng tiền mặt. Để có thể tiến hành thanh toán qua tài khoản, thì vai trò của các
Ngân hàng là không thể thiếu. Thông qua các công cụ như thanh toán bằng séc,
ủy nhiệm chi, nhờ thu, thẻ ATM…. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán
lớn nhất hiện nay tại hầu hết các quốc gia.
1.1.1.3 Khái niệm và phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nền
sản xuất hàng hóa, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy cung
3
cấp và lưu thông hàng hóa. Có rất nhiều cách hiểu về hoạt động tín dụng, tuy
nhiên một cách chung nhất thì tín dụng là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa các
chủ thể, trong đó chủ thể này chuyển cho chủ thể khác quyền sử dụng một
lượng tiền tệ (hoặc hàng hóa), theo những điều kiện nhất định mà hai bên
cùng đồng ý.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ
Ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi
phí nhất định. Về ý nghĩa thì khái niệm tín dụng rộng hơn cho vay. Thực tế,
cho vay chỉ là một trong nhiều hình thức cấp tín dụng, bởi còn có nhiều hình
thức khác như chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán…
Tất cả những nghiệp vụ này đều là việc Ngân hàng cho phép khách hàng
sử dụng vốn của mình, xuất phát từ sự tin tưởng nhất định đối với khách
hàng.
Theo Luật các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của

Luật các tổ chức tín dụng thì “hoạt động tín dụng” là việc tổ chức tín dụng sử
dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Trong đó, “cấp
tín dụng” là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu,
cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Dù thế nào, tín dụng ngân hàng cũng có các đặc trưng sau:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang người
sử dụng.
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, nghĩa là ngân hàng khi chuyển giao
quyền sử dụng vốn cho khách hàng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ
trả cả gốc và lãi đúng hạn.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị cho vay, tức là người
đi vay phải trả thêm một khoản lãi bên cạnh phần vốn gốc.
4
- Tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Những văn
bản xác định quan hệ tín dụng thực chất là một dạng lệnh phiếu, theo đó bên
đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
*Phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau.
+ Căn cứ vào thời hạn cho vay: Phân loại tín dụng theo thời gian có ý
nghĩa hết sức quan trọng, vì thời hạn tín dụng liên quan rất mật thiết đến tỷ lệ
sinh lời cũng như rủi ro của các khoản tín dụng, hay kể cả khả năng hoàn trả
của khách hàng. Có thể phân chia như sau:
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở
xuống, thông thường để tài trợ cho tài sản lưu động của doanh nghiệp, hoặc
các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Nhìn chung, tín dụng ngắn hạn có
tỷ trọng lớn nhất.
- Tín dụng trung hạn: Thường có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Chủ yếu được
dùng để tài trợ cho các tài sản cố định, hoặc đầu tư vào các dự án mới có quy

mô tương đối nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Từ 5 năm trở lên, dùng để đáp ứng các nhu cầu dài
hạn như xây dựng nhà ở, mua sắm những thiết bị có thời gian sử dụng lâu,
đầu tư các dự án lớn…
Tất nhiên, việc phân chia này cũng chỉ có tính chất tương đối vì có nhiều
khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời gian.
+Căn cứ theo hình thức tài trợ: Tùy theo hình thức tài trợ, tín dụng có
thể được chia thành cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính, bao
thanh toán…
- Cho vay: Là việc Ngân hàng cấp tiền cho khách hàng, với cam kết hoàn
trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định. Có thể cho vay thấu
chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức….
5
- Chiết khấu: Là hình thức cấp tín dụng trong đó Ngân hàng nhận các
chứng từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền nhất định, thông thường
nhỏ hơn mệnh giá của chứng từ được chiết khấu. Phần chênh lệch chính là lợi
nhuận mà Ngân hàng được hưởng.
- Bảo lãnh: Là cam kết bằng văn bản của Ngân hàng (bên bảo lãnh) với
bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng (bên được bảo lãnh), nếu khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ cam kết với bên nhận bảo lãnh.
- Cho thuê: Là việc Ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng
thuê lại theo những thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian, khách hàng phải
trả cả gốc lẫn lãi cho Ngân hàng.
- Bao thanh toán: Là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho
bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc
mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong
hợp đồng mua, bán hàng hóa (Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN).
+Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
- Tín dụng không có đảm bảo: Là loại hình tín dụng không cần có tài sản

thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Điều đó có nghĩa, việc cho
vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng (tín chấp). Thông thường, cho vay tín
chấp chỉ được áp dụng đối với các khách hàng lớn, đã có quan hệ lâu năm với
Ngân hàng, hoặc các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ (mà Chính
phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo).
- Tín dụng có đảm bảo: Là loại hình tín dụng dựa trên cơ sở các bảo
đảm như thế chấp, cầm cố…. hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba. Ngân hàng
phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo, bởi đây là
nguồn thu nợ để bù đắp trong trường hợp khách hàng không thực hiện được
nghĩa vụ trả nợ.
6
+ Căn cứ theo mức độ rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này, các Ngân
hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ về đánh giá rủi ro. Theo khoản
6, điều 7, quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của ngân hàng nhà nước, tổ
chức tín dụng cần tiến hành phân loại nợ theo 5 nhóm:
 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng thu hồi cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách
hàng suy giảm khả năng trả nợ.
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức
tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các
khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một
phần nợ gốc và lãi.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao.
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ
chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
+Căn cứ theo mục đích cho vay:
Theo tiêu thức này, tín dụng có thể được chia thành các loại sau

- Tín dụng tiêu dùng: Là loại hình cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng cá nhân, có thể chia nhỏ ra thành cho vay mua nhà, mua ô tô, hỗ trợ du
học…
- Tín dụng công nghiệp & thương mại: Là loại hình cho vay phục vụ sản
xuất kinh doanh công nghiệp, thương mại, dịch vụ…
- Tín dụng nông nghiệp: Là loại hình cho vay để trang trải các khoản chi
phí sản xuất trong hoạt động nông nghiệp.
+Căn cứ vào phương pháp hoàn trả
7
- Tín dụng có thời hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trả nợ định
trước, được xác định rõ trong hợp đồng. Có thể có một hoặc nhiều kỳ hạn trả
nợ (nợ được trả thành một hoặc nhiều lần).
- Tín dụng không có thời hạn cụ thể: Có thể do Ngân hàng yêu cầu, hoặc
người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào nhưng cần phải thông báo trước
cho Ngân hàng một khoản thời gian hợp lý.
* Những phương pháp phân loại kể trên cho thấy tính đa dạng, hoặc
chuyên môn hóa trong cấp tín dụng của các Ngân hàng. Trong xu hướng đa
dạng hóa hoạt động, các Ngân hàng có thể đồng thời mở rộng phạm vi tài trợ
và duy trì những lĩnh vực mà mình có lợi thế. Với việc phân loại tín dụng hợp
lý, các Ngân hàng cũng dễ dàng theo dõi mức độ rủi ro và sinh lợi gắn liền
với mỗi lĩnh vực tài trợ, từ đó đề ra chính sách tín dụng phù hợp.
1.1.1.4 Tầm quan trọng của hoạt động tín dụng
Tuy nhiên, những lý thuyết trên chỉ đúng với các mô hình Ngân hàng cổ
điển. Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế và khoa học công nghệ hiện đại,
hoạt động của Ngân hàng thương mại đã trở nên vô cùng đa dạng. Bên cạnh
những nghiệp vụ truyền thống như tín dụng, huy động vốn, làm trung gian thanh
toán, các Ngân hàng hiện đại còn tham gia đầu tư ủy thác, tư vấn tài chính, kinh
doanh vàng và ngoại tệ….
Không chỉ có thế, trên đường xây dựng một mô hình tập đoàn tài chính –
ngân hàng đa năng, nhiều Ngân hàng thương mại VN đã mở rộng đầu tư sang

chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản…. bằng cách thành lập những công ty con,
hoạt động trong các lĩnh vực riêng biệt với trung tâm là ngân hàng mẹ. Dù vậy,
đối với bất kỳ Ngân hàng nào tại VN nói riêng và trên thế giới nói chung thì tín
dụng vẫn là hoạt động cơ bản, chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng tài sản cũng
như lợi nhuận. Vì thế, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng có xu hướng tập
trung nhiều nhất vào hoạt động tín dụng, và đây luôn là mối quan tâm lớn nhất
của các Ngân hàng thương mại.
8
1.2 Phân tích tín dụng đối với doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại
1.2.1Khái niệm phân tích tín dụng đối với doanh nghiệp
1.2.1.1 Khái niệm, mục tiêu và yêu cầu
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi
ro nhất của Ngân hàng thương mại. Tuy xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, những rủi ro này đều làm giảm thu nhập của Ngân hàng. Vì thế, Ngân
hàng cần cân nhắc và thẩm định kỹ lưỡng, ước tính mức độ rủi ro và sinh lời
trước khi quyết định cấp tín dụng. Phân tích tín dụng đối với doanh nghiệp là
quá trình đánh giá toàn diện về nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, xem liệu
chúng có phù hợp với những quy định của Ngân hàng hay không, có khả năng
hoàn trả đúng hạn hay không, đồng thời qua phân tích đó Ngân hàng xác định
được mức độ rủi ro trong quá trình cho vay.
Mục tiêu của phân tích tín dụng là xác định khả năng và ý muốn hoàn trả
của người nhận tín dụng, nói cách khác là xác định rủi ro và các biện pháp
hạn chế rủi ro.
Phân tích tín dụng là công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng, nếu không
muốn nói là quan trọng bậc nhất trong số các nghiệp vụ Ngân hàng. Đây là
hoạt động liên quan đến trách nhiệm của nhiều phòng ban, bộ phận, do đó qui
trình phân tích tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau
+Được xây dựng và thống nhất trong phạm vi toàn bộ Ngân hàng, tránh
việc tùy tiện, duy ý chí. Quy trình này phải được ban lãnh đạo Ngân hàng
thông qua và phổ biến tới các bộ phận có liên quan.

+ Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung.
Mỗi bộ phận, cá nhân trong Ngân hàng đều nhận thức được rõ vai trò, nhiệm
vụ của mình.
+ Toàn bộ quy trình phải được xây dựng nhằm thực hiện các nguyên tắc
tín dụng ngân hàng.
1.2.1.2 Các nguyên tắc tín dụng ngân hàng
9
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên
tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời.
+Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn lẫn lãi trong một thời gian
xác định. Các khoản tín dụng của Ngân hàng cấp cho khách hàng có nguồn
gốc từ tiền gửi của những khách hàng khác, mà khoản này thì Ngân hàng phải
cam kết hoàn trả. Do đó, người nhận tín dụng cũng phải thực hiện đúng cam
kết hoàn trả, đó là điều kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển.
+Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích đã thỏa
thuận với Ngân hàng, không trái các quy định của pháp luật nói chung và của
Ngân hàng Nhà nước nói riêng.
+Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án sử dụng vốn vay (hoặc dự án đầu
tư) có hiệu lực. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để tuân thủ nguyên tắc
thứ nhất. Sử dụng vốn vay có hiệu quả thể hiện được khả năng trả nợ của
khách hàng, và các khoản tài trợ của Ngân hàng phải gắn liền với việc hình
thành tài sản của người vay.
1.2.1.3 Quy trình phân tích tín dụng
Quy trình tín dụng được đặt ra để chuẩn hóa quá trình tiếp xúc, phân
tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng. Quy tình này bao gồm nhiều bước
có quan hệ chặt chẽ với nhau, mỗi bước bao gồm nhiều giai đoạn được xây
dựng một cách khoa học, hợp lý nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu của Ngân
hàng. Về thực chất, quy trình tín dụng chính là các bước (hoặc nội dung công
việc) mà cán bộ tín dụng, các bộ phậ có liên quan trong Ngân hàng phải thực
hiện khi cân nhắc tài trợ cho khách hàng.

+Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Đây là một trong những bước quan trọng nhất, vì nó quyết định chất
lượng của phân tích tín dụng. Nghiệp vụ này chủ yếu liên quan đến thu thập
và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng và hoạt động kinh doanh của
10
khách hàng. Những vấn đề chính cần quan tâm có thể kể đến năng lực sử
dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở
hữu tài sản cũng như khả năng đảm bảo cho món vay.
Phương pháp áp dụng:
- Phỏng vấn trực tiếp. Bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp giữa Ngân hàng và
người vay vốn, tham quan nhà xưởng, văn phòng, cơ sở hạ tầng…. trao đổi
với những người có liên quan, xem xét khả năng thế chấp…. Phương pháp
này giúp loại trừ phần nào những báo cáo gian dối, kiểm chứng lại thông tin
mà khách hàng đã cung cấp trong hồ sơ xin cấp tín dụng.
- Mua hoặc tìm kiếm thông tin thông qua các trung gian. Có thể thu thập
thông tin qua cơ quan quản lý, các đối tác của khách hàng, các tổ chức đánh
giá chuyên nghiệp…. Phương pháp này thường được sử dụng với các khách
hàng mới, lần đầu làm việc với Ngân hàng.
- Phân tích các thông tin có được từ báo cáo của người vay. Đương
nhiên, Ngân hàng cần cẩn trọng khi phân tích theo phương pháp này, bởi
người đi vay rất có thể sẽ bóp méo số liệu để dễ dàng nhận được khoản tín
dụng hơn.
+Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thỏa thuận giữa bên nhận tài
trợ (khách hàng) với bên cung cấp tài trợ (Ngân hàng), với nội dung chủ yếu
là Ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng (hoặc hạn mức
tín dụng) trong một khoảng thời gian nhất định, với lãi suất có thể được xác
định trước hoặc không. Đây là văn bản mang tính pháp luật, xác định quyền
và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân theo các
quy định pháp lý. Do đó, cả hai bên đều phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi

quyết định ký kết hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng bao gồm những nội dung chính sau:
11
- Thông tin về khách hàng
- Mục đích sử dụng khoản vay
- Số lượng tín dụng: Là số tiền (hoặc hạn mức tín dụng) Ngân hàng cam
kết cấp cho khách hàng. Số lượng tín dụng này có thể được chia nhỏ thành
nhiều phần, cấp trong các khoản thời gian khác nhau và dưới nhiều hình thức
tiền tệ khác nhau.
- Lãi suất tín dụng (nếu lãi suất có thể thay đổi thì phải xác định rõ các
điều kiện thay đổi).
- Các khoản phí: Để nhận được tín dụng, khách hàng có thể phải trả một
số khoản phí như phí thẩm định, ký quỹ…. khiến cho mức lãi suất phải trả
cao hơn thực tế.
- Thời hạn tín dụng: Là thời hạn mà trong đó Ngân hàng cam kết cấp cho
khách hàng một khoản tín dụng. Có thể được tính từ thời điểm đồng vốn đầu
tiên của Ngân hàng được chi ra cho đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng được
thu về. Khi kết thúc thời hạn này, Ngân hàng có thể xem xét lại quan hệ tín
dụng với khách hàng.
Thời hạn tín dụng có thể được chia thành thời gian đầu tư, thời gian ân
hạn và trả nợ (có thể chia thành nhiều kỳ hạn nợ nhỏ). Nếu tín dụng được cấp
dưới hình thức chiết khấu thương phiếu, thời hạn tín dụng là thời hạn còn lại
của thương phiếu. Nếu là bảo lãnh, thời hạn tín dụng chính là thời gian có
hiệu lực của bảo lãnh (được thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh). Nếu là cho
thuê tài sản, thời hạn này được tính từ lúc Ngân hàng giao tài sản đến lúc
khách hàng trả đủ tiền thuê.
- Các loại đảm bảo: Cần ghi rõ các nội dung quan trọng có liên quan đến
đảm bảo như quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng hoặc bán tài sản đảm bảo,
phương thức thẩm định giá, bảo hiểm tài sản đảm bảo….
- Giải ngân: Cần xác định các điều kiện và kỳ hạn giải ngân. Ngân hàng

12

×